THIÊN CHÚA VÀ TRẦN THẾ

 

Joseph Ratzinger

Biển-đức XVI.

Thiên Chúa và Trần Thế

Tin và Sống trong thời đại ngày nay

Trao đổi với Peter Seewald

Phạm Hồng-Lam chuyển ra Việt ngữ

 

CHƯƠNG II

ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ 

Ngài muốn nói gì với điều đó?

Tôi muốn nói, chẳng hạn như nhu cầu phải cải tạo trật tự xã hội thế giới và tạo lập một nhà nước lí tưởng. Giáo hội rất cần phải chung tay vào việc cải tạo xã hội, nhưng việc cứu độ con người đích thật phải đến từ trong, chứ không phải từ cơ cấu bên ngoài. Và cho dù trong mọi thời Giáo hội phải quan tâm tới nỗi đói khát của con người, và phải tìm mọi cách để có những bàn tay tăng gia của ăn cho họ, Giáo hội vẫn luôn phải nhớ rằng, mình không phải là một tổ chức xã hội, chỉ biết quan tâm tới vật chất, coi đó là việc giải thoát con người đích thực. Không. Giáo hội không được quên rằng, con người không chỉ sống bằng bánh, mà còn bằng lời Chúa nữa.

Hai cám dỗ khác cũng thế. Quỷ thách thức, bảo đức Giê-su nhảy từ nóc đền thờ xuống, để xem Ngài có phải là Chúa thật không. Và cuối cùng là chước cám dỗ ghê gớm về quyền lực, làm chủ cả thiên hạ: “Hãy cầu tôi, tôi sẽ cho làm chủ thế giới”. Điều này muốn nói, việc cai trị thế giới qua quyền lực, dù là với mục đích thật lí tưởng, mà không tìm Chúa, thì việc cai trị kia sẽ làm hư con người.

Đã có nhiều cuộc thí nghiệm trong lịch sử, trong đó con người chối từ Chúa, và tìm cách tự mình và bằng qua những cơ cấu quyền lực tạo ra cho mình những thứ họ cần. Tất cả những thí nghiệm đó đưa tới đâu, đã rõ. Chúng luôn là tấm gương cho Giáo hội và cho mỗi người: Ở đâu con người chối Chúa, ở đâu ta muốn tự mình thiết lập thế giới mà chẳng cần Chúa, ở đâu ta cho rằng thoả mãn nhu cầu vật chất mới là lối giải quyết đích thực, ở đó ta chẳng giải quyết được gì hết, mà trái lại ta phá hoại, ta thực hiện công trình của Sa-tan. 

Sau kinh nghiệm ở hoang địa, các môn đệ đầu tiên tới với đức Giê-su. Họ hỏi Ngài: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” Và Ngài trả lời thật ngắn gọn: “Tới mà xem”.

Vâng, cùng thử làm với nhau là điều cần thiết. Đức Giê-su không ở một nơi cố định. Ngài ở trên đường, ở trong những bước đi trước. Chỉ khi ta theo Ngài, cùng Ngài lên đường, lúc đó ta mới học biết Ngài ở đâu. Và rồi ta cũng sẽ thấy Ngài. Nếu chỉ muốn hiểu Ngài và lời Ngài qua lí thuyết và suy luận, ta sẽ chẳng biết được Ngài. 

Những môn đồ đầu tiên, mà đức Giê-su muốn biến họ thành “ngư phủ câu người”, là An-rê và Gio-an, sau đó tới Phê-rô, em An-rê. Điều lạ, quây quần quanh Ngài không phải những kẻ học thức, mà là những người ngay thẳng, đơn sơ. Họ không phải là những người đặc biệt khôn ngoan, không đặc biệt can đảm và tỉnh táo, và nếu không có hỗ trợ của Thánh Thần họ cũng chẳng biết giảng ra sao. Họ luôn vấp ngã bởi hồ nghi và không tin. Phải chăng đức Giê-su không biết chọn người?

Tất nhiên, đó không phải là những hạng người tự sức và trí mình mà đã có thể châm ngòi được một cuộc truyền giáo thế giới như thế. Nếu họ, như thánh Chrysostomos nói, đã “thẩy được hạt xúc xắc lớn xuống”, thì đó là nhờ một nguồn lực nào khác. Vì thế, đối với tôi, xem ra việc chọn những người tầm thường, không phải những nhà chính trị hay trí thức, mang nhiều í nghĩa. Rõ ràng, không phải tự sức họ. Họ được một đấng lớn hơn chạm tới, nâng đi và vạch đường chỉ lối.

Tuy nhiên, trong xã hội nhiều giai tầng thời đó, ta cũng có thể có được một cách xếp loại nào đó về các tông đồ. Một số trong họ là những tay chống Rô-ma cực đoan, như Si-mon thuộc phái Ze-lot chẳng hạn. Zelot là đảng muốn dùng bạo lực để giải phóng đất nước. Cả Giu-đa Is-ka-ri-ot cũng thuộc vào một đảng cùng khuynh hướng, tên gọi của ông nói lên điều đó. Đó là những người, nói theo ngôn ngữ ngày nay, thuộc phía cực tả. Họ sẵn sàng võ trang đấu tranh và họ cũng mong đức Giê-su làm theo họ. Mặt khác, ta có Lê-vi, cán bộ thâu thuế, dân nhà giàu, là kẻ đi với quyền lực, hợp tác với thực dân.

Nghĩa là có đồng cân lực lượng.

Có thể nói, khi triệu tập vòng tông đồ, đức Giê-su đã làm một cuộc hoà hợp. Mọi người từ mọi phía, từ mọi quan điểm có thể tới với Ngài hoặc bỏ Ngài. Như thế, trong nhóm môn đệ đó hẳn có thể có nhiều xung khắc.

Mặt khác, như anh nói, các tông đồ là những người đứng tuổi. Phê-rô có một hợp tác xã lưới cá, ông là một doanh nhân nhỏ. Đó là những người đứng trong thực tế cuộc sống, họ có cảm quan về cái thực tại, nhưng không ngụp lặn trong chủ nghĩa thực dụng. Họ có một ước vọng cao hơn. Họ không rơi vào một thứ mê hoặc nào đó, nhưng đã hết sức phục vụ ơn gọi của mình. Họ là tấm gương để ta hiểu rằng, Chúa dùng người tầm thường để làm những việc mà chỉ có Ngài mới làm được mà thôi, và cũng để ta hiểu rằng, có sự lớn lao trong những con người tầm thường.  

Khác hẳn với các tông đồ theo Chúa xưa, con người ngày nay nghĩ rằng, họ có thể hoàn toàn tự mình vạch ra lối đi, đường sống cho mình. Họ cho rằng, chẳng có một bản sắc rõ rệt nào nữa cả. Cuộc sống là một chuỗi đổi thay ảo tưởng liên tục, tuỳ vào công việc đang có, tuỳ vào hoàn cảnh trước mắt - hoặc vào sở thích mỗi người. Họ bảo, trong thế giới tân tiến ngày nay chẳng còn sự lựa chọn : hoặc cái này hoặc cái kia, mà thay vào đó, ta có một khả năng lựa chọn mới: chẳng cái này mà cũng chẳng cái kia.

Ngày nay, uyển chuyển đã trở thành một từ quan trọng nền tảng. Chúng ta muốn có thể thích ứng được với các thách đố mới, và hi vọng nhờ việc thay đổi nghề nghiệp liên tục cũng sẽ leo thang xã hội một cách thật dễ, thật nhanh. Nhưng tôi nghĩ, trước sau vẫn có những nghề đòi hỏi con người rất nhiều. Chẳng hạn nghề thầy thuốc hay nghề giáo dục, đó không phải là những nghề giai đoạn, mà là ơn gọi, chúng đòi hỏi suốt cả cuộc đời mình. Nghĩa là, ngày nay cũng có những công việc không phải là việc làm phụ trội để kiếm thêm tiền sống. Tiêu chuẩn quyết định trong các ơn gọi thật sự cũng không phải là thu nhập, nhưng là thi hành một công tác phục vụ trong nhân loại.  

Đức Giê-su có thể sẽ nói thế nào về điểm này?

Ngài sẽ chẳng cấm ai muốn uyển chuyển thích ứng với các thách đố. Chính các tông đồ của Ngài cũng đã phải uyển chuyển bước ra khỏi cuộc đời chài lưới để cùng đi vào một con đường vô định và đầy bí ẩn – và cuối cùng đã thoát ra khỏi đạo Do-thái mà mình đã trầm mình trong đó, để dám bước ra rao truyền cho dân ngoại.

Đồng thời các ngài đã phải bền đỗ và trung thành trong sự chọn lựa nền tảng của mình. Vì vậy, ta không nên đặt uyển chuyển đối lập với trung thành. Ngay trung thành cũng phải chứng tỏ được sự bền đỗ của nó trong những hoàn cảnh đổi thay. Một người, sau năm mươi năm làm linh mục hay sống cuộc đời hôn nhân, hẳn phải trải qua một cuộc đời đầy biến đổi. Người đó phải trưởng thành trong mọi biến đổi và đưa bản sắc mình tới hoàn thiện.

Tiếc thay, trong hoàn cảnh tân tiến ngày nay, thường chỉ còn thay đổi vì thay đổi, uyển chuyển vì uyển chuyển mà thôi. Tôi chống lại quan điểm này. Chính hôm nay là lúc ta cần trung thành với một sứ mạng, với một nghề; chính hôm nay là lúc ta cần những người quên mình hoàn toàn. Ta hãy quay trở lại chuyện viện trợ phát triển. Cần có những người sẵn sàng bỏ ra hai, ba năm đi giúp kẻ khác, nhưng ta cũng cần có thật nhiều người biết quên mình. Có những ơn gọi đòi hỏi toàn thân con người.

Những mẫu sống mà tôi nói tới này không phải là chỉ dấu của sự thiếu sáng tạo hay đông cứng. Chính sự bền vững đó làm cho tâm hồn con người lớn rộng ra và trưởng thành lên, khiến cho đổi thay và liên tục tháp nhập vào nhau. Cái lớn đích thực nằm trong sự hoà quyện với nhau đó. 

Về những mẫu sống ngài đã đề cập: Nhiều người nghĩ rằng đời họ như là một cuốn phim, tự họ có thể cắt xén, đạo diễn từng cảnh, từng đoạn. Thâm tâm họ tự bảo: Tại sao tôi lại phải đi vòng vòng, phải nỗ lực trong cuộc sống, phải tìm kiếm, phải tự hạn chế hay phải chịu đựng? Nghĩa là tại sao họ lại phải đi theo con đường khó khăn của các tông đồ đã đi với đức Giê-su xưa. Một cuộc sống thật đơn giản dễ dãi có phải hơn không?

Chỉ có những ai lớn lên trong bàn tiệc cuộc đời dư đầy mới có được một cuộc sống dễ dãi như thế. Đó là một tưởng tượng của những kẻ có của, những kẻ không hiểu rằng, đối với đa số con người, cuộc sống là cả một nỗi thử thách cam go. Vì thế, tôi coi việc tự biên tự diễn trên là ích kỉ và nó làm hao mòn đi các ơn gọi.

Ai bảo rằng, mình đã có đủ mọi thứ, vì vậy họ chỉ việc lấy những thứ đã có ra để tự thiết kế cho đời mình, kẻ đó sẽ không cho được cái họ có thể cho. Con người sinh ra, không chỉ để tự thiết kế nên mình, mà còn phải chấp nhận thử thách trong cuộc sống. Chúng ta tất cả nói chung cùng đứng trong một lịch sử và phải cần đến nhau. Vì thế, con người không nên chỉ nghĩ mình muốn gì, nhưng nhất thiết hơn, nên tự hỏi : mình tốt cho ai, mình có thể giúp ích được gì. Có như thế, họ mới thấy dễ dãi, thoải mái và buông thả không phải là những phương cách làm thoả mãn đời mình, nhưng sự thoả mãn nằm nơi việc sẵn sàng chịu thử thách, nằm nơi con đường hẹp. Mọi thứ còn lại, một cách nào đó, đều là buồn chán. Chỉ ai “bị trui trong lửa”, chỉ ai nhận ra được tiếng gọi, ơn gọi, một lí tưởng cần đáp ứng nơi mình, chỉ ai chấp nhận một sứ mạng cho toàn thể, kẻ đó mới có cuộc sống tràn đầy. Như đã nói, chúng ta trở nên giàu có, khi biết cho đi, chứ không phải khi nhận vào hoặc khi bước đi trên con đường rộng.

Quyền và Của 

Đức Giê-su có nói về “Cai trị và phục vụ”. Ngài nói: “Anh chị em biết, nhà cai trị đàn áp dân mình và kẻ quyền lực lạm dụng quyền mình đối với người khác. Anh chị em không nên làm như thế, nhưng ai trong anh chị em muốn làm người lớn, thì hãy làm kẻ phục vụ, và ai trong anh chị em muốn làm kẻ cao nhất, thì hãy trở nên nô lệ cho anh chị em mình. Bởi vì Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và để hiến đời mình làm giá chuộc cho nhiều người”. Phục vụ và vâng lời là hai đặc điểm cơ bản trong lời dạy của đức Ki-tô và trong đời sống Giáo hội. Các í niệm đó ngày nay chẳng còn phổ thông lắm. Có cái gì ẩn chứa đàng sau các í niệm đó không?

Quả thật Tin Mừng đưa ra một chương trình đối lập với mốt sống tân tiến hiện tại. Nó đề ra một thứ lạc hậu lành mạnh, nhằm kéo chúng ta ra khỏi khuynh hướng cai trị và muốn chiếm đoạt. Và chính ai không thuộc vào hàng ngũ những kẻ quyền lực, người đó là kẻ may mắn, khi nhận ra được rằng, chính kẻ quyền lực sẽ không được phục vụ nơi bàn tiệc cuộc đời. Họ là kẻ may mắn, khi nhận thức được rằng, quyền và của mà mình nhận được là một sứ mạng, để qua đó mình trở nên kẻ phục vụ.

Tôi tin rằng, câu người cai trị nên trở thành kẻ phục vụ, và việc chính đức Giê-su đã thực thi điều đó qua hành động của Ngài, là một cuộc cách mạng đúng nghĩa có khả năng làm đổi thay thế giới. Bao lâu người ta coi quyền và của tự chúng là cùng đích giá trị, thì quyền luôn cũng là quyền chống lại người khác, và của luôn cũng là của chỉ riêng mình. 

Chính khi vị Vua vũ trụ tới và làm công việc của kẻ nô lệ là rửa chân cho kẻ khác – đây chỉ là một trong muôn vàn thí dụ của cả cuộc đời phục vụ của Ngài – lúc đó chúng ta có một hình ảnh hoàn toàn khác. Thiên Chúa đầy quyền lực đã không dẫm đạp ta, mà trái lại cúi xuống để nâng ta lên ngang tầm với Ngài. Thiên Chúa có thể trở nên bé nhỏ, đó là tất cả bí ẩn trong cái cao cả của Ngài. Ngài không bước xuống từ bệ cao, và cũng không an ngự nơi tầng trên. Với cử chỉ hạ mình đó, Ngài muốn thay đổi í nghĩ về quyền lực và về cai trị nơi ta. Ngài chỉ ra, khi ta có thể sai khiến đám đông và có được mọi thứ mình muốn, lúc đó ta đang rơi vào nhỏ mọn – còn khi ta phục vụ kẻ khác, đó là lúc ta trở nên cao cả. 

Một khiêu khích quái gỡ.

Chấp nhận điều đó là cả một cuộc cách mạng. Cách mạng này chẳng bao giờ đơn giản chỉ bằng hành động mà thôi, mà nó luôn đòi hỏi một cuộc trở về nội tâm – nhưng đây là cuộc trở về lành mạnh và quan trọng nhất trong mọi cuộc trở về. Chỉ khi nào quyền lực được thay đổi từ trong, chỉ khi nào ta thay đổi từ trong thái độ của ta đối với của cải, và khi ta chấp nhận lối sống suốt đời rửa chân của đức Giê-su, thì lúc đó thế giới mới trở nên lành mạnh, và con người mới có thể sống hạnh phúc bên nhau. 

Một tuyên ngôn.

Đức Giê-su là khuôn hình mà con người cần đi theo, là đích điểm mà chúng ta phải đạt tới.

 

-----------------------

38 năm sau khi Goethe mất, diễn ra một cuộc họp lớn giữa các cụ già trong lòng đại thánh đường thánh Phê-rô ở Rô-ma, và họ đã đi tới một quyết định – quyết định tán đồng với Mephisto [nhân vật trong ở FAUST của Goethe]. Công đồng Vaticano I tuyên bố vào ngày 24.04. 1870: „Mẹ Giáo hội thánh này xác quyết và dạy rằng, Thiên Chúa, nguồn cội và mục tiêu của mọi sự, có thể nhận biết được bằng ánh sáng tự nhiên của lí trí được tạo thành của con người.

    Một quyết định đầy bí ẩn. Phải chăng Công đồng đã đề cao lí trí quá đáng? Phía Tin lành phản đối ngay. Họ bảo, chỉ có mạc khải, lời Chúa, Kinh Thánh và đức tin – chứ không phải chút ánh sáng leo lét của lí trí con người – mới là đường dẫn tới Thiên Chúa. Karl Barth, có lẽ là nhà thần học tin lành lớn nhất trong thế kỉ 20, về sau cho hay, chỉ vì hậu quả của tuyên bố đó mà ông không thể nào trở thành công giáo được. Nhưng Công đồng vẫn khẳng định: „Ai bảo rằng, ánh sáng tự nhiên của lí trí được tạo dựng của con người không thể nhận biết được Thiên Chúa độc nhất và chân thật, Người là hoá công và Chúa của chúng ta, kẻ đó sẽ mang lấy vạ tuyệt thông.

Trích  từ: THIÊN CHÚA. một chút lịch sử Đấng vĩ đại nhất

(CÂU TRẢ LỜI KITÔ GIÁO  CHO VÔ THẦN)

Tác giả : Manfred Lütz   Dịch giả: Phạm Hồng Lam

BTGH SẼ GIỚI THIỆU (BẢN DỊCH) SÁCH NẦY, sau “Thiên Chúa và Trần Thế”. Xin đón đọc