THIÊN CHUA VÀ TRẦN THẾ
Joseph Ratzinger
Biển-đức XVI.
Thiên Chúa và Trần Thế
Tin và Sống trong thời đại
ngày nay
Trao đổi với Peter Seewald
Phạm Hồng-Lam chuyển ra Việt
ngữ
CHƯƠNG I
THIÊN CHÚA
THIÊN CHÚA Ở ĐÂU?
Làm sao gặp Chúa, và tìm Ngài ở đâu? Có một câu chuyện ngắn: Ngày nọ bà
mẹ dẫn đứa con trai tới gặp giáo trưởng (do-thái). Thầy hỏi cậu bé :
« Nếu cháu trả lời được Chúa ở đâu thì thầy cho cháu một đồng tiền ».
Cậu chẳng phải suy nghĩ lâu, nói ngay: « Và con sẽ cho thầy hai đồng, nếu
thầy trả lời được Ngài không ở những nơi nào ». Sách Khôn ngoan viết,
Thiên Chúa «để cho những người không thử thách Ngài gặp Ngài, và Ngài tỏ mình
ra cho những ai không ngờ vực Ngài ». Nhưng Chúa thật sự ở đâu ?
Ta bắt đầu với sách
Khôn ngoan. Tôi nghĩ, lời « Chúa không để cho những ai thử thách Ngài có
thể gặp Ngài » mang nghĩa rất thời sự. Lời đó có nghĩa, là những ai muốn
đem Ngài lên bàn thí nghiệm thì sẽ không gặp được Ngài. Trong thế giới do-thái
xưa và cả mãi đến ngày nay, người ta đã biết rất rõ chân lí đó rồi. Nếu ta muốn
thử thách Ngài, bằng cách hỏi Ngài có ở đó hay ở kia không, và muốn làm những
điều mà ta nghĩ là Ngài sẽ phản ứng, nếu ta muốn đưa Ngài lên bàn thí nghiệm,
thì đó là lúc ta bước vào một hướng chắc chắn sẽ không gặp được Ngài. Chúa không
thể thử nghiệm. Ngài không phải là vật ta có thể cầm trong tay.
Một người bạn của tôi nói: Chính tôi đã chẳng thấy gì trong một lần
bước vào nhà thờ ngày chủ nhật. Tôi chỉ thấy hoàn toàn không có gì cả.
Chúa không phải là
cái gì có thể áp đặt, Ngài chẳng phải là kẻ một lúc nào đó sẽ la
lên: « Này, Ta đây này ». Sẽ gặp được Ngài, khi ta xem Ngài là
Chúa, chứ không phải khi ta biến Ngài thành tiêu chuẩn đúng sai của lối thí
nghiệm tân tiến và tiêu chuẩn để bám giữ sự sống. Và, xem Ngài như là Chúa, có
nghĩa là ta có một thái độ hoàn toàn khác đối với Ngài.
Với vật chất, ta có
thể khảo nghiệm và áp đặt chúng, vì chúng là những gì thấp hơn ta. Nhưng ta
không thể hiểu một con người, nếu ta cũng dùng lối đó để đối xử với họ. Trái
lại, ta chỉ có thể hiểu họ được đôi chút, khi ta bắt đầu đi vào tâm họ với một
thứ thiện cảm nào đó.
Với Chúa, cũng thế.
Ta có thể tìm Ngài, khi ta gạt bỏ thói ngự trị ra khỏi đầu óc ta. Thay vào đó,
khoác vào mình tinh thần sẵn sàng mở lòng mình ra, sẵn sàng tìm kiếm. Tôi phải
sẵn sàng chờ đợi trong khiêm tốn để đón nhận điều Ngài muốn, chứ không phải để
có được điều tôi muốn.
Nhưng Chúa thật sự ở đâu ?
Ngài chẳng ở chỗ nào
xác định cả, như đã hàm í trong câu chuyện trên rất hay của anh. Nói một cách
tích cực : Không có chỗ nào cho Ngài cả, vì Ngài ở trong mọi sự. Tiêu cực
mà nói thì : Ngài chắc chắn không hiện diện ở nơi nào có tội lỗi. Ngài
không có mặt khi phủ định nâng cái không lên thành quyền lực.
Chúa ở khắp mọi nơi.
Và có nhiều cấp độ khác nhau đưa ta đến gần Ngài, vì mỗi cấp sống cao hơn lại
đưa ta tới gần Ngài hơn. Nhưng ở đâu mở ra tình yêu và trí hiểu, ở đó có một
cách mới để gần Ngài, ở đó đạt tới một hình thức gần Ngài mới.
Như vậy, ở đâu có
lòng tin, hi vọng và tình yêu, ở đó có Chúa, bởi vì những thứ này, khác với tội
lỗi, là không gian đưa ta vào những chiều kích của Chúa. Như vậy, ở đâu có
thiện hảo, ở đó có Chúa hiện diện, hiện diện một cách đặc biệt, vượt lên trên
mọi hiện hữu và hiện tại thường tình. Ta gặp Ngài trong sâu thẳm, khi ta tới
gần những chiều kích tương ứng nhiều nhất với bản chất nội tại của Ngài, đó là
chiều kích của sự thật, của tình yêu, của sự thiện.
« Gặp Ngài trong sâu thẳm » phải chăng có nghĩa là Chúa không
lơ lửng đâu đó ngoài vũ trụ, nhưng Ngài ở trong chính ta, ở trong mỗi người
chúng ta ?
Đúng, thánh Phao-lô
cũng đã nói điều đó với dân Athen nơi toà án thượng thẩm. Ngài đã trích dẫn câu
của một thi sĩ Hi-lạp: Chúng ta chuyển động trong Chúa, chúng ta sống và hiện
hữu trong Ngài.
Chúng ta chuyển động
và hiện hữu trong bầu khí của Chúa là đấng tạo hoá. Điều này, trước hết và nhìn
chung, đã được thể hiện trong đời sống sinh lí của ta. Và điều đó càng đúng,
khi ta càng tiến sâu vào cái đặc thù của Chúa.Ta có thể diễn tả điều đó như thế
này : Ở đâu một người làm điều tốt cho tha nhân, ở đó đặc biệt có sự gần
gũi Chúa. Ở đâu con người mở lòng mình ra với Chúa trong lời nguyện, ở đó đặc
biệt có sự gần gũi với Ngài.
Chúa không có độ lớn
kiểu không gian vật lí. Ngài không ở cao trên hàng trăm ngàn cây số hay ở xa
hàng nhiều năm ánh sáng. Trái lại,gần gũi của Ngài mang tính chất một tình
trạng sống. Ở đâu khuôn mặt và sự hiện diện của Ngài được thể hiện nhiều nhất,
ở đâu có tình yêu và sự thiện, ở đó ta sờ được đấng vô biên một cách đặc biệt.
Nếu như vậy thì cũng có nghĩa Chúa không
hiện diện một cách đương nhiên, bởi vì Ngài không phải bao giờ cũng có mặt sẵn
đấy.
Chúa vẫn có đó, cả
khi ta không cần đến Ngài để rồ máy cuộc sống của ta, nếu muốn nói như thế. Như
vậy, có sự hiện diện của Ngài khắp mọi nơi. Nhưng, món quà được gần Chúa một
cách thâm sâu của ta có thể nhỏ lại hoặc mất đi, mà cũng có thể trở nên lớn
hơn.
Người được Chúa thấm
nhập hoàn toàn đương nhiên ở gần Ngài hơn là kẻ xa hẳn Chúa. Ta hãy nghĩ tới
việc truyền tin cho Maria. Chúa muốn Maria trở thành đền thờ sống động của
Ngài. Đền thờ đó không chỉ là một chỗ ở nơi thân xác Mẹ mà thôi. Và Mẹ đã trở
nên chỗ ở của Chúa, vì Mẹ đã mở lòng ra cho Ngài, vì tâm Mẹ đã hoàn toàn hoà
hợp với tâm Chúa.
Nhưng, có thể có chuyện thỉnh thoảng Chúa lui mình vào bóng tối không?
Einstein* chẳng hạn, ông tôn thờ Chúa như một bậc thầy kiến trúc của
vũ trụ, nhưng cuối cùng ông cũng cho rằng, Ngài chẳng còn thú vị gì nữa với tạo
dựng của Ngài và với số phận của con người.
Tư tưởng coi Chúa là
một nhà đại kiến trúc trên làm cho í niệm Thiên Chúa bị gò bó. Chúa ở đây chỉ
là một giả thuyết bên lề, mà người ta còn cần để có thể giải thích sự hình
thành vũ trụ. Theo đó, có thể nói, Thiên Chúa thoạt tiên phác thảo ra vũ trụ,
và rồi sau đó vũ trụ tự nó cứ việc tiếp tục chuyển động. Ở đây, bởi vì Chúa
thuần tuý chỉ là một căn nguyên vật lí cuối cùng đối với thế giới, nên Ngài
cũng có thể đương nhiên rời khỏi sân khấu. Thiên nhiên giờ đây đã có được sự
độc lập của nó, còn Chúa thì hết nhiệm vụ. Và cũng theo tư tưởng trên, mối liên
hệ tiếp tục của Chúa với tâm con người – nghĩa là với một chiều kích khác của
hiện hữu - tới đây cũng hết, vì nó đã không được dự trù ngay từ đầu trong
chương trình tạo dựng. Như vậy thì Chúa chẳng còn là đấng « sống
động » nữa, mà thật ra chỉ là một giả thuyết, mà người ta rốt cuộc sẽ tìm
cách loại trừ.
Nhưng nhiều nhà thần học cũng nói về « sự vắng mặt của Thiên
Chúa ».
Điều này lại hơi
khác. Kinh Thánh đã nói tới chuyện Chúa dấu mặt. Chúa ẩn mặt trước đám dân bất
tuân. Ngài im tiếng. Ngài không gởi tiên tri đến. Và cả trong cuộc sống các thánh
cũng có những đêm tối. Có thể nói, các ngài bị đẩy vào một thứ vắng mặt, một
thứ im lặng của Chúa, như trường hợp thánh Thérèse ở Lisieux chẳng hạn, và rồi
phải cùng đau khổ cảnh đêm đen của những kẻ không tin.
Nhưng điều đó không
có nghĩa là không có Chúa. Cũng không có nghĩa là Ngài kiệt sức, Ngài chẳng còn
là tình yêu nữa. Đây là những hoàn cảnh của lịch sử con người hoặc của cuộc
sống con người, trong đó vì bất lực không nhận ra Chúa, nên con người đã tạo ra
« bóng đêm Thiên Chúa », như Martin Buber nói. Trong cảnh bất lực hay
cố chấp không muốn nhận diện hay liên hệ với Chúa này của con người, xem ra
Chúa ẩn mặt.
THIÊN
CHÚA MUỐN GÌ?
Thánh Clê-men-tô* ở Alexandria, một trong những giáo phụ lớn
của Giáo hội, có lần nói: « Thiên Chúa vì con người mà dựng nên con người,
và Ngài muốn có con người ». Vậy, nếu Chúa là tình yêu nhưng không, thì
tại sao Ngài lại cứ bắt ta tôn thờ và ngợi ca?
Đức thánh cha Gio-an
Phao-lô II đã dùng lại câu « vì con người mà dựng nên con người »
nhiều chỗ khác nhau trong các thông điệp của ngài. Ngài dùng câu đó dựa theo í
của Immanuel Kant* và suy diễn thêm theo một cách mới. Kant nói, con
người là vật duy nhất mang trong chính mình một mục đích, và không phải trở
thành mục đích cho một cái gì khác. Giáo chủ thì nói : Thật ra, con người
mang trong chính mình một kết thúc, và về phần nó, nó lại không phải là mục
đích cho một cái gì khác.
Điều đó cũng là thành
trì chở che vững vàng cho mỗi con người. Bởi vì Thiên Chúa tạo hoá muốn rằng,
không ai có quyền dùng kẻ khác như một phương tiện - dù kẻ đó nghèo hèn hay yếu
kém-, cho một mục đích nào đó cao hơn. Ngày nay, trước những thí nghiệm con
người, ngay cả việc thí nghiệm phôi thai, điều đó đã trở thành một chân lí cao
trọng, nó trở thành một thành trì bảo vệ rất quan trọng cho phẩm giá con người.
Nhân quyền chẳng là gì khác ngoài việc không được biến con người thành phương
tiện, nhưng là để cho họ có được một phẩm giá bảo toàn.
Nhưng sự kiện đó
không có nghĩa là con người hành động đúng, khi nó tự khép kín, khi nó chỉ biết
có mình nó mà thôi. Con người là một vật tương giao.
Nghĩa là gì ?
Trước hết, con người
được dựng nên để hướng về tình yêu, hướng về giao tiếp với người khác. Nó không
phải là vật chỉ sống cho mình, chỉ biết có mỗi mình mà thôi, không phải là một
ốc đảo, nhưng bản chất của nó là giao tiếp. Không có giao tiếp, nó sẽ tự huỷ.
Và con người giống Chúa là chính chỗ đó. Là vì, như giáo huấn về Chúa ba ngôi
dạy, bản chất của Chúa cũng là tương giao.
Như vậy, tương giao
của con người trước hết là tương giao giữa người với người, nhưng đó cũng là
tương giao với cái vô cùng, với chân lí, với chính tình yêu.
Đó là điều bắt buộc?
Tương giao đó hẳn
không hạ giá con người. Nó không biến con người thành phương tiện, nhưng trao
cho con người tầm lớn của nó, vì chính con người ở trong một tương giao trực
tiếp với Chúa và con người trực tiếp được Chúa muốn. Vì thế, không được phép
nhìn việc thờ phượng Chúa như là một công việc bề ngoài, như thể đó là chuyện
Chúa muốn, hoặc như thể là Chúa cần những nịnh bợ. Chuyện đó xem ra trẻ con,
thật khó chịu và buồn cười.
Vậy thì thế nào?
Thờ phượng hiểu đúng
nghĩa, là tôi sống đúng với bản chất tương giao của con người tôi, như vậy là
tôi sống đúng với mục đích hiện hữu của đời tôi. Và đó là một cuộc sống theo í
Chúa, nghĩa là đi tới đồng í với chân lí và với tình yêu. Đây không phải là ta
làm một cái gì để Chúa cũng được vui. Thờ phượng nghĩa là chấp nhận đường bay
của mũi tên cuộc đời mình. Chấp nhận rằng mục đích của đời tôi không phải là
cho chính mình, nhưng tôi phải vươn lên trên mọi mục tiêu khác. Nghĩa là vươn
tới hợp nhất với đấng muốn tương giao với tôi, và đấng đó đồng thời cũng để tôi
hoàn toàn tự do trong hành động mình.
Và đó thật là điều Chúa muốn nơi ta ?
Đúng.