Vị giáo-sư trẻ
Ngài đã có lần nói: “Khi tôi bắt đầu học thần-học, tôi bắt đầu mê những
vấn-đề tri-thức, bởi vì chúng giúp tôi khám-phá ra bi-kịch của đời tôi và nhất
là khám-phá ra bí-mật của chân-lí”. Điều đó nghĩa là thế nào?
Đó là tôi hơi “cường-điệu”,
chứ đơn-giản khi học thần-học, mình không phải học nó như học một nghề, nhưng
nhờ nó để hiểu đức tin, với điều-kiện là đức tin phải chân-thực, như tôi đã nói
khi bàn về An-tịnh trên đây. Và đức tin như vậy là cửa ngõ đi vào hiểu-biết
đúng-đắn cuộc đời mình, hiểu-biết thế-giới và nhân-loại. Khi học thần- học,
mình đương-nhiên bị đẩy vào toàn-bộ cuộc vật-lộn trí-thức với lịch-sử tây
phương. Ngay từ đầu, đức tin một mặt quyện-lẫn với gia-sản do-thái, mặt khác
với gia-sản hi-lạp và la-tinh, rồi dĩ-nhiên với lịch-sử tân-thời của nó. Xem
như thế việc học thần-học dính liền với câu hỏi: Cái đó thực chất là gì? Chúng
ta có thể nhận-biết gì?
Chủng-viện của chúng tôi lúc đó ở Freising
mang một bầu-khí rất sống-động. Anh em về từ chiến-trường, có người đã kinh qua
6 năm chiến-tranh, ai nấy đều khao-khát tri-thức và văn-học, đầu-óc chất đầy
những thắc-mắc khởi đi từ những gì mình đã thấy, đã trải qua. Anh em đọc
Gertrud von le Fort, Ernst Wiechert và Dostojewski, Elisabeth Langgässer, nghĩa
là tất-cả những tác giả nào thời ấy có. Ai học ở München đều làm quen với nhà
thần-học luân-lí thời đó là Steinbüchel, với Heidegger, với Jaspers. Mọi người
như bị cuốn hút vào một cuộc vui tinh-thần lớn.
Luồng gió
tinh-thần nào làm ngài đặc-biệt say-mê?
Tôi rất thích Heidegger* và Jaspers*, và chủ-nghĩa nhân-vị nói
chung. Steinbüchel* viết cuốn “Ngả rẽ
suy-tư” (Die Wende des Denkens),
trong đó ông mô-tả biến-chuyển từ học-thuyết mới của Kant* sang giai-đoạn
nhân-vị thật hay. Đó là cuốn sách cẩm-nang của tôi. Và ngay từ đầu tôi cũng
thích nghiên-cứu thánh An-tịnh như một đối-lực với Tôma đất Aquin.
An-tịnh đã định-nghĩa chức-vụ của mình thế này: “Chỉnh những tay phá-rối,
ủi-an những kẻ yếu-đuối, phi-bác đối-phương”.
Ngài là một giám-mục đúng
nghĩa. Ngài cũng đã viết những cuốn sách khổng-lồ, khiến người ta phải tự hỏi
không biết ngài lấy giờ ở đâu ra mà làm chuyện đó ngoài thì-giờ cho những
công-việc vặt-vãnh thường ngày. Là giám-mục, ngài đặc-biệt phải đương-đầu với
những tranh-chấp chính-trị và luôn quan-tâm tới nỗi thống-khổ của dân đen cũng
như tìm cách để tất-cả liên-kết chặt-chẽ với nhau. Đó là một thời biến-động lớn
với những cuộc di-dân lớn. Như vậy ngài chẳng phải là người đi trên mây.
Theo luật đế-quốc thời đó
giám-mục cũng là một quan-toà. Ông có một số thẩm-quyền và phải xử những vụ
kiện dân-sự. Vì vậy, ngày lại ngày, ngài sống trong điều-kiện đó và cố-gắng làm
sao để thông-truyền cho họ tin mừng và sự hoà-bình của Chúa. Như vậy ngài cũng
là một mẫu gương sống, vì suốt ngày phải dành hết thì-giờ cho người dân và những
chuyện lặt-vặt thường nhật, mặc dù đam-mê của ngài là chiêm-niệm và việc
tinh-thần.
Cái làm cho tôi xúc-động
thời đó không phải là vai-trò mục-tử - điều mà tôi không nắm vững – nhưng là
cái tươi-mát và sống-động toát ra từ tư-tưởng của ngài. Triết-học kinh-viện có
cái vĩ-đại của nó, nhưng quá vô-ngã. Phải cần thời-gian mới bước được vào nó và
mới nhận ra những xung-động nội-tại của nó. Còn ở An-tịnh ta có thể trực-tiếp
nhận ra ngay con người đam-mê, đau-khổ đầy thắc-mắc và ta có thể đồng-hoá mình
với con người này.
Nhưng cuối
cùng ngài đã thích thần-học lịch-sử của Bonaventura, tại sao?
Thật ra là một tình-cờ. Sau khi tôi viết luận-án tiến-sĩ
về Giáo-hội cổ, thầy dạy tôi, giáo-sư Söhngen, khuyên nên viết luận-án giáo-sư* về thời Trung-cổ hoặc Thời mới. Ông bảo
tôi bằng cách nào đó nên nghiên-cứu quan-điểm Mạc-khải của Bonaventura*. Vì ông biết tôi chịu ảnh-hưởng của
An-tịnh nhiều hơn Tôma nên ông khuyên nên viết về Bonaventura, một tác giả ông
nắm vững và ngưỡng-mộ.
Thần-học căn-bản lấy chính “mạc-khải” làm
đối-tượng. Mạc-khải thực chất là gì? Có thể có nó hay không? Và những câu hỏi
tựa như thế. Khi đã đi sâu vào, tôi nhận ra mạc-khải đối với Bonaventura có
liên-hệ với cuộc hành-trình phiêu-lưu của Phan-sinh (Franziskus); và cuộc
phiêu-lưu kia cũng lại có dây mơ rễ má với Joachim ở Fiore. Joachim* cho rằng ta đang ở thời-kì thứ ba: thời
của Chúa Thánh-linh, thời của một giai-đoạn mạc-khải mới. Vị này còn làm cả bài
tính khi nào thì thời đó bắt đầu, và theo ông, thời thứ ba này tương-đối
phù-hợp lạ-lùng với các dữ-liệu sống của thánh Phan-sinh, nghĩa là Phan-sinh
chính là người đưa lịch-sử giáo-hội vào giai-đoạn thứ ba này. Vì thế mà những
tu-sĩ Phan-sinh, ít là một số đáng kể trong dòng này, sớm có cái cảm-giác về
vai-trò đặc-biệt của họ, vai-trò mà Joachim ở Fiore đã tiên-đoán, là: Đây là
giai-đoạn của Thánh-linh, thời-kì của một Dân Chúa mới, nghèo, đơn-giản, chẳng
cần cơ-cấu trần-tục nào nữa.
Như vậy ý-niệm mạc-khải chẳng phải xuất-phát từ
buổi đầu xa-xôi nữa, nhưng gắn liền với lịch-sử - nó là một tiến-trình đẩy tới
trong lịch-sử, nó đang bước vào một giai-đoạn mới. Như vậy quan-điểm mạc-khải
của Bonaventura không còn là một đề-tài trừu-tượng nữa, nhưng dính liền với
việc ám-chỉ lịch-sử thánh Phan-sinh của chính ngài.
Cái đó có ý-nghĩa gì đối với
ngài?
Có ý-nghĩa cho hai câu hỏi lớn. Câu hỏi thứ nhất
có thể diễn-tả như sau: Nếu như đức tin Ki-tô giáo gắn liền với một mạc-khải đã
qua từ lâu thì như vậy phải chăng đức tin đó bị đóng ấn là hoài cổ và con người
phải chăng bị cột chặt vào quá-khứ? Như vậy đức tin đó có thể bước kịp với
lịch-sử không ngừng đi tới và nó còn có gì để nói cho chúng ta không? Phải
chăng nó sẽ phải già-nua đi với thời-gian và trở nên không còn hợp thời? Bonaventura
đã có câu trả lời, khi ngài nhấn mạnh đến quan-hệ giữa đức Ki-tô và Chúa
Thánh-linh dựa theo Tin mừng thánh Gio-an. Theo ngài, lời mạc-khải lịch-sử thì
vĩnh-viễn, nhưng lời đó vẫn không bao giờ cạn-kiệt và luôn mở ra những chiều
sâu mới. Trong ý-nghĩa đó Chúa Thánh-linh, đấng thông-dịch của đức Kitô, vẫn
luôn tiếp-tục nói lời của Ngài cho mọi thời và chứng-tỏ là lời đó luôn-luôn có
cái gì mới để nói với trần-gian. Chúa Thánh-linh không phải là nhân-vật của một
thời tương-lai nào đó, như cắt nghĩa của Joachim ở Fiore, nhưng Ngài luôn là
tinh-thần thời-đại. Thời-đại Chúa Ki-tô là thời-đại của Chúa Thánh-linh.
Câu hỏi thứ hai liên-hệ tới thuyết cánh-chung và
không-tưởng. Con người thật khó mà chỉ hi-vọng vào thế-giới bên kia hoặc vào
một thế-giới mới sau thế-giới hiện-tại. Họ muốn có một hứa-hẹn ngay trong
lịch-sử (đời này). Joachim là người đã nói ra cái hứa-hẹn đó một cách cụ-thể và
như vậy ông là kẻ mở đường cho Hegel*,
và ông này, theo P. de Lubac* đã lại
là người chuẩn-bị mô-hình suy-tư cho Mác. Bonaventura chống lại không-tưởng, là
thứ chỉ bịp con người. Ngài đã thành-công vạch ra một con đường sang-suốt và
thực-tế để cản lại quan-điểm sống cuồng-nhiệt và hỗn-loạn tinh-thần của
phong-trào phan-sinh. Cũng vì thế mà ngài đã và đang bị nhiều người đả-kích. Nhưng
cũng chính ngài, qua cộng-đoàn sống đạo không ảo-tưởng nhưng được thúc-đẩy bởi
nhiệt-tình đức tin, đã tìm ra câu trả lời cho vấn-nạn của phái không-tưởng: Các
cộng-đoàn đạo-đức kia không sống cho một thế-giới mai-hậu xa-xôi, nhưng là để
có được chút ánh sáng thiên-đường cho cuộc đời này. Họ cố-gắng sống một cách
“không-tưởng”, bằng cách chối-từ sở-hữu, từ-bỏ ý riêng, dục-tính và các
thành-tựu. Nhờ vậy làn gió tươi-mát thổi vào thế-giới, bẻ gãy những gọng kìm và
Chúa có thể tới gần giữa trần-gian.
Sau khi học xong, ngài giúp xứ
một năm. Tôi nghe nói một năm đó ngài hầu như chỉ có cử-hành lễ tang?
Không, không phải. Là linh-mục phó xứ tôi mỗi
tuần có 16 giờ dạy giáo-lí trong 6 lớp học, từ lớp 2 tới lớp 8. Chừng đó cũng
đã đủ mệt rồi, nhất là mình vừa mới tập-tễnh vào nghề. Về lượng thời-gian thì
đó là công-việc chính của tôi, và tôi sớm bị cuốn-hút vào đó vì rất mau thấy
mình hợp với trẻ. Lúc đó tôi cảm-thấy thú-vị được thoát ra khỏi không-khí
trí-thức để tập nói với trẻ. Thật là vui khi mình tìm ra được ngôn-ngữ để
diễn-tả những ý-niệm trừu-tượng mà em nhỏ cũng hiểu.
Mỗi chủ-nhật tôi có ba bài giảng, một cho giới
trẻ và hai cho người lớn. Và lạ-lùng thay những thánh-lễ trẻ đều đầy-ắp, vì có
cả người lớn bổng-nhiên cũng đến dự. Cộng-đoàn chỉ có một phó xứ duy-nhất là
tôi và mỗi chiều tối tôi lại phải một mình lo cho sinh-hoạt thiếu-niên nữa. Mỗi
tuần có vài lễ-nghi rửa tội và cũng khá nhiều đám tang, đúng như ông nói, bắt
tôi phải đạp xe xuyên khắp München.
Chỉ có mình ngài làm những công
chuyện đó?
Phải, nhưng tôi có một vị chính xứ rất tốt là
đức-ông Blumschein. Ông thật là một mục-tử gương-mẫu; ông không phải là một nhà
trí-thức, nhưng là một người sống chết với nhiệm-vụ và rất nhân-từ.
Ngài đã là một trong những vị giáo-sư trẻ nhất nước Đức, được sinh-viên
lắng-nghe. Một anh học-trò kể: Chúng tôi có một vị ăn-nói khác thường, đụng tới
cái gì là sáng ra cái đó.
Tôi tin rằng một phần cũng là nhờ lúc đó mình còn
trẻ. Dĩ nhiên tôi không soạn bài bằng cách đơn-thuần chắp-nối chi-tiết từ các
sách giáo-khoa, nhưng tôi theo gương thánh An-tịnh cố-gắng liên-hệ được càng
nhiều càng tốt nội-dung học với thực-tại và cuộc sống đầy vật-lộn của chúng
tôi. Tôi nghĩ đó là cái sinh-viên thích nghe.
Trong một diễn-từ của giáo-sư Wolfgang Beinert khen-ngợi nhà thần-học
Joseph Ratzinger có đoạn đại-ý như sau, thần-học của ngài thâm-thuý đáng bậc
sư-phụ và gắn liền với con người ngài. “Đó là một tinh-thần phân-tích tỉnh-tảo,
kết-hợp với một lực tổng-hợp mạnh”. Ngài
có thể chỉ ra ngay và vạch trần rốt-ráo những nhược điểm thần-học. Ngôn-ngữ của
ngài có “lực toả sáng cổ-điển”. Ngài thấy có đúng không?
Tôi nghĩ ở
đây cũng như những diễn-văn ca-ngợi thường mang tính cường-điệu. Dĩ-nhiên tôi
vẫn cố-gắng để có những phân-tích chân-thực và đã cố giúp các sinh-viên viết
luận-án tiến-sĩ của tôi nhận-diện được những điểm yếu trong cách lập-luận của họ.
Tôi không làm việc với từng sinh-viên, nhưng mỗi tuần chúng tôi làm việc với
nhau khoảng hai giờ ; lần-lượt mỗi sinh-viên thuyết-trình những thành-quả
thâu-lượm được và đem ra thảo-luận chung. Lối làm việc này đối với tôi rất
quan-trọng và đó cũng là kinh-nghiệm kết-tinh của con người. Tôi tin với lối
này tất-cả chúng tôi đều được lợi.
Và dần-dần chúng tôi mở rộng vòng thảo-luận với
những vị khách lớn. Chúng tôi đã tới nghe Congar*
ở Strasbourg, nghe Karl Barth* ở Basel,
và ngược lại đã mời Karl Rahner*. Những
buổi đó thật hào-hứng. Chúng tôi không từ chuyện gì để giúp nhau, phân-tích
phê-bình thẳng-thắn trong ý-hướng xây-dựng không ác ý. Mặt khác, chúng tôi cũng
không dừng lại ở phân-tích, mà cố đi tới những tổng-hợp.
Riêng ngài thấy cái gì cá-biệt trong thần-học của ngài hay trong cách
ngài dạy thần-học?
Tôi khởi đi từ đề-tài Giáo-hội, đề-tài mà tôi
luôn ấp-ủ. Điều tôi trước đây cho là quan-trọng và nay càng quan-trọng hơn là
Giáo-hội hiện-diện không phải vì chính nó, nhưng là để giúp con người nhận-diện
ra Chúa. Vì vậy tôi có thể nói rằng tôi nghiên-cứu môn Giáo-hội là để giúp
hướng về Chúa. Trong chiều-hướng đó thì Chúa mới là đề-tài trọng-tâm trong
nỗ-lực của tôi.
Tôi không bao giờ cố thử đưa ra một hệ-thống
riêng, một thần-học mới-lạ nào. Cái cá-biệt, nếu muốn gọi đó là cá-biệt, là tôi
đơn-giản muốn cùng suy-tư với niềm tin của Giáo-hội, nghĩa là cùng suy-nghĩ về
niềm tin với các bậc thầy lớn của Giáo-hội. Đó không phải là một thứ thần-học
lẻ-loi do tôi khởi-xướng, nhưng là một nỗ-lực mở rộng tối-đa trên con đường
suy-tư chung của đức tin. Vì vậy đối với tôi môn chú-giải Thánh-kinh luôn rất
hệ-trọng. Tôi không thể tưởng-tượng có một môn thần-học thuần triết-lí nào cả. Khởi
đầu trước hết là lời Chúa. Và chúng ta tin vào lời đó, cố-gắng làm quen và thấu
hiểu lời đó rồi cùng suy-nghĩ với các bậc thầy tư-tưởng về đức tin. Vì vậy,
thần-học của tôi là một thứ vừa thâm-nhiễm Kinh thánh vừa thâm-nhiễm các
giáo-phụ, đặc-biệt là An-tịnh. Nhưng tôi dĩ-nhiên không dừng lại ở Giáo-hội cổ,
song bám sát vào những cao điểm suy-tư lớn, đồng thời đưa những suy-tư đương
thời ra bàn-thảo.
Chân-lí là ý-niệm bản-lề trong suy-tư của ngài. “Cộng-sự viên của
Chân-lí” là khẩu-hiệu ngài đã chọn khi làm giám-mục. Tại sao lại không thể là
Cộng-sự viên của Thực-tại hay Cộng-sự viên của Khôn-ngoan?
Nếu không có cái này thì chẳng có cái kia. Chân-lí
và Thực-tại đi đôi với nhau. Một chân-lí không thực-tại thì chỉ là thuần
trừu-tượng. Và chân-lí không do “khôn-ngoan con người” mài dũa nên thì lại
không phải là thứ chân-lí được con người chấp-nhận, mà đó là một chân-lí
méo-mó.
Ngay từ đầu Chân-lí không phải là đề-tài chính
của tôi. Nhưng trong quá-trình làm công-tác trí-óc tôi cảm-nhận rất sâu-xa
vấn-đề này: mình có tự-phụ không khi
nghĩ rằng có thể nhận ra chân-lí, mặc dù lí-trí mình có nhiều giới-hạn. Tôi
cũng tự nhủ hay tới một lúc nào đó nên bỏ qua vấn-đề này đi thì tốt hơn. Nhưng
rồi càng đeo-đuổi nó tôi càng nhận ra rằng nếu chối-từ chân-lí mình sẽ chẳng
giải-quyết được gì hết, trái lại làm như thế là mình đưa đến độc-tài tuỳ-tiện. Nghĩa
là hết thảy những gì có thể còn lại đều là do mình tự quyết-định và có thể
hoán-đổi. Con người sẽ tự hủy-hoại phẩm-giá mình, nếu như nó không thể
nhận-biết được chân-lí, nếu như mọi thứ chỉ còn là sản-phẩm của quyết-định
tuỳ-tiện cá-nhân hay tập-thể.
Từ đó tôi dần hiểu ra điều hệ-trọng này là dù
ý-niệm chân-lí chắc-chắn có những đe-doạ và nguy-hiểm trong nó, nhưng ta vẫn
không thể bỏ qua nó, nó vẫn là một khái- niệm nền-tảng. Nó như là một đòi-hỏi
đối với ta, không cho phép ta kiêu-căng, nhưng trái lại buộc ta phải khiêm-tốn
và vâng lời và có thể qui chúng ta vào một mối chung. Sau cuộc vật-lộn dài với
hoàn-cảnh tinh-thần của thời-đại hôm nay tôi dần nghiệm ra vị-trí ưu-tiên của
chân-lí. Cái ưu-tiên này, như đã nói, không thể nắm-bắt một cách trừu-tượng,
nhưng dĩ-nhiên đòi-hỏi phải có khôn-ngoan bắc cầu.
Anh ngài đã nói về người em như sau: “Cái mạnh thì chú ấy còn phải
chứng-tỏ, nhưng khi tình-thế đòi-hỏi, chú ấy hoàn-thành mọi nhiệm-vụ mình với
hết lương-tâm”. Ngài là con người của lương-tâm?
Tôi
cố-gắng sống theo lương-tâm. Tôi không dám cả-quyết tôi là người của lương-tâm.
Nhưng điều tôi xem ra quan-trọng là không được vì để chiều đám đông hoặc để
được họ công-nhận mà hi-sinh chân-lí. Điều này luôn là một cám-dỗ lớn. Dĩ-nhiên
tiếng gọi lương-tâm cũng có thể đẩy con người tới chỗ nghĩ rằng chỉ có mình
đúng, mình phải chống lại tất-cả. Nhưng với tôi, việc nghe theo tiếng lương-tâm
và sẵn-sàng đặt sự hiểu-biết và điều thiện lên trên thị-hiếu và dư-luận là một
lí-tưởng và bổn-phận phải theo. Tôma Morus*,
hồng-y Newman* và những chứng-nhân lớn
khác - chúng ta có những nhân-vật lớn bị bách-hại dưới thời Quốc-xã chẳng hạn
như Dietrich Bonhoeffer* - đều
là những mẫu-gương lớn của tôi.
Tuy nhiên có lần ngài đã
khẳng-định, con người sống theo lương-tâm đó phải đặt “chân-lí trên cả cái
thiện”. Tôi thấy tư-tưởng này không phải là không nguy-hiểm. Như thế có khác gì
hành-động của một đại án-quan toà thẩm-tra thánh thời xưa, như Dostojewski đã
mô-tả?
Cái thiện
ở đây được hiểu là sự quá dễ-dãi không đúng chỗ, không muốn bị rắc-rối,
phiền-hà. Thái-độ này rất phổ-biến, đặc-biệt trong lãnh-vực chính-trị, người ta
« không muốn mất thiện-cảm ». Để tránh gây rắc-rối hay bị phiền-hà
người ta sẵn-sàng chấp-nhận cái giả-dối, cái bất-lương, bất-chính, bất-thiện. Người
ta sẵn-sàng hi-sinh chân-lí để mua sự thoải-mái, thành-công, danh-vọng, để được
dư-luận đồng lòng. Tôi không chống lại cái thiện một cách chung-chung. Chỉ với
cái thiện thì sự thật mới thành-công, mới chiến-thắng. Cái thiện tôi nói đến
trên kia chỉ là một bức tranh biếm-hoạ khá phổ-biến của cái thiện. Nghĩa là
người ta dùng chiêu-bài cái thiện để chối-bỏ lương-tâm, để mua dư-luận, để
tránh phiền-hà, để được an-thân, để được tiếng.
Người ta mô-tả ngài là người có
“tính kiên-trì của giống dân Bayern xưa” và cũng có “lòng đạo sốt-sắng và
đơn-sơ”. Tất-cả những đức-tính đó xuất-phát từ một chiều-kích sâu thẳm mà ta
chỉ có thể mô-tả bằng từ ba-rốc*. Một
đàng người ta bảo ngài là kẻ ý-thức rất rõ về hố thẳm nhân-sinh, nhưng đàng
khác ngài lại “giữ cho mình cảm-nghiệm về cái đẹp tươi-sáng của tạo-vật được
cứu-rỗi”. Nghe thật mâu-thuẫn?
Ta có thể nói rằng cuộc sống không mâu-thuẫn,
nhưng đầy chuyện ngược đời. Vui khi nhắm mắt trước những nỗi kinh-hoàng của
lịch-sử thì niềm vui đó cuối cùng chỉ là dối-trá hay không-tưởng, chỉ là trốn
chạy. Nhưng ngược lại: ai không còn khả-năng để nhận ra được rằng Tạo-hoá vẫn
còn soi-sáng thế-gian tăm-tối này thì kẻ đó hoặc là người hoàn-toàn hoài-nghi
yếm-thế, là kẻ đã hết sức sống hay là nên đưa tay tiễn-biệt cuộc đời đi là vừa.
Như vậy, thái-độ chấp-nhận hố thẳm lịch-sử và hố thẳm cuộc đời cũng đi đôi với
cái nhìn đức tin về sự hiện-diện của sự thiện, cho dù nhiều khi ta khó thấy sự
liên-quan giữa hai thái-độ đó với nhau. Chính khi ta muốn chống lại sự dữ, ta
lại càng không nên để mình rơi vào chủ-nghĩa đạo-đức u-buồn, nhưng lúc đó hãy
thấy rằng cuộc đời còn có bao nhiêu là cái đẹp, nhờ đó ta mới có sức vượt thắng
những gì phá đổ niềm vui kia.
Ta có thể dùng thần-học như một
trò chơi không, như nhà văn Hermann Hesse*
đã viết trong tác-phẩm “Glasperlenspiel”(Nhạc-cụ thủy-tinh) của ông?
Như vậy không đủ. Tôi muốn nói rằng cũng có
yếu-tố trò chơi trong đó. Nhưng thần-học không nhằm dựng lên một thế-giới
giả-tạo, không phải là một loại suy-nghĩ toán-học như trong “Glasperlenspiel”,
mà nó thực-chất là một cuộc đụng-độ với thực-tại, với mọi khía-cạnh và đòi-hỏi
của nó. Như vậy yếu-tố trò chơi là một phần của thần-học, vì trò chơi cũng đúng
là một thành-tố của cuộc sống con người, nhưng nó không đủ để luận-bàn về
thần-học.
Ngài cũng ưa một tác-phẩm khác của Hesse, cuốn “Steppenwolf” (Sói miền
thảo-nguyên). Tiểu-thuyết này được coi là một trong những tài-liệu quan-trọng
nhất nói về sự bi-quan văn-hoá và chủ-nghĩa hiện-sinh trong giai-đoạn ban đầu. Trong
đó Hesse tả một con người tâm-bệnh quá nhạy-cảm. Những dằn-vặt nội-tâm của
nhân-vật này cũng là một thứ chẩn-đoán cơn bệnh thời-đại. Mô-tả của Hesse có
liên-hệ gì với con người ngài không?
Không. Lối chẩn-đoán và tiên-đoán của cuốn sách
quả là một khám-phá đối với tôi. Một cách nào đó cuốn sách loan-báo tất-cả
những vấn-đề mà chúng ta phài đối diện trong những thập niên 1960’, 1970’. Sách
tả chỉ một nhân-vật, nhưng nhân-vật đó đã tự phân thành nhiều dạng hình để cuối
cùng dẫn đến sự tự huỷ mình. Việc cường-điệu cái Tôi trong đó cũng có nghĩa là
sự huỷ-hoại chính nó. Nghĩa là không có hai hồn trong một quả tim, mà chỉ là
con người đã bị huỷ-diệt. Tôi đọc không phải để qui-chiếu vào mình, nhưng dùng
nó như một chìa khoá để thấu hiểu trước và vạch trần vấn-nạn của con người
cô-đơn và muốn tự thu mình vào cô-đơn trong thời hiện-đại.
Quan-niệm về đa dạng nhân-cách, nghĩa là người ta cho rằng con người
không nên giữ nguyên một bản-sắc, nhưng nên tạo cho mình nhiều nhân-cách, hôm
nay có thể khoác cho mình bộ mặt này, mai có thể mang một bộ mặt khác. Quan-niệm
đó bắt đầu rộ nở thật sự trong thời-đại chúng ta. Mọi chuyện đều có thể.
Cá-nhân không còn bị buộc chặt vào một khuôn nào nữa, cuộc sống vì thế là một
cuộc chơi không cùng với muôn cảnh muôn trò.
Chính cái thay-đổi tuỳ-tiện đó làm cuộc sống trở
nên trống-rỗng. Cuộc đời không chỉ đơn-thuần là một cuộc chơi. Nó quá
quan-trọng, vì trong đó ta phải đối diện với sự chết và đau-khổ. Con người có
thể để mất bản-sắc, nhưng không thể trốn chạy khỏi trách-nhiệm, và quá-khứ cuộc
sống sẽ luôn mang nó về với trách-nhiệm đó.
Và rồi ngài nghiễm-nhiên là một
giáo-sư, ngài đã dạy ở Bonn, Münster, Tübingen và Regensburg. Nội-dung
giảng-dạy của ngài mang chất cải-cách. Hồng-y Joseph Frings ở Köln cuối cùng đã
mời ngài làm cố-vấn riêng. Thế rồi có chuyện lạ xẩy ra. Công-đồng đã được
chuẩn-bị xong mọi chi-tiết từ lâu. Nhưng sau khi hồng-y Frings đọc bài diễn-văn
nẩy lửa do cố-vấn mình viết, thì mọi dự-thảo công-đồng bỗng-nhiên được thảo lại
và các phiên họp dự-trù phải được sắp-xếp lại. Chuyện thật xẩy ra như thế nào?
Như Karl Rahner thường nói, không nên đánh-giá
quá cao vai-trò cá-nhân. Công-đồng là một tập-thể lớn, trong đó cá-nhân có thể
đưa ra những đóng-góp có tính-cách quyết-định, nhưng chúng chỉ có thể thành
hình khi tập-thể muốn điều đó. Có thể những người khác cũng đã nẩy ra những ý
như thế nhưng chưa diễn ra được, tập-thể cũng đang chờ-đợi cái gì đó.
Hoàn-cảnh của Công-đồng lúc đó là : các
nghị-phụ không đến dự chỉ để thông qua những văn bản đã soạn sẵn hoặc, có thể
nói, để làm công-việc chưởng-bạ. Nhưng, thể theo chức-vụ mình, các ngài đến để
cùng nhau gắng sức tìm cho ra từ-ngữ cần nói lên trong thời-điểm đó. Ý-tưởng
chung của các ngài lúc đó là chính các ngài phải ra tay thực-hiện nghĩa-vụ của
mình, không phải để gây đảo-lộn đức tin, nhưng trái lại để phục-vụ đức tin một
cách đúng-đắn. Theo cái nhìn đó thì diễn-từ khai-mạc của hồng-y Frings (cũng
như diễn-từ của hồng-y Liénart/Lille) thực ra chỉ là nói lên điều các nghị-phụ
đang ý-thức.
Ngài đã viết gì trong diễn-từ
đó?
Trước hết nó không phải do tôi viết, đó cũng
chẳng phải là một diễn-văn. Chuyện thế này, Rôma lúc đó đã có sẵn những
danh-sách đề-nghị người vào các bộ và các uỷ-ban. Nhiều vị thấy như vậy chưa
được. Vì thế hồng-y Frings và cả hồng-y Liénart đưa tay góp ý là chúng ta nên
triển-hạn việc bầu, vì cần phải gặp nhau trước để biết ai hợp với lãnh-vực nào
đã. Đó quả là tiếng nổ đầu tiên khi Công-đồng bắt đầu. Nếu nghĩ lại thì đấy là
chuyện chẳng gay-gắt gì cho cam. Việc tìm ra ứng-viên thích-hợp là chuyện
thường-tình. Cái ý bất-chợt của hai hồng-y cũng là ý của toàn hội-nghị.
Chuyện thứ hai xẩy ra khi bản văn về mạc-khải
được đưa ra để thảo-luận – câu chuyện tôi kể có thể gồm nhiều biến-cố trong đó.
Lúc đó hồng-y Frings tuyên-bố - tôi có góp tay trong lời tuyên-bố này - rằng bản văn soạn sẵn không thích-hợp để làm
việc, nó cần phải được các nghị-phụ soạn lại từ đầu. Đúng là một quả bom.
Kết-quả kà các nghị-phụ phát-biểu chính các ngài sẽ viết lại các văn-kiện
từ đầu.
Bài diễn-từ thứ ba, một diễn-từ trở thành nổi
tiếng, là chuyện hồng-y Frings yêu-cầu Thánh-bộ đức tin phải cải-tổ các
phương-pháp làm việc và công-việc này phải được tiến-hành một cách trong-sáng.
Đó là ba phát-biểu đã gây tiếng vang trong dư-luận.
Trái bom đã được chuẩn-bị trước? Và ngài đã
không ngạc-nhiên về kết-quả của bài phát-biểu?
Có lẽ nó đã làm nhiều người ngạc-nhiên, nhưng nó
cũng hợp với mong-đợi chung. Hồng-y Frings trước đó đã tiếp-xúc với một số
cá-nhân và biết được họ cũng mong chuyện đó. Có thể nói, điều hồng-y Frings nói
ra hợp với mong-đợi của nghị-hội.
Ngài được kể là một nhà thần-học tiến-bộ. Đã
là một ngôi sao sáng lúc còn là giáo-sư, các giờ giảng bài của ngài đầy ắp
sinh-viên. Ngài thảo-luận công-khai về sự thẳng-thắn và khoan-dung. Ngài cũng
chống lại cung-cách tân kinh-viện cứng-nhắc của Rôma và đổ cho các vị trách-nhiệm
ở đó làm ngưng-trệ Giáo-hội. Là một nhà thần-học trẻ ngài lúc đó đã phàn-nàn là
Giáo-hội đưa ra “quá nhiều luật-lệ, nhiều cấm-đoán quá cứng-nhắc, nhiều thứ
trong đó đã khiến người ta chẳng còn màng gì tới chuyện mất niềm tin của thế-kỉ
này, thay vì ra công giúp con người trở về với ơn cứu-độ”. Có thể nói rằng,
không có sự dấn-thân của ngài thì những cải-cách của Vatican II đã không có
được.
Người ta nói quá lời về tôi. Nếu lúc đó đã không có nhiều người cùng nghĩ
như thế thì làm sao một cá-nhân, nhất nữa tôi là một nhà thần-học chưa có
tiếng-tăm quốc-tế nào, lại có thể tạo được những biến-chuyển, cho dù nhà
thần-học ấy nói ra nhờ cửa miệng của một hồng-y có tiếng.
Sau khi giáo-chủ Gio-an XXIII triệu-tập Công-đồng
và đưa ra khẩu-hiệu “Aggiornamento” (Cập-nhật với thế-giới hôm nay) thì trong
các nghị-phụ cũng có ý-muốn mạnh-bạo phải tìm cái gì mới, cần phải ra khỏi
sách-vở khuôn-sáo cũ, cần phải mạnh-dạn với một tự-do mới. Không-khí đó lan từ
Nam Mỹ tới Úc châu. Lúc đó Phi châu đã có không-khí đó chưa thì tôi không biết.
Nhưng chắc-chắn là đại đa-số các giám-mục đã mang tâm-trạng đó.
Tôi không còn nhớ từng câu mà ông đã trưng, nhưng
đúng là tôi lúc đó quan-niệm rằng thần-học kinh-viện, như nó vẫn đóng khung như
bấy giờ, đã không còn là dụng-cụ thích-hợp nữa để nói chuyện đức tin với
thế-giới ngày nay. Phải thoát ra khỏi vỏ cứng đó, phải đương-đầu với tình-trạng
ngày nay bằng ngôn-ngữ mới, bằng sự cởi-mở mới. Vì thế trong Giáo-hội cũng phải
có bầu khí tự-do lớn hơn. Có lẽ một phần cũng do nhiệt-huyết tuổi trẻ mà tôi đã
mạnh-dạn với ý-nghĩ đó. Nhưng nói chung trong lòng Giáo-hội lúc bấy giờ,
song-song với không-khí tưng-bừng lạc-quan của thời hậu chiến, đã mang tâm-thức
và niềm hi-vọng là chúng ta có thể bắt đầu một thời-điểm mới cho Ki-tô giáo.
Ngài vẫn thường nhấn mạnh luôn
cố-gắng trung-thành với công-đồng Vatican II
và “chẳng muốn quay về cái quá-khứ hôm qua không thể trở lại” nữa. Nhưng
đàng khác, chỉ ít năm sau Công-đồng, ngài lại kể ra những tiêu-cực và
“tình-trạng phản Công-đồng ». Người ta chờ thay vì một bước nhảy-vọt đi
tới thì lại chứng-kiến một “tiến-trình suy-sụp”. Cái gì đã trệch đường?
Đó là vấn-nạn lớn nhất đã đặt ra cho hết thảy
chúng ta. Ta có thể kê ra các mong-chờ đã không được thực-hiện. Và ngày nay,
những kẻ “cấp-tiến” đang lớn tiếng về một tình-trạng “mùa đông của Giáo-hội”.
Chúng ta đã không chứng-kiến được một thời-điểm mới cho Ki-tô giáo, mà lại thấy
nhiều bất-cập - bên cạnh một số thành-công, dĩ-nhiên –, điều đó chẳng cần phải
dấu-diếm.
Tại sao thế? Tôi thử nêu lên hai điểm: Thứ nhất
là vì chúng ta đã trông-mong nhiều quá. Chúng ta dĩ-nhiên không thể tự tạo ra
Giáo-hội. Chúng ta có thể thi-hành công-việc của mình, nhưng thành bại không
tuỳ ở hành-động của ta. Những biến-chuyển lớn lịch-sử có hướng riêng của chúng,
mà một số biến-chuyển đó chúng ta đã không lường trước được đúng-đắn. Đó là
điểm một, chúng ta đã chờ nhiều quá, và nhiều khi chờ những điều không phải, ta
muốn Giáo-hội phải bành-trướng ra, nhưng thời-điểm của Giáo-hội có thể lại
không phải như thế.
Điểm thứ hai là có một khoảng-cách lớn giữa những gì
các nghị-phụ muốn và những gì chúng ta nắm được do truyền-thông cung-cấp và đã
ảnh-hưởng lên ý-thức chung. Các nghị-phụ đã muốn cập-nhật đức tin - và qua đó
muốn tạo sức bật cho đức tin. Nhưng ta thì lại nghĩ cải-cách của Công-đồng là
nhằm trút đi những gì không cần-thiết để ta bớt đi được một số gánh nặng. Và
như vậy cải-cách rốt cuộc xem ra không phải là sống đức tin cách triệt-để,
nhưng chỉ là một cách làm loãng đức tin.
Càng ngày ta càng thấy những giản-lược, những thích-ứng
và nhượng-bộ không phải là hình-thức đúng-đắn để làm nhẹ, đào sâu và cô-đọng
đức tin. Nghĩa là tựu-trung có hai quan-điểm về cải-cách. Một quan-điểm nhắm
tới việc bỏ bớt quyền-lực và yếu-tố bên ngoài để tập-trung vào đời sống đức
tin. Còn quan-điểm kia có thể nói chỉ nhắm tới việc làm sao bỏ bớt ràng-buộc để
sống cho thoải-mái. Như vậy thì lạc lối là cái chắc.
Rõ-ràng lối cắt-nghĩa trên vẫn tồn tại cho
tới hôm nay. Thật lạ-lùng, phe cải-cách cũng như phe truyền-thống ai cũng bảo
mình làm theo Công-đồng. Từ năm 1975 ngài đã tiên-tri là di-sản của Công-đồng
“chưa được tỏ-hiện. Nó đang chờ thời-điểm của nó và tôi tin chắc rằng thời-điểm
đó sẽ tới”.
Phải, đúng, có hai lối giải-thích Công-đồng. Tuy
nhiên càng ngày càng rõ là các văn-kiện Công-đồng hoàn-toàn đặt nền-móng vào
hướng liên-tục của đức tin. Hiện nay có nhiều người bảo các văn-kiện Công-đồng
mới chỉ là đà khởi đầu, qua đó mình phải chọn lấy một hướng đi mà không cần
phải bám sát vào các văn bản. Nói như vậy thì đâu còn gì là Công-đồng nữa. Dĩ-nhiên
ta không để bị trói vào những từ-ngữ chết, nhưng ý-nghĩa đích-thực của các bản
văn có thể nhận ra nếu được diễn-giải đúng-đắn; đó là di-sản lớn của Công-đồng.
Chính từ đó mà ta phải đón-nhận, giải-thích và am-hiểu. Chính nhờ thế mà ta có
được muôn vàn sáng-kiến đặc-biệt trong tương-quan mới đối với thế-giới, với sự
giải-thích về tự-do tôn-giáo v.v.
Trong đó, dĩ-nhiên, cũng đầy-dẫy những chỉ-dẫn
giúp đào sâu và khuyến-thích đức tin mà ta cần khai-thác. Đây là điều tôi muốn
nhấn mạnh đặc-biệt: Di-sản thật của Công-đồng nằm nơi các văn-kiện của nó. Khi
ta diễn-dịch chúng một cách trung-thực và đúng-đắn, ta sẽ tránh được thái-độ
quá-khích của cả hai phía; và chúng sẽ mở ra cho chúng ta con đường tương-lai
sáng-lạn.
Đánh gía của ngài về sự lạm-dụng Công-đồng có
liên-quan gì đến bước khởi đầu cuộc nổi loạn của sinh-viên ở Âu châu (cuối
những năm 1960’. ND)? Rõ-ràng có một chuyển hướng trong thời-gian ngài dạy học
ở Tübingen. Từ một giáo-sư thần-học cấp-tiến ngài bổng dưng bị sinh-viên coi là
kẻ thù. Họ giật mi-crô không để cho ngài nói. Biến-cố đó đã như một chấn-động
đối với ngài. Về sau ngài tâm-sự: “Trong những năm đó tôi học được đến lúc nào
thì phải chấm dứt thảo-luận, nếu không nó sẽ biến thành láo-khoét, và tới lúc
nào phải ra tay chống-cự để bảo-toàn tự-do”.
Người ta không bao giờ giật mi-crô của tôi. Tôi
cũng đã không bao giờ gặp khó-khăn gì với sinh-viên, chỉ có vấn-đề với những
nhân-viên tạm gọi là thuộc cấp trung của đại-học mà thôi. Các buổi lên lớp rất
trôi-chảy và việc tiếp-xúc với sinh-viên không có vấn-đề gì. Nhưng đúng, tôi
thấy đây-đó len-lỏi vào một tinh-thần mới, người ta sử-dụng các phương-tiện
ki-tô giáo một cách ý-hệ quá-khích và tôi thấy những giả-dối ở đây. Đây là
thời-gian tôi thấy và chứng-kiến hai quan-điểm khác nhau về cải-cách. Tôi thấy
có sự lạm-dụng về Giáo-hội và đức tin, được người ta dùng như những phương-tiện
quyền-lực, nhưng để thoả-mãn những mục-tiêu riêng với những tư-tưởng và ý-niệm
khác hẳn. Chẳng còn ý-hướng đồng-nhất phục-vụ cho đức tin nào nữa. Thay vì
phục-vụ đức tin, người ta biến nó thành phương-tiện bởi những ý-hệ độc-đoán,
tàn-bạo, man-rợ. Từ đó tôi hiểu rằng muốn thực-thi Công-đồng thì phải chống lại
khuynh-hướng này. Như đã nói, tôi không có vấn-đề nào với sinh-viên. Nhưng tôi
đã thấy sự độc-đoán, kể cả dưới hình-thức tàn-bạo, đã thực-sự được mang ra
sử-dụng như thế nào.
Để cụ-thể-hoá những chuyện xẩy ra lúc đó, tôi kể
về một cuốn sách của Beyerhaus vừa in. Beyerhaus là đồng-nghiệp tin-lành gắn-bó
nhiều năm với tôi. “Thánh-giá Giê-su, phải chăng đó là một hình-thức vinh-danh bạo
dâm và khổ-dâm?”. Và “Tân-ước là một tài-liệu về sự bất-nhân, một cuộc lừa-đảo
tập-thể lớn !”. Hai khẩu-hiệu đó không xuất-phát từ truyền-đơn của đám
bôn-xê-vích vô-thần, nhưng từ truyền-đơn của đại-diện sinh-viên phân-khoa
“Thần-học tin-lành” của đại-học Tübingen trong mùa hè 1969 và được phân-phối
trong sinh-viên. Tiêu-đề của truyền-đơn là: “Chúa Giê-su – Ông du-kích rởm”.
Người ta dựa vào phê-bình tôn-giáo mác-xít để qui Giáo-hội vào tội đồng-loã với
tư-bản để bóc-lột dân nghèo, để gán cho khoa thần-học truyền-thống vai-trò
củng-cố tư-bản. Giáo-sư dạy môn Kinh thánh Tân-ước ở Tübingen cũng phụ-hoạ vào
tuồng kịch này. Trong một cuộc họp toàn sinh-viên giáo-sư Ulrich Wickert và tôi
đã làm mọi cách yêu-cầu ban đại-diện phân-khoa thần-học tin-lành tuyên-bố đứng
ngoài những lời-lẽ phạm-thượng đó, nhưng vô-ích. Người ta khẳng-khái trả lời
truyền-đơn chỉ nhắm vào những hậu-quả chính-trị mập-mờ, cần phải nêu chúng lên
để tìm cho ra sự thật. Giáo-sư Wickert tha-thiết kêu-gọi hãy vứt câu “Giê-su đáng
nguyền-rủa!” ra khỏi tập-thể này, lời kêu-gọi đã tan vào khoảng không. (P.
Beyerhaus, Der kirchlich-theologische Dienst des Albrecht-Bengel-Hauses, in
trong: Diakrisis 17, số tháng ba 1969, trang 9 tt.). Bên đại-diện phân-ban
thần-học công giáo đã không xẩy ra chuyện tới mức như thế, nhưng luồng tư-tưởng
căn-bản tương-tự cũng đã ập vào. Lúc đó tôi chợt hiểu ra vấn-đề: ai muốn
tiếp-tục là cấp-tiến ở đây, kẻ đó phải bán nhân-cách mình.
Và giáo-trình „Nhập-môn Ki-tô giáo“ nổi tiếng của
ngài đã bắt đầu không hẳn một cách tình-cờ với câu chuyện chú Hans hạnh-phúc?*
Phải, đúng thế. Thời đó, sau khi trải qua những năm sôi-động, tôi chợt
nhớ tới câu chuyện này. Cả Ki-tô giáo lúc khởi đầu cũng bị coi là một gánh
nặng, y như thỏi vàng trong câu chuyện. Và càng ngày tôi càng rõ ra là nếu cứ
tiếp-tục diễn-giải theo nhu-cầu giai-đoạn (như trong câu chuyện chú Hans) thì
tình-hình càng thêm tệ hơn. Câu chuyện thần-thoại diễn-tả đúng tình-trạng thời
đó. Song cần nhớ là tôi đã viết giáo-trình này vào năm 1967, nghĩa là trước khi
những lộn-xộn xẩy ra.
Không, hoàn-toàn không phải Hans Küng (linh-mục, nhà thần-học đương-thời
người Thuỵ-sĩ). Tôi cực-lực minh-xác điều đó. Tôi hoàn-toàn không có ý tấn-công
Hans Küng.
Ngài có thể đã là một nhà phê-bình lớn trong truyền-thống phản-kháng
Giáo-hội ở Đức. Cái gì đã cản bước ngài? Hans Küng đoán là Phao-lô VI đã đem những chức-vụ lãnh-đạo ra để cầm
chân một số đầu-óc chỉ-trích.
Tôi hoàn-toàn không biết chuyện đó.
Phao-lô VI đã không nói gì với tôi về
chuyện đó. Tôi chỉ gặp ngài vào năm 1977, nghĩa là sau lễ phong giám-mục của
tôi. Chuyện tôi được phong tổng giám-mục giáo-phận München năm 1977 là cả một
ngạc-nhiên và là một chấn- động cho tôi,
hoàn-toàn chẳng phải là chuyện đền-đáp cho những nhượng-bộ xu-thời nào cả. Dù ở
trong hoàn-cảnh nào, dù tư-tưởng của tôi có phát-triển và thay-đổi theo
tuổi-tác, sức thúc-ép căn-bản đối với tôi, cả lúc còn làm việc cho Công-đồng,
vẫn là làm sao tháo-gỡ hạt nhân đức tin khỏi những lớp vỏ xơ-cứng để đem lại
cho nó sức mạnh và sự linh-động. Sức thúc-ép này rất kiên-định suốt đời tôi. Nó
giữ tôi không sa vào hướng chống lại Giáo-hội. Dĩ-nhiên trách-vụ giám-mục có
một số sắc-thái khác với vai-trò một giáo-sư. Nhưng điều quan-trọng là tôi
không bao giờ đi trệch khỏi sự kiên định đó, nó đã ghi dấu trên cuộc đời tôi
(kiên-định đó tôi đã thấm-nhuần từ thủa thiếu-thời) và tôi luôn trung-thành với
hướng đi chính này của đời mình.
Chính ngài vẫn luôn công-khai tuyên-bố đặt mhiệm-vụ lên trên con người
cá-nhân và không bao giờ làm ngược lại. Rõ-ràng thái-độ đó phù-hợp với ý-niệm
của ngài về nhiệm-vụ, vâng-lời và phục-vụ. Chính những ý-niệm này đã bị những
đợt biến-chuyển văn-hoá làm giảm giá.
Nhưng trước sau gì rồi con người
cũng phải trở lại với những ý-niệm đó. Vì nếu không có sự sẵn-sàng qui-phục
mình vào một toàn-thể với giá-trị ta đã nhận ra và chính mình không chịu
phục-vụ thì làm sao có được tự-do chung. Tự-do con người luôn là tự-do được chia-sẻ. Nó phải được cùng nhau
gánh-vác và vì thế nó đòi-hỏi phục-vụ. Các đức-tính đó, nếu ta muốn gọi chúng
là đức-tính, hẳn nhiên có thể bị lạm-dụng bằng cách xếp chúng vào một hệ-thống
sai-lạc. Thuần hình-thức, chúng có thể không tốt, mà chỉ tốt khi gắn liền với
mục-đích nó phục-vụ. Trong trường-hợp của tôi, mục-đích đó là đức tin, là Chúa,
là đức Ki-tô và vì vậy tôi biết chắc mình đã đặt chúng đúng chỗ.
Vào một lúc
nào đó ngài bắt đầu chống lại các nhà thần-học và càng ngày càng to tiếng đối
với các chỉ-trích trong nội-bộ thần-học. Một trong những câu chủ-chốt của ngài:
„Đó là Giáo-hội của Chúa chứ không phải là chỗ thử-nghiệm cho các nhà
thần-học“.
Tôi không muốn chống lại các nhà thần-học, vì như vậy là tôi chống chính
mình. Thần-học là một dụng-cụ rất quan-trọng và cao-cả, và nhà thần-học cũng
làm một công-việc trọng-đại. Cả phê-bình và tự phê-bình là một phần của
thần-học. Tôi chỉ chống lại cái thần-học mất khuôn-thước và vì vậy không còn
phục-vụ đúng-đắn được nữa. Vả lại, chúng ta là những người phục-vụ chứ đâu phải
là kẻ có quyền bảo Giáo-hội phải thế này thế nọ. Đối với tôi đó là điểm
quyết-định. Còn câu „đó là Giáo-hội của Chúa chứ không phải của chúng ta“ là
tôi muốn nói rằng không phải chúng ta là người bắt Giáo-hội phải ra thế này thế
kia, nhưng mình là những người tin rằng chính Chúa đã lập nên Giáo-hội và vì
thế phải cố-gắng để nhìn ra ý Ngài về Giáo-hội và sẵn-sàng phục-vụ cho Giáo-hội
đó.
* Heidegger, Jaspers, Kant là những triết-gia
hiện-đại người Đức. Steinbüchel là nhà thần-học.
* Habilitation: luận-án để có thể được nhận
văn-bằng và tước-hiệu giáo-sư.
*Bonaventura (1221-1274): nhà thần-học kinh-viện
lớn nhất bên cạnh Tôma Aquin, người Ý, dòng Phan-sinh, chịu ảnh-hưởng tư-tưởng
của An-tịnh.
* Joachim Fiore (1130-1202): linh-mục viện-phụ
dòng Xitô, người Ý, về sau bị giáo-triều tuyệt-thông; Joachim chia lịch-sử
Giáo-hội ra làm ba thời : thời Chúa Cha, thời Chúa Con và thời Chúa
Thánh-linh.
* Hegel (1770-1831): triết-gia người Đức.
* de Lubac (1896-1991): nhà thần-học người Pháp
dòng Tên, cố-vấn công-đồng Vatican II.
* de Congar (1904-1995): linh-mục dòng Đa-minh,
nhà thần học người Pháp, chuyên-viên công-đồng Vatican II, năm 1994 được tước
hồng-y.
* K. Barth (1886-1968): triết-gia Tin-lành người
Thuỵ-sĩ.
* K. Rahner (1904-1984): linh-mục người Đức, một
trong những nhà thần-học nổi nhất của thế-kỉ 20.
* Thomas Morus (1478? –1535): nhà
chính-trị và nhân-bản người Anh, đã bị vua Henry VIII xử tử vì không chịu
công-nhận và tuân-phục Vua này như là vị giáo-chủ của Anh giáo.
* Newman (1801-1890): mục-sư Anh giáo
trở lại Công giáo, nhà thần-học, luận-điểm về tự-do lương-tâm của ngài đã
ảnh-hưởng trên công-đồng Vatican II.
* Bonhöffer (1906-1945): mục-sư
tin-lành Đức, chống lại chế-độ Quốc-xã và đã bị chế-độ này hành hình.
* Barock : một lối nghệ-thuật đặc-thù trong kiến-trúc, hội-hoạ và
âm-nhạc ở Âu châu, với cách trang-trí
với nhiều hoa-văn, ảnh-tượng tươi-mát, và âm-điệu sống-động, đầu thế-kỉ
17 tới giữa thế-kỉ 18.
* H. Hesse (1877-1962): nhà văn người Đức, giải
Nobel văn-chương năm 1946.
* Câu chuyện thần-thoại của Đức, tả anh làm công Hans được chủ trả lương
bằng một thỏi vàng lớn. Trên đường về nhà, để khỏi phải khệ-nệ mang thỏi vàng
nặng, Hans đã lần-lượt đổi nó để lấy nhiều thứ nhằm thoả-mãn cho nhu-cầu trước
mắt của mình và cuối cùng vui-vẻ về tới nhà với tay không.