Joseph
Ratzinger
Biển-đức
XVI.
Thiên
Chúa và Trần Thế
Tin
và Sống trong thời đại ngày nay
Trao đổi với Peter Seewald
Phạm Hồng-Lam chuyển ra Việt ngữ
CHƯƠNG II
ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ
THIÊN CHÚA TỰ SỬA SAI ?
Các lề luật cũ, từ nghi thức tế lễ cho tới cả chuyện khốn nạn “Mắt đền
mắt, răng đền răng” cũng được bãi bỏ sau khi đức Ki-tô xuất hiện. Như vậy, có
thể nói được rằng Thiên Chúa đã phải tự sửa sai?
Tôi muốn nói lại chuyện lịch sử. “Mắt đền mắt, răng đền răng” nghe ra
kinh khủng thật, nhưng trước hết có thể nói đó là một nguyên tắc điều hoà và
hợp lí hoá việc trả thù, không để nó vượt ra khỏi khuôn khổ của hành vi tương
ứng. Xem thế thì đó là một tiến bộ rồi, so với luật pháp đương thời. Ở đây phải
nói thêm, nếu không có tình yêu thì cái tiến bộ về í thức pháp luật đó cũng
chẳng giải quyết được gì, chỉ có tình yêu mới bẻ gãy vòng trả thù luẩn quẩn và
mới tạo ra được một thực tại mới.
Trong cuộc trao đổi này chúng ta đã đề cập tới câu: “Ta đến không phải để
xoá bỏ luật, nhưng để kiện toàn nó”. Chúng ta đã bàn tới câu đó một cách cụ thể
trong câu chuyện về của lễ Đền thờ. Của lễ luôn chỉ là một vật thay thế. Và giờ
đây, khi nhân vật mang của lễ đích thật xuất hiện, và qua đó giúp ta có thể hi
sinh cho Chúa, thì toàn bộ í nghĩa về việc tế lễ kia đã hoàn tất trong Ngài. Và
chính Ngài là đền thờ sống động thay cho mọi thứ đền thờ. Như vậy, Ngài đến
không phải để xoá bỏ cái gì, nhưng là để đưa nó đạt tới đích.
Trong í nghĩa đó, của lễ dâng cho Đền thờ đã được hiện tại hoá trong Mình
Thánh, một hình thái mà trước đó mới chỉ có được những hình ảnh xa gần mà thôi.
Như vậy, có thể nói, Thiên Chúa đã không tự sửa sai. Nhưng trái lại, Ngài giúp
ta thấy được động lực nội tại và hướng tới của con đường mà Ngài thoạt tiên đã
mở cho ta, nhưng ta chưa thể đi tới nổi. Í nghĩa thực sự của con đường đó giờ
đây đã được kiện toàn và có được đúng chỗ của nó.
Kinh Thánh nói về một “Is-ra-en mới, một dân thiên chúa mà Ngươi đã gọi”.
Nghĩa là giờ đây, với sự xuất hiện của đấng Cứu tinh, những người đi theo Ngài,
các ki-tô hữu, trở thành dân mới, dân được Thiên Chúa chọn riêng?
Vâng, có thể nói được như thế. Có thể nói đó là Is-ra-en mở rộng. Thánh Phao-lô nói rõ, con cái
Ab-ra-ham không phải chỉ là những người máu mủ, nhưng là tất cả những ai có chung
đức tin với ông. Như vậy, vòng máu mủ của Is-ra-en được nới rộng ra bởi cộng
đoàn đức Ki-tô. Nhờ vào một quyết định nền tảng (nhất là vào một quà tặng) mà
cộng đoàn này đã trở thành một dân, khiến cho lời hứa giờ đây trở thành phổ
quát.
Chữ được chọn nghe không
ổn lắm, vì nó gợi lên sự hạn chế, cho rằng ta đây là kẻ tốt hơn. Theo nghĩa ban
đầu của Kinh Thánh, chữ này muốn nói tới việc Chúa chọn một dân tộc, để giao
cho họ một công tác, và để họ thông báo tới những dân khác một điều gì. Như
vậy, được chọn luôn có nghĩa là chọn cho
một việc gì đó. Về một khía cạnh nào đó, có thể nói, kẻ được chọn phải
mang gánh nặng, vì phải nhận trách nhiệm cho kẻ khác.
Trong í nghĩa đó, í niệm được chọn và í niệm Is-ra-en bao gồm tất cả
những ai nhờ qua đức Ki-tô trở thành con cháu của Ab-ra-ham, trở nên con cái
của Thiên Chúa hằng sống. Tuy nhiên, họ không phải được chọn để sống cho người
khác, hầu có được hộ chiếu đặc biệt bước qua cửa thiên đàng, nhưng là để tham
dự vào việc phục vụ đức Ki-tô, vào công tác của Is-ra-en đối với lịch sử.
9. ÁNH SÁNG
Quái lạ : Thiên Chúa toàn năng vô cùng lại chọn một chốn hèn kém
nhất ở trần gian, một chuồng súc vật sơ sài ở Bê-lem, để sinh ra. Và lập luận
của Giáo hội : Chỉ vì điều đó quá khó tin và quá mâu thuẫn nên nó phải là
chuyện có thật.
Lối lập luận đó không đủ. Nhưng thật ra, việc chọn cái bé nhỏ là nét đặc
thù trong lịch sử Thiên Chúa với con người. Cái đặc thù đó ta thấy trước hết
qua việc Ngài chọn trái đất, một hại bụi trong vũ trụ, làm nơi hành động; trong
đó dân tộc yếu đuối như Is-ra-en lại được chọn để mang lấy lịch sử của
Ngài ; rồi Na-da-ret, một chốn hoàn toàn không ai biết đến, trở thành quê
hương Ngài ; và rồi cuối cùng Con Thiên Chúa lại sinh ra ngoài làng
Bê-lem, trong một chuồng súc vật. Tất cả như một sợi chỉ đỏ.
Chúa dùng đơn vị đong đo duy nhất của Ngài là tình yêu để đối lại thói
kiêu căng của con người. Kiêu căng chính là hạt nhân, là nội dung chính của mọi
tội lỗi, nghĩa là của cái tự-coi - mình- muốn- bằng- Thiên Chúa. Tình yêu, trái
lại không phải là tự cao, mà tự hạ. Tình yêu cho thấy chính lúc hạ mình là lúc
ta vươn lên. Chính khi ta hạ mình, khi ta trở nên đơn giản, cúi xuống với kẻ
đói rách, nghèo hèn, khi đó ta mới thật lên cao. Chúa trở nên bé nhỏ, để đưa
con người dương dương tự đắc trở về lại đúng chỗ của nó. Xem thế thì quy luật
của sự bé nhỏ là khuôn thước nền tảng của hành động Thiên Chúa. Quy luật đó
giúp ta nhận ra bản chất Thiên Chúa, và
cả chính bản chất của ta. Như vậy, lập luận trên tự nó đã chứa đựng một luận lí
cao và trở thành chỉ dấu cho sự thật.
Cảnh tượng giáng sinh đã trở thành nổi tiếng thế giới, và Friedrich
Händel* đã biến nó thành bất tử qua bản nhạc đại hợp
xướng « Messias ». Một thiên thần, bao bọc bởi hào quang thiên
chúa, xuất hiện giữa đêm đen báo tin cho
những người canh giữ súc vật : « Các bạn đừng sợ ! Tôi báo cho
các bạn một tin vui lớn ». Và trong khi thiên thần đang nói, từng đoàn
thần linh thiên quốc quần tụ quanh ngài đồng xướng lên lời ca vang vọng trần
gian : « Vinh-danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người
lòng ngay ».
Đó quả là một trong những cảnh đánh động con tim nhất của Kinh Thánh. Sự
đánh động đó đã có từ thời Giáo hội sơ khai rồi, cứ nhìn vào nghệ thuật thời đó
ta có thể thấy điều này. Cảnh tượng đó đi vào lòng người, nhưng sứ điệp của nó
còn vươn xa hơn những gì thú vị và đáng yêu.
Cũng lại những người bình dân mộc mạc là những kẻ đầu tiên được gọi tới
máng cỏ. Hê-rô-đê không biết chuyện xẩy ra. Cả các nhà thông thái thoạt tiên
cũng không biết. Tin vui đã tới với những người chăn súc vật, những người đang
trông chờ ơn cứu độ của Thiên Chúa đến với họ. Họ là những người sẵn sàng và
biết mở lòng đón nhận. Những người này, cùng với Maria và Giu-se, với Si-me-on
và An-na, với E-li-sa-bet và Za-ka-ria-a, là đại biểu của giới nghèo hèn trong
Is-ra-en – và như thế là toàn bộ Dân Thiên Chúa. Chúng ta đã thấy trong Thánh
Vịnh chữ kẻ nghèo và kẻ lòng nhân là từ chỉ bao trùm thành
phần tín hữu ở giữa trong dân Is-ra-en. Cũng như khi đức Ki-tô khen các trẻ nhỏ
là Ngài khen những tâm hồn đơn sơ biết nhìn và lắng nghe tin vui của thiên
thần.
Nhóm người thứ hai tới Bê-lem, như Tin Mừng Mat-thêu cho hay, là những
nhà thông thái từ phương đông. Rất có í nghĩa. Kẻ đơn sơ đi trước, nhưng các
nhà trí thức cũng không bị loại ra ngoài. Nơi họ có một sự khôn ngoan đích
thực, khiến họ mở lòng mình ra cho đức Ki-tô. Và còn một điều quan trọng nữa.
Những nhà thông thái tới máng cỏ là người ngoại. Đây có thể nói là những hình
ảnh nói lên chuyển động của Giáo hội, của người ngoại.
THỜI ĐIỂM QUAN TRỌNG NHẤT CỦA LỊCH SỬ
Giám mục người Đức
Rudolf Graber cho rằng biến cố kia đã « vượt xa vô cùng biến cố tạo dựng
vũ trụ ». Chưa bao giờ có một biến cố lớn như thế xẩy ra, và cũng không
bao giờ sẽ xẩy ra một biến cố mang tầm vóc như thế : « Bởi vì việc
con một của Thiên Chúa, ngôi hai Thiên Chúa, sẵn sàng làm người trong một địa
cầu tí hon này là chuyện vượt trên tất cả mọi cái có thể tưởng tượng ».
Vâng, đó là một bài học rất quan trọng, để ta hiểu được đúng í niệm về
cái lớn và cái bé. Nhìn trên khía cạnh vật chất, việc tạo dựng vũ trụ là một
biến cố lớn lao vô cùng. Bên cạnh đó, biến cố nhỏ nhoi xẩy ra ở Bê-lem, mà các
sử gia thoạt tiên đã bỏ quên, quả là chuyện không đáng bàn tới.
Xét về lượng thì hai biến cố trên khác xa nhau. Tuy nhiên, nếu ta thấy
được chỉ một trái tim người mà thôi cũng là một độ lớn mới trước toàn cảnh của
vũ trụ, như Pascal nói, thì lúc đó ta sẽ hiểu được việc Thiên Chúa làm người,
việc đấng Tạo dựng, Lời muôn đời (Logos)
chấp nhận bước vào thân phận làm người và tự buộc mình vào thân phận đó,
cũng là một độ lớn khác hẳn. Thiên Chúa xuống trần và trở thành người. Đứng
trước chiều kích này, cái độ lớn xem ra vô cùng của thế giới vật chất cũng trở
thành nhỏ.
Biến cố đức Giê-su sinh ra đã trở thành huyền thoại lớn nhất cho mọi thời
từ hai ngàn năm nay. Ngày nay, không ai mà không biết đến đêm đó. Không đâu
trong Giáo hội niềm tin thể hiện tràn bờ như trong biến cố này. Giáng sinh có
một lượng biểu tượng, giá trị, đạo đức và u sầu, nghĩa là một lượng về thực thể
con người, không gì sánh nổi. Đôi lúc tôi nghĩ, chúng ta biết nhiều về giáng
sinh thật, nhưng hẳn giáng sinh biết chúng ta nhiều hơn nhiều.
Có lẽ, một lần nữa, ta phải thống nhất với nhau về nghĩa chữ « huyền
thoại ». Ngày nay, chữ này được hiểu theo nghĩa tích cực, nó nói lên một
thứ viễn kiến về những thực tại vượt khỏi giác quan con người, như vậy nó chứa
đựng một chân lí cao hơn cái thuần thực tại đang có. Nhưng, cho dù mang nghĩa
tích cực đó, « huyền thoại » chống lại lịch sử. Nó là viễn kiến, chứ
không phải sự kiện thực tế. Việc đức Ki-tô giáng trần, trái lại, là một biến cố
lịch sử, một cái gì đã diễn ra thật và đã trở thành biến cố lịch sử. Việc gắn
liền với lịch sử thật đó là một nét đặc thù của lịch sử ki-tô giáo.
Quả thật lạ lùng, cái đêm trong chuồng súc vật, trong hang đá đó, thoạt tiên
được các mục đồng để í đến khi nghe thiên thần loan tin, giờ đây đã trở thành
một dấu chỉ vượt ra ngoài thế giới ki-tô giáo, hầu như chẳng còn ai mà không
biết đến. Nhưng ta cũng phải nói thêm, song song với việc phổ quát hoá đó cũng
có một tiến trình tầm thường hoá ghê sợ xẩy ra.
Ngày nay, khuynh hướng muốn đẩy Ki-tô giáo ra khỏi lễ giáng sinh ngày
càng mạnh, nó giống như một hoả tiễn, sau khi lên được độ cao nhất định, liền
tách khỏi phần dưới của nó. Ở Mĩ châu, với đà thương mại hoá và tình cảm hoá,
lễ giáng sinh trở thành nơi trưng bày cho các cơ sở thương mại lớn. Trước đây,
họ trang hoàng giáng sinh với hang đá, nay với những cảnh huyền thoại, nào là
với nai, hươu và các ông già Nô-en, từ đó biến cái ki-tô giáo ra thành cái
huyền thoại thật. Dĩ nhiên, vẫn còn cái dư âm chói sáng đánh động con người,
khi họ nhận biết Thiên Chúa đã trở thành người. Nhưng đó chỉ là nỗ lực tìm cách
giữ lại vẻ đẹp và cái rung động, còn cái í nghĩa cao sâu hơn nằm trong đó thì
người ta lại bỏ đi.
Giáng sinh cho ta thấy, bên cạnh tất cả những suy tưởng và tình cảm lớn,
cả những điều hoàn toàn mâu thuẫn, những điều dối trá trong thế giới – và cả
những hoài nghi lẫn không tin của ta.
Người ta đã đem quá nhiều tiếng nói của con tim, quá nhiều yếu tố giá trị
lớn và quan trọng vào trong biến cố giáng sinh, khiến thoạt nhìn vào, ta có thể
thành tâm nói được, là nếu lột hết những thứ đó đi, thì biến cố đích thực kia
chẳng còn lại gì (làm vậy là cướp đi nội dung cao cả của giáng sinh, biến nó
một cách nào đó trở thành trống rỗng). Nhưng cũng chẳng sao, biết đâu những
điều thêm thắt quan trọng và dễ hiểu kia, dù chúng vượt ra khỏi vòng Ki-tô
giáo, có thể đưa người ta tìm lại được đức tin. Bí ẩn của đứa trẻ, của sự giản
dị, của lòng khiêm nhu – đó là tất cả những gì toát ra từ biến cố giáng sinh.
Và ta cũng rất cần đưa vào những bài học mang tính con người đó, để qua đó thấy
được khía cạnh nhân tính của Thiên Chúa.
Phong tục tặng quà thật ra bắt nguồn từ một suy nghĩ lớn. Đứa trẻ là quà
tặng của Thiên Chúa cho con người, vì vậy giáng sinh có thể là ngày để người ta
trao quà cho nhau. Nhưng nếu việc tặng quà trở thành những chiến dịch thương
mại bó buộc, thì việc trao tặng mất í nghĩa. Và rồi, đúng như câu của đức Ki-tô
nói với các môn đệ : Đừng làm như người ngoại đạo, họ mời người khác, vì
họ cũng muốn được mời lại. Nếu chỉ còn là một cuộc trao đổi hàng hoá thuần tuý,
thì giáng sinh đã bị khống chế bởi tư dục, nó trở thành một phương tiện cho
tính ích kỉ vô đáy và cho lòng hám của lẫn hám quyền – mà thật ra sứ điệp giáng
sinh hoàn toàn trái ngược lại. Đem giáng sinh trở về lại nội dung đơn giản của
nó, đó có lẽ là một nhiệm vụ lớn của chúng ta.
ÁNH SÁNG TRẦN GIAN
Đức Ki-tô không phải là người được soi sáng, nhưng chính Ngài là ánh
sáng. Ngài không chỉ là đường, mà còn muốn mình là đích tới nữa. Hồng i có lần
bảo, biến cố ở Bê-lem «là bước đột phá quyết định của lịch sử thế giới đưa tới
việc kết hợp con người với Thiên Chúa ».
Thiên Chúa đã thật sự làm người, đó là một biến cố vĩ đại. Ngài không
phải chỉ mượn thân xác con người để hoàn thành một nhiệm vụ nào đó trong một
thời điểm của lịch sử - nhưng đã là người sống trong lịch sử, và cuối cùng đã
giang hai tay trên thập giá, để mở ra không gian cho chúng ta có thể bước vào.
Nếu giờ đây Con Người - Thiên Chúa này, như Kinh Thánh nói, muốn đưa tất
cả chúng ta vào trong Ngài, muốn kéo chúng ta vào làm một thân xác duy nhất
sống động, như hai người nam và nữ trở thành một xương thịt như ta đọc thấy
trong Kinh Thánh, thì ta sẽ thấy đây không phải là một biến cố đơn lẻ, nó rồi
sẽ biến đi như nó đã xuất hiện. Không, đây là một đột phá, một khởi đầu, mà đức
Ki-tô qua Thánh Thể, qua các bí tích và phép rửa muốn kéo ta vào trong đó.
Trong í nghĩa đó, ở đây thật sự đã có một hoà tan giữa Thiên Chúa và con người,
giữa Tạo hoá với tạo vật, đó là một cái gì vượt trên mọi quy luật tiến hoá. Đây
không còn là một bước tiến của tiến hoá, phát sinh từ lực thiên nhiên, nhưng là
một đột phá tung cửa, là hành động yêu thương của một con người, mở ra từ giây
phút đó một không gian mới và một khả thể mới cho nhân quần.
Ngài có lần nói, đức Giê-su là « con người kiểu mẫu, con người của
tương lai, qua Ngài ta thấy được khả năng hoàn thiện bản thân ta trong tương
lai ». Phải chăng điều này có nghĩa là về lâu về dài chúng ta sẽ trở nên
toàn hảo được giống như đức Giê-su Ki-tô ?
Trên thực tế, nhờ đức Giê-su Ki-tô, ta đang vươn tới con người mới. Ngài
là mẫu gương cho bản thân ta nhắm tới.
Tôi không muốn nói rằng, con người sẽ chỉ tiến lên giống Ngài về các khả
năng bên ngoài mà thôi. Nhưng khung hình nội tâm của Ngài, và cuối cùng là sự
hi sinh tự hiến trên thập giá của Ngài, mới là khuôn thước kiểu mẫu cho nhân
loại tương lai. Không chỉ có việc đi theo Ngài hay bước vào con đường của Ngài.
Mà tâm ta còn phải tự đồng hoá với Ngài, như Ngài đã tự đồng hoá với ta. Tôi
nghĩ, đó mới thật là đích điểm đi tới của con người.
Nhìn vào những tấm gương lớn theo Ngài trải dài trong nhiều thế kỉ, ta
mới nhận ra được những gì ẩn chứa trong con người đức Giê-su Ki-tô. Đây không
phải là ta thổi phồng lên một khuôn mẫu lí tưởng, nhưng qua họ ta thấy được tất
cả những khả thể làm người. Một Thérèse ở Lisieux, một thánh Don Bosco, một
Edith Stein*, một tông đồ Phao-lô hay một Tô-ma ở Aquino, các
ngài đã học đức Ki-tô để trở thành người. Tất cả các ngài đã trở nên thật giống
đức Ki-tô, nhưng mỗi người trong họ vẫn có một mẫu sống riêng.
Trong một bài giảng, có lần ngài giải thích, các ngọn nến mùa vọng nhắc
nhở các em về những ngàn năm của lịch sử nhân loại trước đức Ki-tô, những ngàn
năm của tăm tối và chưa được cứu rỗi. Và ki-tô hữu đã đặt cho thời gian sau khi
Chúa sinh ra một cái tên thật đẹp : « anni salutis reparatae »,
những năm của ơn cứu độ được tái lập.
Nếu
ta quan niệm thời gian cứu độ một cách máy móc, xem đó như là một cái gì đã
được thiết lập chắc chắn, cứ việc vào đó nhặt ơn cứu độ mà xài, thì điều đó
chắc chắn không đúng. Ta vẫn thấy thực tế luôn phản lại quan niệm trên. Chẳng
hạn, chưa bao giờ có những cuộc chiến man rợ và sắt máu như trong thế kỉ ta
đang sống. Nó xấu xa hơn mọi thời gian trước đó, vì ta không có được những
phương cách để kiểm soát sự dữ một cách tinh vi, hữu hiệu và hợp lí.
Ơn cứu độ đã được trao tặng cho ta không phải là một cái gì máy móc và
bên ngoài. Nó được tín thác vào tự do, và như thế cũng được đặt vào sự mỏng dòn
của tự do và vào bản chất dễ sa ngã của con người. Ơn cứu độ luôn khởi sự một
cách mới mẻ nơi mỗi người, chứ nó không đơn giản đã có sẵn đó. Nó không do từ
bên ngoài hay do quyền lực mà có, nhưng chỉ bước vào khi tự do của ta mở cửa.
Nhưng trên hết và trong mọi chuyện vẫn là Chúa, Ngài đi tới với ta và cho ta hi
vọng, hi vọng này mạnh hơn mọi phá hoại và nó giúp con người trở nên hoàn
thiện.
* Händel (1685 – 1759): nhạc sĩ sáng tác người Đức, đặc biệt nổi tiếng với nhiều vở nhạc kịnh, trong đó có vở „Messias“.
* Edith Stein (1891 – 1942): người Đức gốc Do thái, triết gia, môn sinh của nhà hiện tượng học Edmund Husserl. Vào đạo công giáo, sau khi đọc cuốn sách tự thuật của thánh Teresa ờ Avila, và trở thành nữ tu dòng. Chết trong lò thiêu của Quốc-xã Đức. Năm 1998 được giáo chủ Gio-an Phao-lô II nâng lên bàn thánh.