SÁCH GIÁO LÝ CỦA HỘI THÁNH CÔNG GIÁO - ĐOẠN THỨ HAI: CHƯƠNG MỘT: TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHA

CHƯƠNG MỘT

TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHA

CAPUT PRIMUM

CREDO IN DEUM PATREM

198. Bản tuyên xưng đức tin của chúng ta bắt đầu bằng Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa là “khởi nguyên và cùng tận” (Is 44,6), là khởi đầu và cùng đích của hết mọi loài. Kinh Tin Kính bắt đầu từ Thiên Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha là Ngôi Thứ Nhất trong Ba Ngôi Chí Thánh; Tín biểu của chúng ta bắt đầu bằng việc tạo dựng trời đất, bởi vì việc tạo dựng là khởi đầu và là nền tảng của mọi công trình của Thiên Chúa.

Mục 1

“TÔI TIN KÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI, LÀ CHA PHÉP TẮC VÔ CÙNG, DỰNG NÊN TRỜI ĐẤT”

ARTICULUS 1

“CREDO IN DEUM PATREM OMNIPOTENTEM, CREATOREM CAELI ET TERRAE”

Tiết 1

Tôi Tin Kính Đức Chúa Trời

Paragraphus 1

Credo in Deum

199. “Tôi tin kính Đức Chúa Trời”: lời xác quyết đầu tiên của bản tuyên xưng đức tin cũng là điều quan trọng nhất. Toàn bộ Tín biểu đều nói về Thiên Chúa, và nếu có nói về con người và về trần gian, thì cũng nói trong tương quan với Thiên Chúa. Tất cả các mục trong bản Tuyên xưng đức tin đều lệ thuộc vào mục thứ nhất này, cũng như các giới răn của Thiên Chúa đều nhằm giải thích giới răn thứ nhất. Những mục khác giúp chúng ta hiểu biết Thiên Chúa hơn, theo mức độ Ngài đã từng bước tự mạc khải cho con người. “Vì vậy, một cách đúng đắn, các tín hữu trước tiên tuyên xưng họ tin vào Thiên Chúa”[1].

I.  “TÔI TIN KÍNH MỘT THIÊN CHÚA”

“CREDO IN UNUM DEUM”

200. Tín biểu Nicêa-Constantinôpôli bắt đầu bằng những lời trên đây. Việc tuyên xưng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất bắt nguồn từ mạc khải của Thiên Chúa trong Cựu Ước. Việc tuyên xưng này không thể tách biệt khỏi việc tuyên xưng về sự hiện hữu của Thiên Chúa, và cũng có giá trị hết sức căn bản. Thiên Chúa là Đấng duy nhất: chỉ có một Thiên Chúa. “Vì vậy đức tin Kitô giáo tin và tuyên xưng chỉ có một Thiên Chúa, xét theo bản tính, bản thể và yếu tính”[2].

201. Thiên Chúa tự mạc khải cho Israel, dân Ngài chọn, rằng Ngài là Đấng Duy Nhất: “Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng, hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6,4-5). Qua các Tiên tri, Thiên Chúa kêu gọi Israel và các dân tộc trở lại với Ngài, là Đấng Duy Nhất: “Nào muôn dân khắp cõi địa cầu, hãy hướng về Ta, thì các ngươi sẽ được cứu độ, vì Ta là Thiên Chúa, chẳng còn chúa nào khác…. Trước mặt Ta, mọi người sẽ quỳ gối, và mở miệng thề rằng: Chỉ mình Đức Chúa mới cứu độ và làm cho mạnh sức” (Is 45,22-24)[3].  

202. Chính Chúa Giêsu xác quyết rằng Thiên Chúa là “Chúa Duy Nhất”, và phải yêu mến Thiên Chúa hếtlòng, hết linh hồn, hết tâm trí và hết sức lực[4]. Đồng thời, Người cũng minh định rằng chính Người là “Chúa”[5]. Tuyên xưng “Đức Giêsu là Chúa” là nét đặc thùcủa đức tin Kitô giáo. Điều này không trái ngược với đức tin vào một Thiên Chúa Duy Nhất. Tin vào Chúa Thánh Thần là “Chúa và là Đấng ban sự sống” không hề đưa đến sự chia cắt nào nơi Thiên Chúa Duy Nhất: 

“Chúng tôi tin cách vững vàng và tuyên xưng cách đơn sơ rằng chỉ có Một Thiên Chúa chân thật, vĩnh cửu, vô hạn và bất biến, vô phương thấu hiểu, toàn năng và khôn tả, là Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần: Ba Ngôi Vị, nhưng chỉ có một yếu tính, một bản thể hoặc một bản tính hoàn toàn đơn nhất”[6].

II.  THIÊN CHÚA MẠC KHẢI DANH NGÀI

DEUS NOMEN SUUM REVELAT

203. Thiên Chúa tự mạc khải cho Israel, dân của Ngài, tỏ cho họ biết Danh Ngài. Tên gọi diễn tả yếu tính, căn tính của một người và ý nghĩa cuộc đời của người đó. Thiên Chúa có một tên gọi. Ngài không phải là một sức mạnh vô danh. Cho biết tên gọi của mình là cho những người khác nhận biết mình, một cách nào đó là tự trao mình, để người ta có thể tiếp xúc với mình, có thể hiểu biết mình cách thân mật hơn, và thật sự có thể gọi mình một cách cá vị.

204. Thiên Chúa đã tự mạc khải cho dân Ngài một cách tiệm tiến và dưới nhiều danh xưng khác nhau. Tuy nhiên, việc mạc khải tôn danh Thiên Chúa cho ông Môisen trong cuộc thần hiện nơi bụi gai cháy bừng, để dẫn đến cuộc Xuất Hành và Giao Ước Sinai, được coi như một mạc khải căn bản cho cả Cựu và Tân Ước.

Thiên Chúa hằng sống

205. Thiên Chúa gọi ông Môisen từ giữa bụi gai cháy bừng nhưng không tàn lụi. Thiên Chúa nói với ông Môisen: “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacob” (Xh 3,6). Thiên Chúa là Thiên Chúa của tổ tiên, Đấng đã kêu gọi và hướng dẫn các Tổ phụ trong các cuộc lữ hành của họ. Ngài là Thiên Chúa trung tín và thương xót, Đấng nhớ tới họ và nhớ các lời Ngài đã hứa; Ngài đến để giải thoát con cháu họ khỏi ách nô lệ. Ngài là Thiên Chúa, Đấng, vượt quá thời gian và không gian, có khả năng và ý muốn làm điều đó, và là Đấng sẽ dùng sự toàn năng của mình để thực hiện kế hoạch này.

“Ta là Đấng Hiện Hữu” 

“Ông Môisen thưa với Thiên Chúa: ‘Bây giờ, con đến gặp con cái Israel và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?’ Thiên Chúa phán với ông Môisen: ‘Ta là Đấng Hiện Hữu’. Ngài phán: ‘Ngươi nói với con cái Israel thế này: “Đấng Hiện Hữu” sai tôi đến với anh em…. Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia’” (Xh 3,13-15).  

206. Khi mạc khải Danh thánh bí nhiệm YHWH của Ngài, nghĩa là, “Ta là Đấng Hiện Hữu” hoặc “Ta là Đấng Ta là”, hoặc “Ta chính là Ta”, Thiên Chúa nói Ngài là ai và phải gọi tên Ngài như thế nào. Danh thánh này có tính chất huyền nhiệm cũng như Thiên Chúa là mầu nhiệm. Đó vừa là Danh được mạc khải, vừa như là từ chối một Danh xưng, và vì vậy, Danh này diễn tả Thiên Chúa một cách tốt nhất, vì Ngài là Đấng vô cùng vượt quá tất cả những gì chúng ta có thể hiểu biết và nói lên: Ngài là “Thiên Chúa ẩn mình” (Is 45,15), Danh thánh Ngài không thể gọi được[7], và vị Thiên Chúa đó là Đấng tự làm cho mình nên gần gũi với con người.  

207. Khi mạc khải Danh Ngài, Thiên Chúa đồng thời mạc khải lòng trung tín của Ngài, một lòng trung tín có từ muôn thuở và cho tới muôn đời, một lòng trung tín có giá trị trong quá khứ (“Ta là Thiên Chúa của cha ngươi”, Xh 3,6) cũng như trong tương lai (“Ta sẽ ở với ngươi”, Xh 3,12). Thiên Chúa, Đấng mạc khải Danh Ngài là “Đấng Hiện Hữu”, đã tự mạc khải mình là vị Thiên Chúa luôn có mặt, luôn hiện diện với dân Ngài để cứu độ họ.  

208. Trước sự hiện diện cuốn hút và huyền nhiệm của Thiên Chúa, con người nhận ra sự nhỏ bé của mình. Trước bụi gai cháy bừng, ông Môisen cởi dép và che mặt trước tôn nhan Thiên Chúa chí thánh[8]. Trước vinh quang của Thiên Chúa ba lần thánh, tiên tri Isaia thốt lên: “Khốn thân tôi, tôi chết mất, vì tôi là một người môi miệng ô uế” (Is 6,5). Trước những dấu chỉ thần linh Chúa Giêsu thực hiện, ông Phêrô thốt lên: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc 5,8). Nhưng bởi vì Thiên Chúa là Đấng Thánh, nên Ngài có thể tha thứ cho kẻ nhận biết mình là tội nhân trước mặt Ngài: “Ta sẽ không hành động theo cơn nóng giận…, vì Ta là Thiên Chúa, chứ không phải người phàm. Ở giữa ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Hs 11,9). Tông đồ Gioan cũng sẽ nói tương tự: “Chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa. Vì nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Ngài biết hết mọi sự” (1 Ga 3,19-20).  

209. Vì tôn kính sự thánh thiện của Thiên Chúa, dân Israel không gọi Danh của Ngài. Khi đọc Thánh Kinh, người ta thay thế Danh được mạc khải bằng tước hiệu thần linh là “Chúa” (Adonai, tiếng Hy lạp là Kyrios). Thần tính của Chúa Giêsu sẽ được tuyên xưng bằng tước hiệu này: “Đức Giêsu là Chúa”.  

“Thiên Chúa nhân hậu và từ bi” 

210. Sau khi dân Israel phạm tội, chối bỏ Thiên Chúađể quay sang thờ con bê bằng vàng[9], Thiên Chúa đã nghe lời chuyển cầucủa ông Môisen và chấp nhận đồng hành giữa đám dânbất trung, qua đó biểu lộ tình yêu của Ngài[10]. Khiông Môisen xin được thấy vinh quang Thiên Chúa, Ngài trả lời: “Ta sẽ cho tất cả vẻ đẹp của Ta đi qua trước mặt ngươi, và sẽ xưng danh Ta là Chúa [YHWH] trước mặt ngươi"(Xh 33,18-l9). Và Chúa đi qua trước mặt ông Môisenvà hô to: “Chúa, Chúa [YHWH,YHWH], Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34,5-6). Lúc đó ông Môisen tuyên xưng Chúa là Thiên Chúa hay tha thứ[11].  

211. Thánh Danh “Ta Hiện Hữu” hoặc “Đấng Hiện Hữu” diễn tả sự trung tín của Thiên Chúa, Đấng “giữlòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ” (Xh 34,7) cho dù conngười có bất trung, tội lỗi, đáng phải trừng phạt. ThiênChúa mạc khải rằng Ngài “giàu lòng thương xót” (Ep 2,4), đến nỗi trao ban chính Con Một của Ngài. Chúa Giêsu, khihiến mạng sống mình để giải thoát chúng ta khỏi tộilỗi, sẽ mạc khải rằng chính Ngườimang danh thánh của Thiên Chúa: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là ‘Tôi Hiện Hữu’” (Ga 8,28).  

Chỉ mình Thiên Chúa là ĐẤNG HIỆN HỮU 

212. Trải qua các thế kỷ, đức tin của Israel đã có thể khai triển và đào sâu hơn nữa các ý nghĩa phong phú chứa đựng trong việc mạc khải Danh thánh của Thiên Chúa. Thiên Chúa là duy nhất, ngoài Ngài ra không có thần nào hết[12]. Ngài siêu việt trên vũ trụ và lịch sử. Chính Ngài tạo dựng trời đất. “Chúngtiêu tan, Chúa còn hoài; chúng như áo cũ thảy rồi mòn hao…. Nhưng chính Ngài tiền hậu y nguyên; tháng năm Ngài vẫn triền miên” (Tv 102,27-28). Nơi Ngài, “không hề có sự thay đổi, cũng không hề có sự chuyển vần khi tối khi sáng” (Gc 1,17). Ngài là “Đấng Hiện Hữu” từ muôn thuở đến muôn đời và như vậy Ngài là Đấng luôn trung tín với chính mình Ngài và với các lời hứa của Ngài.  

213. Vì vậy việc mạc khải Danh khôn tả “Ta là Đấng Ta là” chứa đựng chân lý này: chỉ mình Thiên Chúa là ĐẤNG HIỆN HỮU. Bản dịch Bảy Mươi và kế đó là Truyền thống Hội Thánh đã hiểu Danh thánh của Thiên Chúa theo nghĩa đó: Thiên Chúa là sự viên mãn của sự Hiện Hữu và của mọi trọn hảo, không có khởi đầu, và cũng chẳng có cùng tận. Trong khi tất cả mọi thụ tạo đều lãnh nhận từ Thiên Chúa tất cả những gì chúng là và những gì chúng có, thì duy chỉ mình Ngài là tự mình hiện hữu và Ngài là gì đều do chính Ngài.  

III. THIÊN CHÚA, “ĐẤNG HIỆN HỮU”, LÀ CHÂN LÝ VÀ LÀ TÌNH YÊU

DEUS, “ILLE QUI EST”, EST VERITAS ET AMOR 

214. Thiên Chúa, “Đấng Hiện Hữu”, đã tự mạc khải cho Israel như Đấng “giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34,6). Hai từ ngữ ấy diễn tả một cách cô đọng những sự phong phú của Danh Thiên Chúa. Trong mọi công trình của Ngài, Thiên Chúa biểu lộ lòng quảng đại, sự tốt lành, ân sủng và tình yêu của Ngài; Ngài cũng cho thấy Ngài là Đấng đáng được tin tưởng, là Đấng bền vững, trung tín, chân thật: “Xin cảm tạ danh Chúa, vì Ngài vẫn thành tín yêu thương” (Tv 138,2)[13]. Ngài là Chân Lý, vì “Thiên Chúa là Ánh Sáng, nơi Ngài không có một chút bóng tối nào” (1 Ga 1,5); Ngài là “Tình Yêu” (1 Ga 4,8), như thánh Tông Đồ Gioan dạy.  

Thiên Chúa là Chân Lý 

215. “Căn nguyên lời Ngài là chân lý, mọi quyết định công minh của Ngài tồn tại muôn năm” (Tv 119,160). “Lạy Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài là Thiên Chúa, những lời Ngài phán là chân lý” (2 Sm 7,28); vìvậy những lời Thiên Chúa hứa luôn luôn được thực hiện[14]. Thiên Chúa là chính Chân Lý, những lời của Ngài không thể là sai lầm. Vì vậy người ta có thể, một cách hoàn toàn tin tưởng, phó mình cho sự thật và sự trung tín của lời Ngài trong mọi sự. Khởi đầu của tội lỗi và của sự sa ngã của loài người là lời dối trá của Tên Cám Dỗ, nó dẫn con người đến chỗ nghi ngờ lời Thiên Chúa, nghi ngờ lòng nhân hậu và sự trung tín của Ngài.  

216. Chân lý của Thiên Chúa là sự khôn ngoan của Ngài, chỉ huy toàn bộ trật tự của việc tạo dựng và việc điều hành trần gian[15]. Một mình Thiên Chúa đã tạo dựng trời đất[16], nên duy một mình Ngài có thể ban sự hiểu biết đích thực về mọi thụ tạo trong tương quan của chúng với Ngài. [17]

217. Thiên Chúa cũng là Đấng chân thật khi Ngài tự mạc khải: giáo huấn đến từ Thiên Chúa là “Luật của chân lý” (Ml 2,6). Ngài sai Con của Ngài “đến thế gian,” chính là để “làm chứng cho sự thật” (Ga 18,37). “Chúng ta biết rằng Con Thiên Chúa đã đến và ban cho chúng ta trí khôn để biết Thiên Chúa thật” (l Ga 5,20)[18].  

Thiên Chúa là Tình Yêu 

218. Theo dòng lịchsử của mình, Israel đã có thể khám phá ra rằng Thiên Chúa chỉ có một động lực duy nhất khiến Ngài tự mạc khải cho họ và chọn họ giữa mọi dân để họ là dân của Ngài: đó là tình yêu nhưng không của Ngài[19]. Nhờ các Tiên tri, Israel hiểu rằng, cũng vì tình yêu mà Thiên Chúa đã không ngừng giải cứu họ[20] và tha thứ cho sự bất trung và tội lỗi của họ[21].  

219. Tình yêu của Thiên Chúa đối với Israel được so sánh với tình yêu của một người cha đối với con mình[22]. Tình yêu đó còn mạnh hơn tình yêu của một người mẹ dành cho con cái mình[23]. Thiên Chúa yêu dân Ngài hơn người chồng yêu người vợ yêu dấu của mình[24]. Tình yêu đó cũng sẽ chiến thắng những bất trung thậm chí tồi tệ nhất[25],và sẽ đi đến chỗ ban tặng hồng ân quý giá nhất: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài” (Ga 3,16).  

220. Tình yêu của Thiên Chúa “tồn tại muôn đời” (Is 54,8): “Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có lay, tình nghĩa của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi” (Is 54,l0). “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương” (Gr 31,3).  

221. Thánh Gioan còn đi xa hơn nữa khi làm chứng rằng: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8. 16): Chính Hữu Thể của Thiên Chúa là tình yêu. Khi sai Con Một của Ngài và Thánh Thần Tình Yêu lúc thời gian đến hồi viên mãn, Thiên Chúa mạc khải điều bí ẩn thâm sâu nhất của Ngài[26]: chính Ngài là sự trao đổi tình yêu vĩnh cửu: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và Ngài đã tiền định cho chúng ta được dự phần vào sự trao đổi tình yêu đó.  

IV. NHỮNG HỆ QUẢ CỦA ĐỨC TIN VÀO THIÊN CHÚA DUY NHẤT

DE CONSECTARIIS FIDEI IN UNUM DEUM 

222. Tin vào Thiên Chúa, Đấng duy nhất, và yêu mến Ngài hết mình, có những hệ quả rất quan trọng cho toàn bộ cuộc sống của chúng ta.  

223. Đó là nhận biết sự vĩ đại và quyền năng của Thiên Chúa:“Hãy xem, Thiên Chúa cao vời, làm sao ta hiểu thấu” (G 36,26). Vì vậy Thiên Chúa phải là Đấng “được phục vụ trước hết”[27].  

224. Đó là sống trong tâm tình cảm tạ: nếu Thiên Chúa làĐấng duy nhất, thì chúng ta là gì, và có gì, đều là bởi Ngài: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh?” (l Cr 4,7). “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ, vì mọi ơn lành Ngài đã ban cho?” (Tv 116,12).  

225. Đó là nhận biết sự hợp nhất và phẩm giá đích thực của mọi người: Mọi người đều được dựng nên “theo hình ảnh và giống như” Thiên Chúa (St 1,26).  

226. Đó là sử dụng các thụ tạo cách đúng đắn: đức tin vào Thiên Chúa Duy Nhất hướng dẫn chúng ta sử dụng mọi vật không phải là Thiên Chúa nếu chúng đưa chúng ta đến với Ngài, và xa tránh các thụ tạo nếu chúng ngăn cách chúng ta khỏi Thiên Chúa[28]

“Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, xin cất khỏi con những gì làm con xa Chúa. Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, xin ban cho con những gì đưa con đến với Chúa. Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, xin giải thoát con khỏi chính mình con và ban cho con được hoàn toàn thuộc về Chúa”[29].  

227. Đó là luôn tin tưởng vào Thiên Chúa, cả khi gặp nghịch cảnh. Một lời kinh của thánh Têrêsa Giêsu diễn tả ý đó một cách tuyệt vời:

“Đừng để điều gì làm cho bạn xao xuyến;

Đừng để điều gì làm cho bạn lo sợ.  

Mọi sự đều qua đi, Thiên Chúa không thay đổi!

Kiên nhẫn sẽ được tất cả.  

Ai có Thiên Chúa, người ấy chẳng thiếu gì:

Chỉ có Thiên Chúa, là đã đủ”[30].

TÓM LƯỢC

228. “Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất” (Đnl 6,4; Mc 12,29) “Hữu Thể tối cao nhất thiết phải là duy nhất, nghĩa là không ai sánh bằng…. Nếu Thiên Chúa không duy nhất, thì Ngài không phải là Thiên Chúa”[31].

229. Đức tin vào Thiên Chúa quy hướng chúng ta về một mình Ngài, như về nguồn gốc đầu tiên và về cùng đích tối hậu của chúng ta, và không quý trọng sự gì hơn Ngài, hoặc không để một sự gì thay chỗ Ngài.

230. Tuy đã tự mạc khải, Thiên Chúa vẫn còn là mầu nhiệm khôn tả: “Nếu bạn hiểu được, thì Ngài không phải là Thiên Chúa”[32].

231. Thiên Chúa của đức tin chúng ta đã tự mạc khải là Đấng Hiện Hữu; Ngài cho chúng ta biết Ngài là Đấng “giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34,6). Bản thể của Ngài là chân lý và tình yêu.


[1]Catechismus Romanus, 1, 2, 6: ed. P. Rodriguez (Città del Vaticano-Pamplona 1989) 23.

[2]Catechismus Romanus, 1, 2, 8: ed. P. Rodriguez (Città del Vaticano-Pamplona 1989) 26.

[3]X. Pl 2,10-11.

[4]X. Mc 12,29-30.

[5]X. Mc 12,35-37.

[6]CĐ Latêranô IV, C. 1, De fide Catholica: DS 800.

[7]X. Tl 13,18.

[8]X. Xh 3,5-6.

[9]X. Xh 32.

[10]X. Xh 33,12-17.

[11]X. Xh 34,9.

[12]X. Is 44,6.

[13]X. Tv 85,11.

[14]X. Đnl 7,9.

[15]X. Kn 13,1-9.

[16]X. Tv 115,15.

[17]X. Kn 7,17-21.

[18]X. Ga 17,3.

[19]X. Đnl 4,37; 7,8; 10,15.

[20]X. Is 43,1-7.

[21]X. Hs 2.

[22]X. Hs 11,1.

[23]X. Is 49,14-15.

[24]X. Is 62,4-5.

[25]X. Ed 16; Hs 11.

[26]X. 1 Cr 2,7-16; Ep 3,9-12.

[27]Thánh Jeanne d’Arc,Dictum: Procès de condamnation, ed. P. Tisset Y. Lanhers, v. 1 (Paris 1960) 280 và 288.

[28]X. Mt 5,29-30; 16,24; 19,23-24.

[29]Thánh Nicôla Flue,Bruder-Klausen-Gebet, apud R. Amschwand, Bruder Klaus. Ergnzungsband zum Quellenwerk von R. Durrer (Sarnen 1987) 215.

[30]Thánh Têrêsa Giêsu, Poesia, 9: Biblioteca Mistica Carmelitana, v. 6 (Burgos 1919) 90.

[31]Tertullianô, Adversus Marcionem 1, 3, 5: CCL 1, 444 (PL 2, 274).

[32]Thánh Augustinô,Sermo, 52, 6, 16: ed. P. Verbraken: Revue Bénédictine 74 (1964) 27 (PL 38, 360).


Sách Giáo Lý Công Giáo