Phỏng vấn Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ, SDB
Chủ tịch Uỷ Ban Truyền Thông Xã Hội
Nhân ngày Quốc tế Truyền thông Xã hội 2009, để giúp độc giả của
website HĐGMVN hiểu thêm về vai trò của Truyền thông Xã hội trong việc rao
giảng Tin Mừng của Giáo hội Công giáo Việt Nam hôm nay, chúng con xin phép gửi
đến Đức cha một vài câu hỏi gợi ý. Kính mong Đức cha dành ít phút cho chúng con
câu trả lời. Chúng con hết lòng cảm ơn Đức cha.
1. Xin Đức cha cho biết sơ qua về lịch sử “Ngày Quốc
tế Truyền thông Xã hội”, chủ đề và nội dung chính của Sứ điệp Ngày Quốc tế
Truyền thông Xã hội năm nay.
2. Xin Đức Cha cho biết các phương tiện truyền thông
xã hội ngày nay có vai trò nào trong việc loan báo Tin Mừng cứu độ của Giáo hội
Công giáo Việt Nam hôm nay.
3. Đức Cha đã có dịp tham dự kỷ niệm 40 năm thành
lập Radio Veritas tại Philippines. Xin Đức Cha cho biết hoạt động truyền thông
xã hội của Giáo hội Công giáo Việt Nam giữ vị trí nào trong vùng châu Á hiện
nay.
4. Với tính cách Giám mục Chủ tịch Ủy ban Truyền
thông Xã hội của Hội đồng Giám mục Việt Nam, xin Đức Cha cho độc giả biết đôi
nét về bước phát triển của Ủy ban trong thời gian tới.
Ban Biên tập WHĐ
I.
CÂU
HỎI 1 :
Xin Đức Cha cho biết sơ qua về lịch sử Ngày Quốc Tế Truyền Thông Xã
Hội, chủ đề và nội dung chính của Sứ điệp Ngày Quốc tế Truyền Thông năm nay ?
TRẢ LỜI :
Với Giáo hội toàn cầu và thế giới, Ngày Quốc tế Truyền thông Xã hội
đã có từ 43 năm nay, nhưng riêng với Giáo hội Việt Nam, đây là lần đầu tiên
chúng ta nghe nói đến Ngày Quốc Tế Truyền thông Xã hội tại Việt Nam. Thật vậy,
trong phiên họp thường niên lần 1 năm 2009, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam mới có
quết định thành lập Ngày Truyền thông Xã hội Công giáo Việt Nam, cử hành vào
ngày Chúa nhật lễ Chúa Lên Trời 24/5/2009. Do thời gian quá eo hẹp, Ban Truyển
Thông không kịp họp để chuẩn bị cho ngày mừng quan trọng nầy. Ngày Quốc tế
Truyền thông năm tới 2010, Ban Truyền thông sẽ chính thức mừng.
Tôi xin cám ơn Ban Biên tập trang WHĐ đã có những câu hỏi trực tiếp
liên quan đến Ngày Quốc Tế Truyền Thông, nhờ đó tôi được làm một công đôi việc
vừa trả lời các câu hỏi của ban Biên tập WHĐ, vừa có dịp phổ biến những gì cần
thiết liên quan đến nhiệm vụ Truyền thông.
Với lý do nầy các câu trả lời của tôi hơi bị dài, xin Ban Biên tập
và qúi độc giả vui lòng cảm thông . Sau đây tôi xin lược tóm ý nghĩa và sứ điệp
Ngày Quốc tế Truyền thông Xã hội trong 43 năm qua !
1.
Ý nghĩa Ngày Truyền Thông Xã Hội .
Qua văn kiện về Truyền thông Xã hội Inter Mirifica (số 18), Công
Đồng Vaticanô II đã thiết lập ‘Ngày Thế Giới Truyền Thông’. Trong văn kiện này,
các Nghị Phụ Công Đồng nói: “Để việc tông đồ dưới nhiều hình thức của Hội Thánh
được hiệu quả hơn trong lãnh vực truyền thông xã hội, mỗi giáo phận trên thế
giới, tuỳ theo quyết định của giám mục, hằng năm phải cử hành một ngày lễ để
nhắc nhở các tín hữu về bổn phận của họ trong lãnh vực này. Phải xin họ cầu
nguyện cho sự thành công của hoạt động tông đồ của Hội Thánh trong lãnh vực này
và đóng góp cho mục đích này, các đóng góp của họ phải được sử dụng một cách
nghiêm túc để hỗ trợ và đẩy mạnh sự phát triển của các dự án mà Hội Thánh đã
khởi xướng vì nhu cầu của toàn thể Hội Thánh.”
Ngày Truyền Thông Xã Hội lần đầu tiên được cử hành vào ngày 6 tháng
5, 1968 và kể từ đó nó đã trở thành một sự kiện thường kỳ. Mỗi năm, Toà Thánh
đưa ra một chủ đề và Đức Giáo Hoàng công bố một thông điệp đặc biệt cho dịp
này, thường được đề ngày 24 tháng 1, lễ Thánh Phanxicô Salê, bổn mạng của các
nhà báo Công Giáo.
Hội Đồng Giáo Hoàng (về Truyền Thông) hỗ trợ cho thông điệp này của
Giáo Hoàng bằng các bản văn phụng vụ, các bài suy tư và các lời cầu nguyện cho
dịp này. Ngày được toàn thế giới công nhận là ngày Chúa Nhật giữa lễ Lên Trời
và lễ Hiện Xuống, nhưng mỗi HĐGM hay thậm chí mỗi giáo phận cũng có thể tuỳ
nghi chọn ngày riêng cho mình.
Ngày Thế giới Truyền thông là một dịp đặc biệt cho việc Truyền
thông mục vụ: Nó cống hiến cơ hội cho các tín hữu hiểu biết về tầm quan trọng
của truyền thông xã hội trong sứ mạng và trong hoạt động của Hội Thánh, và kêu
gọi họ cầu nguyện cũng như nâng đỡ bằng tinh thần và tài chánh cho việc tông đồ
truyền thông.
Nó cống hiến cho Hội Thánh một cơ hội để đánh giá cao và cảm ơn các
chuyên gia truyền thông vì việc phục vụ của họ cho cộng đồng. Tại một số nơi,
giám mục hay cá nhân các linh mục mời các người truyền thông đến để cám ơn họ
và cùng nhau mừng lễ. Những nơi khác sử dụng dịp này để tung ra các dự án mới
hay mời gọi dân chúng đóng góp các ý tưởng và gợi ý các đề xuất về truyền
thông. Tại một số quốc gia, người ta làm và phân phát các áp phích tuyên
truyền; người ta cũng mở các cuộc triển lãm để làm nổi bật mối quan tâm của chủ
đề năm ấy. Các cuộc hội thảo và các khoá đào tạo đặc biệt cũng có thể được tổ
chức để sử dụng dịp này vào việc đào tạo hay phát hiện các tài năng cho công
việc truyền thông của Hội Thánh trong một giáo phận hay một quốc gia.
2. Các Thông điệp Ngày Quốc tế Truyền thông Xã hội.
Trong thông điệp cho năm 1992 (Chủ đề: “Rao giảng thông điệp của
Đức Kitô trong các phương tiện truyền thông”), ĐGH Gioan Phaolô II đã mô tả mục
đích của ngày này như sau :
“Vào ngày này, chúng ta cử hành lễ mừng những phúc lành của khả
năng nói, nghe và nhìn, giúp chúng ta ra khỏi tình trạng cô độc và cô đơn để
trao đổi với những người sống xung quanh chúng ta các tư tưởng và tình cảm phát
sinh trong lòng mình. Chúng ta mừng hồng ân viết và đọc, chúng truyền lại cho
chúng ta sự khôn ngoan của tiền nhân, để rồi các kinh nghiệm và suy tư của
chính chúng ta lại được lưu truyền cho các thế hệ sau. Rồi, nếu chúng ta ít để
ý đến những điều kỳ diệu này, thì chúng ta cũng phải nhìn nhận những điều kỳ
diệu còn lạ lùng hơn nữa: ‘những điều kỳ diệu của kỹ thuật mà Thiên Chúa đã
định cho thiên tài của loài người khám phá ra’ (IM số 1), những phát minh đã
tăng lên vô số trong thời đại chúng ta và đã khuyếch đại tiếng nói của chúng ta
khiến cho cùng một lúc nó có thể lọt vào tai của những đám đông không thể nào
đếm nổi.
Các phương tiện truyền thôngchúng ta không loại trừ một phương tiện
nào trong lễ mừng này là tấm vé vào cửa của mọi người, nam cũng như nữ, để đi
vào thị trường đương đại nơi các tư tưởng được nói lên một cách công khai, nơi
các ý tưởng được trao đổi, các tin tức được lưu chuyển, và thông tin đủ loại
được phát đi và tiếp nhận (xem Redemptoris Missio số 37). Chúng ta ngợi khen
Cha trên Trời vì tất cả những hồng ân này, vì ‘mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn
hảo’ (Gc 1:17) đều đến từ Người.”
Các chủ đề và các thông điệp cho Ngày Thế giới Truyền thông kể từ
năm 1968 đã tạo thành một kho tàng phong phú về các suy nghĩ và các mối quan
tâm của Hội Thánh đối với truyền thông xã hội. Một số chủ đề có tác động đặc
biệt đối với hoạt động truyền thông mục vụ, như khi chúng liên quan đến gia
đình (1969, 1979, 1980, 1991, 1994, 2004), trẻ em (1979) và giới trẻ (1979,
1985), phụ nữ (1996), và người già (1982), cổ võ công lý và hoà bình (1983,
1987, 1988, 2003), và hoà giải (1975); máy tính và Internet (1990, 2002), và
rao giảng Tin Mừng (1974, 1992, 2002).
TOÀN BỘ 43 CHỦ ĐỀ CÁC NGÀY QUỐC TẾ TRUYỀN
THÔNG TỪ NĂM 1967 =2009 |
||||
LẦN |
NĂM |
CHÚA NHẬT |
ĐỜI GIÁO HOÀNG |
CHỦ ĐỀ |
01 |
1967 |
07/05/1967 |
Paul VI |
Hội Thánh và Truyền
Thông . (Church and Social
Communication) |
02 |
1968 |
26/05/1968 |
Paul VI |
Truyền Thông Xã Hội và
sứ phát triển các nước (Social Communications and the Development of Nations) |
03 |
1969 |
18/05/1969 |
Paul VI |
Truyền Thông Xã Hội và
Gia đình . (Social Communications
and the Family) |
04 |
1970 |
10/05/1970 |
Paul VI |
Truyền Thông Xã Hội và
Giới trẻ . (Social Communications
and Youth) |
05 |
1971 |
23/5/1971 |
Paul VI |
Vai trò Truyền Thông Xã
Hội trong việc thăng tiến sự hiệp nhất nơi con người . (The Role of
Communications Media in Promoting Unity among Men) |
06 |
1972 |
15/05/1972 |
Paul VI |
Các phương tiện Truyền
Thông xã hội phục vụ sự thật. (The Media of Social
Communications at the Service of Truth) |
07 |
1973 |
03/05/1973 |
Paul VI |
Truyền thông xã hội và
việc khẳng định và thăng tiến các giá trị thiêng liêng. (The Mass Media and the
Affirmation and Promotion of Spiritual Values) |
08 |
1974 |
26/05/1974 |
Paul VI |
Truyền thông xã hội và
Truyền giáo trong thế giới ngày nay. (Social Communications
and Evangelization in Today's World) |
09 |
1975 |
11/05/1975 |
Paul VI |
Truyền Thông xã hội và
Hòa giải. (The Mass Media and
Reconciliation) |
10 |
1976 |
30/05/1976 |
Paul VI |
Truyền Thông xã hội và
các quyền căn bản và các nhiệm vụ của con người . (Social Communications
and the Fundamental Rights and Duties of Man) |
11 |
1977 |
27/05/1977 |
Paul VI |
Truyền thông xã hội và
Quảng cáo : lợi ích, nguy cơ, và trách nhiệm. (Advertising in the
Mass Media: Benefits, Dangers, Responsibilities) |
12 |
1978 |
07/05/1978 |
Paul VI |
Người đón nhận Truyền
thông : các mong đợi, các quyền lợi và các nhiệm vụ phải có . (The Receiver in Social
Communications: His Expectations, his Rights, his Duties) |
13 |
1979 |
23/05/1979 |
Gioan Phaolo II |
Bao vệ Trẻ em và Cổ vũ
sự sự quan tâm tốt nhất đối với trẻ trong Gia đình và trong Xã hội . (Protecting the Child
and Promoting his Best Interest in the Family and in Society ) |
14 |
1980 |
18/05/1980 |
Gioan Phaolô II |
Truyền thông xã hội và
Gia đình . (Social Communications
and Family) |
15 |
1981 |
31/05/1981 |
Giaon Phaolô II |
Truyền thông xã hội và
Trách nhiệm tự do của con người . (Social Communications
and Responsible Human Freedom) |
16 |
1982 |
23/05/1982 |
Gioan Phaolo II |
Truyền thông và những
vấn đề của người cao tuổi. (Social Communications
and the Problems of the Elderly) |
17 |
1983 |
15/05/1983 |
Gioan Phaolo II |
Truyền thông xã hội và
cổ vũ Hòa bình. (Social Communications and the Promotion of
Peace) |
18 |
1984 |
24/05/1984 |
Gioan Phaolo II |
Truyền thông xã hội :
các phương tiện để gặp gỡ giữa Đức tin và Văn hóa. (Social Communication:
Instruments of Encounter Between Faith and Culture) |
19 |
1985 |
19/05/1985 |
Gioan Phaolo II |
Truyền thông xã hội
phục vụ cho việc thăng tiến Kitô giáo
đối với Giới trẻ. (Social Communications
for a Christian Promotion of Youth) |
20 |
1986 |
11/05/1986 |
Gioan Phaolo II |
Truyền thông xã hội và
việc huấn luyện Kitô giáo về công luận . (Social Communications
and the Christian Formation of Public Opinion) |
21 |
1987 |
31/05/1987 |
Gioan Phaolo II |
Truyền thông xã hội
phục vụ cho Công lý và Hòa binh. (Social Communications
at the Service of Justice and Peace) |
22 |
1988 |
15/05/1988 |
Gioan Phaolo II |
Truyền thông xã hội và
việc thăng tiến tình Liên đới và Huynh
đệ giữa các Dân tộc và các Quốc gia. (Social Communications
and the Promotion of Solidarity and Fraternity Between Peoples and Nations) |
23 |
1989 |
27/05/1989 |
Gioan Phaolo II |
Tôn giáo trong Truyền
thông xã hội. (Religion in the Mass
Media) |
24 |
1990 |
24/05/1990 |
Gioan Phaolo II |
Sứ điệp Kitô giáo trong
Văn hóa Vi tính (The Christian Message
in a Computer Culture) |
25 |
1991 |
12/05/1991 |
Gioan Phaolo II |
Truyền thông xã hội và
sự Hiệp nhất va Tiến bộ của Gia đình nhân loại. (The Communications
Media and the Unity and Progress of the Human Family) |
26 |
1992 |
31/05/1992 |
Gioan Phaolo II |
Loan báo Sứ điệp của
Đức Kitô trong Truyền thôgn xã hội. (The Proclamation of
Christ’s Message in the Communications Media) |
27 |
1993 |
23/05/1993 |
Gioan Phaolo II |
Băng hình Xem va Nghe
(video và audio) trong việc huấn luyện Văn hóa và Lương tâm. (Videocassettes and
Audiocassettes in the Formation of Culture and of Conscience) |
28 |
1994 |
15/05/1994 |
Gioan Phaolo II |
Truyền hình và Gia đình
: những chỉ dẫn để biết xem Truyền hình. (Television and Family:
Guidelines for Good Viewing) |
29 |
1995 |
28/05/1995 |
Gioan Phaolo II |
Phim ảnh (Cinema) :
truyền thông Văn hóa và các Giá trị . (Cinema: Communicator
of Culture and Values) |
30 |
1996 |
19/05/1996 |
Gioan Phaolo II |
Các phương tiện Truyền
thông là : Diễn đàn mới để thăng tiến vai trò Nứ giới torng Xã hội. (The Media: Modern
Forum for Promoting the Role of Women in Society) |
31 |
1997 |
11/05/1997 |
Gioan Phaolo II |
Loan truyền Chúa Giêsu
: là Đường, là Sự thật và là Sự sống . (Communicating Jesus:
The Way, the Truth and the Life) |
32 |
1998 |
24/05/1998 |
Gioan Phaolo II |
Được nâng đỡ bởi Thánh
linh, hãy Thông truyền niềm Hy vọng. (Sustained by the
Spirit, Communicate Hope ) |
33 |
1999 |
16/05/1999 |
Gioan Phaolo II |
Truyền thông xã hội :
Người bạn Đồng hành cho những ai tìm kiếm về Cha . (Mass Media: A Friendly
Companion for those in Search of the Father) |
34 |
2000 |
04/06/2000 |
Gioan Phaolo II |
Thông truyền Chúa Kito
bằng mọi phương tiện Truyền thông vào buổi bình minh của Thiên niên kỷ mới . (Proclaiming Christ in
the Media at the Dawn of the New Millennium) |
35 |
2001 |
27/05/2001 |
Gioan Phaolo II |
Hãy rao giảng trên mọi
Mái Nhà : Tin Mừng trong kỹ nguyên Gruye62n thông toàn cầu . (Preach from the
Housetops: The Gospel in the Age of Global Communication) |
36 |
2002 |
12/05/2002 |
Gioan Phaolo II |
Internet : một diễn đàn
mới để Loan báo Tin Mừng (Internet: A New Forum
for Proclaiming the Gospel) |
37 |
2003 |
01/06/2003 |
Gioan Phaolo II |
Tuyền thông xã hội phục
vụ cho Hòa bình Đích thực trong Ánh sáng thông điệp “ Hòa bình trên thế
giới”. (The Communications
Media at the Service of Authentic Peace in the Light of 'Pacem in terris' ) |
38 |
2004 |
23/05/2004 |
Gioan Phaolo II |
Các Phương tiện Truyền
thông và Gia đình : Nguy cơ và Phong phú . (The Media and the
Family: A Risk and a Richness) |
39 |
2005 |
08/05/2005 |
Gioan Phaolo II |
Truyền thông xã hội :
phục vụ cho sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc. (The Communications
Media: At the Service of Understanding Among Peoples) |
40 |
2006 |
28/05/2006 |
Benedicto XVI |
Các phương tiện Truyền
thông : mạng lưới để Truyền thông, Thông hiệp và Công tác. (The Media: A Network
for Communication, Communion and Cooperation) |
41 |
2007 |
08/05/2007 |
Benedict XVI |
Trẻ em và các Phương
tiện Truyền thông, một thách đố cho việc giáo dục. (Children and the Media
: a challenge for Education) |
42 |
2008 |
04/05/2008 |
Benedict XVI |
Các phương tiện Truyền
thông : ở điểm gặp gỡ giũa Thăng tiến Bản thân và Phục vụ. Tìm kiếm Chân lý
để chia sẻ chân lý đó với tha nhân. (The Media: At the Crossroads
between Self-Promotion and Service. Searching for the Truth in order to Share
it with Others.) |
43 |
2009 |
31/5/2009 |
Benedict XVI |
“Kỹ thuật Mới, Tương
giao Mới, cổ súy một Văn hóa biết Kính Trọng, biết Đối thoại, và đầy Tình
bạn. ("New
Technologies, New Relationships. Promoting a Culture of Respect, Dialogue and
Friendship") |
II.
CÂU
HỎI 2 :
Xin Đức Cha cho biết các phương tiện Truyền thông xã hội ngày nay
có vai trò nào trong việc loan báo Tin Mừng Cứu độ của Giáo Hội Công Giáo Việt
Nam hôm nay .
TRẢ LỜI :
Nói đến “ các phương tiện Truyền thông”, mà chưa khẳng định gì về
nguồn gốc, bản chất, nội dung Truyền thông theo giáo lý Công giáo, có liên hệ
mật thiết đến Mầu nhiệm Chúa Ba Ngội, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần,
thì thật là thiếu sót và có thể gây sóc
ngạc nhiên, bỡ ngỡ cho nhiều người ! Vì cho tới nay, nhiều người, kể cả
một đông các Linh mục, tu sĩ, chưa bao giờ đuợc học về môn Thần học Truyền
thông? Có môn thần học về Truyền thông thật không ? Tại sao Truyền thông lại có
liên hệ mật thiết với mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi ?
Thật vậy, chỉ sau khi được lại các văn kiện của Công đồng Vatican
II , Inter Mirifica nói về ý nghĩa, tầm quan trọng, sự cần thiết của truyền
thông và nhất là giáo lý thần học Truyền thông, nhiều người mới xác tín Truyền
thông là một thành phần trong mầu nhiệm Thiên Chúa. Tóm tắt về thần học Truyền
thông như sau : Chúa Cha là Người khởi đầu sự truyền thông, là nguồn của mọi
Truyền thông, Chúa Cha tự thông truyền, tự tỏ lộ, tự mạc khải chính mình bằng
nhiều kiểu, nhiều cách, qua tạo dựng vũ trụ, qua các tạo vật, qua lịch sử con
người... Chúa Con là Đấng truyền thông
của Chúa Cha, là trung gian, là đỉnh cao của truyền thông Thiên Chúa Cha, ‘Mọi sự của con là của Cha, và mọi sự của Cha
là của con’ (Ga 17:10). “Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể, mặc khải cho chúng ta
thấy đời sống thần linh là một sự truyền thông, chia sẻ. Việc Đức Giêsu chia sẻ chính mình và mọi sự
thật phát xuất từ sự chia sẻ hoàn toàn giữa Cha và Con trong Thánh Thần. Thánh Thần
là chia sẻ, là truyền thông. ‘Khi Thần Sự Thật đến, Người sẽ dẫn
anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả
những gì Người nghe, Người sẽ nói lại...’ (Ga 16:13-15). Chúa Thánh Thần là
Đấng giải mã sứ điệp truyền thông của Chúa Cha.
Trả lời cho câu hỏi các phương tiện Truyền thông xã hội ngày nay có
vai trò nào trong việc loan báo Tin Mừng Cứu độ của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam
hôm nay , gỉa thiết chúng ta đã phải xác tín những giáo lý căn bản về thần học
Truyền thông nói trên, rồi từ đó ta mới đồng tình với Công đồng Vat. II khi
công đồng yêu cầu phải tận dụng tất cả mọi phương tiện tân kỳ hiện đại nhất cho
việc loan báo Tìn Mừng Chúa.
Chính vì thế, Thượng Hội Đồng Giám Mục Đặc Biệt dành cho Châu Á họp
tại Roma từ 19 tháng 4 đến 14 tháng 5, 1998, đã nói rằng “các Phương tiện
truyền thông xứng đáng được gọi là Areopagus, “Nghị Trường” của thời đại
hôm nay; chính ở đây cũng như trong các lãnh vực khác, Hội Thánh có thể đóng
một vai trò tiên tri và khi cần có thể trở thành tiếng nói của những người
không có tiếng nói.” . Các loại phương tiện truyền thông gồm có :
1. Các phương tiện Truyền
thông “ truyền thống” .
+ Truyền
thông giữa người với người.
-
Trong Tông huấn Evangelii Nuntiandi (1975), ĐGH Phaolô VI nhắc nhở
các người rao giảng Tin Mừng “đừng quên hình thức rao giảng người-cho-người
này, nhờ đó lương tâm thâm sâu của một cá nhân được chạm tới bởi một thế giới
hoàn toàn độc đáo mà họ nhận được từ một người khác...” Chính Chúa đã sử dụng
các cách thức truyền thông như thế, ví dụ như với ông Nicôđêmô, ông Dakêu,
người phụ nữ Samaria, và ông Simon người Biệt Phái (EN số 46).
-
Phương tiện truyền thông trước hết và trên hết trong việc mục vụ là
quan hệ người với người: người ta tìm kiếm nhau và trao đổi cho nhau mọi nhu
cầu và tình cảm. Sự truyền thông này chỉ bao gồm những con người và khả năng
chia sẻ với nhau. Ngay cả trong thời đại truyền thông đại chúng hay đa phương
tiện ngày nay, lối truyền thông này vẫn là cơ bản và hiệu quả nhất.
+ Truyền thông “truyền
thống” .
-
Các phương tiện truyền thông “truyền thống” tồn tại trong mọi nền
văn hoá như kể truyện, ca múa, kịch nghệ, và những dòng truyền thông trong cơ
cấu xã hội như giữa cha mẹ và con cái, thầy và trò. Một người truyền thông giỏi
biết cách vươn ra hay tương quan với những người thuộc các tầng lớp xã hội khác
nhau và thậm chí các nền văn hoá khác nhau.
-
Trong Công vụ Tông đồ ta thấy thời ấy không có các phương tiện đại
chúng hay các kỹ thuật đặc biệt nào cho việc truyền thông. Chính các lời nói
bằng miệng, các rao giảng và dạy dỗ và đặc biệt các chứng tá của đời sống cá
nhân và cộng đoàn là những cái thuyết phục được người ta và đưa họ đến với đức
tin. Đồng thời mọi Kitô hữu tự nhận thấy nhu cầu truyền thông truyền giáo khi
họ đi đến bất cứ đâu. Vậy mà chỉ trong một thời gian ngắn, đức tin Kitô đã từ
Israel lan tới toàn vùng Địa Trung Hải cho tới Rôma và tới tận Tây Ban Nha.
-
Các phương tiện truyền thông được dùng cho việc này chỉ là truyền
thông từ người đến người và từ cộng đoàn tới cộng đoàn qua những chứng tá cá
nhân, các thư từ và truyện kể.
+ Các phương pháp của Tông huấn Mục vụ
Evangelii Nuntiandi (1975, các số 40-48) :
Tông huấn đã nhắc tới đến bảy phương pháp có liên quan tới cách thức
truyền thông, nhưng hầu hết không nhắc đến một phương tiện kỹ thuật nào ngoài
một ít sách hay tài liệu giảng dạy. Các phương pháp này dựa trên sự chia sẻ
người với người của các cá nhân hay các nhóm như trong các cuộc cử hành phụng
vụ.
-
Truyền thông bằng dạy giáo lý, giảng, chứng tá và truyền thông
người với người thường không cần những dụng cụ hay kỹ thuật đặc biệt nào để
truyền thông.
-
Phương pháp cơ bản : Ecclesia in Asia (số 20) đưa ra một
hướng cơ bản khi nói rằng “sứ vụ của chính Đức Giêsu cho thấy rõ giá trị của sự
tiếp xúc cá nhân, nó đòi người rao giảng Tin Mừng phải lưu tâm tới hoàn cảnh
của người nghe để có thể cống hiến nhũng lời rao giảng phù hợp với mức độ
trưởng thành của người nghe, với một hình thức và một ngôn ngữ thích hợp. Dưới
góc nhìn này, các nghị phụ Thượng Hội Đồng nhiều lần nhấn mạnh nhu cầu phải rao
giảng thế nào để lôi cuốn được sự nhậy cảm của các dân tộc Châu Á. . .”
-
Lòng đạo đức bình dân là phương tiện truyền giáo được liệt kê cuối
cùng trong Evangelii Nuntiandi. Lòng đạo đức này được xây dựng rất nhiều
trên các phương tiện truyền thống như chia sẻ nhóm, hành hương, ca hát, diễn
kịch, hoạt cảnh, ca múa hay các phương tiện tương tự để diễn tả “một khát vọng
về Thiên Chúa mà chỉ những con người đơn sơ nghèo khổ mới có thể cảm nghiệm. Nó
làm cho người ta trở nên quảng đại và có thể hi sinh tới mức anh hùng khi cần
phải biểu lộ niềm tin” (Số 48).
-
Đây cũng là một trường hợp điển hình cho thấy rằng trong mọi việc
truyền thông giữa con người với nhau, các yếu tố cơ bản như lắng nghe, hiểu
biết và kính trọng lẫn nhau, và cả sự quan tâm lẫn nhau phải được bộc lộ như
thế nào.
-
Một sự truyền thông nhân bản trong đó người ta cảm thấy mình được
thấu hiểu và được chấp nhận cũng là một cách diễn tả sự truyền thông truyền
giáo vì nó phản ánh thái độ nhân bản của Đức Kitô đối với dân chúng, đặc biệt
những người nghèo khổ.
-
Về cách truyền thông này, các giám mục Châu Á khuyến khích phương
pháp kể truyện: “Nên chọn phương pháp kể truyện vì chúng gần gũi với các
hình thức văn hoá của Châu Á. Thực vậy, việc rao giảng về Đức Giêsu Kitô có thể
được thực hiện một cách hiệu quả nhất nhờ kể truyện về Người, như các sách Tin
Mừng đã làm. Các khái niệm siêu hình liên hệ. . . có thể được bổ sung bằng các
bối cảnh có tính quan hệ, lịch sử và vũ trụ hơn” (Ecclesia in Asia số
20).
-
Các hình thức và phương pháp khác được dùng trong việc giáo dục
không chính qui cũng có giá trị cho việc truyền thông truyền giáo. Chẳng hạn,
các câu truyện và các tiêu chuẩn khác nhau để sử dụng chúng có thể rất hữu ích.
Kịch nghệ và trò chơi cũng có thể dẫn đến một sự hiểu biết sâu hơn về thông
điệp Kitô giáo. Các phương tiện truyền thông truyền thống lâu đời như ca múa,
kịch, hành hương và hình ảnh, có thể gọi là ‘truyền thông nhóm,’ là một phần có
liên quan và cốt yếu của mọi việc truyền thông truyền giáo.
2. Các phương tiện Truyền
thông đại chúng .
+ Tông huấn
Mục vụ Ecclesia in Africa (1995, số 124).
-
ĐGH Gioan Phaolô II nhắc nhở chúng ta thêm rằng “các phương tiện
đại chúng hiện đại không chỉ là các dụng cụ truyền thông mà cũng là một thế
giới phải được Tin Mừng hóa. Về phương diện thông điệp chúng truyền đi, cần
phải bảo đảm rằng chúng truyền bá cái tốt, cái thật và cái đẹp.”
-
Ở chỗ này Đức Giáo Hoàng cũng diễn tả sự “quan tâm sâu xa đến nội
dung luân lý của rất nhiều chương trình mà các phương tiện truyền thông đang đổ
vào Châu Phi. Cách riêng tôi khuyến cáo chống lại những cảnh khiêu dâm và bạo
lực đang tràn ngập các nước nghèo này. . .
-
Mọi người Kitô hữu đều phải lo sao để các phương tiện truyền thông
là một kênh truyền tải tinh thần Tin Mừng. Nhưng các Kitô hữu là chuyên gia
trong lãnh vực này phải đóng một vai trò đặc biệt. Họ có nhiệm vụ bảo đảm rằng
các nguyên tắc Kitô giáo phải ảnh hưởng tới việc hành nghề của họ, kể cả trong
khâu kỹ thuật và quản lý.”
+ Truyền
thông bằng ‘sách báo’ phục vụ Truyền giáo.
-
Sách có
một tầm quan trọng đặc biệt cho việc truyền thông truyền giáo. Trong các Thông
điệp ban đầu về Truyền giáo, các ĐGH chủ yếu khuyến khích việc sử dụng sách báo
cho việc truyền thông truyền giáo, bởi vì “ai cũng biết rằng báo chí có thể
được dùng một cách hiệu quả như thế nào để trình bày sự thật và nhân đức trong
chính ánh sáng của chúng và nhờ đó tạo ấn tượng trên tâm trí con người, hay để
phơi bày các lý luận sai lạc được nguỵ trang dưới cái vỏ sự thật, hay để bác bỏ
một số ý kiến sai lầm nghịch với tôn giáo hay gây thiệt hại lớn về thiêng liêng
bằng cách trình bày một cách xuyên tạc các vấn đề gai góc của xã hội.” (Piô
XII, Evangelii Praecones, 1951).
-
Trung Tâm Thông Tin và Tìm Hiểu :
Tại đây, người ta có thể tìm hiểu về Kinh Thánh,
đức tin và đời sống Kitô giáo và thậm chí cũng có thể tham dự các khoá học
chuyên môn với sự hỗ trợ của các ấn phẩm. Các trung tâm này thường quảng cáo
trên các nhật báo và cả ở những nơi công cộng khác. Chúng sử dụng các áp
phích, tờ rơi và các vật liệu thông tin khác để làm cho đức tin Kitô giáo
được biết đến và hiểu rõ hơn.
-
Các tạp chí chuyên về truyền thông truyền giáo trực tiếp viết cho
những người không thuộc về Hội Thánh còn khá hiếm. Chúng có thể gồm các câu
truyện mang tính chất Kitô giáo, hay trong tinh thần tiền-rao giảng Tin Mừng,
kể lại các sự kiện và nhân vật biểu thị các giá trị, đời sống và niềm tin Kitô
giáo.
+ Truyền
thông bằng ‘phát sóng : Rađiô và TV’ phục vụ Truyền giáo
-
ĐGH Gioan XXIII trong Thông điệp Princeps Pastorum (1959) về Truyền
giáo đã mở rộng các lời khuyến khích của các Giáo hoàng tiền nhiệm về
việc sử dụng báo chí trong truyền thông truyền giáo bằng cách thêm vào cả việc
sử dụng các phương tiện truyền thông điện tử : “Phải sử dụng tới mức đầy đủ
nhất các phát minh khoa học mới nhất cho việc truyền thông và phát sóng về chân
lý.”
-
Việc phát sóng trên rađiô và TV có thể được dùng để giảng và trình
bày Tin Mừng như được làm bởi nhiều nhóm và nhà giảng thuyết thuộc phái Tin
Lành .
Ở đâu được phép có những đài phát sóng tư nhân,
các đài này có thể đi vào loại truyền thông này.
-
Phát sóng trên truyền thanh và truyền hình có lợi thế đặc biệt là
thường hiệu quả hơn trong tiến trình tiền-rao giảng Tin Mừng. Thực ra chúng
không phải là rao giảng trực tiếp mà là giúp người ta hiểu và quí chuộng cuộc
đời họ trong ánh sáng các giá trị nhân bản và Kitô giáo. Nhờ vậy người ta trở
nên mở lòng ra với Kitô giáo hơn và đi theo Đức Kitô bằng con đường riêng của
họ.
+ Truyền
thông bằng ‘Truyền hình’ phục vụ truyền giáo.
-
Tại hầu hết các nước Châu Á, ngoại trừ nước Phi luật tân mà phần đa
dân số là người Công Giáo, thì việc đưa các chương trình thuần tuý Kitô giáo
lên màn hình TV quả là rất khó, trừ một vài dịp đặc biệt như các lễ Giáng Sinh
và Phục Sinh. Tại các nước ấy, có lẽ phương thức “thuyết phục gián tiếp” có
nhiều cơ may thành công hơn nhưng cũng không dễ thực hiện.
-
Vai trò chính của truyền hình trong việc truyền thông truyền giáo
thực sự là ở giai đoạn tiền-rao giảng Tin Mừng: chuẩn bị một bầu khí và mảnh
đất để đức tin Kitô giáo được dung nạp và có thể được chấp nhận một cách tích
cực như một đối tác.
-
Về phương diện này, một tường thuật về các nhân cách lỗi lạc như Mẹ
Têrêsa Calcutta hay ĐGH Gioan Phaolô II sẽ có tác dụng rất lớn. Một tường thuật
về các chuyến đi của Đức Giáo Hoàng đôi khi tạo được một ảnh hưởng vượt quá một
khu vực riêng nào, và trở thành biểu tượng cho khát vọng hoà bình và hiệp nhất
của thế giới nếu chẳng hạn ngài đi thăm một đền thờ Hồi Giáo hay các lãnh thổ
của Paléttin tại Israel.
+ Truyền
thông bằng ‘Phim ảnh’ phục vụ Truyền
giáo .
-
ĐGH Piô XII đã viết trong Thông điệp Miranda Prorsus từ năm 1957
(số 74) vẫn còn giá trị hôm nay cho việc truyền thông truyền giáo: “Điện ảnh. .
. ngày nay phải được kể trong số những phương tiện quan trọng nhất nhờ đó các ý
tưởng và khám phá của thời đại chúng ta được biết đến.”
-
Khi bình luận về 100 năm Điện Ảnh, ĐGH Gioan Phaolô II trong Thông
điệp cho Ngày Thế Giới Truyền Thông 1995 đã nhắc nhở chúng ta: “Với khả năng to
lớn của nó, điện ảnh có thể trở thành một phương tiện mạnh mẽ cho việc rao
giảng Tin Mừng. Hội Thánh thúc đẩy các nhà sản xuất, các đạo diễn và mọi người
có liên quan, những người tự nhận mình là Kitô hữu và hoạt động trong thế giới
phức tạp và độc đáo này của điện ảnh, hãy hành động một cách nhất quán với Đức
Tin của mình và có những sáng kiến can đảm. . . để nhờ hoạt động chuyên nghiệp
của họ, thông điệp Kitô giáo với nội dung là Tin Mừng cứu độ cho mọi người có
thể hiện diện nhiều hơn trên thế giới.”
-
ĐGH nhìn thấy tiềm năng truyền giáo của Điện Ảnh đặc biệt trong mối
tương quan giữa phim ảnh và văn hoá. Trong một cuộc tiếp tân ngày 25 tháng 11,
1999 dành cho các nhà sản xuất phim, ngài nói: “Tôi cũng tin tưởng rằng các
phim quí vị sản xuất sẽ là một trợ cụ hiệu quả trong cuộc đối thoại cần thiết
đang diễn ra giữa văn hoá và đức tin trong thời đại chúng ta. Trong thế giới
điện ảnh và truyền hình, nơi đồng qui của lịch sử, nghệ thuật và ngôn ngữ biểu
cảm, hoạt động của quí vị trong tư cách là các nhà chuyên môn và là tín hữu,
đang tỏ ra đặc biệt cần thiết. Tự chính bản chất của nó, văn hoá là truyền
thông: truyền thông của các cá nhân với nhau và của con người với môi trường
sống của họ.
+ Truyền thông bằng ‘Video ‘ phục vụ Truyền giáo .
-
Video mở ra những khả năng mới nhưng cũng đặt ra những thách thức
cho việc truyền thông mục vụ của Hội Thánh. Với khả năng ‘chuyển đổi thời gian’
(xem Eilers 2002, tr. 169t.), các sự kiện tôn giáo và các chương trình mang
tính mục vụ có thể được xem không chỉ vào thời gian thực tế nhưng cả vào những
thời gian thuận tiện đối với người xem. Bằng cách này các sự kiện tôn giáo và
các chương trình có giá trị mục vụ có thể được chiếu vào những dịp khác nhau
cho các cá nhân và các nhóm tuỳ theo nhu cầu hay sở thích của họ.
-
Video còn cống hiến các cơ hội đặc biệt để sử dụng trong mục vụ như
huấn giáo, giảng dạy tôn giáo và sinh động hoá, để làm sáng tỏ một mối quan tâm
hay để cung cấp đề tài suy tư. Các chương trình về cầu nguyện và linh đạo, về
các địa danh và các thông điệp của Kinh Thánh, về đời sống Kitô giáo hay cuộc
đời các Thánh có thể giúp minh hoạ các giáo huấn của Hội Thánh nhưng đặc biệt
có thể sinh động hoá việc truyền thông nhóm và xử lý các kinh nghiệm chung.
Tình trạng ngày càng có nhiều thiết bị video và chương trình video cống hiến
cho các người hoạt động mục vụ thêm nhiều cơ hội để phục vụ con người.
-
Với các chương trình hết sức đa dạng được cống hiến cho công chúng,
các hoạt động truyền thông mục vụ cũng có nghĩa vụ đạo đức và sáng tạo trong
việc cổ xuý và giới thiệu các chương trình tốt có thể làm cho kinh nghiệm đời
sống của con người thêm phong phú và sâu xa hơn. Có thể soạn một sách hướng dẫn
để giúp việc chọn lựa phim dựa trên các tiêu chuẩn đạo đức và nghệ thuật. Nhiều
phim truyện hiện hữu đã có những thẩm định trước đây của các cơ quan Hội Thánh
như các văn phòng quốc gia về điện ảnh. Một ‘Sách hướng dẫn phim Video’ dựa
trên các thẩm định này và được phổ cập tới mọi người sẽ rất hữu ích, đặc biệt
đối với các bậc cha mẹ và nhà giáo. Chúng cũng có thể giúp mở ra những con
đường mới trong việc khám phá các khía cạnh Kitô giáo kín ẩn trong các phim có
vẻ là thế tục.
-
Tình trạng các chương trình phim video khiêu dâm tràn lan trên thị
trường cho cá nhân sử dụng đặt ra một thách thức mục vụ đặc biệt. Nó không chỉ
đòi hỏi một sự đánh giá luân lý mà còn đòi hỏi một sự giáo dục về phương tiện
truyền thông để giúp đặc biệt giới trẻ có một quan điểm phê phán và trưởng
thành đối với phim ảnh và video (xem Eilers 2002: Tiêu chuẩn về Phim và TV của
Hồng y Mahony, tr. 181-189; 1999, tr. 362-381). Truyền thông Mục vụ phải giúp
thay đổi ‘não trạng dâm đãng’ của con người thành một ý thức về phẩm giá đối
với giới tính và hành vi tính dụng trong hôn nhân.
-
Ngày nay các kỹ thuật video có thể được mọi người sử dụng dễ dàng,
điều này cống hiến thêm những khả năng cho công việc mục vụ. Không chỉ có các
bài giảng mẫu được ghi đĩa và xem lại trong các lớp thuyết giảng ở chủng viện;
các hoạt động mục vụ cũng có thể được ghi đĩa, biên tập và sử dụng. Đặc biệt có
thể hướng dẫn giới trẻ điều khiển các thiết bị video để thực hiện việc quay
phim thực tế và bằng cách này trở nên tích cực hơn trong lãnh vực truyền thông
bằng hình ảnh.
3. Các phương tiện Truyền
thông bằng ‘công nghệ hiện đại ’.
-
Trong văn kiện Gaudium et Spes về Hội Thánh trong Thế Giới
Hôm Nay, các Nghị phụ Công Đồng viết rằng tiến bộ kỹ thuật đã đang “biến đổi bộ
mặt trái đất” và đang vươn tới chinh phục không gian (GS số 5).
-
Theo hướng này, thông điệp cho Ngày Thế Giới Hoà Bình năm 1990 của
ĐGH Gioan Phaolô II về ‘thông điệp Kitô giáo trong một văn hoá máy tính’ quả
quyết rằng các Nghị phụ Công Đồng đã “nhìn nhận rằng các phát triển về công
nghệ truyền thông . sẽ tạo ra những phản ứng dây chuyền với những hậu quả không
thể lường trước được.”
-
Nhưng cũng theo tinh thần này của Gaudium et Spes, “dân
Thiên Chúa (phải) sử dụng với óc sáng kiến các khám phá và các kỹ thuật mới vì
lợi ích nhân loại và sự hoàn thành ý định của Thiên Chúa đối với thế giới.”
-
Trong lãnh vực này, “Hội Thánh được cống hiến thêm phương tiện hoàn
thành sứ mạng của mình.” Ngoài việc gia tăng sự truyền thông đối nội (‘ad
intra’), Hội Thánh với sự giứp đỡ của các công nghệ mới cũng có thể “sẵn sàng
hơn để loan báo cho thế giới biết các niềm tin của mình và cắt nghĩa các lý do
cho lập trường của mình đối với mọi vấn đề và sự kiện liên quan.”
-
Vaticanô II (GS số 58) nói rằng : “Thiên Chúa đã nói với
loài người tuỳ theo nền văn hoá riêng của mỗi thời đại. Cũng vậy, Hội Thánh
trong dòng lịch sử đã tồn tại giữa các hoàn cảnh khác nhau, đã sử dụng các
nguồn lực của các nền văn hoá khác nhau trong việc rao giảng của mình để truyền
bá và cắt nghĩa thông điệp của Đức Kitô.”
-
ĐGH Gioan Phaolô II đã hiểu theo tinh thần này khi ngài vạch ra
chức năng truyền giáo của Internet trong cuộc gặp gỡ các giám đốc của các Hội
Giáo Hoàng Truyền Giáo của Hoa Kỳ ngày 23 tháng 2, 2003. Ngài nói: “Sự phát
triển của Internet những năm gần đây cống hiến một cơ hội chưa từng có để mở
rộng cánh đồng truyền giáo của Hội Thánh, vì nó đã trở thành một nguồn thông
tin và truyền thông hàng đầu cho biết bao con người thời đại chúng ta, đặc biệt
là giới trẻ.”
+ Truyền
thông trên ‘Mạng’.
-
Trong thông điệp Ngày Thế Giới Truyền Thông năm 2002 về “Internet :
Một Diễn Đàn Mới cho việc Rao giảng Tin Mừng,” ĐGH Gioan Phaolô II đã nói chi
tiết hơn về việc phải sử dụng Internet thế nào cho việc truyền thông truyền
giáo.
-
Qua Internet, Hội Thánh không chỉ tham gia cuộc đối thoại của xã
hội giống như người ta ngồi nói chuyện ở nơi họp chợ (Forum, Aeropagus) của thế
giới. Nhờ Internet mà các thông tin và suy tư về đức tin Kitô giáo cũng được
truyền đạt.
-
Internet có thể kích thích sự quan tâm “và làm cho cuộc gặp gỡ đầu
tiên với thông điệp Kitô giáo có thể thực hiện được.” Điều quan trọng là phải
duy trì và phát triển mối quan tâm này, đặc biệt giữa giới trẻ. Tuy nhiên, ta
phải ý thức rằng cuối cùng người ta cũng sẽ phải bỏ thế giới ảo để vào thế giới
thật của cộng đoàn Kitô giáo.
-
Một khả năng nữa trong việc sử dụng Internet cho việc truyền giáo
là cung cấp sự giúp đỡ tiếp theo sau cuộc gặp gỡ ban đầu. Các chương trình
Internet có thể giúp đào sâu đức tin và nhận thức. Chúng có thể được dùng cho
việc giảng dạy giáo lý ban đầu và thường xuyên, và cũng được dùng để chia sẻ
kinh nghiệm đức tin, trả lời các câu hỏi và cung cấp một bối cảnh tốt hơn cho
các cuộc gặp gỡ ban đầu và các kinh nghiệm đức tin.
-
Nhưng việc sử dụng Internet trong truyền thông truyền giáo cũng có
một số hạn chế. Trong một nền văn hoá sống dựa trên cái phù du, người ta dễ rơi
vào nguy cơ tin rằng cái quan trọng là các sự kiện chứ không phải các giá trị.
-
Internet cung cấp những sự hiểu biết hết sức rộng rãi, nhưng không
dạy các giá trị; và khi các giá trị bị coi thường, thì chính nhân tính của
chúng ta cũng bị hạ thấp và người ta dễ đánh mất phẩm giá siêu việt của mình.
Bất chấp những tiềm năng to lớn của nó cho sự thiện, ai ai cũng đã thấy rõ ràng
một số cách thức đê hèn và bần tiện mà việc sử dụng Internet gây ra. . .”
-
Các chương trình được thiết kế đặc biệt cho truyền thông truyền
giáo trên Internet có thể là hình thức cung cấp thông tin đơn giản qua các
website (vd., www.vatican.va), nhưng cũng có cả các dịch vụ tư vấn, các
thắc mắc và trả lời; chúng có thể là các ‘phòng-chat’ hay các hình thức đối
thoại khác để trao đổi kinh nghiệm và ý kiến.
-
Có thể có các chương trình huấn luyện và đào tạo qua Net cho các
cuộc tiếp xúc đầu tiên và cả cho việc đào sâu hiểu biết và xác tín. Các chương
trình Iternet có thể sinh động hoá và khuyến khích thêm nhiều cuộc tiếp xúc và
kinh nghiệm đức tin sâu hơn.
-
“Nhờ Internet người ta có thể gia tăng các mối tiếp xúc bằng các
cách xưa nay chưa từng được nghĩ tới, sự kiện này mở ra những tiềm năng tuyệt
vời cho việc loan báo Tin Mừng.
-
Nhưng cũng đúng là các mối quan hệ được thiết lập bằng các phương
tiện điện tử không bao giờ có thể thay thế cho sự tiếp xúc cá nhân trực tiếp mà
việc loan báo Tin Mừng đích thực đòi hỏi. Vì rao giảng Tin Mừng luôn luôn lệ
thuộc vào chứng tá bản thân của người được sai đi rao giảng (xem Rm 10:14-15).
Làm thế nào để từ những mối tiếp xúc được cung cấp bởi Internet, Hội Thánh dẫn
đến sự truyền thông sâu hơn do việc loan báo của Kitô giáo đòi hỏi? Chúng ta
xây dựng thế nào từ sự tiếp xúc và trao đổi thông tin đầu tiên mà Internet cung
cấp?” (Thông điệp cho Ngày Thế Giới Truyền Thông 2002).
+ Các Thừa
sai Mạng
-
Một số người không chỉ chế ra từ “Tin mừng điện tử” (e-vangelism)
theo mẫu các thuật ngữ tương tự như “thương mại điện tử” (e-commerce) và
“ngân hàng điện tử” (e-banking).
-
Tin Mừng điện tử là một cố gắng hệ thống nhằm sử dụng Internet và
không gian mạng (cyberspace) cho việc truyền thông truyền giáo.
-
Tin Mừng điện tử sử dụng các chức năng khác nhau của Net để rao
giảng và chia sẻ Tin Mừng của Đức Kitô. Những người muốn hiến đời mình cho một
hoạt động như thế được gọi là các “thừa sai mạng” (cyber missionaries).
-
Họ đi lại trên không gian ảo như ở nhà mình và chia sẻ Tin Mừng với
bất cứ ai họ gặp. Để sử dụng phương pháp này, rõ ràng họ phải là các chuyên gia
tin học, đặc biệt về ngành lập trình, và có khả năng xử lý Mạng thành thạo.
Nhưng họ cũng phải là những người đầy đức tin và có kinh nghiệm bản thân về Đức
Kitô để họ có thể chia sẻ.
-
Đồng thời họ phải là những người hiểu biết mọi nhu cầu và khát vọng
của con người. Họ cũng cần ý thức rằng cuối cùng đức tin được sống trong thực
tế chứ không phải trong không gian ảo.
-
Bằng cách này, vai trò của các ‘thừa sai mạng’ thường chỉ giới hạn
ở giai đoạn gặp gỡ đầu tiên. Họ chỉ mở ra cánh cửa của thực tại ảo để chỉ con
đường tới đời sống thực, chạm đến mọi kinh nghiệm của con người.
-
Các ‘thừa sai mạng’ là những chuyên gia ở giai đoạn Tiền-Rao giảng
Tin Mừng và họ quảng đại nhường nhiệm vụ đào sâu bên kia không gian ảo cho
những người trong các cộng đoàn đức tin sống thực, ở đó sự truyền thông
người-với-người chuẩn bị giai đoạn chót cho một cuộc dấn thân sâu xa hơn với
Đức Kitô.
-
“Internet làm cho hàng tỉ hình ảnh xuất hiện trên hàng triệu màn
hình máy tính trên khắp hành tinh này. Từ ngân hà hình ảnh và âm thanh này,
liệu khuôn mặt Đức Kitô có hiện lên không và tiếng nói của Người có được nghe
thấy hay không?
-
Vì chỉ khi khuôn mặt Người được nhìn thấy và tiếng nói Người được
nghe thấy, thế giới mới biết được tin vui về sự cứu chuộc của chúng ta. Đây là
mục đích của rao giảng Tin Mừng. và đây là điều sẽ làm cho Internet trở thành
một không gian con người đích thực, vì nếu không có chỗ cho Đức Kitô, thì cũng
không có chỗ cho con người.” (Ngày Thế Giới Truyền Thông 2002).
+ Internet
và Cyberspace.
-
Với sự ra đời của truyền thông trên Internet và không gian mạng
(‘cyberspace’), thêm những cánh cửa mới được mở ra cho hoạt động mục vụ của Hội
Thánh trong thiên niên kỷ mới này.
-
Các website có thể được sử dụng để cung cầp thông tin về các
cơ quan của Hội Thánh, các trung tâm mục vụ cũng như các dịch vụ và sinh hoạt
của chúng. Các website này cũng có thể được phát triển để trở thành
tương tác bằng cách mời người khác viết bài và phản hồi về nội dung và các
chương trình của các trang web này và cũng để nói lên các nhu cầu và
mong đợi mục vụ của họ.
-
Có thể phát triển các website đặc biệt cho việc chăm sóc mục
vụ, ở đó người ta có thể hỏi các câu hỏi và diễn tả các nhu cầu thiêng liêng và
nhân bản của họ. Ví dụ, website www.ffnfuncity.de ở Đức là một thành phố
ảo với một Nhà Thờ giáo xứ. Một số linh mục và người hoạt động mục vụ hiện diện
trong Nhà Thờ ảo này để cung cấp tư vấn
và mọi người có thể đến để cầu nguyện và xin ơn. Các site như thế có thể
giúp người ta làm chủ đời mình và phát triển một quan điểm Kitô giáo về các sự
kiện đang xảy ra. Chẳng hạn một cha Capucinô tại Frankfurt (Đức) viết mỗi ngày
một bài suy niệm Kinh Thánh trên tờ nhật báo “Bild”, một tờ báo hàng đầu mỗi
ngày phát hành hơn 4 triệu 5 bản. Người đọc có thể click vào bài suy niệm của
ngài hoặc cũng có thể nhận miễn phí qua đường e-mail.
-
Các website khác cung cấp cho độc giả các bài viết và sách
thần học quan trọng, rất có ích cho các sinh viên và nhà nghiên cứu nhưng với
khả năng tiếp cận khá giới hạn các thư viện chuyên môn.William Fore đã thực
hiện trang web www.religion-online-org với mục đích này.
-
Các cổng khác liên quan tới Giáo Hội cung cấp thông tin, mua sắm,
gửi thư web miễn phí, bài đọc thiêng liêng, suy tư hằng ngày, và các nhóm
‘chat’, cũng như các tiện ích khác. Ví dụ như ở Hoa Kỳ có www.catholic-forum.com
hay www.catholic.org hay www.catholicexchange.com.
Chỉ riêng ở Đức thôi cũng có khoảng 500 website (năm 2003) có liên quan
cách này hay cách khác với Hội Thánh Công Giáo. Một mình website của HĐGM (www.katholische-kirche.de)
cung cấp khoảng 3.500 đường kết nối như thế.
-
E-mail (‘thư
điện tử’) là một phương tiện quan trọng khác nữa cho việc truyền thông nói
chung của Hội Thánh về mặt đối nội và đối ngoại, nhưng đặc biệt cho việc truyền
thông mục vụ. Sủ dụng e-mail, người ta có thể truyền thông trực tiếp
trong Hội Thánh và ra bên ngoài. Các người hoạt động mục vụ và những người có
nhu cầu có thể đến được với nhau hầu như tức thời. Các dịch vụ thư mạng miễn
phí được cung cấp bởi các cổng của Giáo Hội và các tổ chức khác giúp cho người
ta có thể tiếp xúc với nhau nhanh hơn và rẻ hơn.
-
Các tin tức đều đặn về các dịch vụ mục vụ có thể được gửi qua
e-mail đến những người đăng ký. Các chương trình học và dạy có thể được chia sẻ
về lãnh vực huấn giáo, linh đạo và đào luyện thần học.
-
E-commerce (‘thương mại điện tử’) cũng cung cấp nhiều khả năng cho việc truyền
thông mục vụ.
-
Internet là một thách thức đặc biệt cho Hội Thánh trong lãnh vực giáo dục
truyền thông. Trẻ em ngày nay ‘được sinh ra với con chuột’ rồi. Máy tính
đóng một vai trò quan trọng ngay từ tuổi thơ của các em, như xem các câu truyện
hoạt hình trên màn hình.
-
Truyền thông Mục vụ sẽ cho các em sự hướng dẫn cần thiết và giúp
các em tiêu hoá những gì các em thấy và nghe. Ở đây, đặc biệt giới trẻ có thể
là những đối tác trong hoạt động mục vụ vì họ khá thành thạo các công nghệ
truyền thông mới này. Họ có thể phát triển các chương trình đặc biệt cho hoạt
động mục vụ qua Internet và giúp bảo trì máy tính và các hệ thống mạng.
-
Các website hay các cổng mạng còn có các công dụng khác nữa cho các
mục đích mục vụ. Chẳng hạn như đang có sự gia tăng một khuynh hướng sử dụng hay
tạo các website cho ‘tang lễ’. Các trang than khóc được tạo ra bởi các cá nhân
xuất hiện cùng với các hình ảnh, bản văn và video để tưởng nhớ một người quá
cố. Một quyển ‘sách dành cho khách’ (‘guest book’) được mở ra, ở đó bất cứ ai
có những kinh nghiệm tương tự có thể chia sẻ và tìm được những lời an ủi. Đối
với nhiều người, hình thức này có ý nghĩa nhiều hơn là những bông hoa và những
đồ vật đặt trên mộ. Một tấm bia được dựng trong không gian mạng, trên đó người
quá cố được mong đợi là vẫn còn sống. Phải chăng đây cũng là một thách thức đặc
biệt cho việc truyền thông mục vụ?
-
Còn đối với những người ‘hưởng dùng’ các chương trình tôn giáo của
Net, các nghiên cứu ban đầu có vẻ cho thấy rằng các chương trình tôn giáo chủ
yếu được truy cập bởi những người đã thuộc về một tôn giáo nào đó. Có vẻ như
những người ngoài Hội Thánh cũng bắt đầu trở thành những người sử dụng trực
tuyến các chương trình tôn giáo. Nhưng trường hợp này chủ yếu vẩn là ở Hoa Kỳ
và Châu Âu nhiều hơn.
-
Rõ ràng Internet cũng có một tiềm năng lớn cho việc rao giảng Tin
Mừng, như Đức Gioan Phaolô II đã vạch ra trong thông điệp của ngài cho Ngày Thế
Giới Truyền Thông 2002: “Internet: Một Diễn Đàn Mới cho việc Rao Giảng Tin
Mừng.” Trong thông điệp của ngài vào dịp này, Đức Gioan Phaolô II mô tả các khả
năng rất cụ thể của phương tiện truyền thông mới này đối với việc Rao Giảng Tin
Mừng. Các khả năng này cũng bao gồm cả việc sử dụng Internet để theo dõi các
bước đầu của công việc truyền giáo, cuộc gặp gỡ đầu tiên với Tin Mừng. Đức Giáo
Hoàng nhắc đến chiều kích mục vụ khi ngài viết: “Internet cũng có thể cung cấp
một sự theo dõi mà công việc rao giảng Tin Mừng đòi hỏi. Đặc biệt trong một nền
văn hoá không hỗ trợ việc này, đời sống Kitô giáo kêu gọi phải tiếp tục việc
giảng dạy và huấn giáo, và đây có lẽ là lãnh vực mà Internet có thể cung cấp
một sự trợ giúp tuyệt vời.”
4.
Kết
luận :
Như đã thấy ở trên, giá trị các phương tiện kỹ thuật hiện đại nhất
là kỹ thuật mang không gian thật hiển nhiên và chắc chắn vô cùng ích lợi nếu
biết áp dụng vào lãnh vực loan báo Tin Mừng. “Cùng với các phương tiện truyền
thống như chứng tá đời sống, huấn giáo, tiếp xúc cá nhân, lòng đạo đức bình
dân, phụng vụ và các cuộc cử hành mừng lễ, việc sử dụng các phương tiện truyền
thông hôm nay là thành phần thiết yếu trong việc rao giảng Tin Mừng và huấn
giáo.
Thực vậy, như ĐGH Phaolô II từng nói : ‘Hội Thánh sẽ cảm thấy có
lỗi trước mặt Thiên Chúa nếu không vận dụng các phương tiện mạnh mẽ này mà tài
năng con người không ngừng làm cho phát triển và hoàn thiện mỗi ngày’ (EN số
45). Các phương tiện truyền thông xã hội có thể và phải là các công cụ của
chương trình Tái Tin Mừng hoá và Tân Tin Mừng hoá của Hội Thánh
trong thế giới hôm nay. . .”
Trong lãnh vực nầy (Truyền thông xã hội) Giáo Hội Việt nam đang
đứng trước những thách đố lớn lao ! Một mặt các kỹ thuật truyền thông mạng đang
ngày càng bỏ xa tầm tay của Giáo hội , mặt khác Nhà Nước đang ra sức hạn chế,
nếu không muốn nói là độc quyền trong lãnh vực truyền thông, vì nghĩ rằng tự do
truyền thông, tự do ngôn luận, tự do báo chí ... sẽ bị lợi dụng để công kích,
đả phá chế đô !
Dầu vậy, ta vẫn có thể nói như Đức Hồng Y Sepe, Bộ Trưởng Thánh Bộ
Truyền Bá Tin Mừng cho các Dân Tộc, đã nhấn mạnh vai trò và tầm quan trọng của
việc truyền thông truyền giáo trong một cuộc phỏng vấn cho ngày Chúa Nhật
Truyền Giáo Thế Giới năm 2002 (Agenzia Internazionale Fides, 2-10-2002) như sau
: “Hội Thánh thời kỳ đầu đã nhìn các con đường của Đế Quốc Rôma như là một ơn
huệ Chúa Quan Phòng ban cho để lên đường đi truyền giáo, mặc dù biết chắc Rôma
không xây những con đường đó cho Hội Thánh ..
Các tông đồ đã nhận lệnh của Chúa “đi khắp thế giới loan báo Tin
Mừng cho mọi tạo vật,’ các ngài đã không ngần ngại sử dụng các phương tiện giao
thông ấy của Đế Quốc để đi rao truyền Lời Thiên Chúa. Ngày nay, công nghệ hiện
đại cống hiến những con đường mới mà tất cả chúng ta phải sử dụng vì chúng sẽ
giúp chúng ta tung ra những mạng lưới xưa nay chưa từng có. ‘Một số lượng khán
thính giả đông đảo quá sức tưởng tượng của các vị rao giảng Tin Mừng trước
chúng ta. Vì vậy, điều mà thời nay chúng ta cần là một sự dấn thân tích cực và
giàu tưởng tượng của Hội Thánh vào lãnh vực truyền thông.
Người Công Giáo không được sợ hãi mở toang cánh cửa truyền thông xã
hội cho Đức Kitô, để Tin Mừng của Người có thể được nghe thấy từ các nóc nhà
trên khắp thế giới’ (Gioan Phaolô II, Thông điệp cho Ngày Thế Giới Truyền Thông
2001).
Thánh Bộ Truyền Bá Tin Mừng cho các Dân Tộc đặc biệt chú ý tới cả
một đại dương những khả năng mà các phương tiện truyền thông cống hiến cho
chúng ta; chúng ta tiến bước một cách táo bạo như lời Đức Thánh Cha nói khi hô
hào ‘ra chỗ nước sâu thả lưới’ và chúng ta phải cầu xin Chúa ban cho chúng ta
sức mạnh và lòng dũng cảm để thể hiện các sáng kiến mục vụ và thiêng liêng hợp
với thời đại mới, nó cho phép chúng ta sử dụng với hiệu quả tối đa các công cụ
mà nền văn hoá thông tin cống hiến, khi chúng ta được kiện cường nhờ tin tưởng
vào lời Chúa Giêsu.”
III. CÂU HỎI 3
Đức Cha đã có dịp tham dự kỷ niệm 40 năm thành lập Radio Veritas
tại Philippines. Xin Đức Cha cho biết hoạt động truyền thông xã hội của Giáo
hội Công giáo Việt Nam giữ vị trí nào trong vùng châu Á hiện nay.
TRẢ LỜI
Để hiểu rõ hơn và thấy đựoc tầm mức vô củng quan
trọng, ảnh hưởng lớn lao của Truyền thông đại chúng nhất là trong lãnh vực
truyền thanh, tôi xin lược tóm bài nói chuyện của Cha Franz josef Eilers về sự
hình thành và vai trò nhiệm vụ của Đài Truyền Thanh Radio Veritas như sau.
Ban đầu, Radio Veritas (Đài Chân Lý) có 2 dịch vụ
: một dịch vụ hải ngoại cho các nước Châu Á và một dịch vụ trong nước cho Philíppin,
thuộc trách nhiệm của Tổng Giáo Phận Manila.
Đến năm 1990, dịch vụ (nhánh) trong nước này tách
riêng ra thành một đài thương mại độc lập. Vì thế đich vụ hai ngoại (nhánh hải
ngoại) trở thành một đài độc lập với tên gọi “Radio Veritas Asia” (Đài Chân Lý
Á Châu, gọi tắt là RVA) và tiếp tục hoạt động phi thương mại, hoàn toàn lo việc
loan báo Tin Mừng và phát triển tại Châu Á.
Ngoài đài Radio Vaticana, đài Radio
Veritas Asia là đài phát sóng ngắn duy nhất của Hội Thánh ở cấp châu lục,
phát bằng 17 thứ tiếng của 21 nước Châu Á. Đài thuộc quyền sở hữu pháp lý của
“Trung Tâm Phát Thanh Thông Tin và Giáo Dục Phi luật tân” (“Philippine Radio Educational and
Information Center,” viết tắt là PREIC), gồm các giám mục và các chuyên gia của
Phi luật tân. Nhưng việc quản lý, điều hành và tài trợ “Đài Chân Lý Á Châu”
thuộc trách nhiệm của “Liên Hội Đồng Giám Mục Châu Á” (FABC) qua đại diện là
“Văn Phòng Truyền Thông Xã Hội” (OSC), đặt trụ sở tại Manila. Ban giám đốc của
văn phòng này gồm 5 giám mục cũng đồng thời là ban giám đốc điều hành của RVA.
Các chương trình được sản xuất chủ yếu tại các
trung tâm sản xuất của các vùng tiếp sóng (vùng đích), dưới trách nhiệm của các
HĐGM quốc gia hay vùng ấy; sau đó các chương trình này được hoàn chỉnh bởi các
ban ngôn ngữ khác nhau tại các studio của RVA ở Thành phố Quezon (Manila) của
Philíppin. Các chương trình được phát sóng qua ba máy phát 250 KW với 16 ăngten
định hướng đặt ở Palauig, Zambales, cách Manila khoảng 220 km về phía tây bắc.
Trong số các ngôn ngữ khác nhau, lượng chương
trình phát nhiều nhất là bằng tiếng Quan Thoại, phát bốn giờ mỗi ngày tới lục
địa Trung Quốc. Thêm vào đó còn có 50 phút phát lại bằng tiếng Quan Thoại từ
đài Radio Vaticana. Ngoài ra cũng có một chương trình 30 phút bằng tiếng Quảng
Đông được phát tới Trung Quốc.
Kế đến là chương trình tiếng Việt được phát mỗi
ngày hai giờ rưỡi, còn các tiếng khác được phát khoảng từ 30 phút tới một giờ
bằng bốn thứ tiếng của Miến Điện (Miến, Karen, Kachin và Zomi-Chin), tiếng
Inđônêxia, Sinhala, Urdu, Tamil, Telugu và Hinđi. Một chương trình hằng ngày
bằng tiếng Philíppin dành cho đông đảo người Philíppin lao động tại nước ngoài
trên khắp Châu Á và xa hơn. Ngoài một chùm phát về hướng Đông Á (Hong Kong),
chương trình này đặc biệt được phát sang các nước Ả Rập, là những nơi mà người
Kitô hữu không được phép cử hành các nghi lễ tôn giáo riêng của mình.
Radio Veritas Asia được tài trợ bởi các cơ quan
tài trợ khác nhau của Châu Âu và Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin ở Rôma. Nhiều giám
mục Châu Á thường xuyên góp cho đài một
ngàn đôla từ khoản trợ cấp hằng năm của
giáo phận mình ở Propaganda, và các HĐGM Nhật, Hàn Quốc và Thái Lan cũng đóng
góp.
Tuy đã thử nhiều lần, nhưng cho đến nay đài vẫn
không thể nhận được sự bảo đảm hỗ trợ tài chánh từ các nước và các châu lục khác
như Hoa Kỳ, Canađa và Úc. Tại Philíppin một “Quĩ Radio Veritas Asia” vừa được
lập để tìm các nhà hảo tâm địa phương và chính Quĩ này cũng đi vào các hoạt
động Quan hệ Công cộng hầu làm cho đài được biết đến nhiều hơn trong nước và cả
ở nước ngoài.
Các khả năng công nghệ mới đặt ra thách thức cho
sự phát triển tương lai của hoạt động phục vụ phát sóng tại Châu Á với thêm các
khả năng của mạng Internet. Mới đây, một hội nghị của các cơ quan gây quĩ tại
Đức (1415 tháng 2, 2001) và các chuyên gia về tương lai của đài RVA đã cho thấy
rằng việc phát sóng ngắn vẫn còn giữ vị trí quan trọng trong tương lai, nhưng
phải được bổ túc bằng các khả năng mới của Internet để có thể cung cấp các
chương trình thích hợp với các nhu cầu và đòi hỏi của cá nhân. Các công nghệ mới
cũng mở rộng khả năng biên tập, thiết kế chương trình và hợp tác giữa đài với
các trung tâm sản xuất tại các vùng tiếp sóng. Với sự trợ giúp của “CBCPnet”,
nhà cung cấp Internet mới của HĐGM Phi (CBCP), các nhà sản xuất và biên tập tại
các studio ở Quezon bay giờ đã hoàn toàn kết nối với Net. Nhờ vậy, ngoài những
khả năng khác, họ đã có thể tiếp cận rộng rãi hơn với các tin tức và thông tin
địa phương từ các vùng tiếp sóng của họ.
Tại lục địa Châu Á, số người Công Giáo chỉ chiếm
khoảng 3% tổng dân số 3 tỷ rưỡi. Con số này đặt ra một thách thức lớn cho việc
Loan Báo Tin Mừng bằng Radio và Internet. Với đài “Radio Veritas Asia”, chúng
ta có một khả năng có một không hai trên thế giới.
ĐGH Gioan Phaolô II đã ý thức điều này khi ngài
viết trong Tông huấn Ecclesia in Asia, “Cùng với các Nghị Phụ Thượng Hội
Đồng, tôi có lời khen ngợi Đài Radio Veritas Asia, là đài phát sóng ngắn
duy nhất cấp châu lục cho Hội Thánh tại Châu Á, vì công việc rao giảng Tin Mừng
qua việc phát sóng của đài trong gần 30 năm qua. Phải có những cố gắng để củng
cố công cụ truyền giáo tuyệt vời này, nhờ các chương trình ngôn ngữ thích hợp,
trợ giúp nhân sự và tài chánh từ các HĐGM và các giáo phận tại Châu Á.”
Trong chuyến viếng thăm của ĐGH nhân dịp kỷ niệm
25 năm của đài, ngài cảm thấy rằng “đài RVA tiếp tục là một cảch diễn tả mạnh
mẽ tinh thần đồng trách nhiệm của các giám mục Châu Á trong việc theo đuổi sứ
mạng truyền giáo của Hội Thánh với một tầm nhìn xa rộng và phấn khởi.” Theo
ngài, “Radio Veritas Asia đang đối diện với nhiệm vụ cấp bách là phải tìm ra
những cách thức ngày càng hiệu quả hơn để duy trì và làm sáng tỏ đức tin của
những người đã tin Đức Kitô, và loan báo về Người và Nước của Người cho những
ai chưa biết Người... Radio Veritas có thể tự hào là đã nuôi dưỡng cuộc đối thoại
tôn trọng với các tín đồ của các tôn giáo khác, là thành phần thính giả rất
đông đảo của đài.
Ngày nay hơn bao giờ, các tín đồ của các truyền
thống khác nhau cần phải hiểu biết lẫn nhau nhiều hơn, để cộng tác với nhau
trong việc bảo vệ những giá trị thiêng liêng và nhân bản chung, mà nếu không có
những giá trị này thì không thể nào xây dựng được một xã hội xứng đáng với con
người. Qua các chương trình giáo dục, tin tức và giải trí, Radio Veritas Asia
đang cống hiến cho sự phát triển con người của vô số cá nhân và gia đình.”
Trong mười năm qua, Đài đã nhận được gần một
triệu lá thư của các thính giả. Trong số này chỉ có 35% là Công Giáo. Số 65%
còn lại là tín đồ của các tôn giáo khác như Hồi Giáo, Phật Giáo, Hinđu Giáo và
cả những người không theo tôn giáo nào. Với nhiều chương trình của đài, 80 tới
90 % thính giả không phải là người Kitô giáo. Chỉ xin nêu ra đây 3 ví dụ:
·
Một
thính giả từ Bắc Kinh viết: “Tôi thực sự biết ơn Đài Veritas vì đã cung cấp cho
chúng tôi những chương trình quí báu và chất lượng cao, và cho các bạn bè ở
nước ngoài... giúp tôi hiểu khá đầy đủ những sự phát triển và thay đổi đang
diễn ra, và bản chất của lối suy nghĩ triết học truyền thống của Trung Quốc...
Vì Trung Quốc lục địa sử dụng triết học Mác... nhiều ý tưởng khá cực đoan và
hạn chế, thiếu cái nhìn khách quan...
·
Một
thính giả khác từ một tỉnh của Trung Quốc viết: “Đài phát thanh Công Giáo đã đi
vào cuộc sống tôi. Nó giống như một Nhà Thần Học trên không cung cấp sự đào
luyện cho tôi. Nó là người linh hướng của tôi, một người bạn giàu khôn ngoan và
là con thuyền của dòng đời tôi. Tôi nghe đài hằng ngày. Đài có các chương trình
rất hay, đa dạng, với nhiều sắc thái khác nhau, nhưng chủ yếu tập trung vào Tin
Mừng Đức Kitô, thấm đượm sức sống và nuôi dưỡng linh hồn...”
·
Một
thanh niên ở một vùng khác của Châu Á: “Tôi là một dân tị nạn ở Thái Lan. Tôi
là một Phật tử. Tôi là thính giả thường xuyên của RVA. Mặc dù tôi đang gặp hoàn
cảnh khó khăn, nhưng tôi không bao giờ thất vọng vì RVA luôn nâng đỡ, khích lệ
và an ủi tôi. Tôi ao ước trở thành người Công Giáo. Tôi hi vọng sẽ được rửa tội
vào tháng 12 tới.”
Ngoài các lá thư, sự tích cực tham gia của các
thính giả cũng là một dấu hiệu chứng minh tính hiệu quả của các chương trình
RVA:
Các câu lạc bộ thính giả là các nhóm thính giả
cùng nhau nghe hoặc thảo luận về các chương trình của đài. Riêng chương trình
bằng tiếng Hinđi cũng đã có 208 câu lạc bộ các thính giả RVA như thế tại Ấn Độ.
Các cuộc gặp gỡ thính giả tại các vùng
ngôn ngữ cũng là một dấu chỉ khác nữa. Chẳng hạn tại cuộc gặp gỡ hằng năm ở
Hyderabad năm 2001, ngoài những điều khác, sau đây là các ví dụ do những người
tham dự nêu lên:
·
Một
thính giả thuê một xe tải, gắn loa trên xe tải và cho phát lại các chương trình
RVA tại các làng xã.
·
Một
câu lạc bộ khác xin tổ vận động cho một đảng chính trị tặng cho câu lạc bộ các
micrô của họ. Họ tặng và câu lạc bộ hiện đang dùng các micrô này để phát đi các
chương trình RVA.
·
Một
thính giả nói năm ngoái ông có 2 lớp học ngày Chúa Nhật; bây giờ ông có 20 lớp
với 23 giáo viên và 1.500 trẻ em được nghe các chương trình của RVA.
·
Một
câu lạc bộ thính giả khác đã chuyển các bài hát của chương trình RVA thành các
điệu múa và đi biểu diễn ở các làng xã.
5. CÂU HỎI 4 :
Với
tính cách Giám mục Chủ tịch Ủy ban Truyền thông Xã hội của Hội đồng Giám mục
Việt Nam, xin Đức Cha cho độc giả biết đôi nét về bước phát triển của Ủy ban
trong thời gian tới.
TRẢ
LỜI :
Ủy
Ban Truyền Thông trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam được thành lập ngày
29/1/2007 với đại diện của 26 Giáo phận và 15 Dòng tu. Uỷ ban đã soạn ra Nội
qui sinh hoạt của Uỷ Ban và để ra chương trình hoạt động như sau :
Nội quy Uỷ Ban
Truyền Thông Xã Hội của Hội Đồng Giám Mục Vịet Nam
1. Thành lập và mục đích của
Uy Ban Truyền Thông Xã hội .
Điều 1 : Uy
ban Truyền thông xã hội do Hội Đồng Giám Mục Việt Nam thành lập và trực thuộc
Hội đồng Gáim Mục Việt Nam theo quy chế và nội quy Hội Đồng Giám Mục Việt Nam.
Điều 2 : Uy
ban Truyền thông xã hội có mục đích giúp Hội đồng Giám mục Việt Nam điều hành
các sinh hoạt liên quan đến Truyền thông xã hội.
2. Nhiệm vụ của Uy ban giám
mục về truyền thông xã hội
Điều 3: Nhiệm vụ chung của Uy Ban Giám Mục về Truyền
thông xã hội là:
1.
Giúp
mọi thành phần dân Chúa hiểu rõ tầm quan trọng, lợi ích, ảnh hưởng lớn lao của
truyền thông xã hội trong việc phục vụ Tin Mừng theo giáo huấn của Giáo Hội
dưới sự hướng dẫn của Hội đồng Giám mục Việt Nam.
2.
Định
hướng và hỗ trợ các hoạt động về truyền thông xã hội của các giáo phận, giáo xứ
và dòng tu.
3.
Phát
huy và điều phối sự tham gia của các phương tiện truyền thông xã hội vào việc
thông truyền, loan báo Tin mừng Chúa đến cho mọi người.
4.
Nghiên
cứu, phổ biến các sắc lệnh, văn kiện, giáo huấn của giáo hội.
5.
Phổ
biến các tài liệu, văn kiện, giáo huấn, đường hướng mục vụ, thư chung, thư mục
vụ, các tin tức, sinh hoạt, thời sự tôn giáo của Hđ/Gm/Vn và các giáo phận,
giáo xứ, dòng tu.
6.
Tổ
chức các khóa đào tạo huấn luyện nhân sự về ttxh cho các giáo phận, dòng tu.
7.
Mở
các khóa học giúp sử dụng, quản trị, điều hành giáo phận và giáo xứ bằng kỹ
thuật điện toán .
8.
Thông
truyền Tin mừng bằng mọi phương tiện kỹ thuật truyền thông như : internet,
truyền thanh, truyền hình, in ấn, phát hành các sách báo, tập san, phim ảnh,
các băng đĩa công giáo .
9.
Cổ vũ
các nỗ lực truyền thông xã hội phục vụ chân thiện mỹ trong đời sống con người
và xã hội.
10.
Cổ vũ
tinh thần hiệp thông trong Giáo hội và thế giới.
Điều 4: Nhiệm vụ
của Giám mục đặc trách về Truyền thông xã hội : do Hội đồng Giám mục Việt nam
qui định.
Điều 5: Nhiệm vụ
ban thường trực:
1. Thực hiện các nhiệm vụ của ủy ban truyền thông xã
hội.
2. Chuẩn bị các hội nghị thường kỳ và bất thường và
thực hiện các quyết định của các hội nghị ấy, có trách nhiệm theo dõi và hỗ trợ
công việc của các ban chuyên môn.
3. Tổ chức văn phòng thường trực của ủy ban truyền
thông xã hội .
Điều 6 : Nhiệm vụ Tổng thơ ký , Thơ ký và Thủ quỹ:
4. nhiệm vụ của tổng thư ký là thay mặt giám mục đặc
trách điều hành mọi công việc của ủy ban .
1.
nhiệm
vụ của thư ký : trợ giúp tổng thư ký.
2.
nhiệm
vụ của thủ quỹ : phụ trách ngân qũy.
iii.
nhân sự của ủy ban truyền thông xã hội.
điều
7: theo qui chế hội đồng giám mục việt nam, ủy ban truyền thông xã hội gồm :
các uỷ viên, ban thường trực, và các tiểu ban .
+ các ủy viên : do các giáo phận và dòng
tu đề cử .
+ các
chuyên viên : do đức giám mục đặc trách đề cử.
các
ủy viên ban truyền thông xã hội gồm :
1.
một giám
mục đặc trách do hội đồng giám mục chỉ định làm chủ tịch.
2.
đại
diện các giáo phận và đại diện các dòng tu do giáo phận và dòng tu đề cử.
3.
một
số linh mục, tu sĩ và giáo dân được giám mục chủ tịch đề cử vào ủy ban do khả
năng chuyên môn hay tính đại diện của họ.
ban
thường trực gồm:
1. một giám mục đặc trách về truyền thông xã hội do
hội đồng giám mục việt nam chỉ định
2. một linh mục làm tổng thư ký điều hành văn phòng
thường trực .
3. một linh mục, tu sĩ hay giáo dân làm thư ký.
4. một linh mục, tu sĩ hay giáo dân làm thủ quỹ.
5. một số linh mục, tu sĩ hay giáo dân có chuyên môn
về truyền thông.
các vị này do giám mục chủ tịch ủy ban truyền thông đề cử sau
khi trao đổi với toàn ban hay do hội nghị toàn thể các ủy viên truyền thông xã
hội đề cử vào ban thường trực.
các
ban chuyên môn
ủy ban truyền thông xã hội sẽ lập ra các ban chuyên môn tùy
theo nhu cầu, gồm những người có chuyên môn về truyền thông. các chuyên viên
này có thể được mời làm việc lâu dài. mỗi ban chuyên môn có trưởng ban, thư ký,
thủ quĩ để điều hành và báo cáo công việc lên ban thường trực.
các ban chuyên môn gồm:
1.
tiểu
ban tin mừng
nhiệm vụ : thông truyền, phổ biến lời
chúa, các bài giảng, các bài suy niệm, học hỏi, chia sẻ, các loại thi ca, hội
họa, thánh nhạc .
2.
tiểu
ban văn kiện giáo hội
nhiệm vụ: thu thập, tổng hợp và phổ biến giáo huấn của giáo hội hoàn vũ và địa phương.
tiểu ban thu thập và dịch các văn kiện giáo hội
về truyền thông.
3.
tiểu
ban ơn gọi
nhiệm
vụ: phổ biến tài liệu về ơn gọi, lịch sử, linh đạo các dòng tu, phát triển các
ơn gọi .
4.
tiểu
ban thời sự
nhiệm
vụ: thu thập, phổ biến các tin tức sinh hoạt của giáo hội toàn cầu và địa
phương.
5.
tiểu
ban nghe nhìn
nhiệm
vụ: phổ biến các chương trình truyền thanh, truyền hình giáo lý công giáo, các
phim ảnh, băng đĩa công giáo và các băng đĩa mang tính giáo dục.
6.
tiểu
ban văn hoá nghệ thuật
nhiệm vụ : sử dụng các loại hình văn hoá nghệ
thuật để loan truyền tin mừng .
7.
tiểu
ban giáo dục và đào tạo truyền thông
nhiệm vụ: giáo dục truyền thông và đào tạo
nhân sự đặc trách về mục vụ ttxh cho các giáo phận và dòng tu.
8.
tiểu
ban kỹ thuật truyền thông
nhiệm vụ: mở các khóa hướng dẫn cách thức sử
dụng các phương tiện ttxh, cách riêng trong việc tổ chức, điều hành, quản lý
giáo phận, giáo xứ, dòng tu bằng điện toán.
9.
tiểu
ban truyền thông cho dân tộc thiểu số
nhiệm vụ: nghiên cứu và phổ biến các lợi ích
về truyền thông xã hội cho anh em dân tộc thiểu số, chuyển ngữ để họ có thể đón
nhận tin mừng.
10. tiểu ban website
nhiệm
vụ : điều hành website của hđgmvn.
ban biên tập gồm tất cả tổ trưởng các tiểu ban,
có nhiệm vụ chọn lựa nội dung trước khi thông tin.
11. tiểu ban ấn loát và xuất bản
nhiệm vụ: thực hiện và phát hành các ấn phẩm
công giáo.
iv.
nhiệm kỳ của ủy viên truyền thông xã hội
điều
8:
nhiệm
kỳ : 5 năm và có thể được tái cử.
v.
sinh hoạt của ủy ban truyền thông xã hội
điều 9 : sinh họat của uỷ
ban
+ hội nghị thường kỳ : sáu tháng một lần.
+ hội nghị bất thường : khi có chỉ thị của hội đồng giám mục hoặc
được đa số ủy viên yêu cầu .
hội nghị thường kỳ và hội nghị bất thường : do giám mục đặc
trách triệu tập và chủ trì.
ban thường trực soạn thảo chương trình nghị sự và gửi trước cho
các ủy viên và thông báo cho các tòa giám mục.
+ các nghị quyết của ủy
ban phải được đa số chấp thuận .
điều 10: tham gia hội
nghị quốc tế
+ ủy ban có trách nhiệm tham gia các hội nghị quốc tế về truyền
thông xã hội.
+ ủy ban có quyền đề cử người đi dự hội nghị
quốc tế .
+ uỷ ban có trách nhiệm thực hiện quyết định của các hội nghị.
vi. quỹ hoạt động
điều 11: quỹ hoạt động
của ủy ban sẽ do các nguồn sau đây :
+ ngân quỹ hằng năm do hội đồng giám mục cấp.
+ trợ giúp của các cá nhân, đoàn thể trong và ngoài nước.
+ các khoản thu khác .
vii. việc phê chuẩn, công bố và sửa đổi nội quy của
ủy ban truyền thông xã hội
điều 12: nội quy này chỉ
có giá trị khi được hội đồng giám mục việt nam phê chuẩn và được giám mục đặc
trách công bố .
điều 13: nội quy này chỉ
được sửa đổi khi có đa số 2/3 uỷ viên yêu cầu và được hội đồng giám mục việt
nam chấp thuận.