SÁCH GIÁO LÝ CỦA HỘI THÁNH CÔNG GIÁO - MỤC  3 Thánh Kinh - Articulus 3 De Sacra Scriptura

 

I.     ĐỨC KITÔ – LỜI DUY NHẤT CỦA THÁNH KINH

CHRISTUS – UNICUM SACRAE SCRIPTURAE VERBUM

101. Thiên Chúa, trong sự hạ cố do lòng nhân hậu của Ngài, để tự mạc khải cho loài người, đã dùng ngôn ngữ phàm nhân mà nói với họ: “Các lời của Thiên Chúa, được diễn tả bằng ngôn ngữ loài người, đã trở nên tương tự với lời nói loài người, cũng như khi xưa Lời của Chúa Cha vĩnh cửu đã mặc lấy xác thịt yếu đuối của loài người, đã trở nên giống như loài người”[1].

102. Qua tất cả các lời ở trong Thánh Kinh, Thiên Chúa chỉ nói một Lời, là (Ngôi) Lời duy nhất của Ngài. Trong Ngôi Lời, Thiên Chúa bày tỏ tất cả về chính mình Ngài[2]:

“Anh em hãy nhớ rằng một Lời duy nhất của Thiên Chúa được trải ra trong toàn bộ Thánh Kinh, một Lời duy nhất vang trên môi miệng của các Thánh. Lời này lúc khởi đầu là Thiên Chúa hướng về Thiên Chúa, lúc ấy Lời không có các âm vận, bởi vì Ngài không lệ thuộc thời gian”[3].

103. Vì lý do đó, Hội Thánh đã luôn tôn kính Thánh Kinh như đã tôn kính chính Thân Thể [Mình Thánh] Chúa. Hội Thánh không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như bàn tiệc Thân Thể [Mình Thánh] Chúa Kitô mà trao ban cho các tín hữu[4].

104. Hội Thánh không ngừng tìm thấy lương thực và sức mạnh cho mình trong Thánh Kinh[5],vì nơi đó, Hội Thánh không chỉ tiếp nhận một lời phàm nhân, nhưng thực sự là Lời của Thiên Chúa[6]. “Quả thật, trong các sách thánh, Cha trên trời âu yếm đến gặp con cái và trò chuyện với họ”[7].

II.    LINH HỨNG VÀ CHÂN LÝ THÁNH KINH

DE INSPIRATIONE ET VERITATE SACRAE SCRIPTURAE

105. Thiên Chúa là tác giả của Thánh Kinh.“Những gì Thiên Chúa mạc khải mà Thánh Kinh chứa đựng và trình bày, đều được viết ra dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần”. 

“Thật vậy, Hội Thánh, Mẹ thánh chúng ta, nhờ đức tin tông truyền, xác nhận rằng toàn bộ các sách Cựu Ước cũng như Tân Ước với tất cả các phần đoạn đều là sách thánh và được ghi vào bản thư quy Thánh Kinh: bởi lẽ được viết ra dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần, các sách ấy có tác giả là chính Thiên Chúa và được truyền lại cho chính Hội Thánh với tư cách đó”[8]

106. Thiên Chúa đã linh hứng cho các tác giả phàm nhân viết ra các sách thánh. “Để viết ra các sách thánh, Thiên Chúa đã chọn những con người và dùng họ trong tài năng và sức lực của họ, để khi chính Ngài hành động trong họ và qua họ, họ viết ra như những tác giả đích thật tất cả những gì Chúa muốn, và chỉ những điều đó thôi”[9]

107. Các sách được linh hứng giảng dạy sự thật. “Vì phải xem mọi lời tác giả được linh hứng, tức các thánh sử, viết ra, là những điều Chúa Thánh Thần xác quyết, nên phải tuyên xưng rằng Thánh Kinh dạy ta cách chắc chắn, trung thành và không sai lầm, chân lý mà Thiên Chúa đã muốn Thánh Kinh ghi lại nhằm cứu độ chúng ta”[10]

108. Tuy nhiên, đức tin Kitô giáo không phải là một “tôn giáo của Sách vở”. Kitô giáo là tôn giáo của “Lời” Thiên Chúa: Lời đó “không phải là lời được viết ra và câm lặng, nhưng là Ngôi Lời nhập thể và sống động”[11]. Cần thiết là phải có Đức Kitô, Ngôi Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa hằng sống, nhờ Chúa Thánh Thần, mở trí cho chúng ta, thì chúng ta mới hiểu được Thánh Kinh[12], nếu không thì các sách đó chỉ là văn tự chết.

III.  CHÚA THÁNH THẦN, ĐẤNG GIẢI THÍCH THÁNH KINH

SPIRITUS SANCTUS SCRIPTURAE INTERPRES 

109. Trong Thánh Kinh, Thiên Chúa nói với con người theo cách thức loài người. Vì vậy, để giải thích Thánh Kinh cho đúng, phải cẩn thận tìm hiểu điều các tác giả phàm nhân thật sự có ý khẳng định và điều Thiên Chúa muốn tỏ bày cho chúng ta qua lời lẽ của các ngài[13]

110. Để thấy được ý của các vị thánh sử, cần lưu ý đến các điều kiện về thời đại và văn hoá của các ngài, đến các “văn thể” được dùng trong thời đó, đến cách cảm nghĩ, nói năng và tường thuật, thường được dùng vào thời đại của thánh sử. “Vì chân lý được trình bày và diễn tả qua nhiều thể văn khác nhau, như thể văn lịch sử, ngôn sứ, thi phú hoặc những thể văn diễn tả khác”[14]

111. Nhưng bởi vì Thánh Kinh được linh hứng, nên có một nguyên tắc khác để giải thích cho đúng. Nguyên tắc này không kém quan trọng so với nguyên tắc trên và nếu không có nguyên tắc này thì Thánh Kinh chỉ là văn tự chết: “Bởi vì Thánh Kinh đã được viết ra bởi Chúa Thánh Thần, thì cũng phải được đọc và giải thích nhờ chính Thánh Thần”[15].

Công đồng Vaticanô II đưa ra ba tiêu chuẩn để giải thích Thánh Kinh theo Chúa Thánh Thần, Đấng đã linh hứng Thánh Kinh[16]:

112. 1) Phải hết sức chú ý đến “nội dung và sự duy nhất của toàn bộ Thánh Kinh”. Mặc dầu các sách hợp thành bộ Thánh Kinh có khác biệt nhau mấy đi nữa, Thánh Kinh vẫn là một, bởi kế hoạch của Thiên Chúa chỉ có một và Đức Kitô Giêsu là trung tâm và trái tim của kế hoạch ấy, một trái tim đã rộng mở sau cuộc Vượt Qua của Người[17].

“Hình ảnh ‘Trái tim Đức Kitô’[18]được hiểu về Thánh Kinh, vì Thánh Kinh bộc lộ trái tim của Người. Trước cuộc khổ nạn, trái tim này còn đóng kín, bởi vì Thánh Kinh còn tối nghĩa. Nhưng sau cuộc khổ nạn, Thánh Kinh đã được mở ra, bởi vì từ lúc đó những ai hiểu Thánh Kinh sẽ biết suy xét và phân định các sấm ngôn phải được giải thích như thế nào”[19].

113. 2) Phải đọc Thánh Kinh trong “Thánh Truyền sống động của Hội Thánh”. Theo châm ngôn của các Giáo phụ, Thánh Kinh được viết chủ yếu trên trái tim của Hội Thánh hơn là trên những vật liệu thể chất[20]. Thật vậy, Hội Thánh lưu giữ ký ức sống động về Lời Thiên Chúa trong Thánh Truyền của mình, và Chúa Thánh Thần ban cho Hội Thánh khả năng giải thích Thánh Kinh theo cách thiêng liêng (“theo nghĩa thiêng liêng mà Chúa Thánh Thần ban cho Hội Thánh”[21]).

114. 3) Phải chú ý đến “tính tương hợp của đức tin”[22].Thuật ngữ “tính tương hợp của đức tin” có nghĩa là sự liên hệ hài hoà giữa các chân lý đức tin với nhau và trong toàn bộ chương trình mạc khải.

Các nghĩa của Thánh Kinh

115. Theo một truyền thống cổ xưa, có thể phân biệt hai nghĩa của Thánh Kinh: nghĩa văn tựnghĩa thiêng liêng. Nghĩa thiêng liêng lại được chiathành nghĩa ẩn dụ, nghĩa luân lý và nghĩa dẫn đường. Sự hòa hợp sâu xa của bốn nghĩa này đem lại cho việc đọc Thánh Kinh cách sống động trong Hội Thánh tất cả sự phong phú của nó.

116. Nghĩa văn tự: Đây là nghĩa được các lời của Thánh Kinh nói lên và được khoa chú giải nhận ra dựa trên những quy tắc giải thích đúng đắn. “Tất cả các nghĩa của Thánh Kinh đều đặt nền tảng trên nghĩa văn tự”[23].

117. Nghĩa thiêng liêng: Vì tính thống nhất của kế hoạch của Thiên Chúa, không những bản văn Thánh Kinh, mà cả những sự việc và biến cố được bản văn nói tới, đều có thể là những dấu chỉ.

1) Nghĩa ẩn dụ: Chúng ta có thể hiểu biết các biến cố một cách sâu xa hơn khi nhận ra ý nghĩa của chúng trong Đức Kitô. Thí dụ cuộc vượt qua Biển Đỏ là dấu chỉ cuộc chiến thắng của Đức Kitô, và do đó cũng là dấu chỉ của bí tích Rửa Tội[24].

2) Nghĩa luân lý: Các biến cố được Thánh Kinh thuật lại phải dẫn đưa chúng ta đến hành động chính trực. Các biến cố đó được viết ra “để răn dạy chúng ta” (1 Cr 10,11)[25].

 3) Nghĩa dẫn đường: Chúng ta cũng có thể nhìn các sự việc và các biến cố trong ý nghĩa vĩnh cửu của chúng, theo nghĩa chúng dẫn đường (tiếng Hy lạp: anagoge, nghĩa là dẫn đường) cho chúng ta về Quê trời. Thí dụ Hội Thánh nơi trần thế là dấu chỉ Giêrusalem thiên quốc[26].

118. Có một câu thơ thời Trung Cổ tóm tắt bốn nghĩa ấy như sau:

“Nghĩa văn tự dạy về biến cố,

nghĩa ẩn dụ dạy điều phải tin,

nghĩa luân lý dạy điều phải làm,

nghĩa dẫn đường dạy điều phải vươn tới”[27].

119. “Các nhà chú giải có nhiệm vụ dựa theo những quy tắc đó mà cố gắng hiểu thấu và trình bày ý nghĩa Thánh Kinh cách sâu sắc hơn, ngõ hầu nhờ sự học hỏi có thể gọi là chuẩn bị đó, phán quyết của Hội Thánh được chín chắn. Quả vậy, mọi điều liên hệ đến việc giải thích Thánh Kinh cuối cùng đều phải lệ thuộc vào phán quyết của Hội Thánh, vì Hội Thánh đã nhận từ Thiên Chúa mệnh lệnh và nhiệm vụ gìn giữ và giải thích Lời Thiên Chúa”[28]

“Tôi sẽ không tin Tin Mừng, nếu không có quyền bính của Hội Thánh Công giáo thúc đẩy tôi”[29].

IV.  THƯ QUY CÁC SÁCH THÁNH

DE SCRIPTURARUM CANONE

120. Truyền Thống các Tông Đồ giúp Hội Thánh phân định những văn bản nào phải được kể vào danh mục các Sách Thánh[30]. Danh mục đầy đủ này được gọi là “Thư quy” Thánh Kinh. Thánh Kinh gồm 46 bản văn Cựu Ước (hoặc 45, nếu gom GiêrêmiaAi Ca thành một) và 27 bản văn Tân Ước[31]. Đó là:

Phần Cựu Ước gồm các sách: Sáng Thế, Xuất Hành, Lêvi, Dân Số, Đệ Nhị Luật, Giôsuê, Thủ Lãnh, Rút, l và 2 Samuen, l và 2 Các Vua, 1 và 2 Sử Biên Niên, Étra và Nơkhemia, Tôbia, Giuđitha, Étte, l và 2 Macabê, Gióp, Thánh Vịnh, Châm Ngôn, Giảng Viên, Diễm Ca, Khôn Ngoan, Huấn Ca, Isaia, Giêrêmia, Ai Ca, Barúc, Êdêkien, Đanien, Hôsê, Giôen, Amốt, Ôvađia, Giôna, Mikha, Nakhum, Khabacúc, Xôphônia, Khácgai, Dacaria, Malakhi.

Phần Tân Ước gồm các sách: các sách Tin Mừng theo thánh Mátthêu, theo thánh Máccô, theo thánh Luca, theo thánh Gioan, Công vụ Tông Đồ, Thư Rôma, Thư 1 và 2 Côrintô, Thư Galát, Thư Êphêxô, Thư Philípphê, Thư Côlôxê, Thư l và 2 Thêxalônica, Thư 1 và 2 Timôthê, Thư Titô, Thư Philêmôn, Thư Do thái, Thư thánh Giacôbê, Thư l và 2 của thánh Phêrô, Thư 1, 2 và 3 của thánh Gioan, Thư thánh Giuđa, Khải Huyền.

Cựu Ước

121. Cựu Ước là một phần không thể thiếu được của Thánh Kinh. Tất cả các tác phẩm của Cựu Ước được Thiên Chúa linh hứng nên có một giá trị trường tồn[32], bởi vì Giao Ước cũ không hề bị thu hồi.

122. Thật vậy, “Nhiệm cục Cựu Ước được bố trí với mục đích chính yếu là để chuẩn bị cho ngày quang lâm của Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ muôn loài”. Các sách Cựu Ước, “tuy có nhiều bất toàn và tạm bợ”, vẫn làm chứng về phương pháp giáo dục của tình yêu cứu độ của Thiên Chúa: các sách ấy “diễn tả một cảm thức sâu sắc về Thiên Chúa, tàng trữ những lời giáo huấn cao siêu về Ngài, một khoa khôn ngoan hữu ích về đời sống con người, và những kho tàng kinh nguyện tuyệt diệu; sau cùng, trong đó ẩn chứa mầu nhiệm ơn cứu độ chúng ta”[33].

123. Các Kitô hữu tôn kính Cựu Ước với tính cách Lời đích thực của Thiên Chúa. Hội Thánh luôn cực lực chống lại ý kiến đòi gạt bỏ Cựu Ước, viện cớ là Tân Ước đã làm cho Cựu Ước ra lỗi thời (chủ thuyết Marcion).

Tân Ước

124. “Trong các sách Tân Ước, Lời Thiên Chúa là quyền năng của Thiên Chúa để cứu rỗi mọi tín hữu, được trình bày và biểu dương sức mạnh cách trổi vượt”[34]. Các sách ấy trao cho chúng ta chân lý tối hậu được Thiên Chúa mạc khải. Đối tượng trung tâm của Tân Ước là Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể, các việc làm và giáo huấn của Người, cuộc khổ nạn và việc tôn vinh Người, cũng như những bước đầu của Hội Thánh Người dưới tác động của Chúa Thánh Thần[35]

125. Các sách Tin Mừng là tâm điểm của tất cả các sách Thánh Kinh “vì là chứng tích chính yếu về đời sống và giáo huấn của Ngôi Lời nhập thể, Đấng Cứu Chuộc chúng ta”[36].

126. Trong việc hình thành các sách Tin Mừng, người ta có thể phân biệt ba giai đoạn:

1) Cuộc đời và giáo huấn của Chúa Giêsu. Hội Thánh quả quyết cách mạnh mẽ rằng bốn sách Tin Mừng “mà Hội Thánh không ngần ngại khẳng định lịch sử tính, trung thành lưu truyền những gì Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, khi sống giữa loài người, thật sự đã làm và đã dạy nhằm phần rỗi đời đời của họ, cho tới ngày Người được đưa lên trời”.

2) Giáo huấn truyền khẩu. “Thật vậy, sau khi Chúa lên trời, các Tông Đồ đã truyền lại cho những người nghe những điều Người đã nói và đã làm với sự thông hiểu đầy đủ hơn mà chính các ngài có nhờ học được từ các biến cố vinh hiển của Chúa Kitô và nhờ ánh sáng Thần chân lý dạy dỗ”.

3) Các sách Tin Mừng. “Vậy các thánh sử đã viết bốn sách Tin Mừng: các ngài chọn một số trong nhiều điều đã được truyền lại bằng miệng hay đã được chép ra rồi, tóm tắt hoặc giải thích một số điều tuỳ theo tình trạng của các Giáo hội, sau cùng các ngài vẫn giữ hình thức lời giảng, mà bao giờ cũng nhằm truyền đạt cho chúng ta những điều xác thực và chân thành về Chúa Giêsu”[37].

127. Bốn sách Tin Mừng giữ một địa vị độc nhất trong Hội Thánh, như có thể thấy được qua lòng tôn kính mà phụng vụ dành cho Tin Mừng và qua sức thu hút không gì sánh bằng của Tin Mừng đối với các Thánh trong mọi thời đại.

“Không có giáo lý nào cao trọng hơn, tốt hơn, quý hơn và sáng chói hơn bản văn Tin Mừng. Anh chị em hãy xem và hãy ghi nhớ những gì Chúa và Thầy của chúng ta là Đức Kitô đã giảng dạy bằng lời nói và thực hiện bằng gương sáng của Người”[38].

“Trên hết mọi sự, chính Tin Mừng nuôi dưỡng tôi trong các kinh nguyện của tôi; nơi Tin Mừng tôi gặp được tất cả những gì cần thiết cho linh hồn hèn mọn của tôi. Trong đó tôi luôn khám phá ra những ánh sáng mới, những ý nghĩa còn ẩn giấu và huyền nhiệm”[39].

Tính thống nhất giữa Cựu và Tân Ước

128. Ngay từ thời các Tông Đồ[40] rồi sau đó trong suốt Truyền Thống của mình, Hội Thánh luôn làm sáng tỏ tính thống nhất của kế hoạch của Thiên Chúa trong hai Giao Ước nhờ cách đọc tiên trưng (pertypologiam). Cách đọc này nhận ra trong các công trình của Thiên Chúa dưới thời Cựu Ước những “hình ảnh báo trước” điều Thiên Chúa sẽ thực hiện lúc thời gian đến hồi viên mãn, nơi Người Con nhập thể của Ngài.

129. Do đó các Kitô hữu đọc Cựu Ước dưới ánh sáng của Đức Kitô, Đấng đã chết và sống lại. Cách đọc tiên trưng này làm tỏ hiện nội dung vô tận của Cựu Ước. Tuy nhiên không được quên rằng Cựu Ước vẫn có giá trị riêng của nó trong mạc khải, mà chính Chúa chúng ta đã xác nhận[41].Đàng khác,Tân Ước cũng cần phải được đọc dưới ánh sáng Cựu Ước. Việc dạy giáo lý Kitô giáo thời sơ khai đã luôn trở về với Cựu Ước[42]. Theo một châm ngôn cổ, Tân Ước được ẩn tàng trong Cựu Ước, còn Cựu Ước được tỏ bày trong Tân Ước: “cái Mới tiềm ẩn trong cái Cũ, còn cái Cũ xuất hiện trong cái Mới”[43]

130. Cách đọc tiên trưng cho thấy tính năng động hướng tới việc hoàn thành kế hoạch của Thiên Chúa, lúc “Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,28). Như vậy, thí dụ, việc kêu gọi các tổ phụ và cuộc Xuất Hành khỏi Ai cập vẫn không mất đi giá trị riêng của chúng trong kế hoạch của Thiên Chúa, mặc dầu đồng thời, chúng là những giai đoạn trung gian trong kế hoạch ấy.

V.    THÁNH KINH TRONG ĐỜI SỐNG HỘI THÁNH

DE SACRA SCRIPTURA IN ECCLESIAE VITA

131. “Trong Lời Thiên Chúa, có năng lực lớn lao có thể nâng đỡ và ban sinh lực cho Hội Thánh, còn đối với con cái Hội Thánh thì thành sức mạnh cho đức tin, lương thực cho linh hồn, nguồn sống tinh tuyền và trường tồn cho đời sống thiêng liêng”[44].Vì vậy, “lối vào Thánh Kinh cần phải được rộng mở cho các Kitô hữu”[45].

132. “Việc nghiên cứu Thánh Kinh phải là như linh hồn của khoa Thần học. Nhờ chính lời Thánh Kinh này, thừa tác vụ Lời Chúa, gồm có việc giảng thuyết của các vị chủ chăn, việc dạy giáo lý và toàn thể giáo huấn Kitô giáo, trong đó bài diễn giảng trong phụng vụ phải chiếm ưu thế, được nuôi dưỡng lành mạnh và tăng cường sinh lực thánh thiện”[46].

133. Hội Thánh “nhiệt liệt và đặc biệt khuyến khích mọi Kitô hữu … học được ‘mối lợi tuyệt vời, là được biết Chúa Giêsu Kitô’ (Pl 3,8) nhờ năng đọc Sách Thánh. ‘Thật vậy, không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô’”[47].

TÓM LƯỢC

134. Toàn bộ Thánh Kinh là một cuốn sách duy nhất, và cuốn sách duy nhất ấy chính là Chúa Kitô, “bởi vì toàn bộ Thánh Kinh nói về Chúa Kitô và toàn bộ Thánh Kinh được hoàn tất trong Chúa Kitô”[48].

135. “Thánh Kinh chứa đựng Lời Thiên Chúa và vì được linh hứng nên thật sự là Lời Thiên Chúa”[49].

136. Thiên Chúa là Tác giả của Thánh Kinh vì Ngài linh hứng các tác giả phàm nhân; chính Ngài hành động trong họ và nhờ họ. Như vậy, Ngài bảo đảm rằng các tác phẩm của họ giảng dạy chân lý cứu độ một cách không sai lầm[50].

137. Việc giải thích các Sách Thánh đã được linh hứng trước hết phải đạt đến điều Thiên Chúa muốn mạc khải qua các thánh sử, để cứu độ chúng ta. Điều gì đến từ Chúa Thánh Thần, chỉ được hiểu cách đầy đủ nhờ tác động của Chúa Thánh Thần[51].

138. Hội Thánh lãnh nhận và tôn kính 46 sách của Cựu Ước và 27 sách của Tân Ước, với tính cách là những sách được linh hứng.

139. Bốn sách Tin Mừng giữ một vị trí trung tâm, vì Chúa Kitô Giêsu là tâm điểm của các sách đó.

140. Tính thống nhất của hai Giao Ước bắt nguồn từ sự duy nhất của kế hoạch và mạc khải của Thiên Chúa. Cựu Ước chuẩn bị cho Tân Ước, còn Tân Ước làm hoàn thành Cựu Ước; cả hai soi sáng cho nhau, cả hai đều thật sự là Lời Thiên Chúa.

141. “Hội Thánh đã luôn tôn kính Thánh Kinh như đã tôn kính chính Thân Thể [Mình Thánh] Chúa”[52]:cả hai nuôi dưỡng và chi phối toàn bộ đời sống Kitô hữu. “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119,105)[53].


[1]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 13: AAS 58 (1966) 824.

[2]X. Dt 1,1-3.

[3]Thánh Augustinô, Enarratio in Psalmum 103, 4, 1: CCL 40, 1521 (PL 37, 1378).

[4]X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 21: AAS 58 (1966) 827.

[5]X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 24: AAS 58 (1966) 829.

[6]X. 1 Tx 2,13.

[7]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 21: AAS 58 (1966) 827-828.

[8]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 11: AAS 58 (1966) 822-823.

[9]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 11: AAS 58 (1966) 823.

[10]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 11: AAS 58 (1966) 823.

[11]Thánh Bênađô Clairvaux, Homilia super “Missus est”, 4, 11: Opera, ed. J. Leclercq-H. Rochais, v. 4 (Romae 1966) 57.

[12]X. Lc 24,45.

[13]X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 12: AAS 58 (1966) 823.

[14]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 12: AAS 58 (1966) 823.

[15]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 12: AAS 58 (1966) 824.

[16]X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 12: AAS 58 (1966) 824.

[17]X. Lc 24,25-27.44-46.

[18]X. Tv 22,15.

[19]Thánh Tôma Aquinô, Expositio in Psalmos, 21, 11: Opera omnia, v. 18 (Parisiis 1876) 350.

[20]X. Thánh Hilariô, Liber ad Constantium Imperatorem 9: CSEL 65, 204 (PL 10, 570); Thánh Giêrônimô, Commentarius in epistulam ad Galatas 1, 1, 11-12: PL 26, 347.

[21]Origiênê, Homiliae in Leviticum, 5, 5: SC 286, 228 (PG 12, 454).

[22]X. Rm 12,6.

[23]Thánh Tôma Aquinô, Summa theologiae, I, q.1, a.10, ad 1: Ed. Leon. 4, 25.

[24]X. 1 Cr 10,2.

[25]X. Dt 3-4,11.

[26]X. Kh 21,1-22,5.

[27]Augustinô de Dacia, Rotulus pugillaris I: ed. A. Walz: Angelicum 6 (1929) 256.

[28]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 12: AAS 58 (1966) 824.

[29]Thánh Augustinô, Contra epistulam Manichaei quam vocant fundamenti, 5, 6: CSEL 25, 197 (PL 42, 176).

[30]X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 8: AAS 58 (1966) 821.

[31]X. Decretum Damasi: DS 179-180; CĐ Florentinô, Decretum pro lacobitis: DS 1334-1336; CĐ Triđentinô, Sess. 4a, Decretum de Libris Sacris et de traditionibus recipiendis: DS 1501-1504.

[32]X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 14: AAS 58 (1966) 825.

[33]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 15: AAS 58 (1966) 825.

[34]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 17: AAS 58 (1966) 826.

[35]X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 20: AAS 58 (1966) 827.

[36]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 18: AAS 58 (1966) 826.

[37]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 19: AAS 58 (1966) 826-827.

[38]Thánh Cêsaria Juniô, Epistula ad Richildam et Radegundem: SC 345, 480.

[39]Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Manuscrit A, 83v: Manuscrits autobiographiques (Paris 1992) 268.

[40]X. 1 Cr 10,6.11; Dt 10,1; 1 Pr 3,21.

[41]X. Mc 12,29-31.

[42]X. 1 Cr 5,6-8; 10,1-11.

[43]Thánh Augustinô, Quaestiones in Heptateucum, 2, 73; CCL 33, 106 (PL 34, 623); X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 16: AAS 58 (1966) 825.

[44]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 21: AAS 58 (1966) 828.

[45]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 22: AAS 58 (1966) 828.

[46]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 24: AAS 58 (1966) 829.

[47]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 25: AAS 58 (1966) 829; X. Thánh Hiêrônimô, Commentarii in Isaiam, Lời Tựa: CCL 73, 1 (PL 24, 17).

[48]Hugo de Sancto Victore, De Arca Noe, 2, 8: PL 176, 642; x. Ibid. 2, 9: PL 176, 642-643.

[49]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum 24: AAS 58 (1966) 829.

[50]X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum 11: AAS 58 (1966) 822-823.

[51]X. Origiênê, Homiliae in Exodum, 4, 5: SC 321, 128 (PG 12, 320).

[52]CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum 21: AAS 58 (1966) 827.

[53]X. Is 50,4.


Sách Giáo Lý Công Giáo