Đức
Thánh Cha: Đối Với Ki-tô Hữu, Lòng Cậy Trông Giống Như Không Khí Để Hít Thở
Để trở
thành những con người của cậy trông và hy vọng, chúng ta không được dính bén
với điều gì và sống trong niềm mong mỏi hướng tới cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa.
Nếu chúng ta đánh mất viễn tượng này, cuộc sống sẽ như một dòng nước ngưng
đọng, không chuyển động và rồi hư hoại.
Trần Đỉnh, SJ – Vatican News 29 tháng mười
2019
Cậy
trông và hy vọng là cách thức hướng sang bờ bên kia. Đức Thánh Cha đã dùng hình
ảnh ấy trong bài giảng thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Santa Marta để thúc
giục các tín hữu sống “ trong khắc khoải” hướng tới cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa.
Nếu không, cuộc sống của người Ki-tô hữu có nguy cơ trở thành một thứ “học
thuyết triết học” nào đó mà thôi.
Khởi đi
từ bài đọc thứ nhất trong Phụng vụ hôm nay, trích từ thư thánh Phaolô gửi tín
hữu Rô-ma (Rm 8,18-25), Đức Thánh Cha nói về “bài ca cậy trông" của thánh
Phaolô. Chắc chắn là “có những tín hữu thành Roma" phàn nàn kêu ca và
thánh Phaolô kêu gọi họ nhìn về phía trước.
Sống
trong niềm mong đợi gặp gỡ Thiên Chúa
“Tôi
nghĩ rằng: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà
Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta.” Cũng thế, “muôn loài thọ tạo ngong ngóng
đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người.” Cậy trông và hy
vọng chính là hướng tới cuộc mạc khải của Thiên Chúa, hướng đến cuộc gặp gỡ với
Người.
Cậy
trông giống như ném chiếc mỏ neo sang bờ bên kia và bám vào sợi dây bên này.
Nhưng “không chỉ một mình chúng ta”, mà toàn thể thụ tạo cũng hy vọng được giải
thoát, để bước vào vinh quang dành cho con cái Thiên Chúa. Và cả chúng ta nữa,
những người lãnh nhận “những ân huệ đầu tiên của Thánh Thần”, cũng đang rên
xiết trong lòng trong khi mong đợi ngày vinh quang.
Hy vọng
chính là luôn sống trong khắc khoải và mong đợi, trong khi biết rằng chúng ta
không “làm tổ” ở nơi này. Cuộc sống của người Ki-tô hữu là “cuộc sống không
ngừng khắc khoải”. Nếu một Ki-tô hữu mất đi viễn tượng này, cuộc sống của người
ấy trở nên ngưng trệ. Và nếu một điều gì đó không chuyển động, nó sẽ bị hủy
hoại. Nếu một dòng nước ngừng chảy, ngừng chuyển động, nó sẽ bị hư hoại. Một
Ki-tô hữu không còn khả năng vươn tới, không còn khắc khoải, không còn hướng
đến bờ bên kia, người ấy sẽ mất đi một điều gì đó, và rồi cuộc đời sẽ ngưng
trệ. Với người ấy, cuộc đời Ki-tô hữu sẽ chỉ là một học thuyết triết học mà
thôi. Và một khi sống như thế, người ấy sẽ nói rằng có đức tin nhưng chẳng hề
có cậy trông và hy vọng.
Thánh
Thần làm việc trong chúng ta với những điều nhỏ bé
Nhưng
không phải dễ để hiểu được thế nào là cậy trông và hy vọng. Nếu chúng ta nói về
đức tin, chúng ta sẽ nói đến "niềm tin vào Thiên Chúa – Đấng đã tạo dựng
chúng ta, niềm tin vào Chúa Giêsu – Đấng đã cứu chuộc chúng ta; rồi đến việc
đọc Kinh thánh, việc biết những điều cụ thể về đức tin". Nếu chúng ta nói
về đức ái, thì đức ái liên quan đến việc "làm điều thiện cho người thân
cận, cho tha nhân". Nhưng cậy trông là điều khó hiểu. Đó là "nhân đức
khiêm nhường nhất" mà "chỉ người nghèo mới có thể có".
Nếu
chúng ta muốn trở thành những con người của cậy trông và hy vọng, chúng ta phải
là những người nghèo, những người nghèo không gắn bó với bất cứ điều gì. Trở
nên nghèo và mở ra với bờ bên kia. Cậy trông là khiêm tốn, và đó là nhân đức mà
chúng ta cần phải sống mỗi ngày. Mỗi ngày, chúng ta phải sống lại điều ấy. Mỗi
ngày, chúng ta phải cầm lấy sợi dây và thấy rằng chiếc mỏ neo đã được cố định ở
đó rồi và tay mình giữ chặt lấy sợi dây; mỗi ngày chúng ta phải nhớ rằng chúng
ta có sự bảo đảm, và rằng chính Thánh Thần làm việc trong chúng ta với những
điều nhỏ bé.
Cậy trông
không bao giờ làm ta thất vọng
Để làm
rõ thế nào là cậy trông, Đức Thánh Cha đã dùng dụ ngôn mà Chúa Giê-su kể trong
đoạn Tin Mừng hôm nay. Nước Thiên Chúa giống như chuyện một hạt cải được người
nọ lấy gieo trong vườn mình. Chúng ta mong đợi nó lớn lên. Chúng ta không cần
phải ngày nào cũng đến xem nó ra sao, vì nghĩ rằng nếu không làm thế, nó sẽ
chẳng thể lớn lên. Nói về cậy trông và hy vọng, thánh Phao-lô nói: “cậy trông
cần lòng kiên trì”. Kiên trì chính là việc biết rằng chúng ta gieo, nhưng Thiên
Chúa mới làm cho lớn lên. Nói về lòng kiên trì, Chúa Giê-su còn dùng hình ảnh
“nắm men” bà kia lấy vùi vào ba thúng bột. Nắm men không được cất trong tủ lạnh
nhưng là được “nhào nặn giữa đời”, như hạt lúa được gieo vào lòng đất vậy.
Vì thế,
hy vọng và cậy trông là một nhân đức không dễ để hiểu và cũng chẳng dễ sống.
Cậy trông giúp chúng ta bước đi và chỉ được nhìn thấy từ bên dưới. Nhưng tôi
muốn nói rằng đức cậy trông và hy vọng chính là không khí để người Ki-tô hữu
hít thở, không khí của cậy trông. Ngược lại, người ấy sẽ không thể bước đi,
không thể tiến bước vì không biết mình phải đi đâu. Chính hy vọng mang lại cho
chúng ta sự bảo đảm: cậy trông không làm ta thất vọng. Không bao giờ! Nếu bạn
cậy trông, bạn sẽ không phải thất vọng. Chúng ta cần phải mở ra với lời hứa của
Thiên Chúa, hướng tới lời hứa ấy, nhưng chúng ta biết rằng có Thánh Thần hoạt
động nơi chúng ta. Xin Thiên Chúa ban cho tất cả chúng ta ân sủng này: sống
trong mối giằng co và căng thẳng. Đó không phải là vấn đề thần kinh và não bộ,
mà là bởi Thánh Thần “ném” chúng ta sang bờ bên kia và giữ gìn chúng ta trong
cậy trông và hy vọng.