Lịch sử Hôn Nhân Công Giáo
Bài này xin tìm về truyền thống của Giáo hội, tiếp sau Kinh
thánh. Có thể phân biệt ba thời kỳ: (1) các thế kỷ đầu
tiên; (2) thời trung cổ với suy tư về tính Bí Tích của hôn nhân, và (3) thời
cải cách, Công đồng Tridentino và cuộc tiến hoá tới hiện nay.
Phần I: Hôn nhân Kitô giáo thời đầu
Có thể nói có một số những định chế, luật
lệ ảnh hưởng trên định chế hôn nhân Kitô giáo. Luật La Mã cổ được xem là có
ảnh hưởng cơ bản, còn các phong tục tập quán Đức cũng ảnh hưởng phần nào.
A. Hôn nhân trong luật La Mã:
1. Định nghĩa: theo luật La Mã, hôn nhân đích
thực là sự hoà hợp, hiệp nhất phái tính giữa một người nam và một người nữ, tạo
thành một cộng đồng sự sống, có một vị trí xã hội duy hất theo ý thần linh và
con người.
Định chế hôn nhân này phối hợp hai người
cùng một đẳng cấp xãhôị. Hôn nhân
giưã một phụ nữ tự do với một người nô lệ (hoặc ngược lại) không được xem là
hôn nhân (nô lệ không phải là “người” theo luật La Mã,
không được thừa nhận theo pháp lý). Trong trường hợp đó, chỉ
là liên hệ tình ái, không có quyền đòi của hồi môn, không có những đứa con hợp
pháp.
2. Theo luật này, hôn nhân được thực hiện nhờ sự
ưng thuận của hai bên, chỉ duy điều này thôi là cơ bản. Đây
chính là nền tảng của hôn nhân kitô giáo từ xưa tới nay. Việc ăn ở vợ chồng không được nói đến trong quan niệm hôn nhân
của La Mã. Sự ưng thuận trên sẽ nối kết hai con người có ý định sống với nhau
như vợ chồng, và để cho mọi người thấy tình cảm hôn nhân. Cần có sự đồng ý của
người cha hay người giám hộ. Đính hôn không được kể có tính pháp lý: đó chỉ là
chuyện riêng tư, liên quan đến hai bên gia đình và không thuộc định chế hôn
nhân.
Việc trao đổi sự ưng thuận không buộc phải
có tính cách công khai, bởi vì mục tiêu đầu tiên của hôn nhân là sinh sản con
cái hợp pháp. Tưởng
cũng cần lưu ý rằng, luật La Mã ít quan tâm đến đời sống lứa đôi, vì đó là
chuyện riêng tư không liên hệ gì đến quốc gia. Người
chủ gia đình là chủ nhân ngôi nhà của họ (định chế phụ hệ).
Mối dây vợ chồng chỉ có thể được tháo cởi bởi sự
đồng ý của hai bên: ngay từ lúc sự ưng thuận diễn ra, hôn nhân đã thành sự, do
đó hôn nhân chỉ chấm dứt khi cả hai bân không còn ưng thuận tình trạng này. Như thế ly dị là điều thường diễn ra và được thừa nhận. Hai
vợ chồng chia tay nhau có thể tiến đến một hôn nhân
mới.
B. Hôn nhân theo các
Giáo Phụ:
1. Vào thời đầu, Giáo hội ít quan tâm đến các
vấn đề có liên quan đến hôn nhân gia đình nhưng dần dần nhằm thanh lọc các
phong tục tập quán du nhập từ các nền văn hoá cổ, Giáo hội phải nhanh chóng lưu
tâm dến vấn đề này. Theo Athenagore, mỗi người chúng ta hãy coi là vợ mình
người phụ nữ chính họ đã cưới theo luật của chúng ta,
với lý do duy nhất là để sinh sản con cái. Sự trung tín hôn
nhân cũng được đặt lên hàng đầu. Hôn nhân vẫn là việc riêng tư không cần
cử hành công khai trong nhà thờ, mặc dù thánh Inhaxiô, Giám mục thành Antiokia
đòi các đôi hôn nhân “có ý kiến của Giám mục”.
Thực vậy, đạo lý Kitô giáo chỉ có do những
vấn nạn và những khó khăn thực tế.
Tại Corintho, thánh Phaolô đã phải “rút phép
thông công” người phạm tội loạn luân (1Cr 5,1-13). Vào thế kỷ II cũng có những hình phạt cho các trường hợp ngoại
tình. Nhưng để gọi là ngoại tình, trước ht61 cần phải
được xác định dần dần. Những khó khăn ban đầu có lên quan đến luật pháp
đời là: luật Roma chỉ thừa nhận hôn nhân cùng đẳng cấp xãhôị. Song, Giáo hội
coi tất cả mọi người là bình đẳng: tất cả những hôn nhân giữa các người đã rữa
tội đều thành sự. Có nhiều ý kiến tranh cãi, thậm chí đối
nghịch nhau về vấn đề này (chẳng hạn xung đột giữa Callixte và Hippolyte).
Các Công đồng đã soạn ra đạo lý về hôn nhân Kitô
giáo, theo cách thực tế, khởi đi từ những vấn đề cụ
thể như trên. Chẳng hạn vào năm 303, Công đồng Elvire phạt
nặng ngoại tình đồng thời xác lập ưu tiên cho các cuộc đính hôn và thiết lập
định chế vững chắc cho mối kết hợp hôn nhân.
Mãi về sau này, vấn đề bất khả phân ly mới
được đặt ra. Khi Giáo hội phải
đương đầu với những đòi hỏi theo khuynh hướng tự nhiên
con người vốn được những định chế pháp luật đời ủng hộ. Điều
này kéo dài hằng nhiều thế kỷ. Việc tái hôn của những người đã ly dị
thường bị kết án nặng nề.
Chúng ta tự hỏi rằng vào thời kỳ đó hôn
nhân đích thực là gì và đòi những điêù kiện nào?
2. Những cản trở cho việc thừa nhận tính Bí tích
của hôn nhân: Tình yêu ít được đánh giá cao trên bình diện xã hội. Bởi vì xem ra những tình cảm thì “chóng qua mau hết, không ổn
định”. Để có hôn nhân, tốt hơn hết không chỉ dựa trên
tình yêu. Điều mà đòi có hôn nhân, chính là ý muốn của
gia đình và những lợi ích kinh tế. Hơn nữa, do người
phụ nữ vốn bị xem là thấp kém và có vai trò phục vụ, nên viêc trao đổi và đối
thoại bình đẳng giữa các người phôi ngẫu không được ưa chuộng. Thánh
Gioan Kim Khẩu xem ra không thực tế khi ngài nói về các đôi hôn nhân có thể đối
thoại bình đẳng với nhau trên bình diện thiêng liêng: “hôn nhân thì cũng chẳng
khác gì đời sống đan tu (bề dưới tuân phục bề trên)”. Vào
thời Trung cổ tình trạng đó vẫn không có gì thay đổi. Làm
sao chúng ta có thể hiểu Thư Epheso 5 và những chỉ dẫn liên quan đến tính Bí
tích của hôn nhân.
Trên bình diện xã hội và văn hoá, những
việc như trên kể là còn “chưa chín mùi”. Phải chờ đến Hugues de Saint-Victor, khoảng 1140,
tình yêu giữa đôi vợ chồng mới được xem là nền tảng cho tính Bí tích của hôn
nhân. Sau đó,
Một vấn nạn khác có liên quan đến vấn đề
tính dục, đó là cái nhìn bi quan, tiêu cực về vấn đề này. Nguyên do là vì:
- Do có nhiều cuộc ly dị cũng như cách sống vô
luân của nhiều đôi vợ chồng, vào thời cuối của đế quốc, hôn nhân không còn được
coi trọng.
- Do nhiều trào lưu – ngoại giáo cũng như “gần
Kitô giáo” loại trừ hôn nhân, coi đó là điều xấu. Chẳng hạn
phái Manikê, đã coi vấn đề sinh sản là một điều xấu. Những trào lưu này
ảnh hưởng đến đời sống luân lý của các Kitô hữu: họ có thể ăn
ở với nhau khi muốn, miễn là không sinh sản con cái như thế sẽ không có gì xấu
cả.
- Do các trào lưu triết học Nhị nguyên vốn coi
trọng linh hồn hơn thân xác: phái Platon cho rằng linh hồn kết hợp với thế giới
linh tượng, đồng thời , đồng thời thoát khỏi thân xác
yếu hèn nhờ chiêm niệm. Potphytr (234-305), một tác giả tân
Platon đã coi toàn bộ thân xác là “cần lánh xa”. Do đánh giá thấp hoạt
động tính dục, Plotin (205-270) đã tiết chế khổ hạnh. Đạo lý của ông là : để dâng hiến cho việc chiêm niệm, cần phải thanh nhàn,
không bận tâm đến một ai. Đối lại với muốn mình bị đánh giá
thấp. Phái Khắc kỷ tìm cách hoà hợp với vũ trụ và với
thiên nhiên. Về vấn đề ítnh dục, phái này theo kiểu mẫu “ của loài vật”: Thú vật kết bạn với nhau để sinh sản.
Sống trong bối cảnh văn hoá như thế, các
Giáo phụ bị ảnh hưởng ít nhiều.
Linh hồn có một vị trí cao hơn thân xác, cần phải loại bỏ tính dục, – văn hó
thời đó tất yếu là như thế! Các Giáo phụ cũng bi quan về vấn
đề tính dục. Theo như Kinh thánh, hôn nhân là tốt đẹp
và được Thiên Chúa tạo dựng, cần phải được nuôi dưỡng. Theo chân phái Khắc kỷ, các Giáo phụ cũng đặt thiện ích của hôn
nhân là sinh sản con cái. Và nếu hôn nhân là thiện hảo
thì bậc đồng trinh lại còn cao hơn. Do đó, chúng ta thấy có nhiều bậc
sống: bậc đồng trinh, bậc goá phụ, bậc hôn nhân (bài giảng của thánh Ambroxio).
Như thế, tuy xác tín rằng hôn nhân là tốt đẹp, các Giáo phụ
cũng không đánh giá cao hôn nhân. Nói như thế có nghĩa
rằng hôn nhân – một “sự dữ” tối thiểu – chỉ là một bước mà nhiều người muốn
vượt qua. (Thánh Gierônimô).
3. Thánh Augustino là chứng nhân rõ ràng nhất về
các quan niệm của thời đại Ngài. Quan điểm của Ngài vẫn còn
được áp đặt tại phương Tây cho tới thế kỷ XX, tuy đôi lúc bị áp đặt sai.
Ngài có một quan niệm khá tiêu cực về hôn nhân và tính dục.
Ngài không thể vượt qua được mâu thuẫn giữa: các quan niệm về tính dục vốn phát
xuất từ bối cảnh văn hoá ngài với sự thiện hảo của hôn nhân theo
Kinh thánh.
Ngoài ra, vẫn có những cuộc tranh luận về hôn
nhân, đôi lúc mang tính bút chiến: những người theo
phái Jovi kết án sự đồng trinh, phái Manike từ chối sinh sản…
Thánh Augustino thể hiện tư tưởng của mình qua
ba tác phẩm: “Thiên hảo hôn nhân”(401); “Những cuộc
phối hợp ngoại tình” (419); “Các hôn lễ và khát vọng” (419-420), ngoài ra còn
có các bài giảng, các bài chú giải Kinh thánh có liên quan.
Thánh Augustino quy chiếu về luật La Mã: việc
kết hôn là để có những đứa con hợp pháp. Ngài lấy lại quan điểm tự nhiên của
phái Khắc Kỷ:việc kết hôn là để sinh sản con cái. Tình cảm yêu đương chỉ được xem như là khát vọng tình dục.
Khát vọng này có tính tiêu cực vì từ khi con người phạm tội nguyên tổ, họ đã
mất khả năng kiểm soát xung động tính dục. (Xc Đạo đức
gởi Nicomaque VII, 12,1152b của Aristote: khoái lạc tính dục là rào cản của lý
trí). Việc bất tuân phục của thân xác cho thấy con người bất
tuân phục Thiên Chúa. Trong tình trạng như thế, thật
khó để coi trọng tính dục.
Đúng ra, có cả một đẳng cấp các thái độ tính
dục: cấp bậc cao nhất là trương quan phái tính để sinh sản con cái thì không có
tội. Như thế các đôi hôn nhân phải cố kiêng cữ càng nhiều
càng tốt. Rõ ràng hơn hôn nhân càng trở nên thánh thiện và có sức thánh
hoá khi người ta càng ít sử dụng thính dục. Các triết gia ngoại giáo (sau này
thánh Augustino theo), nghĩ rằng sự thân mật thì thiện
hảo hơn là “trao đổi”. Tư tưởng của thánh Augustino càng ngày
càng nhấn mạnh trên sự trong sạch trong đời sống hôn nhân, trên tình yêu bằng
hữu, và đó là điều duy nhấnt làm phong phú cho đôi bạn.
Theo thánh Augustino, tính dục hay đúng hơn là
khát vọng phái tính là nơi thông chuyển tội nguyên tổ. Từ đó
gây ra vụ tranh luận với Julien d’Eclena cho rằng rửa tội cho trẻ sơ sinh là vô
ích, vì cha mẹ chúng đã được rửa tội và chúng lớn lên trong môi trường Kitô
giáo. Ý kiến này vốn nghịch với Giáo hội ngay từ đầu.
Thánh Augustino đã biện minh là : nếu không ý thức về
thiện ác; nhưng vì chúng sinh ra có dấu vết tội nguyên tổ, chính phép rửa tội
sẽ thanh tẩy chúng. Và tội nguyên tổ được thông chuyên bởi
khát vọng phái tính. Julien d’Eclena cho thấy có sự mâu thuẫn giữa thiện
hảo của đời sống đôi bạn (do Thiên Chúa tạo dựng) với hôn nhân như “thao
trường” của tội lỗi. Thánh Augustino tự biện minh khi viết: hiệu quả Bí Tích Rửa
tội làm cho các đôi bạn kitô giáo sống trong sạch, vốn là đời sống tương lai
của những người được Phục Sinh.
Thánh Augustino nói về ba thiện hảo trong đời
sống của hôn nhân: lòng trung tín, con cái và Bí Tích. Sinh
sản là một thiện hảo tuy vô sinh không phải là bất thiện hảo và không huỷ hoại
hợp nhất đôi bạn. Sự trung tín được bám rễ trong suốt
đời sống đôi bạn. Về Bí tích có liên quan đến tính bất
khả phân ly, một điều tất yếu và không tranh cãi. Ba
thiện hảo hôn nhân này làm cho khế ước hôn nhân trở thành một tình trạng đã có
gia đình.
4. Nghi thức hôn nhân trong Kitô giáo xưa và
việc phát triển quyền lợi của hôn nhân.
Không có một nghi thức đặc biệt riêng cho hôn
nhân, chỉ theo phong tục địa phương. Tại phương Đọng sau một thời gian tranh cãi, thánh Gioan Kim Khẩu
đã mặc ý nghĩa Kitô giáo cho việc đội triều thiên và đem áp dụng. Tại
phương Tây, việc đội triều thiên đôi khi được thay thế bằng phủ khăn, rồi tiệc
cưới, trao đổi sự ưng thuận cách long trọng, trao nhẫn, chúc lành cho đôi hôn
nhân hoặc cho phòng cưới. Cũng cần lưu ý rằng tại phương Tây các nghi thức này
không làm cho hôn nhân thành sự (ít ra theo luật Giáo
hội), cũng không cần sự ưng thuận của người cha. Chỉ có sự
trao đổi ưng thuận giữa đôi hôn nhân là quan trọng.
Dần dần Giáo hội đưa ra những quy định pháp lý
cho những ngăn trở hôn nhân: ngăn trở về họ máu, tuổi, đôi lúc cấm hôn nhân hỗn
hợp, ngăn trở lời khấn.
Vấn đề tháo cởỉ mối dây hôn nhân được bàn thảo
nghiêm túc tại phương Đông: khi một người đã kết hôn phạm tội ngoại tình, họ
không thể kết hôn lại vì mối dây hôn nhân đã có. Nhưng trong
thực tế luật pháp địa phương có thể châm chước điều này. Việc ly dị và rẫy vợ là không hợp pháp từ thời Constantin.
Người ta nhận thấy có sự phân biệt đối xử giữa người đàn ông và người phụ nữ
ngoại tình(ngược lại, các Giáo Phụ khẳng định cả đàn
ông cũng như đàn bà đều có trách nhiệm, phạm tội và chịu chế tài như nhau). Việc tái hôn thời đó tuy được Giáo hội chấp nhận vẫn không được ủng
hộ.
C. Hôn nhân theo phong
tục Đức: đế quốc ngày càng lan rộng và thống nhất về chính trị và pháp lý. Luật La Mã mất dần. Giáo hội chưa có các
phương tiện để thống nhất luật lệ của mình. Những người xâm lăng Đức có một quan điểm khác về hôn nhân.
Theo phong tục Đức, người chồng và người
vợ tặng các món quà cho nhau. Đó là hình thúc chính thức. Hôn nhân được thực hiện qua
nhiều giai đoạn:
- Ý muốn kết hôn mang lại ân
huệ trong tương lai.
- Tiệc cưới, trao người vợ trẻ cho người chồng
và bắt đầu một đời sống chung. Việc ăn
ở vợ chồng có một tầm mức quan trọng lớn: đôi khi người vợ trẻ đó thực thụ trở
thành vợ sáng ngày hôm sau sau khi việc ăn ở vợ chồng.
Tuy nhiên luật pháp Đức cũng thừa nhận một hình
thức lôn nhân “thứ yếu” : cuộc hôn nhân do hãm hiếp,
khôn long trọng, không hợp pháp, nhưng thành sự.
Phần II: Thời Trung cổ: tính cách Bí Tích của
hôn nhân
A. Sự tiến triển của Giáo lý Hôn nhân
1. Hôn nhân vào cuối thời các Giáo phụ: vào thế
kỷ thứ VII, đồng trình được coi trọng hơn hôn nhân, sinh sản con cái có giá
trị, và có một số luật lệ cho đời sống đôi bạn. Giáo hội hợp
pháp hoá nhiều cấm đoán về liện hệ hàng dọc. Các vấn
đề bất khả phân ly, giáo dục mối dây hôn nhân vẫn còn đó. Do đó, thời
Trung cổ cần nỗ lực suy tư.
Giáo hội quan tâm nhiều trên bình diện
phụng vụ. Việc
chúc lành không nhất thiết làm cho hôn nhân thành sự nhưng có mục đích đáp ứng
lại mối bạn tâm của quần chúng. Sau cùng, Giáo hội cố
đưa ra nhiều luật lệ có tương quan đến đời sống hôn nhân như mối dây hiệp thông
bất khả phân ly của hôn nhân, cấm việc ruồng rẫy vợ vốn làm cho người phụ nữ
trở thành nạn nhân. Luật hôn nhân của Đức tương đối dễ dàng cho ly dị, hợp
pháp hoá hôn nhân do bị hãm hiếp, được Giáo hội thừa nhận miễn là bên phía nữ
đồng ý.
2. Từ thế kỷ XI, Giáo hội quan tâm nhiều hơn đến
hônnhân. Thời này, có nhiều tác phẩm lớn và giá trị như của P. Lombard, de
Champeaux, de Saint Victor…Một cách chung, thần học
hôn nhân phác học những điểm chính yếu:
• Phân biệt hôn nhân thành sự (sau trao lời ưng
thuận, có thể tháo) và hoàn hợp (sau ăn ở vợ chồng,
không thể tháo gỡ).
• Hôn nhân hữu hiệu và thành sự khi trao lời ưng
thuận “trong hiện tại”, ngược vơí lời”trong tương lại” trong lễ đính hôn (có
thể bãi miễn).
• Hôn nhân không thể bãi miễn.
• Sự ưng thuận của cha mẹ và chúc lành hôn nhân
chỉ có “tính tham khảo”, không nhất thiết.
• Hôn nhân đã được đinh chế hoá trong vườn địa
đàng của Adam để gia tăng “dân số”, nhưng sau sa ngã,
lại có tính “chữa lành”.
• Hành vi vợ chồng là
thánh thiện và để sinh sản con cái, tuy cần tiết chế khoái lạc.
• Không được phép ly dị. Hôn
nhân của người ngoại hợp pháp, tuy không là bí tích.
Hơn nữa, thế kỷ XII, luật La Mã được tái khám
phá với ý tưởng khế ước: hôn nhân là một khế ước.
Cuối thế kỷ XII, đầu thế kỷ XIII, tính
cách bí tích của hôn nhân được khẳng định, và phát xuất từ ý muốn Thiên Chúa. Hôn nhân được xác định bằng những hạn tưì Kinh
viện:
• Nguyên nhân chất thể: đôi hôn nhân
• Nguyên nhân hiệu quả: Ưng thuận đôi bên và hợp
nhất thân xác.
• Nguyên nhân cứu cánh: sinh sản con cái, chữa
trị dục tính.
• Nguyên nhân mô thể: cử hành tôn giáo và dân sự
long trọng.
B. Hôn nhân như một Bí tích:
Khi gán ý nghĩa Bí tích cho hôn nhân, vào
thế kỷ XII, người ta muốn đặt mối tương quan với sự hiệp thông giữa Chúa Kitô
và Giáo hội, mà hôn nhân là hình ảnh (Xc Eph 5).
Hugues de Saint Victor (+1141) đã định
nghĩa hônnhân như một “dấu chỉ một thực tại thánh”, diễn tả sự kết hợp giữa
Chúa Kitô và Giáo hội. Vì hôn nhân có tính Bí tíhc nên bất khả phân ly. Hôn nhân là
bí tích duy nhất được định chế trước khi nguyên tổ sa
ngã, do đó nó không phải là một phương thuốc trị liệu cho dục vọng nơi con
người. Nó thánh hoá đôi hôn nhân. Hugues
đã đặt hôn nhân như là một cộng thể lên hàng đầu. Tình yêu là lý do hiện
hữu của hôn nhân.
Theo thánh Thomas Aquino, vì hôn nhân là một Bí
tích, nên hôn nhân là nguyên nhân của ân sủng. Một số
tác giả đã bạn tâm về vấn đề ân sủng: làm thế nào chúng
ta làm cho một hành vi mà thiết yếu là sự khoái lại xứng đáng để Thiên Chúa ban
ân sủng? Thánh nhân trả lời: nhờ có tình yêu của cả hai phía; không có một giới
lệnh nào coi hành vi vợ chồng có tội (Suppl, Q41, art, 3); trong phạm vi hôn
nhân, hành vi vợ chồng là xứng hợp vì lý do công bằng, phương chi lại là lý do
tôn giáo (tôn giáo theo nghĩa mội tạo vật là vinh quang Thiên Chúa). Thánh Toma quan niệm hợp nhất thân xác là thánh thiện.
Duns Scot thêm vào: Bí Tích là dấu chỉ của một
thực tại thánh mang lại ân sủng.
Lối tiếp cận kinh viện (hỏi đáp) làm phát
sinh nhiều câu hỏi lẻ tẻ (hôn nhân giữa Adam và Eva có tính Bí tích không?
C. Hôn nhân trong luật Giáo hội
1. Theo Giáo luật, có những ngăn trở truyệt đối
và những ngăn trở tương đối:
- Ngăn trở truyệt đối: chưa đủ tuổi; bất lực;
khấn dòng; đã có hôn nhân trước chưa giải quyết; khác biệt về tôn giáo (cấm hôn
nhân với Do thái giáo, Hồi giáo, ngoại giáo hay lạc giáo).
- Ngăn trở tương đối: quan hệ thiêng liêng; quan
hệ nghĩa tử; ngoại tình.
2. Bất khả phân ly: theo
lý thuyết, hôn nhân bất khả phân ly nhưng đôi khi trong một vài trường hợp,
Giáo hội chấp nhận việc đoạn họn. Thật vậy có thể đoạn hôn theo
luật trong các trường hợp: khi người phối ngẫu bị cư xử như nô lệ, khi theo tôn
giáo khác, khi bỏ đạo và có nguy cơ nguy hại đức tin cho bên khia…Đức Giáo
hoàng sẽ tuyên bố từng trường hợp riêng biệt.
D. Trong thực
hành: Nghi thức và những khó khăn:
1. Những nghi thức: hôn nhân như một cuộc mua
bán, theo luật mọi rợ xưa đang dần biến mất. Hôn nhân
do bị hãm hiếp vẫn còn khá thường xuyên, mặc dù bị kết án,vì
để tránh một cuộc hôn nhân ngoài ý muốn cho các người phối ngẫu tương lai.
Chung sống tự do vẫn còn. Để chống lại những thói trên, các
thần học gia đã đưa ra tính chất cơ bản đó là sự ưng thuận gia đình.
Theo lý thuyết, tương giao vợ chồng bị cấm
khi vẫn còn trong thời hứa hôn. Nhưng có người cho rằng thời hứa hôn sẽ đương nhiên dẫn đến hôn
nhân và đó là một sự ưng thuận mặc nhiên trong hiện tại. Từ đó hình thành lý thuyết hôn nhân “đi trước”.
Trong phụng vụ: ngay từ thế kỷ VIII các công
thức phụng vụ chúc lành cho hôn nhân đã có, nhưng vẫn bị hạn chế sử dụng hay ít
ra không buộc.
Từ thế kỷ XII nơi một vài quốc gia đã có
toàn bộ nghi thức, trước thánh lễ hôn nhân, diễn ra “tại cửa nhà thờ”. Nghi thức này gồm có một đối thoại giữa đôi hôn
nhân và vị linh mục, nói lên sự tự do ưng thuận của đôi bạn và những ngăn trở
cần chấm dứt, cũng có lời chúc lành , trao nhẫn, cầm
tay nhau, lời chúc lành cho đôi hôn nhân. Nghi thức này đã lan
rộng, nhưng sau này, nghi thức được diễn ra bên trong nhà thờ, trước bàn
thờ.
2. Những khó khăn: nghi thức hôn nhân đã có và
Giáo hội khích lệ thực hành, nhưng không có tính bắt buộc. Theo quan điểm thần
học cũng như giáo luật, hôn nhan được hình thành chính do sự ưng thuận của đôi
bạn, chỉ đôi bạn thôi, không cần có các nhân chứng. Từ đó,
làm thế nào chúng minh rằng có hôn nhân mà lại không có người chứng hôn, dù cho
có hôn thú công khai và long trọng? Do đó, luật dân sự đã dựa trên tính
cách đòi buộc công khai của Giáo hội, đã khích lệ các đôi hôn nhân phải đến
trước vị chưởng khế (như người chứng hôn), để bảo đảm
hôn nhân của họ.
Có những cuộc hôn nhân “chui”: không có sự đồng
ý của cha mẹ, lắm tương quan rắc rôí; điều này để tự do tuỳ theo
thói tục. Cũng có những thanh niên quyến rũ thiếu nữ
rồi lạm dụng, rồi tổ chức hôn nhân kín đáo, sau đó lại bỏ rơi cô ta và không có
gì làm bằng chứng. Đôi lúc, có hoàn cảnh trái ngược: cô gái trẻ sợ không có hôn
nhân, nên buộc chàng trai cưới mình cách riêng tư, kín đáo. Trong một vài trường
hợp lý do đơn giản là vấn đề tài chánh.
Vào cuối thế kỷ XII, các đôi hôn nhân “chui” đã
có cách giải quyết: được truyên bố công khai. Ý tưởng này nhanh chống lan rộng và Công đồng Latran thứ IV (1215) đã đưa vào giáo
luật. Như thế các đôi hôn nhân “chui” vẫn thành sự theo
quan điểm Giáo hội.
Phần III: TỪ CẢI CÁCH ĐẾN NAY: Chung quanh Công đồng Tridentino: đối phó
A. Thời cải cách:
1. Vào thế kỷ XVI, có các cuộc hôn nhân “chui”;
các viên chức Giáo hội phải giải quyết nhiều vấn đề hôn nhân phức tạp, đôi lúc
phải thừa nhận vô hiệu hoá hay tiêu hôn- điều vốn gây nguy hại cho định chế hôn
nhân… Hơn nữa, vai trò của người phụ nữ được trân trọng hơn
một chút.
2. Các nguyên tắc và kỷ luật của cuộc cải cách:
Luther đã tấn công Giáo hội, tấn công các Bí tích không phải vì đó là Bí tích. Vì các Bí tích được xem như hành động của Giáo hội, nên Luther đưa
ra một nền Giáo hội học mới. Ong cho rằng chính các bí tích không tự
sinh hiệu quả, nhưng nhờ đức tin đức tin và chỉ duy đức tin mới mang lại ân sủng. Ong không đồng ý với quan niệm Bí
tích của các nhà kinh viện. Theo ông hôn nhân không
được nhắc đến trong Kinh thánh như một Bí tích mà Đức Kitô thiết lập. Do
đó, không có tính Bí tích.
Các nhà cải cách chấp nhận ly dị trong một vài
trường hợp nhưng tuỳ theo luật địa phương. Tính bất
khả phân ly, theo nguyên tắc, vẫn là luật, nhưng lý do
để có thể chấp nhận ly dị lại linh động hơn so với Công giáo. Lời khấn dồng không là ngăn trở. Thật vậy, luật được áp dụng
khác nhau và tuỳ theo xứ sở.
Tuy nhiên Luther đánh giá cao hôn nhân. Ong khẳng định tính thánh
thiện của hôn nhân, không coi hôn nhân là thấp kém so với bậc đồng trinh.
Mục tiêu của hôn nhân là đôi bạn trợ giúp lẫn nhau và giáo dục con cái. Luân lý
đôi bạn linh động hơn: không phê phán hành vi tính
dục, sinh sản con cái không phải là mục tiêu duy nhất; mỗi đôi vợ chồng tự điều
chỉnh đời sống tính dục theo ý họ.
Để tránh những bất tiện trong sự ưng thuận theo kiểu Roma (nhất là trong hôn nhân “chui”). Các nhà cải
cách đưa ra phụng vụ hôn nhân:
* phải có lễ đính hôn
bắt buộc, khác với lễ hôn nhân;
* có công thức riêng
cho cử hành nghi lễ. Chính vị mục tử tạo ra tình trạng hôn nhân khi phối hợp
đôi bạn;
* cần có sự đồng ý của
cha mẹ.
B. Phản ứng của Công đồng: công đồng đã phản ứng lại những nha cải cách:
trước hết về phương diện đạo lý (1547); thứ hai về phương diện kỷ luật
(1563).
1. Về đạo lý: chống lại anh em Tin Lành, Công
đồng khẳng định đạo lý Kitô Giáo về hôn nhân:
* Hôn nhân thực sự và đích thực là Bí tích của
luật mới, được Đức Kitô thiết lập nhờ công nghiệp cuộc khổ nạn của Người thánh
hoá và ban ân sủng cho đôi bạn.
* Hôn nhân hoàn toàn bất khả phân ly, không có
luật trừ.
* Độc thân được đánh gía là cao nhất
* Có mối liên hệ giữa khế ước và Bí tích: chính
Chúa Giêsu đã làm cho khế ước hôn nhân giữa các người đã lãnh nhận Bí tích Rửa
tội được nâng lên hàn Bí tích. Như thế, giữa các người đã Rửa
tội không chỉ có khế ước hôn nhân thành sự, nhưng còn là Bí tích.
2. Về kỷ luật: sắc chỉ Tamesti(
1563) đã đặt ra nhiều vấn đề: quyền hạn của Giáo hội trong các vụ việc hôn
nhân, một quyền hạn vốn bị các nhà cải cách khước từ. Để loại bỏ các cuộc hôn
nhân “chui”, Công đồng quyết định hôn nhân nhất thiết phải được giao kết trước
một linh mục, nếu không sẽ vô hiệu và vô thành sự. Các cha sở
đòi các đôi hôn nhân phải đăng ký. Tuy nhiên, sự trao
đổi ưng thuận giữa đôi bạn vẫn là nguyên nhân duy nhất làm nên Bí Tích và đó
cũng là nghi thức thiết yếu.
Xã hội dân sự cũng đồng ý phải có sự ưng
thuận của cha mẹ, xã hội phạt nặng những người không thực hiện điều này; Công
đồng cấm và khiển trách các đôi hôn nhân không có sự đồng ý của cha mẹ, nhưng
không tuyên bố vô hiệu. Vấn đề thừa
tác viên là vị linh mục hay đôi hôn nhân vẫn còn bị treo.
C. Hôn nhân từ Công đồng Tridentino tới
nay:
1. Sau Công đồng Tridentino, việc cử hành hôn
nhân bao gồm:
a. Tuyên bố công khai chính thức.
b. Bởi cha xứ.
c. Tại nhà thờ.
d. Công thức dành cho vị linh mục có thể thay
đổi. Công đồng đề nghị: “Tôi chứng thực các bạn có hôn nhân”.
e. Buộc đăng ký, để chứng minh hôn nhân.
Ly dị bị cấm, nhưng đoạn hôn là có thể:
* Nếu trong đôi hôn nhân ngoại giáo, một người
trở lại đạo, và người kai chống lại đức tin (đặc ân
thánh Phaolô).
* Nếu một trong hai người trở lại đạo, khi hôn
nhân chưa hoàn hợp (ăn ở vợ chồng).
Ngoài hai trường hợp trên, chấp nhận việc ly
thân với những lý do nghiêm trọng tuy vẫn duy trì hôn nhân.
2. Giáo luật có tiến triển: Giáo luật 1917 nói
đến hôn nhân là một khế ước – bí tích. Hôn nhân là “hành vi ý
muốn qua đó mỗi người trao ban và đón nhận quyền trên thân xác nhau để hoàn tất
một hành vi mà tự bản chất có mục tiêu là sinh sản con cái”. Giáo luật 1983 có tiến triển hơn. Giáo luật nhắc lại những
nguyên tắc thiết yếu (khế ước – bí tích, bất khả phân ly), nhưng đưa vào quan
niệm của Công đồng VaticanII: “Cộng đồng sống thân mật” dựa trên tình yêu của
đôi hôn nhân, được diễn tả qua sự trao đổi ưng thuận. Hạn từ “khế ước”(contrat) được thay bằng “giao ước” (alliance).
KẾT LUẬN:
Bài này chỉ phác thảo sơ nét về cuộc tiến
hoá của hôn nhân Kitô giáo. Điều chắc chắn là Giáo hội luôn khẳng định tính bất khả phân ly của
hôn nhân, dù phải đương đầu với bao khó khăn. Tính Bí
tích của hôn nhân thì có tiến triển dần. Kỷ luật vẫn
còn là lối mở cho mọi thời đạ.
–––––––––
Để hiểu thêm, xin xem:
- L. GAUDEFROY: article “Mariage”, II: “Le
mariage autemps des Pères”, DTC XI-2 (1927), col. 2077-2115.
- J.GAUDEMET: Le mariafe en occident, Cerf,
1987.
- G. LE BRAS: article “Mariage”, DTC IX-2
(1927): “La doctrine du mariage chez les théologiens et les canonistes depuis
I’an mille”, col. 2123-1317.
- G.MATHON: Le mariage des chrétiens. I: des
orgines au concile de Trente, coll. BHC n 31, Desclée 1993; II. Du concile de Trente à nos jours, BHC n 34, Desclée 1994.
- K.RITZER: Le mariage dans les Eglises
chrétiennes de 1 er au XI siècle, Cerf 1970.
E. SCHILLEBEECKX: Le mariage, réalité terrestre et mystère de salut, coll. “Cogitatio fidei”, Cerf 1996.
Anh Phương, Thời Sự Thần Học Đa Minh