THIEN CHÚA VÀ TRẦN THẾ
Joseph Ratzinger
Biển-đức XVI.
Thiên Chúa và Trần Thế
Tin và Sống trong thời đại ngày nay
Trao đổi với Peter Seewald
Phạm Hồng-Lam chuyển ra Việt
ngữ
DẪN NHẬP
ĐỨC TIN, HI VỌNG, TÌNH YÊU
CHÚA THÌ ĐƯỢC, NHƯNG GIÁO HỘI THÌ KHÔNG?
Chữ Giáo hội trong tiếng Hi-lạp có nguyên nghĩa là : « Những
kẻ thuộc về Chúa ». Nghĩa là Giáo hội cũng thuộc chính Chúa ?
Đúng vậy. Ekklesia có
nghĩa là chọn ra, những người
được chọn ra. Trong nghĩa kĩ thuật của nó, từ ngữ đó muốn nói tới sự « hội
họp », chữ này làm người ta liên tưởng tới cuộc họp dân chúng trong các
chế độ dân chủ của các thành phố Hi-lạp xưa. Trong lối nói ki-tô giáo, từ đó
gợi nhắc cuộc họp ở núi Sinai, cuộc họp của dân Is-ra-en. Như vậy, nó có nghĩa
là « những người được Chúa gọi lại với nhau », những người quy tụ
nhau bên Ngài, thuộc về Ngài và biết rằng Ngài ở giữa họ.
Giáo hội, như anh
nói, như vậy là sở hữu đặc biệt của Chúa trên trần gian. Đàng sau Ekklesia còn
tiềm ẩn nghĩa một đền thờ sống động, một đền thờ thuộc về Chúa cách đặc biệt.
Người ki-tô giáo long trọng xác tín một Thiên Chúa sống động, chứ Ngài không ở
trong những tảng đá. Vì thế, đền thờ đích thực là những con người thuộc về Ngài
và Ngài ở trong họ. Chữ Dân Thiên Chúa
cũng có nghĩa là chiếm Chúa đặc biệt cho riêng mình – và rồi thể hiện tương
quan chiếm hữu đó qua đời sống mình.
Suốt chiều dài 2000 năm lịch sử Giáo hội luôn phân rẽ. Hiện đã có trên
dưới 300 Giáo hội tin lành, chính thống và nhiều loại khác. Tại Hoa-kì có trên
1000 cộng đoàn báp-tít. Đối diện với các Giáo hội đó là Giáo hội công
giáo, lãnh đạo bởi giáo chủ Rô-ma, trước sau vẫn tự coi mình là Giáo hội thật
duy nhất. Cho dù phải trải qua nhiều khủng hoảng, phải nói Giáo hội công giáo
quả là tổ chức hoàn vũ nhất, lớn và thành công nhất trên thế giới, hiện có số
tín hữu đông như chưa từng có trong lịch sử.
Tôi nghĩ, ta nên học
tinh thần công đồng Vaticano II, để đừng vênh vang về sự khéo léo của tín hữu
công giáo và đừng lạm dụng sự to lớn và đông đảo của tổ chức mình. Khi coi
những điểm trên là sở hữu của mình và do khả năng mình làm nên, lúc đó có thể
ta tự tách ra khỏi sự nối kết với Chúa, và tự nâng mình lên như một hội đoàn
riêng với quyền lực riêng. Và như thế, thất bại có thể tới rất nhanh. Giáo hội
trong một quốc gia có thể rất mạnh về tổ chức, nhưng nếu đức tin gẫy đổ, sức
mạnh tổ chức kia trước sau rồi cũng sớm đổ theo.
Chắc anh biết câu
chuyện thời Trung cổ kể anh Do-thái du lịch tới Vatican, và đã xin rửa tội. Khi
trở về, anh được một người biết rất rõ chuyện ở Vatican hỏi : « Anh
hoàn toàn không biết những gì xẩy ra ở Vatican sao ». Anh trả lời :
« Biết chứ, tôi biết tất cả những chuyện xấu xa xảy ra ở đó ».
« Vậy mà anh vẫn vào đạo. Vô lí thật ! » Anh Do-thái liền
tiếp : « Vì thế mà tôi mới vào đạo. Bởi loạn đến cỡ đó mà Giáo hội ấy
vẫn đứng vững, thì tôi tin chắc phải có một bàn tay nào đó nâng đỡ ». Cũng
có một câu chuyện khác : Một hôm Napoléon bảo, ông ta sẽ tiêu diệt Giáo
hội. Một hồng i liền đỡ lời : « Giáo hội đó chúng tôi đã không phá
được, huống hồ ngài ».
Tôi tin rằng, có một
cái gì rất quan trọng trong những ngược đời đó. Thực tế, trong Giáo hội công
giáo đã không bao giờ thiếu những gương xấu ngoài sức tưởng tượng con người.
Vậy mà nó vẫn trụ được, dù lắm khi cả trong nước mắt và kêu than. Nó vẫn tồn
tại, vẫn tạo nên được những vị tử đạo và tín hữu lớn, những người sẵn sàng hiến
thân đi truyền giáo, làm i tá, cô giáo ; điều đó cho thấy phải có một bàn
tay nâng đỡ nó.
Những thành công của
Giáo hội, như thế, không phải là do công lao của ta, nhưng với công đồng
Vatican II, chúng ta cũng được phép nói – dĩ nhiên trong các Giáo hội và cộng
đoàn khác cũng có nhiều cái sống động do Chúa làm - rằng, Giáo hội hiện diện và
tồn tại như một chủ thể thật. Nhưng chủ thể đó chỉ hiện diện và tồn tại nhờ
Chúa, chứ không do con người.
Guardini có lần nói về í nghĩa của Giáo hội như vầy : « Giáo
hội phải là điểm tựa bất di dịch cho con người về chân lí tối hậu, phải là hình
ảnh cuối cùng của sự toàn hảo và là những qui chuẩn rốt ráo cho việc định giá.
Nó không được để đam mê dẫn vào lầm lạc, không được để chút tơ vương ích kỉ làm
chao đảo tình cảm». Đòi hỏi có cao quá không?
Vâng, cao, nhưng mà
đúng. Cho dù giáo sư ấy đã nói ra một cách cứng nhắc. Guardini là người rất
thông hiểu, ông thích đặt những yêu cầu thật cao, và ông làm đúng. Chúng ta
không được để cái đòi hỏi cao cả đó chìm đi trong những công thức thoả hiệp,
rồi từ từ làm nó biến mất. Giáo hội không thể hành động theo khẩu hiệu :
« Ta làm được gì hay không làm được gì ? » Mục đích của Giáo hội
không phải là đi tìm những công thức thoả hiệp khả dĩ có, nhưng là giữ không để
cho lời và í Chúa bị xuyên tạc – cho dù vì thế mà Giáo hội thỉnh thoảng phải
chống lại chính mình và chống lại những nhân sự rao giảng của mình.
Điều thánh Phao-lô
viết trong lá thư tạm biệt gởi các linh mục ở Ê-phê-sô (lúc đó ngài đã biết
mình có thể bị bắt ở Giê-ru-sa-lem) luôn đánh động tôi. Ngài tuyên bố, tôi đã
loan báo cho anh em hay toàn bộ í muốn của Thiên Chúa. Tôi đã không dấu diếm
anh em điều gì hoặc đã không tìm cách biến nó ra dễ dãi hơn. Tôi cũng đã không
tìm cách đưa cho anh em công thức riêng của mình, nhưng đã công bố toàn bộ í
muốn của Chúa cho anh em! Và Giáo hội hiện hữu, trên thực tế, là vì mục đích
đó.
Có lẽ ngài đã chẳng bao giờ nghĩ tới chuyện bỏ Giáo hội. Có gì nơi Giáo
hội làm ngài khó chịu hay cả tức bực không?
Tôi quả chưa bao giờ
nghĩ tới chuyện xa rời Giáo hội, mà trái lại, Giáo hội chính là quê hương sâu
thẳm nhất của tôi. Từ ngày sinh ra, tôi đã hoà tan với nó, đến nỗi nếu không có
nó, tôi như bị chặt ra từng đoạn, như bị tiêu vong. Dĩ nhiên, luôn có không
nhiều thì ít những chuyện làm mình bực lòng. Trước hết là những chuyện ở giáo
hội địa phương, rồi tới Giáo hội hoàn vũ, nơi tôi đang làm việc. Bao lâu còn
chung đụng với con người, bấy lâu còn có những chuyện khó chịu. Nhưng người ta
cũng không bỏ gia đình mình, khi có chuyện bực lòng ; nhất là khi tình yêu
nối kết gia đình còn mạnh hơn, khi tình yêu đó là nguyên lực đỡ nâng mình.
Với Giáo hội cũng
thế. Tôi hiểu rằng, không phải tôi có mặt trong Giáo hội là vì người này hay
người kia; tôi cũng biết, xưa nay đã có biết bao nhiêu lỗi lầm trong lịch sử,
và trong Giáo hội luôn có thể có những chuyện rắc rối. Nhưng tôi cũng biết,
những chuyện đó không thể nào bóc đi được cái cốt lõi nơi Giáo hội này. Đơn
giản là vì cái cốt lõi đó đến từ một nơi nào hoàn toàn khác – và nó vẫn luôn
mang lại giá trị mới.
Trong cuốn tiểu thuyết « Cuộc diễn hành Radetzky », tác giả
Joseph Roth viết : « Trong thế giới cằn cỗi này chỉ có Giáo hội
Rô-ma là kẻ duy nhất còn có mô hình. Vâng, ta có thể nói, là kẻ trao tặng mô hình…
Bằng cách nó quy định tội lỗi, rồi lại tha những tội lỗi đó. Nó thành thật chấp
nhận chuyện không ai là không tội lỗi : đó là cái nhân bản cao cả nhất nơi
Giáo hội này… Qua đó, Giáo hội Rô-ma là chứng tá thu phục cho một khuynh hướng
đẹp nhất, là biết xin lỗi, biết tha thứ ». Phải chăng Giáo hội, theo bản
chất, là một Giáo hội của những kẻ tội lỗi ?
Hẳn nhiên là
thế ! Như ta vừa thấy, Giáo hội, dù có nhiều con cái tội lỗi, vẫn được
Chúa gìn giữ. Một mặt, câu trích trên cho thấy một lối nhìn và một cách đánh
giá thuần trần tục về Giáo hội. Rằng Giáo hội có một mô hình, nó cố giữ lấy mô
hình đó, không chìm đi vào cái vô định, nó còn có thể nói lên được í Chúa, tất
cả những điều đó quả rất quan trọng. Tuy nhiên, nếu ta chỉ nhìn Giáo hội theo
chiều kích lịch sử đó thôi, ta sẽ biến Chúa thành ra kẻ phục vụ mục tiêu của
con người. Chính lúc đó, tuy ta vẫn muốn có một tôn giáo, nhưng ta lại coi Chúa
chỉ còn như là một cấu trúc hỗ trợ nhằm nối kết con người và nối họ lại với
Ngài.
Mặt khác, tôi không
đồng í với câu, Giáo hội công giáo quy định tội lỗi rồi lại tha thứ tội lỗi đó.
Giáo hội dĩ nhiên không sáng chế ra tội lỗi, nhưng Giáo hội nhận ra í Chúa và
phải nói lên í đó. Cái đúng của câu trích trên là Giáo hội phải nói lên cái í
cao cả, bó buộc và nghiêm khắc của Chúa, để con người biết nhìn ra giới hạn
mình, và cũng đồng thời được thứ tha nhờ sự ủy-nhiệm tha tội của Giáo hội.
Trên thực tế Giáo hội
có thể nói với con người: Ai muốn hoàn toàn tự mình trở nên tốt, ai tin rằng
mình không cần sự tha thứ, người đó lầm. Vì như thế, người đó sẽ trở nên cố
chấp, liều lĩnh, tự kiêu tự đại, và rốt cuộc sẽ thành bất nhân. Vấn đề là ta
chẳng cần phải có cái kiêu hãnh đó. Mà tôi cũng chẳng buộc phải hoàn tất điều
gì để có thể từ chối sự tha thứ. Trái lại, khi tôi cố gắng sống theo í Chúa, cố
gắng hoà nhập í mình với í Chúa, thì ngay lúc đó tôi cũng biết là tôi được thứ
tha. Tôi là một thụ tạo có đủ khiêm tốn để chấp nhận rằng mình cần được
tha thứ. Trong lối nhìn đó, khiêm tốn và tín cẩn là những đức tính làm con người
thật sự trở nên người hơn.
« Chúa thì được, nhưng Giáo hội thì không », câu nói đã trở
nên như một thứ tuyên ngôn. Liên quan tới câu này, thánh Xi-pri-a-nô*,
giám mục ở Karthago (200-258), nói: « Ngoài Giáo hội không có ơn cứu
rỗi », bởi vì « ai không nhận Giáo hội làm mẹ, thì cũng không thể
nhận Chúa làm cha ». Câu nói ngày nay vẫn còn giá trị ?
Nếu vì đó mà bảo rằng
tất cả những ai không phải là ki-tô hữu đều phải sa hoả ngục, thì câu trên
không có giá trị. Nhưng câu trên muốn nói lên rằng, con người ta thế nào cũng
cần có một người mẹ, cho dù mình không nhận ra mẹ đó ; đó là người mẹ cộng
đoàn sinh mình ra trong đức tin và dẫn mình hướng tới Chúa.
Thánh Xi-pri-a-nô nói
câu trên trong hoàn cảnh bị truy nã. Ngài muốn đề cập tới những người bỏ Giáo
hội vì sợ tử đạo, nhưng đồng thời vẫn tin rằng mình không bỏ Chúa và đức Ki-tô.
Ngài muốn nói với họ rằng, ai xa lìa cộng đoàn sống động, xa lìa thân thể sống
động, thì người đó đang bỏ thuyền No-ê để nhảy xuống lũ lụt. Trong í nghĩa đó,
ngài muốn nói lên sự gắn bó không thể chia lìa giữa đức tin vào đức Ki-tô và
Giáo hội.
Tôi không thể biến
đức Ki-tô thành vật tư hữu và chiếm riêng cho tôi. Thuộc về đức Ki-tô không
phải chỉ có mình tôi, mà còn cả cái bực bội do đồng đạo tôi gây nên nữa. Đức
tin được trao vào cái chúng-tôi chung đó, chứ nó không hiện diện cho cá nhân.
Nói câu trên, thánh Xi-pri-a-nô đã không sáng tạo ra một học thuyết nào về thái
độ của Chúa đối với những người chưa biết Giáo hội. Cả thánh Phao-lô, người
luôn nhấn mạnh tới Giáo hội, cũng đã nói, chúng ta trong Giáo hội phải biết hành xử đúng, còn việc Chúa muốn làm gì
với những người ở ngoài Giáo hội, thì đó là chuyện của Ngài. Như vậy, cả thánh
Phao-lô cũng không lập ra học thuyết nào về lối hành xử của Chúa đối với người
ngoài. Nhưng ngài cho ta hay, ai được thấy mặt Chúa, người đó không thể kéo
Ngài ra khỏi Giáo hội được, kẻ đó phải sống với Ngài trong Giáo hội.
Vấn đề đó từ hơn hai ngàn năm nay vẫn luôn mang tính thời sự.
Có lẽ cho phép tôi
thêm ít lời : Tình trạng ngày nay đã hơi khác đi một chút. Johann Baptist
Metz* có lần nói, câu tuyên ngôn trên đây nay đã đổi thành :
Tôn giáo thì được, nhưng Chúa thì không. Người ta muốn có một thứ tôn giáo nào
đó, huyền bí hay là gì đó. Nhưng lại không chấp nhận một Thiên Chúa cá thể có
thể nói với tôi, biết tôi, đã dạy tôi một số điều, có thể đòi hỏi tôi, uốn sửa
con người tôi. Nghĩa là người ta muốn giữ cảm thức tôn giáo, nhưng lại không
muốn đặt mình vào một trói buộc thượng đế nào cả. Xem thế, ngày nay chúng ta
thật ra đang gặp khủng hoảng về Thiên Chúa, chứ chẳng phải khủng hoảng về tôn
giáo – bởi vì tôn giáo đang mọc lên như nấm.
Sáng nay tôi muốn dự thánh lễ của các linh mục dòng tại Montecassino,
nhưng đã vô nhà nguyện trễ vì tìm mãi không thấy lối vào. Nhà dòng này lớn mênh
mông như một thành phố. Như một anh mù, tôi gõ hết cánh cửa này tới cửa khác,
cũng chẳng gặp một ai để mà hỏi. Người ta có thể một mình tìm gặp Chúa, tìm gặp
Giáo hội được không ?
Chỉ đơn độc một mình
thì chắc chắn không gặp. Và đây chính là cái cơ bản ki-tô giáo (và cái cơ bản
này cũng hàm chứa trong í niệm Giáo hội), nghĩa là liên hệ giữa ta với Chúa
không chỉ là một liên hệ nội tâm, được hình thành từ cái Tôi và cái Anh/Chị,
nhưng cũng là một cái được- nói-với, được- dẫn-dắt. Con đường tới Chúa và Giáo
hội đi ngang qua gặp gỡ. Giáo hội là nơi, trong đó nhiều con người đi tìm và đã
gặp đúng cửa. Tuy có nhiều người với bản tính khác nhau, nhưng thế nào trong đó
cũng có người hợp với tôi và nói cho tôi biết được lời hay lẽ phải.
Thiên Chúa luôn tới
với con người qua con người. Cũng thế, chúng ta tới với Ngài qua con người,
những con người được Ngài hướng dẫn. Qua họ, chính Ngài gặp ta và kéo ta tới
với Ngài. Nếu như ta chỉ nhờ đọc sách thánh mà có thể tự nâng mình lên gặp được
cái tối hậu, thì đó có lẽ là một chuyển động có tính cách triết học, trong đó
vắng bóng yếu tố cộng đoàn, một yếu tố rất quan trọng của đức tin.
Hoàng đế Rô-ma yêu cầu thánh Lô-ren-xô giao nộp tài sản của Giáo hội.
Chẳng bao lâu sau, thánh nhân xuất hiện trước mặt Hoàng đế, vừa chỉ vào đám dân
nghèo thành phố vừa thưa: « Thưa ngài, đó là tài sản lớn nhất của Giáo
hội ». Lô-ren-xô đã phải chết vì hành vi này.
Kinh Thánh cho hay
đức Ki-tô xuất thân từ giới nghèo Do-thái. Sau 40 ngày sinh, mẹ Ngài dâng của
lễ người nghèo. Và sách thánh cũng cho thấy, tâm hồn của chính những người
nghèo luôn mở rộng. Họ không bị trăm ngàn thứ chung quanh che mất cái toàn thể.
Mà vẫn luôn giữ được sự đơn sơ, tinh khiết, chân thật và nhân ái của tâm hồn,
những đức tính giúp họ nhìn ra được điều người khác không thấy.
Dĩ nhiên, Giáo hội cũng
buộc phải cần những người trí thức. Giáo hội cần những người sẵn sàng đóng góp
trí lực. Giáo hội cũng cần những người giàu đại độ, sẵn sàng dùng tài sản mình
phục vụ cho thiện ích. Nhưng Giáo hội cũng luôn sống nhờ vào niềm tin của những
kẻ khiêm nhu theo Chúa. Trong í nghĩa đó, tài sản thật sự của Giáo hội là tập
hợp những con người cần tình yêu và ban phát tình yêu : những kẻ đơn sơ có
khả năng nhận biết chân lí, bởi vì họ, như Chúa nói, là những đứa trẻ. Họ là
những người, qua bao vận hành lịch sử, vẫn giữ được điều nền tảng và tinh thần
khiêm nhu cũng như yêu thương trong Giáo hội.
Giáo huấn dạy, lúc đức Ki-tô tới cũng là ngày khởi đầu của « tận
thế ». Nghĩa là « thời của Giáo hội » bắt đầu, và nó sẽ kéo dài
cho tới khi Chúa lại đến. Điều đó phải hiểu ra sao ? Nói khác đi, phải
chăng hạnh phúc và đau khổ của địa cầu này và loài người trong đó gắn liền với
hạnh phúc và đau khổ của Giáo hội công giáo ? Hay nói rõ hơn : Nếu
không có Giáo hội với lời cầu kinh và công lao khó nhọc của nó, Thiên Chúa đã để
cho thế giới tiêu tan từ lâu ?
Việc Chúa đã làm hay
có thể làm, ta nên để ngỏ. Nhưng tôi tin rằng, Giáo hội công giáo có một nhiệm
vụ vô cùng quan trọng trong chuyển động lịch sử, điều này đã được thực nghiệm
kiểm chứng. Nếu như đức tin của Giáo hội sụp đổ, Giáo hội chấp nhận phá sản và
tuyên bố, chúng tôi đã lầm, thì hẳn sẽ xẩy ra một gãy đổ trong toàn bộ lịch sử
và nhân loại, mà hậu quả sẽ không tài nào lường được.
Ta đã thấy sự liên hệ
giữa khủng hoảng hậu công đồng và khủng hoảng của thập niên ´68. Có lẽ công
đồng không phải là nguyên nhân của khủng hoảng ´68, nhưng rõ ràng nó là lực đẩy
ghê gớm. Không ai còn phủ nhận tính chất bi thảm của biến cố đó. Mà ta chỉ mới
thấy những gì có thể thấy được mà thôi. Anh có lí khi nói tới những chuyện sâu
xa, như sức mạnh của cầu nguyện, của lòng tin, của tình yêu. Những thứ đó đã
mang Chúa trở lại trần gian, để nhân loại được tỏa sáng đôi chút bởi ánh sáng
Ngài. Nếu lực này biến mất, thế giới hẳn sẽ gặp thảm hoạ.