Tương-lai
Giáo-hội –
Giáo-hội
tương-lai
Thưa
Hồng-y, trong thế-kỷ XX này người ta còn có thể chờ-đợi từ triều giáo-chủ hiện
thời những hướng-dẫn mới có tính-cách mở đường và những thay-đổi mới cho
tương-lai Giáo-hội không? Chẳng hạn như những cải-cách nội-bộ của Giáo-hội. Nếu
có, ngài nghĩ tới những bước đi nào?
Tôi
tin rằng đương-kim Giáo-chủ sẽ còn ra nhiều thông-điệp. Tôi nghĩ ngài đang
trăn-trở rất nhiều về chuyện hợp-nhất Ki-tô giáo và đối-thoại liên tôn. Rồi còn
các vấn-đề đạo-đức xã-hội và chính-trị. Và trên hết, lãnh-vực then-chốt chính
là Tin-mừng; phải liên-tục rao-truyền Tin-mừng, nhưng Tin mừng dễ bị lu-mờ, nếu
người ta chỉ chạy theo thị-hiếu quần-chúng.
Hiện
nay đang chuẩn-bị họp thượng hội-đồng giám-mục toàn Mỹ châu và thượng hội-đồng
giám-mục Á châu. Tôi tin đây là hai biến-cố then-chốt. Nếu Giáo-chủ cố-ý
triệu-tập thượng hội-đồng giám-mục toàn Mỹ châu, mặc dù giữa Bắc Mĩ và Mĩ châu
la-tinh có những dị-biệt, tức ngài muốn đại lục này, từ những dị-biệt, tìm ra
cách bổ-túc cho nhau., tìm ra sức mạnh chung để rao-truyền Tin mừng. Cuộc họp
sẽ bàn về những nền văn-hoá châu Mỹ la-tinh, nạn đói nghèo, vai-trò của các nền
văn-hoá cổ và căn-tính văn-hoá riêng-biệt của mỗi miền, cũng như làm thế nào để
văn-hóa Nhật-nhĩ-man Bắc Mỹ hoà-hợp được với công giáo tính và cả hai có thể
đồng-hành. Ở đây tôi tin chúng ta đang đứng trước một biến-cố quan-trọng.
Trong
cuộc nghị-hội các giám-mục Á châu, vấn-đề phải thảo-luận là làm sao Ki-tô giáo
có thể đi vào bối-cảnh các tôn-giáo Á châu; làm sao có thể hoà-hợp nối-kết sức
mạnh lớn-lao của các tôn-giáo Á châu với sức mạnh Ki-tô giáo để đáp-ứng cho
những nỗ-lực đặt ra ở cuối thiên niên-kỷ này. Tôi nghĩ thời-gian còn lại của
triều Gio-an Phao-lô II được dành cho
hai nghị-hội này.
Thêm
vào đó chúng ta còn có chương-trình chuẩn-bị cho năm 2000 với chương-trình ba
năm mà Giáo-chủ đã công-bố: Một năm tập-trung vào đức Kitô, hình-ảnh Ngài phải
được đặt lên hàng đầu; một năm thần-học, trình-bầy tổng-quát đức tin vào Thiên
Chúa và một năm dành cho Thánh-Linh. Tất-cả đi song-song với việc đào sâu về
phép rửa và bí-tích thánh-thể. Tất-cả đổ vào vào năm 2000 với những cuộc gặp-gỡ
các cộng-đồng Ki-tô giáo cũng như Do-thái giáo và Hồi giáo, tức là những
tôn-giáo độc thần. Tôi nghĩ chương-trình này – hai nghị-hội cho hai đại-lục và
ba năm chuẩn-bị cho năm 2000, mà trung-tâm điểm là Thiên Chúa Ba Ngôi và cuộc
gặp-gỡ những người tin Thiên Chúa - sẽ để lại dấu-ấn có tầm ảnh-hưởng sâu-rộng
trên thế-giới.
Trong
một bài viết năm 1970 về « Đức tin
và tương-lai » ngài đã nói tới một Giáo-hội với những hình-thức chức-vụ
mới. Chẳng hạn sẽ truyền chức linh-mục cho những ki-tô-hữu có tư-cách bảo-đảm
và đang có nghề trong tay.
Lúc
đó tôi tiên-đoán, nếu được phép nói như thế, Giáo-hội sẽ thu nhỏ lại, có ngày
sẽ thành Giáo-hội của thiểu-số, sẽ không hiện-diện trong những không-gian và
những tổ-chức lớn như ngày nay, nhưng phải tổ-chức trong khuôn-khổ khiêm-tốn
hơn. Lúc đó tôi nghĩ rằng, ngoài những linh-mục được truyền chức từ tuổi trẻ,
những giáo-dân có tư-cách bảo-đảm và đang hành nghề có thể cũng được tiến-cử;
nhưng đây là những hình-thức chức-vụ khác nhau. Tôi nghĩ cái đúng ở đây là
Giáo-hội phải từ-từ thích-nghi với trường-hợp trở thành Giáo-hội của thiểu-số,
với một vị-trí khác trong xã-hội. Cái cũng đúng ở đây là lượng người làm việc
tự-nguyện sẽ tăng lên. Còn việc tìm vir probatus *
("người đã đựợc thử thách") diễn tiến ra thế nào lại là chuyện khác. Tôi muốn nói, trong
thời-kì đầu Giáo-hội đã sống nhờ vir probatus, vì thời đó chưa có chủng-viện
đào-tạo linh-mục, Giáo-hội thời đó truyển chức linh-mục cho những người đang
hành nghề khác. Nhưng kể từ thế-kỉ thứ hai, thứ ba trở đi họ phải từ-bỏ đời
sống lứa đôi khi được truyền chức. Hiện nay ta chưa biết vấn-đề sẽ được
giải-quyết thế nào trong tương-lai. Nhưng chắc-chắn chức linh-mục vẫn sẽ là một
tác-vụ không thể thay-thế được và sẽ còn gắn chặt với đời sống độc-thân.
Thay-đổi
thế-hệ trong Giáo-hội có đem lại một văn-hóa mới trong Giáo-hội không? Trong
Giáo-hội sẽ nảy sinh những hình-thức sống đạo mới không ?
Tôi
hy-vọng có. Mỗi bước ngoặt văn-hóa lớn đều đem lại những hình-thức mới trong
đời sống Giáo-hội cũng như những hình-thức mới trong văn-hóa đức tin. Hãy lấy
thí-dụ trường-hợp nghệ-thuật rô-ma-ních, gô-tích, thời phục-hưng, ba-rốc và
rốc-cô-cô, nền văn-hoá giáo-hội thế-kỉ 19, những hình-thức sống đạo mới
phát-sinh với những phong-trào tuổi trẻ. Có thể gọi những gì xẩy ra sau
công-đồng Vatican II hầu như là một cuộc cách-mạng văn-hóa, nếu như ta nhìn vào
những màn thái-quá như thu-dọn trống-trơn các nơi phụng-tự và sự biến-đổi bộ
mặt của hàng giáo-sĩ triều và dòng. Ngày nay nhiều người hối-tiếc về những hành
động hấp-tấp đó. Nhưng trong một Giáo-hội sinh-động chắc-chắn sẽ nảy sinh những
hình-thái diễn-tả mới. Những hình-thái mới này đang trên đà phát-triển mạnh.
Việc cần là luôn phải cố-gắng tách cỏ lùng khỏi lúa, theo lời khuyên của
tông-đồ Phaolô: "Đừng dập tắt tinh-thần ….Hãy xem-xét tất-cả. Hãy giữ lại
cái tốt." (I. Thessa. 5,19,21).
Ngài
có tin rằng chức-vụ giáo-chủ sẽ tiếp-tục tồn-tại như hiện nay không?
Nó
sẽ tồn-tại trong cái cốt-lõi. Nghĩa là cần có người kế vị thánh Phêrô và gánh
trách-nhiệm tối-cao, được tập-thể nâng-đỡ. Ki-tô giáo là một tôn-giáo có
tổ-chức với những nhân-sự trách-nhiệm. Nó không biến đi trong những cái vô
danh, mà hiện thân qua linh-mục chính xứ, giám-mục, và trong trường-hợp
Giáo-hội, nhìn như một đơn-vị thống-nhất, cũng hiện thân qua một người.
Trách-nhiệm giáo-huấn - như được trình-bầy trong công-đồng Vatican I và II - sẽ
tồn-tại để bảo-đảm sự thống-nhất Giáo-hội, thống-nhất đức tin và thống-nhất
luân-lí. Nhưng hình-thức thực-thi có thể thay-đổi và chắc-chắn sẽ đổi-thay một
khi các cộng-đồng phân-li về hợp-nhất với giáo-chủ. Ngoài ra, với những chuyến
viếng-thăm mục-vụ khắp thế-giới, đương-kim Giáo-chủ có lối thực-thi trách-vụ
giáo-chủ khác hẳn Piô XII. Tôi không thể và không muốn tưởng-tượng những
thay-đổi cụ-thể sẽ xẩy ra. Hiện nay chúng ta chưa thể tiên-đoán được về tương-lai
của ghế giáo-chủ.
Có
thể có những khám-phá thần-học mới làm thay-đổi Giáo-hội và khiến đức tin dễ
hiểu hơn, hay ngược lại khiến đức tin thêm tăm-tối chăng?
Tất-cả
đều có thể. Trong thế-kỷ này chúng ta chứng-kiến những khám-phá thần-học mới do
nhiều tên-tuổi như Lubac, Congar, Daniélou, Rahner, Balthasar, v. v…Họ mở ra
những viễn-ảnh mới trong thần-học; nếu thiếu chúng thì ta đã không có công-đồng
Vatican II. Vì đức tin đi vào những chiều-kích sâu-thẳm, nên nó luôn có những
cái nhìn mới. Mặt khác, những biến-cố bất ngờ cũng có thể đột-ngột ập-tới, như
ta đã từng chứng-kiến trong thế-kỷ này với sự xuất-hiện của phương-pháp
phê-bình lịch-sử, những khoa-học nhân-văn đi vào thần-học, v v … Chúng ta luôn
phải sẵn-sàng đương-đầu với những biến-cố như thế. Đức tin có thể trở nên khó
khăn hơn, nhưng cũng có thể hiểu được dễ-dàng và trực-tiếp hơn.
Câu
hỏi sau đây có thể là một vấn-đề mới, càng ngày càng nóng-bỏng : thần-học
giải-thích ra sao về sự-kiện Thiên Chúa chỉ nhập-thể trong con người đức
Giê-su, nhưng không dưới hình-thức những vị thần ở Á châu chẳng hạn? Tại sao có
chuyện một người duy-nhất trong lịch-sử nhân loại có thể là chân-lí tuyệt-đối?
Trước
hết phải nói ngay, cho tới nay không có tôn-giáo nào tin một con người có thể
mang thiên-tính, như Ki-tô giáo tin vào thiên-tính của đức Giê-su ở Na-da-rét.
Thần Kris-na của Ấn-độ giáo là dạng-hình giống đức Giê-su hơn cả. Thần này được
tôn-sùng như « Avatara » (sự giáng-thế của vị thần) của Vis-nu, đi
vào lịch-sử các tôn-giáo Ấn-độ dưới nhiều hình-thể khác nhau. Nhưng đây là một
quan-niệm rất khác với đức tin Ki-tô giáo về sự hợp-nhất dứt-khoát giữa Thiên
Chúa độc-nhất với một con người có thực trong lịch-sử, qua con người đó Thiên
Chúa kéo tất-cả nhân loại đến với Ngài. Đức tin Ki-tô giáo lồng trong đức tin
Do-thái giáo, cùng tin một Thiên Chúa độc-nhất tạo-dựng vũ-trụ, đấng cùng con
người làm nên lịch-sử, tự ràng-buộc vào lịch-sử này và tác-động trong lịch-sử
này một cách vĩnh-viễn cho mọi người. Bởi thế không có vấn-đề lựa-chọn giữa
Ki-tô và thần Kris-na hay một hình-thức nào khác. Chỉ có sự lựa-chọn giữa một
bên là Thiên-chúa, đấng đã tỏ mình ra một cách không thể lẫn-lộn, như là Thiên
Chúa độc-nhất cho mọi người và nối-kết đến cả thân mình với con người - và bên
kia là một cách hiểu khác về tôn-giáo; theo đó, thần-tính thể-hiện dưới những
dạng-hình khác nhau, nhưng không cái nào là dứt-khoát, tức là con người hướng
về một cái không bao giờ có tên. Đó là hai cách hiểu khác nhau về chân-lí,
Thiên-chúa, vũ-trụ và con người. Tuy nhiên qua những hình-ảnh tôn-giáo của các
tôn-giáo lớn khác trên thế-giới, ki-tô-hữu có thể nhận ra những dò-dẫm tìm về
Ki-tô giáo. Kitô-hữu cũng có thể tìm thấy đàng sau tất-cả những sự-kiện đó bàn
tay bí-mật của Thiên-chúa, đấng dùng các tôn-giáo khác để tác-động lên con
người và dẫn con người vào chính lộ. Nhưng Ngài luôn vẫn là vị Chúa không thay
đổi, Chúa của đức Giê-su Kitô.
Một
phần những câu hỏi và những nguy-cơ cho Giáo-hội đã lộ rõ. Chúng ta đã nói tới
lời tố-cáo Giáo-hội duy-căn, nghĩa là chống lại xã-hội dân-chủ, ngăn-cản tự-do
tư-tưởng, tự-do tôn-giáo cũng như nhăm-nhe thành-lập một quốc-gia thần-quyền.
Nội-dung nền-tảng của đức tin dựa trên Kinh thánh càng ngày càng cạn-kiệt.
Người ta hồ-nghi về cái chết trên thập-giá, biến-cố lên trời, thông-điệp ơn
cứu-độ. Người ta cho rằng các môn-đệ xưa chỉ có những thị-kiến, chính bài giảng
trên núi cũng chẳng có thực. Càng ngày càng có nhiều người đòi Giáo-hội phải tự
giải-thể để nhường chỗ cho một nền đạo-giáo hậu Ki-tô đang trên đà tăng-trưởng.
Chống
lại những tố-cáo trên là đức tin vững-mạnh của hàng triệu tín-hữu Kitô, những
người ngày nay còn tìm thấy nơi đức tin của Giáo-hội con đường giúp họ thực-sự
thành người. Những chế-độ độc-tài hùng-mạnh của thế-kỷ này đã nhiều lần lớn
tiếng khai tử đức tin Ki-tô giáo. Họ cho rằng chỉ những kẻ không chịu sửa sai,
không thể cải-thiện, mới lì lại ở đó. Nhưng sau khi các nhà độc-tài khét tiếng
bị hạ-bệ, chúng ta thấy những tín-hữu từng bị họ gạt ra ngoài lề xã-hội kia lại
là những chứng nhân đích-thực cho tình người và chính họ mở đường cho công cuộc
tái-thiết. Đức tin Ki-tô giáo có tương-lai tốt-đẹp hơn những ý-thức hệ từng đòi
huỷ-bỏ nó.
Tái khám-phá điểm trung-dung –
Những viễn-ảnh của Giáo-hội mới
Người ta thường
chỉ-trích giáo-chủ muốn mở hướng đi thụt lùi, nhắm mắt trước những kết-quả của
công-đồng Vatican II. Nay giáo-chủ Gio-an Phao-lô II lại nói: "Cách chuẩn-bị tốt nhất cho
năm giao-thời 2000" là "hết sức trung-thành áp-dụng giáo-huấn của
công-đồng Vatican II vào đời sống từng
người và đời sống của cả Giáo-hội".
Ngài luôn nổi-bật là
giáo-chủ của công-đồng Vatican II; công-đồng là một kinh-nghiệm then-chốt đối
với ngài. Ngài đến dự công-đồng khi còn là một giám-mục trẻ. Tôi còn nhớ ngài
chỉ được phong tổng giám-mục giữa thời công-đồng. Sau đó ngài đóng-góp rất
tích-cực vào việc soạn-thảo hiến-chế «Vui-mừng và hy-vọng » bàn về mối
liên-hệ giữa Giáo-hội và thế-giới. Ngài thu-tập nhiều kinh-nghiệm trong khi
cộng-tác soạn-thảo văn-kiện này; khả-năng suy-tư triết-học của ngài đã giúp
ngài rất nhiều trong công-việc đó. Như thế tài-liệu này, một tài-liệu linh-động
nhất của công-đồng và hướng về tương-lai nhiều nhất, đã trở-thành một thứ
châm-ngôn cho cuộc đời ngài. Ngài thâm-tín về sự quan-phòng của Chúa nơi
công-đồng Vatican II và tin rằng qua công-đồng Chúa Thánh-linh đã trao cho
Giáo-hội những sứ-mạng mới - từ những thay-đổi trong phụng-vụ đến
phong-trào đại-kết, tự-do tôn-giáo, đối-thoại tôn-giáo, đối-thoại với Do-thái
và gặp-gỡ thế-giới hiện-đại. Tôi khó tưởng-tượng ra ai khác được công-đồng
đánh-động và ghi dấu sâu-đậm hơn ngài, đến độ lấy công-đồng làm kim chỉ nam cho
chính mình. Bởi thế gán cho ngài ý-định đi ngược về thời trước Công-đồng là
chuyện hết sức phi lí. Giáo-chủ xác-tín về tầm quan-trọng đặc-biệt của ba năm
công-đồng mà ngài tham-dự và góp phần xây-dựng. Xác-tín của ngài vượt xa mức-độ
cần-thiết đối với mỗi tín-hữu công giáo.
Dĩ-nhiên ngài cũng cảm thấy ngày càng rõ hơn, có nhiều lối giải-thích công-đồng
khác nhau, thậm chí đối-nghịch nhau. Vì thế khi nói "trung-thành với
công-đồng", dĩ nhiên ngài muốn nói tới sự trung thành năng-động. Chính
những gì công-đồng thực-sự muốn nói mới là tấm biển chỉ đường cho ta đi, chứ
không phải là cái ta muốn công-đồng nói.
Có cần kiểu-cách mới,
ngôn-ngữ mới để truyền-đạt đức tin không?
Tôi nghĩ cần. Nỗi mệt-mỏi
của ki-tô-hữu, ít ra tại Âu châu, là dấu-hiệu cho thấy cần phải có cách
diễn-đạt mới. Tôi đọc tiểu-sử một linh-mục Chính-thống, thấy ông nói: Tôi
cố-gắng rất nhiều, nhưng thiên-hạ không muốn nghe, họ ngủ gà ngủ gật hoặc chẳng
thèm tới nghe nữa. Chắc là tại cách diễn-tả không khéo. Đó là một trường-hợp
điển-hình mà nhiều vị khác cũng đã từng trải qua. Điều quan-trọng là chính
người giảng-thuyết phải có mối liên-kết nội-tâm với Kinh thánh với đức Kitô,
nguồn-mạch lời hằng-sống, và phải thực sống lời đó trong tư-thế một con người
của thời-đại và trong thời-đại, không trốn chạy thời-đại. Khi nói với xác-tín
thâm-sâu thực-sự, thì ngôn-ngữ sẽ tự-nhiên mang âm-điệu mới.
Những luồng gió mới
đặc-biệt từ đệ tam thế-giới có thể đối đầu với " óc địa-phương Âu châu"
– nói theo ngôn-ngữ ngài đã từng sử-dụng- đã có chưa? Giáo-hội trong tương-lai
sẽ có dáng-vóc Phi châu hơn, hay Á châu hơn, hoặc Mỹ châu hơn, dù sao cũng ít
Âu châu hơn chăng?
Nhất-định là thế. Bởi
chỉ xét về lượng cũng thấy trọng-tâm ngày càng chuyển từ Âu châu sang các
đại-lục khác. Những đại-lục này ngày càng ý-thức sâu-xa hơn về nền văn-hóa của
họ. Ta thấy ở đây hơi giống trường hợp Hồi giáo mà ta đã nói đến trên kia. Qua
cuộc khủng-hoảng văn-hóa Âu Mỹ, Hồi giáo có được niềm hãnh-diện mới. Cũng thế,
cuộc khủng-hoảng này đã khiến những nền văn-hóa lớn khác tái ý-thức về giá-trị
văn-hóa và tự-hào về dĩ-vãng văn-hóa của họ : Chúng tôi đây cũng có những
đóng-góp mới-mẻ và phong-phú! Người Phi châu ý-thức sâu-xa rằng, một đàng họ
còn đang phải tiến lên, còn phải học-hỏi, đàng khác họ đóng-góp cho thế-giới
nét tươi-mát rất đáng thán-phục của đức tin toát ra từ con người họ. Họ biết
rằng trong di-sản văn-hóa của họ tiềm-ẩn những kho báu đang chờ được khai-thác.
Ý-thức này cũng rất mạnh ở Nam Mỹ và Á châu. Bởi thế có thể khẳng-định, bộ mặt
tương-lai của Giáo-hội sẽ sống-động dưới nhiều hình-thức văn-hóa và nhờ nhiều
đóng-góp của các đại-lục khác.
Đã từ lâu chẳng còn ai
ngạc-nhiên nữa, nếu như trong tương-lai một vị giám-mục Phi châu hay Mỹ châu
la-tinh được bầu vào ghế giáo-chủ.
Đúng thế. Bất cứ ai, ít
ra trong hồng-y đoàn, cũng nghĩ rằng chúng tôi có thể bầu một vị người Phi châu
hay một vị nào đó ngoài Âu châu. Nhưng thế-giới Ki-tô giáo Âu châu tiếp-nhận
sự-kiện đó ra sao, lại là một vấn-đề khác. Vì dù có những tuyên-bố về bình
đẳng chủng tộc và những lời lên án
kỳ-thị chủng-tộc, người Âu vẫn còn một ý-thức nào đó về mình, và ý-thức này sẽ
bùng dậy trong những giờ phút nghiêm-trọng. Tuy nhiên, tôi nghĩ các hồng-y chỉ
đơn-giản tự hỏi ai là người thích-hợp nhất, chứ không xét tới mầu da hay
nguồn-gốc.
Có thể xẩy ra
trường-hợp này không : Vì đường-lối suy-tư của Giáo-hội đã thay-đổi, nên
một số tín-điều và ngay cả các bí-tích cũng sẽ lấy lại hình-thức cũ, hoặc
biến-đổi hay được cải-tổ?
Những gì đã thực-sự trở
thành nội-dung đức tin, tức "tín-điều", không thể sau đó lại trở
thành sai. Cũng như trong lãnh-lực khoa-học, cái gì đã chứng-minh là đúng, sẽ
có giá-trị mãi, nhưng có thể được đặt vào khung-cảnh khác và có vẻ mang một
ý-nghĩa khác. Ở đây cũng hệt như thế. Cái đúng, sẽ đúng mãi, nhưng có thể được
lồng vào viễn-cảnh khác làm nó hiện ra dưới ánh sáng khác. Chắc-chắn các
bí-tích sẽ tồn-tại ; con số 7 bí-tích phù-hợp với những chặng đường của
đời người; nhưng trong những thời-đại khác nhau người ta sống bí-tích cách khác
nhau. Trước đây 100 năm tín-hữu, kể cả những người sùng đạo, chỉ xưng tội và
rước lễ khoảng ba hay bốn lần mỗi năm. Ngày nay rước lễ hằng ngày là chuyện
bình-thường. Bí-tích hòa-giải đã trải qua nhiều thay-đổi trong lịch-sử. Thần-học
bí-tích của công-đồng Trentô (1545-1563) cũng như giáo-lí về ân-sủng
(tranh-chấp biện-bạch với phía cải-cách!) đã không trở nên sai-lầm và sẽ không
trở nên sai-lầm, nhưng nó sẽ tiếp-tục phát-triển. Xét như thế, ta thấy suốt
trong dòng lịch-sử cái bền-bỉ và cái linh-động có thể tương-hợp.
Vào đầu thiên niên-kỷ
thứ ba nhen-nhúm một quan-niệm mới về tôn-giáo. Trong đó pha-trộn nội-dung và
hình-thức của những nền văn hóa lớn, những yếu tố từ Phật giáo, thuyết vô thần,
tục thờ-cúng của các sắc dân sống theo thiên-nhiên. Giáo-hội có thể trở nên
phong-phú hơn nhờ những trào-lưu của thế-giới hiện-đại hay nhờ những tôn-giáo
khác không?
Cuộc đối-thoại liên tôn
đang diễn-tiến. Tôi tin mỗi chúng ta đây đều xác-tín rằng cũng có những điều
chúng ta có thể học được, thí-dụ từ thần-bí Á châu, rằng những truyền-thống
thần-bí lớn mở ra những khả-năng gặp-gỡ còn rõ hơn như ta thấy trong thần-học
khẳng-định (positive Theologie). Xét như thế, di-sản thần-bí của bậc thầy
Eckhart*, của toàn-thể tư-tưởng thần-bí phái nữ thời
Trung-cổ, nhất là ở Tây-ban-nha, có chỗ đứng quan-trọng trong cuộc đối-thoại
liên tôn ngày nay. Quan-trọng ở chỗ, một đàng nó giúp ta nhìn ra tầm-quan-trọng
của những yếu-tố chung trong thần-học thần-bí (thần-học phủ-định), mặc dầu
không thể và không nên bỏ qua nét dị-biệt giữa thần-bí Phật giáo và thần-bí
Ki-tô giáo. Nó còn quan-trọng ở chỗ ngày nay, từ nội-dung của huyền-thoại và
của triết-lí tôn-giáo Á châu, người ta thấy những yếu-tố hoàn-toàn mới có thể
tuôn vào tư-tưởng thần-học – mặc dầu cố-gắng sử-dụng những yếu-tố đó tới nay
chưa đạt thành-quả mĩ-mãn. Dù vậy chúng mở cho ta những khả-năng đem lại những
cơ-may mới cho sự suy-tư thần-học và cho cách-thức sống đạo.
Trong khoảng ngót 1500
năm chúng ta đã có một môi-trường ki-tô giáo để lưu-truyền đức tin và giáo-dục
ki-tô giáo. Ngày nay một môi-trường như thế đã vắng bóng nơi học-đường,
truyền-thông và những cơ-sở xã-hội. Những giá-trị của Giáo-hội và các quan-điểm
của xã hội xem ra ngày càng xa-lià nhau. Như vậy làm sao có thể thực-hiện được
những dự-án về cuộc sống và về ơn cứu-độ của Giáo-hội trong tương-lai?
Ông nói rất phải, cần
có môi-trường ki-tô giáo để thực-hiện những việc này. Theo thiển ý, ki-tô-hữu
không bao giờ đứng một mình riêng-rẽ; là ki-tô-hữu nghĩa là đồng-hành với kẻ
khác. Cả một tu-sĩ ẩn-tu cũng thuộc về một cộng-đoàn và được cộng-đoàn nâng-đỡ.
Bởi thế ưu-tư của Giáo-hội là phải làm sao tạo cho được những cộng-đoàn này. Văn-hóa
của xã-hội Âu Mỹ không cống-hiến loại cộng-đoàn này nữa. Điểm này đưa ta trở
lại câu hỏi ông nêu trước đây, là Giáo-hội sẽ phải sống ra sao trong một
thế-giới càng ngày càng mất đi tính-chất ki-tô giáo. Trong hoàn-cảnh này,
Giáo-hội phải thiết-lập những cộng-đoàn một cách khác; các cộng-đoàn phải tìm
cách nâng-đỡ nhau và sống đức tin vững-mạnh hơn.
Ngày nay không thể chỉ
dựa vào môi-trường xã-hội, vì như thế chưa đủ; một bầu-khí ki-tô giáo bao trùm
cả xã-hội không còn nữa. Vì vậy ki-tô-hữu phải thực-sự nâng-đỡ nhau. Lúc này
đây đã có những hình-thức khác, đã có những "phong-trào" đủ loại ra
đời tạo nên những cộng-đoàn mới. Cần đổi mới việc đào sâu giáo-lí và đức tin để
có thể thực-hành và học-hỏi đạo Chúa dễ-dàng hơn. Liên-kết với các dòng tu cũng
là một cách để cảm-nghiệm Ki-tô giáo. Nói cách khác, khi xã-hội nói chung không
còn cống-hiến môi-trường ki-tô giáo nữa – trong bốn hay năm thế-kỷ đầu xã-hội
cũng đã không cống-hiến cho ta môi-trường này -, thì chính Giáo-hội phải
thành-lập những nhóm hạt-nhân nhỏ, để bảo-vệ, nâng-đỡ nhau, cùng đi với nhau,
nghĩa là cảm-nghiệm và thực-hành được bầu khí đại gia-đình Giáo-hội trong những
nhóm nhỏ.
Mô-hình Giáo-hội
đại-chúng sẽ không thể tiếp-tục có được nữa trên một phần lớn Âu châu. Như vậy
mô-hình thay-thế nó sẽ mang hình-dạng cụ-thể ra sao ? Những cộng-đồng
năng-động này sẽ được tổ-chức như thế nào? Có thể là những ki-bút Kitô giáo
trên lãnh thổ Đức không?
Tại sao không? Rồi ta
sẽ thấy. Tôi nghĩ, ngay bây giờ mà phác-họa một mô-hình sẵn cho Giáo-hội ngày
mai, một Giáo-hội ngày càng thu hẹp lại cho thiểu-số, là một việc không đúng,
thậm chí tự-cao. Nhưng tôi nghĩ, nhiều người sẽ ít nhiều tìm nương-tựa nơi
Giáo-hội đó; có thể nói họ sống từ bên ngoài và một cách nào đó cả từ nội tâm
với Giáo-hội. Nhưng dù thay-đổi cách nào đi nữa, tôi tin chắc giáo-xứ sẽ
tồn-tại như là hạt-nhân chủ-yếu của đời sống cộng-đoàn. Nhưng khó có thể
duy-trì toàn-bộ hệ-thống giáo-xứ hiện-tại, mà một phần tương-đối mới thành
hình. Người ta sẽ phải học cách đến với nhau để bổ-túc cho nhau. Bên cạnh
giáo-xứ sẽ có những nhóm nhỏ liên-kết với nhau, qua đặc-sủng, qua nhân-cách vị
sáng-lập, qua con đường tâm-linh đặc-biệt, như trong lịch-sử vẫn thường xẩy ra.
Giữa giáo-xứ và "phong-trào" cần có sự trao-đổi tích-cực hơn:
Phong-trào cần giáo-xứ để tránh trở thành giáo-phái, giáo-xứ cần "các
phong-trào" để không hóa ra xơ-cứng. Hiện nay đã có những hình-thức tu-trì
mới ngay giữa trần-thế. Ai để ý, có thể thấy nhiều hình-thức sống đạo của
Giáo-hội ngày mai đã xuất-hiện giữa chúng ta rồi.