THIÊN CHÚA VÀ TRẦN
THẾ
Joseph Ratzinger
Biển-đức XVI.
Thiên Chúa và Trần Thế
Tin và Sống trong thời đại ngày nay
Trao đổi với Peter Seewald
Phạm Hồng-Lam chuyển ra Việt ngữ
CHƯƠNG II
ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ
Một câu đầy bí hiểm?
Đức Giê-su nói, những gì đã được ban cho hiểu
nơi các ngươi cuối cùng đã trở thành chai cứng và không còn hiểu được. Các
ngươi có thể an thân ẩn nấp sau những hàng chữ bề mặt – và bám lại ở đó, thành
ra chẳng muốn hiểu gì nữa. Như thế, lời Chúa có thể nói trở thành lời phán xét,
vì người ta cứ bám vào vỏ chữ, chẳng còn muốn hiểu vào chiều sâu của chúng.
Dụ ngôn có mục đích đưa con người tới gần những
cái không thể hiểu. Về mặt sư phạm, dụ ngôn quả là một phương pháp tuyệt diệu.
Những bí ẩn cao xa, muôn đời được kể ra trong những câu chuyện thường nhật, nhờ
đó bí ẩn thiên chúa bỗng sáng ra, dễ hiểu ra. Và qua những điều tầm thường, qua
hạt giống, mùa gặt, qua những câu chuyện như chuyện La-da-rô hay người
Sa-ma-ri-ta, cái cao cả lớn lao lại hiện ra.
Thiên Chúa đến với con người qua đức Ki-tô.
Ngài dùng ngôn ngữ loài người để nói với họ, trình bày ngôn ngữ đó bằng những
kinh nghiệm, hiểu biết, cơ cấu sinh hoạt hàng ngày của họ, để nhờ cái gần gũi
và thường nhật đó mở ra cho họ thấy được cái cơ bản. Trong í nghĩa đó, lời Chúa
quả thật mang tính vượt thời gian và toả trùm mọi văn hoá, vì nó nối liền với
những sinh hoạt uyên nguyên của con người.
Nhưng rõ ràng lời Chúa còn mang thêm một cấp
độ, một mật mã khác. Ngài đã có lần nói, muốn hiểu lời Chúa thì buộc „phải cùng
sống với đức Ki-tô. Những ai chỉ muốn hiểu lời đó bằng trí óc, qua lịch sử hay
bằng phỏng đoán, thì không thể nào hiểu nổi“.
Nếu tôi đọc Kinh Thánh một cách hời hợt và
không quan tâm tới tính siêu việt của nó nằm nơi những diễn biến đơn giản, thì
tôi lạc đường, không đi vào được nội dung của dụ ngôn.
Mỗi dụ ngôn dẫn tôi bước vào một con đường.
Thoạt tiên tôi thấy những gì ai cũng thấy, những gì tôi đã biết. Và rồi tôi
biết là không phải chỉ có thế. Như vậy, tôi phải học nhìn vượt qua những cảm
nhận thường nhật. Nếu như tôi, trái lại, cứ bám vào bề mặt và không nhìn
xuyên qua được cái thường ngày, thì tôi sẽ chẳng nhìn ra được sự thật nằm sâu
trong câu chuyện, và nhất là dụ ngôn bao giờ cũng gắn liền với chính cuộc sống
của đức Giê-su. Một số dụ ngôn trở thành một thứ chìa khoá để hiểu tiểu sử tự
thuật của đức Giê-su, và tiểu sử đó lại chỉ biểu hiện qua chính cuộc sống và
khổ nạn của Ngài.
PHÉP LẠ HOÁ BÁNH
Một câu chuyện trong Tin Mừng thường hay được
kể, chẳng có gì vòng vo mà cũng chẳng có gì khó hiểu: Phép lạ hoá bánh.Chuyện
xẩy ra một nơi hẻo lánh nào đó ở Ga-li-lê-a. Nhiều người quây quần quanh đức
Giê-su. Có lẽ họ say mê nghe Ngài giảng. Bỗng dưng trời đổ chiều, mà chẳng ai
để í. Các môn đệ yêu cầu Ngài bảo dân ai nấy trở về làng mình, bởi vì ở đây
chẳng có của ăn cho họ và cũng chẳng có chợ búa nào gần cả. Đức Giê-su điềm
nhiên trả lời: “Cho họ ăn”.Chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá, nghĩa là có sẵn
bảy đơn vị. Sách viết: “và Ngài cầm năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên
trời, nói lời ngợi khen, rồi bẻ bánh trao cho các môn đồ. Nhờ đó mọi người được
no nê, năm ngàn người đàn ông và một số đàn bà và con trẻ. Khi nhặt những mảnh
bánh dư, người ta còn chất đầy đúng 12 giỏ”.
Câu chuyện có hai chiều kích, vừa sự kiện vừa í
nghĩa biểu trưng. Người ta chờ đợi thời của đấng Messias, chờ đợi phép lạ Manna
tái xuất hiện. Người ta tin rằng, đấng Cứu thế sẽ cho họ ăn, và bánh sẽ chính
từ trời rơi xuống.
Đức Giê-su giờ đây có í muốn chuyển phép lạ
Manna lên một chiều kích khác. Đó là Thánh Thể. Với bánh của chính thân xác
Ngài, và bánh đó sẽ tiếp tục hoá ra thêm mãi suốt dòng lịch sử cho tới ngày
nay. Bánh đó có thể được phân chia mãi, không bao giờ hết.
Qua phép lạ Manna mới đó, đức Giê-su muốn diễn
lại cảnh Manna cũ, đồng thời có í dẫn tới một cái gì hoàn toàn khác, có thể nói
khiêm tốn và đòi hỏi hơn. Về chiều sâu, đây mới là phép lạ lớn hơn nhiều. Cái
lớn đó cũng nằm nơi việc không phải là bánh từ trời rơi xuống, nhưng là việc
con người cùng chia sẻ cho nhau.Phép lạ đó mở ra một viễn tượng nhiều í nghĩa
cho cuộc sống con người và tương lai giáo hội. Câu chuyện đó đồng thời
cũng gây phân rẽ nơi con người. Một số người coi Ngài đúng là vị Messias, muốn
đẩy Ngài lên ngai vua và ép Ngài vào con đường chính trị. Và vì Ngài từ chối
làm chuyện đó nên giờ đây lại có dư luận bảo Ngài chẳng phải là Messias. Từ
giây phút đó có sự phân rẽ đôi đường: kẻ thì chống, người thì đi theo Ngài vào
khổ nạn.
Câu chuyện có thật hay chỉ là một biểu tượng?
Ngày nay, nhiều nhà chú giải tin vào định luật
thiên nhiên, cho rằng chuyện đó không thể xẩy ra, và bảo đó chỉ là biểu tượng.
Thực tế thì câu chuyện có một nội dung biểu trưng rất lớn. Nhưng chúng ta cũng
đừng vội hạn chế khả năng vô lường của Chúa. Trong Giáo hội cũng đã có những
chuyện tương tự.
Vừa rồi tôi tới Turin, và một linh mục dòng già
kể cho tôi nghe về hai sự kiện lạ lùng đã xẩy ra trong đời thánh Don Bosco. Một
lần vì sơ suất người ta đã không làm phép đủ bánh thánh. Khi cho rước lễ, chỉ
còn cỡ mười tới hai mươi bánh thánh cho một khối vô cùng đông người trẻ. Don
Bosco chẳng nao núng gì, ngài bảo “Cứ an tâm phân phát, có đủ cho mọi người”.
Và ai cũng nhận được Mình Thánh.
Lần khác, sau một ngày làm việc mệt nhọc, ngài
hứa cho đám trẻ con ăn hạt dẻ khô. Ngài bảo mẹ chuẩn bị dẻ dùm. Nhưng bà mẹ
hiểu sai, chỉ rang đủ dẻ cho độ một chục đứa trẻ mà thôi. Khi nhận ra lầm lẫn
của mỉnh, bà mẹ hốt hoảng. Nhưng ngài bảo: “Mẹ đừng lo, cứ phân phát cho chúng,
không những đủ mà còn có dư để chúng mang về nữa”. Và quả thật như vậy. Có rất
nhiều người đã chứng kiến những chuyện đó.
Vì thế, ta không nên cản ngăn Chúa làm những
việc mà thường ra không thể xẩy ra nổi.
ĐỨC GIÊSU và
CÁC PHỤ NỮ
Đức Giê-su thường phá bỏ các rào cản quy ước.
Ngài minh nhiên đi tới với những người tội lỗi và người nghèo khó. Và Ngài có
một liên hệ đặc biệt với các phụ nữ. Chuyên viên Kinh Thánh người Do-thái, ông
Schalom Ben-Chorin, cho rằng đức Giê-su „không phải là người chay tịnh, nhưng
Ngài là người ham vui sống“. Phụ nữ luôn nhìn Ngài với một ánh mắt lạ lùng. Có
thể nghĩ được rằng Ngài cũng là một người có quan hệ tình dục với phụ nữ?
Không có chuyện tình dục trong quan hệ bạn bè
của Ngài. Con người đức Giê-su thuộc vào một cấp độ khác. Nhưng, như chúng ta
thấy qua các trình thuật Tin Mừng về những liên hệ của Ngài, Ngài vẫn có khả
năng làm bạn và yêu thật sự. Đúng, chính các bà là những người bén nhạy đã cảm
ra được cái mới, cái khác, cái lớn lao, cái bí ẩn trong con người Ngài, và Ngài
đặc biệt đã kéo các bà vào trong cộng đoàn của mình. Trái với thói quen đương
thời nơi người Do-thái, coi phụ nữ là hạng thấp kém, đức Giê-su có thể nói đã
tạo nên một cái gì như là giải phóng phụ nữ. Do địa vị xã hội, phụ nữ một cách
nào đó thuộc vào loại những người bé nhỏ, mà Chúa muốn hướng về họ và yêu
thương họ một cách đặc biệt. Làm như thế là Ngài cũng đã khơi dậy đoàn sủng của
phụ nữ. Trong quan hệ với Ngài, ta thấy đặc biệt có hai người ở Bê-ta-ni-a. Hai
khuôn mặt này cho ta thấy vai trò quan trọng và sống động của nữ giới trong
việc xây dựng Giáo hội.
Đó là hai chị đã trung thành theo Ngài mãi tới
chân thập giá. Trong khi đó thì các ông đã chạy hết. Đức Giê-su đã trừ bảy tà
thần ra khỏi Maria Ma-đa-lê-na. Không phải Phê-rô hay Gio-an, mà chính chị là
người đầu tiên được thông báo biến cố phục sinh của Ngài. Đây quả là một chuyện
lạ, nếu như người ta biết rằng các chứng cứ của phụ nữ ở đông phương chẳng có
giá trị gì. Vì thế, thánh An-tịnh đã gọi Maria Ma-đa-lê-na là tông đồ của các
tông đồ.
Và danh-hiệu đó, thật vậy, vẫn giữ nguyên. Cho
tới năm 1962 lời nguyện tông đồ vẫn được đọc trong ngày lễ kính của ngài, vì
ngài là một „nữ tông đồ“. Việc Maria Ma-đa-lê-na là người đầu tiên mang tin vui
phục sinh cho các tông đồ, một lần nữa, nói lên thịnh tình và mối liên hệ đặc
biệt của Ngài đối với chị. Điều này ta cũng thấy được qua lời đối thoại của
Ngài với chị, trong đó Ngài gọi chị là „Mariam“, chỉ vì chị đã không nhận ra
Ngài. Lúc đó chị liền nhận ra và lại phủ phục dưới chân Ngài: „Rabbuni, thưa
Thầy“. Trong lối xưng hô đó, ta thấy vừa có kính trọng, vừa giữ khoảng cách
trước vẻ lớn lao của Ngài, mà cũng vừa nói lên yêu thương tha thiết đối với một
người là Chúa và với một Chúa đã hoàn toàn trở nên người.
Tôi sẽ trở lại với địa vị phụ nữ trong Giáo hội
sau. Ở đây xin hỏi nhanh một câu: Có chuyện kể nào về đức Giê-su hay một câu
chuyện nào trong Kinh Thánh có thể trong tương lai sẽ phải bị loại bỏ, vì những
khám phá mới, chẳng hạn như trong các nghiên cứu về nguồn tài liệu Qumran, cho
thấy chúng hết đáng tin không?
Tôi không thấy khám phá nào cả. Có thể có những
tiểu tiết làm mình phải hiểu kinh sách khác đi đôi chút. Nhưng những điều ghi
chép trong Tin Mừng đều được viết ngay trong thời đó, nên không thể bị đảo lộn
bởi các khám phá mới ngày nay được. Lời chứng Tin Mừng về đức Giê-su sẽ không
đổi và vẫn giữ nguyên giá trị của nó.
GẶP GỠ
Thưa hồng i, có lần ngài nói, tin vào đức
Giê-su Ki-tô cũng giúp con người mở mắt ra với thế giới. Đức tin đó chỉ cho họ
thấy mọi chuyện được kiến tạo như thế nào, mọi sự liên quan với nhau ra sao. Ta
có thể nhờ đức tin đó để sống tốt đẹp hơn không?
Những chặng đường sống quan trọng của ta hẳn
không nằm trong tay ta. Ta không xác định được việc sinh việc tử của mình.
Nhưng trách nhiệm của ta là phải tìm hiểu xem ta là ai, đâu là ơn gọi của mình,
con đường nào mình sẽ đi. Đức tin ki-tô giáo có thực sự giúp cá nhân có được
những bước vươn lên không?
Đức tin hẳn không thay thế được nhận thức của
mỗi người. Nó cũng không thay thế được việc học hỏi với và qua người khác suốt
dọc dài lịch sử. Chúa không lấy đi nỗ lực của ta. Đức tin không phải là thứ
thần dược hoá phép. Nhưng nó cho ta chìa khoá để ta có thể tự học. Để ta tự tìm
hiểu mình và tự hỏi mình là ai.
Một cách tổng quát, con người luôn chỉ nhận ra
mình nhờ người khác và qua kẻ khác. Chẳng ai nhìn ra mình, nếu họ chỉ trông vào
mình, chỉ tự tìm cách đào lỗ thoát cho mình, tự vẽ hoạ đồ cho mình. Con người
được sinh ra để thiết lập tương giao, để đi tới với người khác. Qua gặp gỡ kẻ
khác, họ tìm ra í nghĩa và trách nhiệm cuộc sống, thấy ra yêu sách và khả thể
của cuộc sống.
Từ cấu trúc nền tảng của cuộc sống đó, ta mới
hiểu được đức tin và cuộc gặp gỡ với đức Giê-su. Đức tin không đơn giản là một
hệ thống kiến thức và thông tin, nhưng tâm điểm của nó trước hết là gặp đức
Ki-tô. Có gặp Ngài, mới hiểu được lời Ngài. Câu nói của tôi trên kia cũng chỉ
muốn nói lên rằng, trong muôn vàn cuộc gặp mà ta cần, cuộc gặp đức Ki-tô là đích
thực và quyết định nhất. Mọi cuộc gặp gỡ khác không nói cho ta hay ta từ đâu
tới và sẽ đi về đâu. Gặp Ngài, ta gặp được ánh sáng để có thể hiểu ra Thiên
Chúa, con người, thế giới, sứ mạng và í nghĩa cuộc sống – và hiểu ra được dây
mơ rễ má của mọi gặp gỡ khác.
HOANG ĐỊA
Lời dạy của đức Giê-su Ki-tô được các tông đồ
gọi là “đường mới”. Con đường mới này khởi đầu từ lúc đức Giê-su nhận phép rửa
nơi hoang địa. Đó có thể nói là trạm cuối cùng trước khi Ngài bước ra công khai
để tiến về khổ nạn. 40 ngày trong hoang địa – đây cũng lại là một biểu tượng?
Con số 40 thật ra là một biểu tượng quan trọng.
Cả tiên tri Ê-li-a, chẳng hạn, cũng cần 40 ngày để tới núi thánh. Quãng thời
gian đó luôn được dùng để nói về thời gian học hỏi, chuẩn bị, trưởng thành.
Thời gian sa mạc là nguyên ảnh của Is-ra-en, qua đó dân này nhận ra được luật
lệ và í muốn của Thiên Chúa, để nhờ đó chuẩn bị trở thành dân cưu mang những
lời hứa của Ngài.
Với 40 ngày hoang địa, đức Giê-su một lần nữa
nhắc lại 40 năm sa mạc của Is-ra-en. Có thể nói một lần nữa Ngài đi qua toàn bộ
con đường lịch sử, để cũng nói cho ta hay, nếu ta không có thời gian để từ bỏ,
để yên lặng, để bước ra và để gom góp sứ mạng lớn, thì ta không thể trưởng
thành được. Ngài dùng nơi hoang địa thanh vắng để ăn chay và cầu nguyện. Một
mặt, hình ảnh biểu tượng đó nói lên cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, mặt khác, nó
cũng nói lên nỗi hiểm nguy của trần thế. Đó là nơi không có sự sống, không có
thức ăn, nơi cô đơn. Như thế, Ngài cũng bước qua toàn bộ sa mạc của nguy nan,
của thất bại, của từ bỏ, sa mạc của đói khát. Ngài đồng thời mặc lấy những cám
dỗ của nhân loại, khổ đau với họ, để từ đó đưa ra những lời, những sứ điệp cao
cả.
Sau 40 ngày ăn chay Ngài bị quỷ cám dỗ. Thoạt
tiên, Sa-tan muốn Ngài biến đá thành bánh mì. Tay Sa-tan này quả ngớ ngẩn!
Câu chuyện này nói lên những chương trình đối
lập, những chước cám dỗ mà đấng cứu thế Giê-su phải trải qua trong ba năm rao
giảng, và những cám dỗ liên tục trong lịch sử Giáo hội. Một chỗ khác đức Giê-su
cũng đã nói: “Anh em đã đứng vững với thầy trong các cám dỗ của thầy”. Và Ngài
nói với Phê-rô: “Này đây anh Sa-tan, hãy trao những cám dỗ đó cho thầy”. Cả đám
đông năm ngàn người no nê cũng tạo cám dỗ cho Ngài, họ muốn tâng Ngài lên làm
vua, nghĩa là làm ông chủ cung cấp thức ăn của uống cho họ. Đó là những thứ mà
chúng ta sẽ luôn gặp dưới nhiều hình thức và luôn phải thắng vượt trên con
đường theo Chúa và cả trong Giáo hội.