Cái mới trong cách nhìn của Vaticanô II về Giáo Hội
(Vietcatholic 11 Sep 2009 18:03)
LTS: Bài “Cái
Mới Trong Cách Nhìn của Vaticanô II về Giáo Hội” do Đức cha Giuse Nguyễn
Năng, Tân Giám mục Giáo phận Phát Diệm, ghi nhận và biên soạn. Có thể nói đây
là bài tóm lược vài điểm chính yếu nội dung luận án tiến sĩ về môn Giáo Hội Học
của ngài tại Rôma mấy năm trước đây. Khẩu hiệu “Hiệp Thông và Phục Vụ” của Đức
cha Giuse Nguyễn Năng đã được ngài suy tư sâu sắc từ nhiều năm qua. Tình hình
giáo hội và đất nước Việt Nam hôm nay dường như đang rất cần thể hiện sự liên
đới, hiệp thông huynh đệ và phục vụ trong yêu thương, như mục đích mà Hội đồng
Giám mục Việt Nam đề xướng cho GHVN cử hành Năm Thánh 2010 sắp tới...
Đã 38 năm kỷ niệm ngày bế mạc Công đồng, nói về
cái mới của Công đồng không biết có còn gì hấp dẫn không, vì những hứng khởi
ban đầu trước cái mới đã qua rồi. Vả lại đó là một điều khó, vì người ta đang
ngụp lặn trong cái mới rồi nên khó nhận ra những đổi mới của Công đồng. Gần 40 năm
quen thuộc với cái mới nên đôi khi một cách mặc nhiên chúng ta nghĩ rằng những
suy tư và sinh hoạt hiện tại của Giáo Hội là chuyện đương nhiên, nhất là đối
với những người hôm nay dưới 50 tuổi không hề biết cái cũ trước Công đồng. Thực
ra những chuyện tưởng chừng như đương nhiên lại là kết quả từ bao nhiêu cố gắng
của một sự thay đổi tâm tư não trạng ngàn đời trong Giáo Hội. Nếu đa số kitô
hữu đang sống chan hòa trong bầu khí đổi mới của Công đồng rồi, thì tại sao
phải bàn đến sự chuyển mình từ cái cũ đến cái mới? Phải chăng tốt hơn nên tận
hưởng bầu khí mới mẻ đầy sức sống của Công đồng? Đúng là hít thở không khí quan
trọng hơn là lý luận về thành phần hóa học của không khí, và có lẽ ai cũng biết
các yếu tố cấu tạo và tầm quan trọng của không khí, nhưng dù vậy đôi khi cũng
nên nhắc lại những chuyện lý thuyết cũ kỹ ấy để ta tận dụng không khí mà hít
thở cho đầy hai buồng phổi và sẽ không làm gì để gây ô nhiễm bầu khí quyển
quanh ta. Cũng vậy, dù chẳng còn là chuyện mới lạ, nhưng nếu nhận ra ý nghĩa và
tầm mức quan trọng của việc đổi mới của Công đồng, các kitô hữu sẽ sống mầu
nhiệm Giáo Hội cách phong phú hơn và phát huy cái gia sản ấy cách tích cực hơn.
Công trình của Vaticanô II quá đồ sộ không thể tóm
gọn trong một vài trang. Vì thế ở đây chúng ta chỉ bàn về lãnh vực giáo hội
học. Việc giới hạn như vậy phát xuất từ một lý do sâu xa, đó là Vaticanô II là
Công đồng đầu tiên bàn về mầu nhiệm Giáo Hội. Lần đầu tiên trong lịch sử, Giáo
Hội họp nhau tại Công đồng để giới thiệu khuôn mặt đích thực của mình cho con
cái và cho thế giới. Trong số 16 văn kiện của Công đồng, có tới hai Hiến chế
trực tiếp nói về bản chất và sứ mạng của Giáo Hội, tám Sắc lệnh về các thành
phần và các hoạt động của Giáo Hội; các văn kiện khác cũng đều liên quan tới
đời sống và hoạt động của Giáo Hội (1). Nhưng ngay cả khi đã giới hạn trong
lãnh vực giáo hội học, thì nguyên việc kê khai những khẳng định mới của Công
đồng cũng đã là một công việc đòi nhiều thời gian. Thực tế hơn và tốt hơn, có
lẽ chúng ta chỉ nêu lên hướng đi căn bản của Công đồng, tức là một cái nhìn nền
tảng tiềm ẩn dưới các văn kiện. Đó là một sự chọn lựa căn bản mới đã hướng dẫn
công việc soạn thảo các bản văn, đồng thời chi phối và định hướng mọi quyết
định của Công đồng. Vaticanô II không những đã có những khẳng định mới, mà chủ
yếu là có một cách nhìn mới có khả năng đổi mới mọi sự.
Khi nói về cái mới trong giáo hội học của Vaticanô
II, có lẽ cần tránh thái độ đối lập Vaticanô I và Vaticanô II. Cái lược đồ
thường được nêu lên, đó là “trước – sau”, ngụ ý rằng cái trước Vaticanô II là
dở, sau Vaticanô II mới tốt. Đó là một cái nhìn giản lược có nguy cơ làm méo mó
sự thật. Quả là Vaticanô II đã thay đổi cách nhìn về Giáo Hội một cách sâu xa,
– đó là điều chúng ta sẽ trình bày, – nhưng không phải vì vậy mà muốn cắt đứt với
quá khứ, trái lại vẫn luôn muốn trung thành nối tiếp các Công đồng và Truyền
Thống trong quá khứ (2). Sở dĩ Vaticanô II mới, chính là vì đã biết trở về
nguồn. Riêng đối với Vaticanô I, có nhiều vấn đề quan trọng đã được đặt ra
nhưng chưa được bàn cãi và phải bỏ dở vì chiến tranh, chẳng hạn vấn đề truyền
giáo, nhiệm vụ của giám mục… Một cách nào đó, Vaticanô II nối tiếp Vaticanô I:
Đức Gioan XXIII cho rằng Vaticanô II phải bổ túc và kiện toàn cho Hiến Chế về
Giáo Hội của Vaticanô I, nhất là về chức giám mục và về giáo dân (3). Đức
Phaolô VI cũng đã nhấn mạnh rằng Vaticanô II nối tiếp Vaticanô I (4). Thực ra,
nối tiếp hay gián đoạn đều phải được hiểu cách biện chứng. Nối tiếp không có
nghĩa là lặp lại, và gián đoạn không có nghĩa là cắt đứt. Không thể có cái mới
nếu không được chuẩn bị từ trong cái cũ, và không thể hiểu trọn vẹn cái cũ nếu
không được chiếu dọi dưới ánh sáng của cái mới. Giáo hội học của Vaticanô II
không cho phép trở lại với Vaticanô I nhưng đồng thời cũng không chấp nhận cắt
đứt với Vaticanô I (5).
Cuộc sống Giáo Hội như một dòng chảy liên tục
không có ranh giới rạch ròi giữa vùng nước đi trước và vùng nước đến sau như
khi phân chia hai lô đất. Thực tại quá phong phú và phức tạp nên không thể bị
đóng khung trong bất cứ phạm trù nào. Tuy nhiên, để dễ nhận ra cái mới của
Vaticanô II, có lẽ chúng ta vẫn cần đến những phạm trù. Phạm trù thì rõ ràng
minh bạch nhưng không thể chuyển tải trọn vẹn tính cách đa dạng của thực tại. Ý
thức như vậy, ta có thể nói một cách tổng quát rằng nhãn quan về Giáo hội trước
Vaticanô II chủ yếu nặng tính cách pháp lý, còn giáo hội học của Vaticanô II
chủ yếu mang tính hiệp thông (6). Đặc tính pháp lý của giai đoạn trước và đặc
tính hiệp thông của giai đoạn sau không loại trừ nhau nhưng bổ túc cho nhau; và
cả hai đặc tính ấy cũng chưa đủ để diễn đạt trọn vẹn thực tại Giáo Hội. Mầu
nhiệm Giáo Hội quá phong phú nên không thể tóm gọn và diễn đạt trong một khuôn
mẫu mà thôi. Mỗi thời có cách diễn đạt của mình, có thể nhấn mạnh điểm này mà
đặt nhẹ điểm kia, nhưng không vì thế mà loại trừ các khuôn mẫu khác (7).
1. CÁCH NHÌN VỀ GIÁO HỘI TRƯỚC VATICANÔ II
Nói tới cái mới của Vaticanô II, tức là quy chiếu
về một giai đoạn của quá khứ. Điểm quy chiếu của chúng ta ở đây, đó là giáo hội
học trong khoảng từ đầu thế kỷ XIX cho đến Vaticanô II. Ý niệm chìa khóa trong
thời kỳ này là societas perfecta hierarchica.
Trước hết Giáo Hội là societas, một xã hội.
Từ sau Công đồng Trentô, thánh Roberto Bellarmino, bấy giờ là một Hồng Y có ảnh
hưởng lớn trong Giáo Hội, đã định nghĩa: “Giáo Hội duy nhất đích thực là cộng
đoàn những người được qui tụ nhờ tuyên xưng cùng một đức tin và lãnh nhận các
bí tích giống nhau, dưới quyền cai quản của các chủ chăn hợp pháp và nhất là
của Vị đại diện duy nhất của Đức Kitô là Đức Giáo hoàng Rôma (8). Bellarminô đã
nhấn mạnh đến các yếu tố hữu hình để đối lập lại quan niệm về một Giáo Hội vô
hình của anh em Tin lành, và định nghĩa của ngài ảnh hưởng lâu dài trong Giáo
Hội. Người ta coi Giáo Hội là một tập thể hữu hình gồm các cá nhân liên kết với
nhau bằng một định chế pháp lý. Công thức đức tin được coi trọng hơn hành vi
tin, nghi thức bí tích được nhấn mạnh hơn ân sủng của bí tích. L. Billot cho
rằng thân xác Giáo Hội hiện hữu độc lập với ân sủng và các nhân đức nơi các
phần tử. Ủy ban chuẩn bị của Vaticanô I đã đặt tựa đề cho chương I của Hiến chế
Giáo Hội là “Giáo Hội là thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô”. Ngay lập tức
53 trên tổng số 130 Giám mục đã phê bình là “mơ hồ, quá trừu tượng và thần
bí”, có lẽ là không mang tính cách Bellarminô!(9) Nhưng rồi thông điệp Mystici
Corporis của Đức Piô XII cũng đã làm được công việc là đưa khía cạnh ân
sủng và các đoàn sủng vào thực tại xã hội của Giáo Hội. Tuy nhiên người ta vẫn
chưa dứt bỏ được quá khứ. Theo P. Przywara, không phải là định nghĩa Giáo Hội
bằng những hạn từ của Thân Thể mầu nhiệm, mà trái lại, phải định nghĩa Thân Thể
mầu nhiệm bằng những hạn từ của Giáo Hội, nghĩa là của xã hội (10).
Kế đến, Giáo Hội là societas perfecta, một
xã hội hoàn hảo. Ý niệm này phát xuất từ Aristote, nhưng chỉ được minh nhiên áp
dụng cho Giáo Hội từ thế kỷ 18 khi có những lý thuyết cho rằng Nhà Nước có
quyền cả trên lãnh vực tổ chức đời sống Giáo Hội nhằm hạn chế và kiểm soát sự
tự do hoạt động của Giáo Hội; do đó, các Đức Giáo hoàng quả quyết rằng Giáo Hội
là một xã hội hoàn hảo. Tính từ “hoàn hảo” ở đây không có nghĩa luân lý, nhưng
được hiểu là hoàn hảo và đầy đủ trên bình diện xã hội, như tất cả các xã hội
khác, có đầy đủ mọi phương tiện và quyền hành để thực hiện sứ mạng đã lãnh
nhận. Giáo Hội là một xã hội độc đáo, độc lập, do thần luật có đầy đủ mọi quyền
hành để thực hiện cứu cánh siêu nhiên: “Xét như là xã hội đích thực và hoàn
hảo, Giáo Hội đã được Đấng Sáng lập thần linh thiết định là không bị đóng khung
giới hạn trong bất cứ phần đất nào của thế giới, không lệ thuộc vào bất cứ
quyền hành thế tục nào, trái lại, Giáo Hội tự do thi hành khả năng và quyền của
mình để cứu độ mọi người ở mọi nơi trên trái đất” (11). Như vậy Giáo Hội là
một xã hội hoàn hảo theo nghĩa là có tất cả các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp của một xã hội cao nhất và hoàn toàn độc lập. Một quan niệm như thế dễ đưa
Giáo Hội tới chỗ tự mãn và rơi vào cạm bẫy quyền lực.
Sau cùng, Giáo Hội là xã hội bất bình đẳng và phẩm
trật, societas inaequalis et hierarchica. Đây là một khẳng định then
chốt trong giáo hội học chính thức từ Vaticanô I đến Vaticanô II. Người ta có
thể đọc thấy trong chương X của lược đồ Supremi Pastoris của Vaticanô I:
“Giáo Hội của Đức Kitô không phải là một xã hội gồm các phần tử bình đẳng,
làm như thể là tất cả các tín hữu đều có những quyền như nhau; trái lại, đó là
một xã hội bất bình đẳng (phẩm trật), và điều đó không chỉ có nghĩa là trong số
các tín hữu có những người là giáo sĩ, có những người là giáo dân, mà nhất là
vì trong Giáo Hội, Chúa đã thiết đặt một quyền mà một số người đã nhận được để
thánh hóa, dạy dỗ và cai quản, trong khi những người khác không có quyền ấy” (12).
Đó là lập trường chung của các Đức Giáo Hoàng Piô IX, Lêô XIII, Piô X, của Giáo
luật 1917 (canon 107), của các thủ bản thần học, nhất là lúc bấy giờ các thủ
bản này thường nặng tính hộ giáo. Cũng cần thêm rằng Phẩm trật tập trung tất cả
vào Đức Giáo hoàng, tựa như một loại quân chủ trong tôn giáo. Như vậy Giáo Hội
được quan niệm như một kim tự tháp: trên cùng là Đức Giáo hoàng, tầng kế tiếp là
các giám mục, rồi đến tầng các linh mục, và dưới đáy là giáo dân, những tín hữu
thường. Giáo dân là servile pecus, một đoàn lũ chẳng có một chút quyền
hành và không được phép có sáng kiến.
Societas perfecta et hierarchica: Giáo Hội như là một
định chế pháp lý. Quan niệm này giúp Giáo Hội củng cố vững chắc sự hiện diện và
tính độc lập của mình đối với các xã hội trần thế; nó cũng giúp Giáo Hội được
luôn thống nhất dưới quyền một thủ lãnh tối cao. Nếu xét đến bối cảnh lịch sử,
đó là một lập trường dễ hiểu và cần thiết. Tuy nhiên thế giới đã thay đổi sâu
rộng trong mọi lãnh vực: xã hội, chính trị, văn hóa, kinh tế, khoa học và kỹ
thuật. Thực ra cuộc thay đổi đã khởi sự từ thế kỷ XV với phong trào phục hưng
và các học thuyết nhân bản, rồi đến Thế kỷ Ánh sáng với các trào lưu triết học
mới như duy lý, duy khoa học, tiến hóa, mác-xít… Đứng trước những đổi thay của
thế giới, đời sống của Giáo Hội cũng đã chuyển biến sâu rộng để có thể thích
nghi với xã hội. Trên bình diện lý thuyết và chính thức, Giáo Hội vẫn được quan
niệm như một định chế nặng tính pháp lý; nhưng trong thực tế của cuộc sống, đã
có nhiều phong trào quan trọng – từ dưới chứ không phải từ trên – biểu lộ một ý
thức mới về Giáo Hội. Từ thế kỷ XIX, đã xuất hiện những phong trào như canh tân
phụng vụ, tông đồ giáo dân, dấn thân truyền giáo, đối thoại đại kết. Nhiều
người ý thức cần phải trở về với nguồn mạch của đời sống Giáo Hội là Thánh Kinh
và Thánh Truyền, nhờ vậy người ta tái khám phá những chiều kích thiết yếu của
Giáo Hội lâu nay bị coi nhẹ, chẳng hạn chiều kích cộng đồng, ân sủng bí tích,
hiệp thông, lịch sử,… Chúng ta không thể không nhắc đến các thần học gia tên
tuổi của những thập niên từ 1930 đến 1960 đã tạo nên một khúc quanh trong giáo
hội học như: Y. Congar, J. Daniélou, L. Cerfaux, E. Mersch, Ch. Journet, O.
Semmelroth, H. de Lubac, H. U. von Balthasar, J. Hamer. Đặc biệt thông điệp Mystici
Corporis của Đức Piô XII (1943) đã nhấn mạnh đến chiều kích thiêng liêng vô
hình của ân sủng để bổ túc cho quan niệm quá pháp lý về Giáo Hội (13). Tất cả
các yếu tố trên đã góp phần dọn đường cho Vaticanô II.
2. NHÃN QUAN CỦA VATICANÔ II
Dù đã được chuẩn bị từ xa trong thực tế sinh động
của các kitô hữu và trong nỗ lực tìm tòi của các thần học gia, nhưng khám phá
của Vaticanô II là kết quả một hành trình tìm kiếm tiệm tiến của chính Công
đồng. Lược đồ I De Ecclesia được phát cho các Nghị phụ gồm 11 chương bàn
về: bản chất và các thành phần của Giáo Hội chiến đấu, Giáo Hội cần thiết cho
ơn cứu độ, chức giám mục là một bí tích, các giám mục sở tại, các bậc trọn
lành, giáo dân, quyền giáo huấn, quyền bính và lòng vâng phục, quan hệ giữa
Giáo Hội với Nhà Nước, bổn phận truyền giáo, đại kết; và cuối cùng là một phụ
lục về Đức Maria (14). Lược đồ này vẫn còn quan niệm Giáo Hội chủ yếu như một
xã hội hữu hình, phẩm trật, pháp lý. Cuối khóa họp đầu tiên, lược đồ được đem
ra thảo luận, và ngay lập tức nhận được nhiều phê bình gay gắt, chẳng hạn Đức
Cha E. De Smedt cho rằng lược đồ còn mang não trạng thích vinh quang (triomphalisme),
giáo sĩ trị (cléricalisme), nặng pháp lý (juridisme) (15). Nhiều
Nghị phụ lấy làm tiếc vì bản văn không đáp lại ước nguyện của Đức Gioan XXIII
là Vaticanô II phải mang tính mục vụ. Nội dung giáo lý trong kho tàng
đức tin của Giáo Hội ngàn đời vẫn không thay đổi, nhưng theo ngài, – và sau này
Đức Phaolô VI cũng tiếp tục xác định chọn lựa căn bản này – cần phải diễn tả
thế nào để đáp ứng với hoàn cảnh xã hội đã thay đổi và mở ra nhiều hình thức
tông đồ mới. Giáo Hội nhìn vào mình (ad intra) là một cộng đoàn các tín
hữu tham dự vào sự sống của Đức Kitô, để rồi nhìn ra bên ngoài thế giới (ad
extra) và phục vụ các nhu cầu của anh chị em (16). Cũng chính vì tính cách
mục vụ này mà lần đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội, Vaticanô II không có những
mệnh đề kết án với những anathema sit như vẫn thường có trong các Công
đồng.
Sau nhiều nỗ lực tìm kiếm, cuối cùng Vaticanô II
đã có một cách nhìn hoàn toàn mới mẻ về Giáo Hội. Thay vì được nhìn chủ yếu
dưới lăng kính pháp lý, Giáo Hội được nhìn như là một cộng đoàn hiệp thông. “Giáo
hội học hiệp thông là ý tưởng trọng tâm và nền tảng trong các văn kiện của Công
đồng” (17). Sự hiệp thông chính là luồng sáng dọi chiếu vào tất cả các mối
quan hệ: giữa Giáo Hội với Thiên Chúa Ba Ngôi, giữa các thành phần trong Giáo
Hội công giáo với nhau: giáo hoàng – giám mục – linh mục – tu sĩ – giáo dân,
giữa các cộng đoàn Giáo Hội địa phương với nhau và với Giáo Hội hoàn vũ, giữa
Giáo Hội công giáo với các Giáo Hội không công giáo và với các tôn giáo khác,
giữa Giáo Hội và thế giới. Vaticanô II không phủ nhận phạm trù “xã hội hoàn hảo
không đồng đều” và vẫn dùng lại những hạn từ như trước đây: “ut societas
constituta et ordinata” (GH 8), “societas hierarchica ordinata” (GH
14; 20) (18); nhưng đó không còn là cửa ngõ để đi vào thực tại Giáo Hội, và
cũng không còn là một giá trị chủ chốt nữa. Phạm trù ấy từ nay sẽ được nhìn lại
dưới ánh sáng của lăng kính hiệp thông.
Tinh thần mới của Công đồng biểu hiện ngay trong
việc chọn lựa và sử dụng các từ ngữ diễn tả phương diện tích cực của đời sống
kitô hữu hơn là những ý niệm pháp lý. Vaticanô II dùng những từ ngữ không hề có
trong Vaticanô I, chẳng hạn: amor (113 lần), dialogus (31 lần),
evangelizare (18 lần), fraternus– fraterne – fraternitas (87 lần), historia
(63 lần), laicus (200 lần), ministerium (147 lần), ministrare
(31 lần), missionalis (75 lần), pauper (42 lần), servire
(17 lần), servitium (80 lần), evangelium (157 lần, trong khi
Vaticanô I chỉ có một lần) (19).
2.1 Qui chiếu về phạm trù “societas”: xã hội trở
thành mầu nhiệm
Trước hết phải nhìn lên Ba Ngôi như là nguồn mạch
mọi sự. Đành rằng Giáo Hội là một xã hội, nhưng tiên vàn là một thực tại mầu
nhiệm vượt quá giác quan. Ngay từ đầu chương I của Hiến chế Tín lý về Giáo Hội,
Công đồng nói về “mầu nhiệm Giáo Hội”. Giáo Hội được nhìn như là công
trình biểu lộ tình yêu của Chúa Ba Ngôi trong lịch sử loài người (GH 2-4; TG
2), và vì thế Hiến chế trích lời của thánh Cyprianô: “Giáo Hội phổ quát xuất
hiện như một dân tộc được hiệp nhất khởi nguồn từ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha và
Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (GH 4): “De unitate Patris et Filii et Spiritus
Sancti plebs adunata” . (20) Thực khó mà dịch tiếng “de” của latinh: nó vừa
chỉ nguồn gốc, căn nguyên, vừa chỉ sự tham dự và mô phỏng một thực tại mẫu
(21). Sắc lệnh Hiệp Nhất khẳng định rõ hơn: “Đó là mầu nhiệm thánh của sự hiệp
nhất Giáo Hội trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô, dưới tác động của Thánh Thần
trong nhiều phận vụ khác nhau. Mẫu mực tối cao và nguyên lý của mầu nhiệm này
là sự hiệp nhất trong Ba Ngôi của một Thiên Chúa duy nhất là Cha và Con trong
Thánh Thần” (HN 2). Sự hiệp thông của Ba Ngôi chính là nguyên nhân và nguồn
mạch, là mẫu mực và là quê hương của Giáo Hội, và như vậy, Giáo Hội tự bản chất
là hiệp thông theo kiểu mẫu của sự hiệp thông Ba Ngôi.
Do đó, một người thuộc về Giáo Hội chủ yếu là do
mối liên hệ của họ với Ba Ngôi. Từ nay một phần tử của Giáo Hội sẽ được định
nghĩa như sau: “Được kể là gia nhập hoàn toàn vào cộng đoàn Giáo Hội, những ai
lãnh nhận Thánh Thần Đức Kitô, chấp nhận trọn vẹn tổ chức và các phương tiện
cứu độ được thiết lập trong Giáo Hội; và nhờ các mối liên lạc do việc tuyên
xưng đức tin, các bí tích, việc cai trị của Giáo Hội và sự hiệp thông, họ liên
kết với Đức Kitô trong tổ chức hữu hình mà Người điều khiển nhờ Giáo hoàng và
các giám mục” (GH 14). Như vậy yếu tố hữu hình không còn mang tính cách quyết
định như trong định nghĩa của Bellarminô, vì Giáo Hội là “một thực thể phức hợp
do yếu tố nhân loại và yếu tố thần linh kết thành”: Giáo Hội vừa là một xã hội
phẩm trật vừa là nhiệm thể Chúa Kitô, là đoàn thể xã hội nhưng cũng là cộng
đoàn thiêng liêng, là Giáo Hội trần gian nhưng đồng thời được tô điểm bằng
những hồng ân thiên quốc (x. GH 8). Mức độ thuộc về Giáo Hội tùy thuộc mức độ
người ta hội đủ các yếu tố vô hình và hữu hình nhiều hay ít. Theo kiểu nói của
thánh Augustinô, một tín hữu công giáo có thể thuộc về Giáo Hội ngoài “thể
xác”, nhưng “tâm hồn” thì không còn ở trong Giáo Hội nữa.
Đó cũng là nguyên tắc của sự hiệp nhất đại kết.
Các tín hữu đã lãnh nhận phép rửa ngoài Giáo Hội công giáo, vì thực sự được kết
hiệp với Đức Kitô và lãnh nhận Thánh Thần, nên cũng có quyền mang danh kitô
hữu, và các cộng đoàn của họ cũng được gọi là Giáo Hội anh chị em với Giáo Hội
công giáo, hoặc ít nữa là cộng đoàn giáo hội (communautés ecclésiales). Dù
không đầy đủ, nhưng các cộng đoàn ấy cũng có một số yếu tố nền tảng của Giáo
Hội công giáo, và vì thế tất cả các Giáo Hội đang hiệp thông với nhau rồi, dù
là hiệp thông chưa trọn vẹn (x. GH 15; HN 3). Cách giải quyết vấn đề của
Vaticanô II khác trước đây ở chỗ: không phải là “có” hoặc “không” một cách
tuyệt đối, mà là có “nhiều” hay “ít”, là công giáo trọn vẹn hay không trọn vẹn,
có tính giáo hội hoàn toàn hay bất toàn. Chính vì vậy mà theo Vaticanô II, Giáo
Hội của Đức Kitô không “là” (= không đồng hóa với) Giáo Hội công giáo, nhưng
“tồn tại trong (subsistit in) Giáo Hội công giáo” (GH 8), bởi lẽ các
Giáo Hội khác ít nhiều cũng là Giáo Hội của Đức Kitô. Phải mất bao nhiêu thế kỷ
chúng ta mới khám phá ra tiếng “subsistit in” ấy, và chính sự khiêm tốn
nhìn nhận Giáo Hội công giáo không phải là tất cả Giáo Hội của Đức Kitô đã đem
lại niềm hy vọng và rút ngắn con đường đại kết.
Mầu nhiệm Giáo Hội vượt quá biên cương hữu hình
của Giáo Hội, nên ngay cả những người không thuộc về Giáo Hội một cách hữu hình
trên bình diện xã hội, vẫn “qui hướng về Dân Thiên Chúa”, và “nếu thành tâm tìm
kiếm Thiên Chúa, và dưới tác động của ân sủng, họ cố gắng chu toàn thánh ý
Thiên Chúa trong công việc mình theo sự hướng dẫn của lương tâm, thì họ có thể
được cứu độ” (GH 16). Trong bối cảnh của giáo hội học nặng về pháp lý, dựa vào
câu nói của thánh Cyprianô: “Ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ”, người ta hiểu
rằng những người ngoài tổ chức xã hội hữu hình của Giáo Hội không thể được cứu
độ. Quả thực là ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ, nhưng Vaticanô II không hiểu
theo nghĩa loại trừ, nghĩa là ngoài tổ chức Giáo Hội, không hề có ân sủng và
không thể được cứu độ; trái lại Vaticanô II đã hiểu theo nghĩa tích cực là: kế
hoạch cứu độ của Thiên Chúa đã được thực hiện trong lịch sử một cách hữu hình
nơi Giáo Hội, và vì thế Giáo Hội trở thành dấu chỉ và phương tiện mang tính xã
hội và hữu hình của ơn cứu độ. Bởi vậy những người ở ngoài Giáo Hội hữu hình
vẫn có thể được cứu độ, vì ân sủng của Thiên Chúa hoàn toàn siêu việt và không
hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố nhân loại nào. Tuy nhiên Công đồng hiểu là mọi
ân sủng đều là ân sủng của Đức Kitô, và Giáo Hội đã được Đức Kitô thiết lập để
trở thành dấu chỉ hữu hình của ân sủng của Người trên trần gian, nên mọi ân
sủng của Đức Kitô đều ít nhiều mang chiều kích Giáo Hội; bởi vậy những người
công chính đều “qui hướng” và thuộc về mầu nhiệm Giáo Hội một cách nào đó, và
như thế ơn cứu độ của họ cũng mang chiều kích Giáo Hội. Đây chính là cơ sở để
người ta nói đến các kitô hữu vô danh (22).
2.2 Qui chiếu về phạm trù “societas perfecta”: xã
hội hoàn hảo trở thành bí tích.
Vaticanô II dứt khoát từ bỏ não trạng quyền lực
của thời thế giới kitô giáo (chrétienté), không còn tự coi mình là một
thế lực văn hóa xã hội có đầy đủ mọi tổ chức và quyền hành cạnh tranh với các
xã hội thế tục. Lẽ dĩ nhiên Giáo Hội cũng cần có quyền bính để thực hiện mục
đích của mình, nhưng Công đồng tỏ ra thận trọng và chỉ nói đến quyền bính trong
bối cảnh thi hành sứ mạng, trách nhiệm, bổn phận, và nhất là không còn nhấn
mạnh đến quyền ép buộc hoặc xử phạt (x. GH 27; GM 16). Ngoài ra, sự tự do mà
Giáo Hội đòi hỏi không đặt nền tảng trên sự thỏa thuận giữa hai quyền lực như
trong các thế kỷ trước, nhưng trên sự phục vụ những quyền lợi căn bản của phẩm
giá con người. Sứ mạng của Giáo Hội thuộc phạm vi thiêng liêng, nên không hề
cạnh tranh với các cộng đoàn chính trị, trái lại, Giáo Hội sẵn sàng hợp tác với
xã hội để phục vụ con người (23). Đức Phaolô VI đã tuyên bố với Ngoại giao đoàn
rằng Vaticanô II không còn quan niệm Giáo Hội như một thế lực cạnh tranh hoặc
chống lại các quyền lực của thế giới, mà chỉ muốn cộng tác để xây dựng thế giới
(24). Xin được nhắc lại một đoạn trong diễn văn của Đức Phaolô VI tại Liên Hiệp
Quốc ngày 4-10-1965, tức là vào thời điểm đang hoàn thành Hiến chế Gaudium
et Spesđể chuẩn bị công bố vào ngày 7-12-1965:
Người đang nói với quý vị là một người trong quý
vị, là anh em, thậm chí là một người nhỏ nhất trong quý vị, vì quý vị đại diện
cho các cường quốc, còn người đang nói chỉ có một chút uy quyền trần thế nhỏ bé
tượng trưng; đó chỉ là một chút cần thiết để tự do thi hành sứ mạng thiêng
liêng và để bảo đảm với quý vị rằng chúng tôi độc lập với mọi quyền bính của
thế giới này. Chúng tôi không có một chút quyền lực trần gian và không hề có
tham vọng cạnh tranh với quý vị. Thực vậy, chúng tôi không xin gì và cũng không
đặt vấn đề gì; cùng lắm chỉ là trình bày một ước nguyện, đó là xin phép được
phục vụ quý vị trong khả năng chuyên môn của chúng tôi một cách vô vị lợi, với
khiêm tốn và yêu thương (25).
Theo Vaticanô II, thái độ căn bản của Giáo Hội là
không tách rời khỏi thế gian nhưng đồng hành và phục vụ thế gian. Trong diễn
văn khai mạc khóa ba của Công đồng, Đức Phaolô VI đã xác định hướng đi của Giáo
Hội: “Mục đích của Giáo Hội không phải là chính Giáo Hội, trái lại, Giáo Hội
ao ước được trọn vẹn thuộc về Đức Kitô, nhờ Đức Kitô, trong Đức Kitô, được trọn
vẹn thuộc về nhân loại, ở giữa nhân loại, sống cho nhân loại” (26). Đó là
sự chọn lựa căn bản. “Tất cả giáo lý phong phú của Công đồng chỉ nhắm một
mục đích là phục vụ con người. […] Có thể nói Giáo Hội là đầy tớ (ancilla) của
nhân loại. […] Ý tưởng «phục vụ» chiếm vị trí trung tâm trong Công đồng”
(27).
Nhận thức ấy đã đưa các nghị phụ Công đồng trở về
với các giáo phụ và khám phá ra ý niệm bí tích để áp dụng vào Giáo Hội:
“Trong Đức Kitô, Giáo Hội tựa như bí tích, - tức là như dấu chỉ và khí cụ -,
của sự kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại”
(GH 1). Khẳng định ấy bao hàm nhiều ý nghĩa quan trọng. Trước hết, trên bình
diện tín lý, Vaticanô II xác nhận Giáo Hội không có mục đích nơi chính mình,
không phải là cứu cánh mà chỉ là dấu hiệu và phương tiện của ơn cứu độ. Khác
với quan niệm trước đây, theo Vaticanô II, Giáo Hội không đồng hóa với Nước
Trời nhưng là sự hiện diện mầu nhiệm (in mysterio) của Nước Đức Kitô (x.
GH 3), là “mầm mống và khai nguyên của Nước Trời trên trần gian” (GH 5).
Từ ngữ mysterio phải được hiểu theo nghĩa sacramentum, và vì thế có thể
nói Giáo Hội là bí tích của Nước Trời. Nước Trời là thực tại cánh chung, dù là
đã bắt đầu nơi Giáo Hội, còn Giáo Hội dù là dấu chỉ của Nước Trời, nhưng vẫn
còn đang lữ hành trong lịch sử và “mang khuôn mặt chóng qua của đời này, qua
các bí tích và định chế là những điều thuộc đời này” (GH 48).
Kế đến trên bình diện mục vụ, vì là bí tích của sự
hiệp nhất của toàn thể loài người với Thiên Chúa và với nhau, nên Giáo Hội
không tách rời khỏi cộng đồng nhân loại, trái lại đối thoại, đồng hành, và phục
vụ nhân loại. Giáo Hội của Vaticanô II không còn là một xã hội hoàn hảo cạnh
tranh hoặc chống lại các cơ cấu của xã hội trần gian, nhưng đã vượt lên trên
phạm trù xã hội để trở thành bí tích cứu độ, làm men và muối, trở thành sức
năng động nâng đỡ và thúc đẩy thế giới đi tới cứu cánh của mình là Thiên Chúa.
Chính ý thức về lịch sử và cánh chung đã làm cho
Giáo Hội quan tâm nhiều hơn đến thế giới. Suốt hai mươi thế kỷ, Giáo Hội dường
như không có ý thức mãnh liệt về lịch sử và vì thế dường như vắng mặt khỏi thế
giới. Khái luận thần học về cánh chung chỉ dừng lại ở những vấn đề “tứ chung”,
“de ultimis rebus”, đó là: chết, luyện ngục, thiên đàng và hỏa ngục. Y.
Congar cho thấy bộ từ điển vĩ đại thuộc loại kinh điển Dictionnaire de
Théologie catholique gồm có 41.338 cột, in thành 15 tập to lớn, xuất bản từ
năm 1903 đến 1950, thế mà không hề nhắc tới nghề nghiệp, việc làm, gia đình,
phụ nữ, tình yêu hôn nhân, tính dục, thân xác, niềm vui, đau khổ, bệnh tật,
kinh tế, chính trị, kỹ thuật, nghệ thuật, lịch sử, thế giới, nhân vị, giáo dân,…
Và Congar nhận xét chí lý: một tôn giáo không có thế giới sẽ đưa tới hậu quả
tất nhiên như chúng ta đang chứng kiến, đó là một thế giới không có tôn giáo
(28). Vì thế chương VII của Hiến Chế tín lý Lumen Gentium khẳng định
chiều kích lịch sử và cánh chung của Giáo Hội: lữ hành trong lịch sử nhân loại
và mang những đặc tính và dấu vết của đời này, Giáo Hội đang trên đường tiến về
cánh chung. Giáo Hội ở trong thế giới và tiến bước trong lịch sử, nhưng thế
giới đã được tháp nhập vào kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa: kế hoạch đó khởi
nguồn từ cuộc Vượt qua của Đức Kitô và đang nhắm tới cùng đích là Nước Trời
cánh chung; còn vai trò của Giáo Hội hiện nay là trở thành người loan báo và là
bí tích của kế hoạch ấy: Giáo Hội hiện diện trong thế giới “như là bí tích
phổ quát của ơn cứu độ” (GH 48). Giáo Hội và thế giới vẫn phân biệt nhau,
nhưng vì cả hai đều theo đuổi cùng một mục đích tối hậu, nên một cách nào đó cả
Giáo Hội và thế giới đều làm nên chung một lịch sử là lịch sử cứu độ, vì nguyên
lý duy nhất vẫn là Đức Kitô: “Thiên Chúa vừa là Đấng Cứu độ vừa là Đấng Tạo
dựng, làm chủ lịch sử nhân loại cũng như lịch sử cứu độ” (MV 41). Vấn đề
này sẽ được triển khai sâu rộng trong Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes.
2.3 Qui chiếu về phạm trù “societas inaequalis et
hierarchica”: Giáo Hội là Dân Thiên Chúa
Vaticanô II không phủ nhận tính chất cơ cấu phẩm
trật của Giáo Hội và không hề chối bỏ Vaticanô I, trái lại vẫn dành cả chương
III để nói về phẩm trật và vẫn nhắc lại giáo lý của Vaticanô I về quyền tối
thượng của Đức Giáo hoàng (x. GH 18). Tuy nhiên Vaticanô II không còn nhìn Giáo
Hội như một kim tự tháp và không đóng khung Giáo Hội trong cơ cấu phẩm trật.
Như chúng ta đã nói, Lược đồ thứ nhất De Ecclesia vẫn còn mang nặng tinh
thần pháp lý. Từ đầu năm 1963, Ủy ban giáo thuyết của Công đồng đã phải soạn
thảo lại một bản văn khác. Có ít nhất mười lăm dự thảo được đề nghị, nhưng cuối
cùng một Lược đồ mới gồm bốn chương được gửi tới các Nghị phụ và được thảo luận
từ 30-9 đến 31-10 năm 1963: I- Mầu nhiệm Giáo Hội; II- Cơ cấu phẩm trật của
Giáo Hội, đặc biệt về chức giám mục; III- Dân Chúa, đặc biệt là giáo dân; IV-
Lời kêu gọi nên thánh trong Giáo Hội (29). Cuộc thảo luận đã đi tới kết luận là
sắp xếp lại Lược đồ thành tám chương như chúng ta thấy hiện nay, trong đó
chương II bàn đến Dân Thiên Chúa, tức là tất cả những gì liên quan đến toàn thể
các tín hữu kitô; rồi sau đó mới nói đến các thành phần khác nhau trong Dân
Chúa: phẩm trật trong chương III, giáo dân trong chương IV, tu sĩ trong chương
VI. Sự thay đổi dàn bài đó rất có ý nghĩa: các Nghị phụ thấy rằng Phẩm trật chỉ
có ý nghĩa khi được đặt vào trong lòng Dân Thiên Chúa và để phục vụ Dân Thiên
Chúa chứ không phải là tất cả Giáo Hội và cũng không phải là cánh cửa hoặc là
phẩm tính đầu tiên của Giáo Hội.
Ý niệm Dân Thiên Chúa trước hết gợi lại lịch sử
cứu độ và những chặng đường của dân Do thái lữ hành trong sa mạc, và vì thế
cũng cho thấy Giáo Hội là dân Israel mới đang lữ hành giữa những thăng trầm để
tiến bước về thành thánh tương lai bất diệt. Dân Thiên Chúa cũng nói lên tính
cách cộng đoàn của các tín hữu: “Thiên Chúa không muốn thánh hóa và cứu độ loài
người cách riêng rẽ, thiếu liên kết, nhưng Ngài muốn quy tụ họ thành một dân
tộc…” (GH 9). Danh xưng Dân Thiên Chúa còn cho thấy Giáo Hội không phải là một
ý niệm trừu tượng hay chỉ là một định chế, một cơ cấu pháp lý tựa như một pháp
nhân, nhưng trước hết đó là những con người cụ thể được tái sinh nhờ lòng tin
vào Đức Kitô. Giáo Hội là Giáo Hội của những con người được kêu gọi giữa loài
người để thi hành sứ mạng cho loài người.
Từ xác tín này, trước hết Vaticanô II khơi dậy ý
thức sống động về Giáo Hội địa phương. Từ lâu trước Công đồng, người ta
đã từng tranh luận xem chức giám mục có phải là bí tích không. Các Nghị phụ đã
dựa vào Thánh Kinh và Thánh Truyền để đưa ra kết luận dứt khoát và tuyên bố
chức giám mục là bí tích, đồng thời khám phá lại chiều kích tập đoàn (collegium)
và hiệp thông của chức giám mục (x. GH 21-22). Cùng với việc nhận ra bí tích
tính của chức giám mục, Công đồng cũng thấy được tầm quan trọng của Giáo Hội
địa phương. Dân Thiên Chúa là cộng đoàn duy nhất nhưng lại hiện diện nơi mọi
dân mọi nước trần gian, hiện diện cách cụ thể trong từng địa phương. GH 23 và
GM 11 cho thấy mỗi giáo phận, mỗi cộng đoàn Giáo Hội địa phương, thể hiện trọn
vẹn và đầy đủ mầu nhiệm Giáo Hội, vì ở đó có thừa tác vụ giám mục, có Lời Chúa
và Thánh Thể; và chính trong Giáo Hội địa phương ấy mà Giáo Hội duy nhất của
Đức Kitô hiện diện và hoạt động thực sự. Người ta chỉ thấy Giáo Hội hiện diện
cụ thể tại địa phương này hay địa phương kia, chứ không thấy một Giáo Hội trừu
tượng. Tuy nhiên Giáo Hội hoàn vũ không phải chỉ là tổng số các Giáo Hội địa
phương hợp lại; có thể nói Giáo Hội ấy có một hiện hữu riêng và đã hiện hữu
trước khi được thể hiện tại từng Giáo Hội địa phương. Chỉ có Giáo Hội hoàn vũ
mới thực sự là Thân Thể mầu nhiệm của Đức Kitô cách trọn vẹn, chỉ Giáo Hội ấy
mới có thừa tác vụ Phêrô, và cũng chỉ Giáo Hội ấy mới biểu lộ trọn vẹn các phẩm
tính của mầu nhiệm Giáo Hội là duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền.
Dân Thiên Chúa ở mỗi địa phương mang dấu ấn riêng
của từng nơi chốn và thời đại, của văn hóa và lịch sử tại địa phương ấy. Cộng
đoàn Giáo Hội luôn luôn được định vị trong thời gian và không gian, tức là được
địa phương hóa: đó không phải là yếu tố ngẫu nhiên hay tùy phụ, trái lại, đó là
đòi hỏi của định luật nhập thể. Ý thức tầm quan trọng của Giáo Hội địa phương
chính là ý thức về một sự nhập thể cần thiết phải có để biểu lộ cụ thể mầu
nhiệm Giáo Hội, và đồng thời cũng là ý thức về sự cần thiết của vấn đề hội nhập
văn hóa, và như thế mới có thể xây dựng một Giáo Hội thực sự là công giáo (x.
GH 13; 23).
Một cách đặc biệt, khi gọi Giáo Hội là Dân Thiên
Chúa, Công đồng muốn nhấn mạnh đến tính cách bình đẳng căn bản giữa tất
cả các kitô hữu. Giáo Hội trước hết không phải chỉ là giáo phẩm mà là cộng đoàn
gồm tất cả những người tin vào Đức Kitô. Giá trị đầu tiên đó là được lãnh nhận
bí tích rửa tội và Thánh Thể, nhờ đó tín hữu được tham dự vào sự sống của Đức
Kitô để trở thành kitô hữu và làm thành Dân Thiên Chúa. Danh hiệu Dân Thiên
Chúa liên quan và bao gồm mọi tín hữu kitô, nghĩa là cả phẩm trật lẫn giáo dân,
vì “giữa tất cả mọi người vẫn có sự bình đẳng thực sự, bình đẳng về phương diện
phẩm giá và hoạt động chung của mọi tín hữu để xây dựng Thân thể Đức Kitô” (GH
32). Sự bình đẳng căn bản của tất cả các kitô hữu đặt nền tảng trên chức tư tế
chung do bí tích rửa tội đem lại. Đây chính là một tái khám phá của Công đồng.
Các giáo phụ cũng như các tiến sĩ Giáo Hội đã từng dựa vào 1Pr 2, 9 để khai
triển đề tài chức tư tế chung của các tín hữu. Nhưng vì những người Cải cách đã
dựa vào chức tư tế phổ quát để chối bỏ chức tư tế thừa tác, nên Công đồng
Trentô đã nhấn mạnh đến tính chất đặc thù cao cả của chức linh mục thừa tác.
Tuy nhiên người ta dễ đi từ thái cực này đến thái cực kia: sự nhấn mạnh đôi khi
quá đáng làm cho nhiều tín hữu trong suốt bốn thế kỷ quên đi địa vị và sứ mạng
của mình để trở thành những người thụ động ù lỳ trong Giáo Hội. Vaticanô II đã
lập lại sự quân bình khi cho thấy chức tư tế chung và chức tư tế thừa tác khác
biệt nhau về bản chất nhưng đồng thời cũng bổ túc cho nhau để cùng thể hiện sự
phong phú nơi chức tư tế duy nhất của Đức Kitô (x. GH 10-11).
Đôi khi người ta nhân danh Giáo Hội là Dân Thiên
Chúa để đề cao giáo dân và loại trừ phẩm trật. Thật là sự hiểu lầm đáng tiếc,
Dân Thiên Chúa không đồng nghĩa với giáo dân. Sự bình đẳng căn bản không loại
trừ việc khác biệt nhau trong thừa tác vụ, vì các chi thể chỉ là một trong Đức
Kitô nhưng lại thi hành những nhiệm vụ khác nhau để làm cho thân thể được lớn
lên (x. GH 7; 32).
Như vậy người giáo dân từ nay không còn là người ở
bên lề Giáo Hội hay chỉ là thành phần thứ yếu, trái lại họ chu toàn một sứ mạng
quan trọng và đặc thù trong thế giới: “Giáo dân được đặc biệt kêu mời làm
cho Giáo Hội hiện diện và hoạt động nơi và trong những hoàn cảnh mà nếu không
có họ, thì Giáo Hội sẽ không trở thành muối của thế gian” (GH 33). Giáo Hội
không thể chu toàn trọn vẹn sứ mạng thánh hóa thế gian nếu không có những người
giáo dân thánh hóa thế giới “như men từ bên trong”, “qua các công việc và bổn
phận trần thế, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội”
(GH 31). Sứ mạng của họ không do hàng giáo phẩm chia phần cho, nhưng bắt nguồn
từ tính chất đặc thù của ơn gọi giáo dân, đó là tính chất trần thế.
Vì Giáo Hội là toàn Dân Thiên Chúa, việc nên thánh
không còn là chuyện của các nhà tu hành mà là bổn phận của tất cả mọi người môn
đệ Đức Kitô. Giáo Hội là thánh không phải chỉ trên bình diện cơ cấu hay hữu
thể, nhưng cả trên bình diện hiện sinh nữa. Giáo Hội phải là cộng đoàn những
con người thánh thiện, vì thế Hiến chế Lumen Gentium dành cả chương V để
kêu gọi tất cả mọi kitô hữu nên thánh, rồi sau đó trong chương VI mới nói đến
con đường nên thánh đặc thù của các tu sĩ. Nếu các tu sĩ được kêu gọi “tuân
giữ ba lời khuyên Phúc Âm để hiến thân hoàn toàn cho Thiên Chúa chí ái, để
phụng sự và làm vinh danh Ngài với một danh hiệu mới mẻ và đặc biệt” (GH
44), thì tất cả mọi kitô hữu vì đã được thánh hóa nhờ bí tích rửa tội, nên dù ở
“bất cứ bậc sống hay địa vị nào, cũng được kêu gọi để tiến đến sự viên mãn
của đời sống kitô hữu và tiến đến sự trọn lành của đức ái” (GH 40). Từ các
mục tử, giám mục hay linh mục, những người đang thi hành thừa tác vụ thánh,
hoặc các tu sĩ sống trong cộng đoàn tu viện, đến các giáo dân sống đời hôn nhân
giữa bụi trần của cuộc đời ô trọc, hay những người góa bụa, khổ đau, tất cả đều
có thể và có bổn phận nên thánh để làm chứng cho Đức Kitô: sự thánh thiện phải
được thực hiện và biểu lộ “trong và nhờ những trạng huống, chức nghiệp hay
hoàn cảnh của cuộc sống” (GH 41). Do đó, cuộc sống giữa đời của người giáo
dân không phải là một cản trở cho sự thánh thiện, và muốn nên thánh cũng không
đòi phải trốn khỏi thế gian, trái lại, sống giữa đời với những bổn phận trần
thế chính là con đường nên thánh của giáo dân và là nét đặc thù trong ơn gọi
nên thánh của họ. Như vậy với Vaticanô II, sự thánh thiện không còn là đặc ân
của một thiểu số, cũng không chỉ nằm trên bình diện tu đức hoặc chỉ là chuyện
sở thích cá nhân; trái lại nó mang chiều kích Giáo Hội, nghĩa là nó biểu lộ
chính mầu nhiệm Giáo Hội và là một đòi hỏi thiết yếu gắn liền với ơn gọi của
từng người trong cộng đoàn Dân Thiên Chúa.
Sau hết sẽ thật là thiếu sót nếu trình bày về giáo
hội học của Vaticanô II mà không nói đến Đức Maria, bởi vì Hiến chế Tín lý về
Giáo Hội đã dành cả một chương cuối để nói về Đức Trinh Nữ Maria. Chính tựa đề
của chương VIII đã cho thấy ý nhắm sâu xa của Công đồng: phải nhìn Đức Maria trong
lịch sử cứu độ, tức là trong ánh sáng của mầu nhiệm Đức Kitô và mầu nhiệm Giáo
Hội, và đó chính là một cái nhìn mới (30). Một mặt, Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa
và được những đặc ân độc nhất vô nhị. Nhưng mặt khác, mầu nhiệm Đức Maria chỉ
có ý nghĩa khi được tháp nhập vào mầu nhiệm Đức Kitô và mầu nhiệm Giáo Hội. “Đức
Mẹ được chào kính như chi thể tối cao và độc nhất vô nhị của Giáo Hội, đồng
thời như mẫu mực và gương sáng phi thường của Giáo Hội trên phương diện đức tin
và đức ái” (GH 53). Đức Maria là Mẹ của Giáo Hội, là Đấng cộng tác cách đặc
biệt vào công trình cứu chuộc của Đức Kitô, là Đấng Trung gian tùy thuộc vào
vai trò trung gian duy nhất của Đức Kitô, nhưng đồng thời Người cũng là môn đệ
đầu tiên biết lắng nghe và giữ lời Đức Kitô; trong cộng đoàn Dân Thiên Chúa, Mẹ
trổi vượt mọi tín hữu nhưng Mẹ không ở ngoài Giáo Hội, trái lại Mẹ vẫn là chi
thể, một chi thể độc nhất ở vị trí tối cao của Giáo Hội.
Điều quan trọng đối với giáo hội học, đó là con
người Đức Maria biểu lộ chính mầu nhiệm Giáo Hội. Thật vậy, cũng như Đức Maria
là Mẹ và là Trinh Nữ, Giáo Hội cũng được gọi cách hợp pháp là Mẹ và Trinh Nữ;
hơn nữa Giáo Hội là Mẹ và là Trinh Nữ qua chính con người của Đức Maria là “người
đi tiên phong và là gương mẫu” của Giáo Hội (GH 63). Giáo Hội là thánh,
nhưng sự thánh thiện của Giáo Hội được biểu lộ qua chính Đức Maria, vì “qua
con người của Đức Trinh Nữ, Giáo Hội đã đạt tới một sự toàn thiện làm cho mình
nên thanh sạch và vẹn tuyền”, trong khi chúng ta còn đang phải chiến đấu
với tội lỗi để tiến lên trên con đường thánh thiện (GH 64). Sau nữa, “Mẹ của
Đức Giêsu hôm nay đã được vinh hiển hồn xác trên trời chính là hình ảnh và khởi
đầu của Giáo Hội phải được hoàn thành đời sau” (GH 68). Tất cả những đặc ân
Đức Mẹ nhận được là vì Đức Kitô và vì thân thể của Người là Giáo Hội; hơn nữa
chính qua các đặc ân của Đức Mẹ mà Giáo Hội nhận ra ơn gọi và định mệnh của
mình, chính qua việc nhìn ngắm Đức Mẹ mà Giáo Hội thấy được chính mình và nhận
ra sứ mạng của mình trong thế giới. Đức Maria vừa là mẹ vừa là người môn đệ
gương mẫu cho Giáo Hội, vừa là người đi trước vừa là kẻ đồng hành với Giáo Hội
nhưng cũng là người về đến quê nhà trước Giáo Hội.
3. CÁI MỚI VẪN CHƯA CŨ
Thời gian chỉ cho phép chúng ta làm công việc kê
toa thuốc, nghĩa là nói quá nhiều mà vẫn là quá ít. Nhưng rảo quanh một vòng ít
nữa cũng gợi lên phần nào cái tinh thần mới trong giáo hội học của Vaticanô II.
Hôm nay, 38 năm sau ngày bế mạc, Công đồng vẫn còn là mới mẻ và hợp thời, nhất
là đối với nhiều người công giáo Việt Nam . Thực ra ngay từ khi Vaticanô II mới
kết thúc, người ta đã nói rằng có lẽ cần một Vaticanô thứ III để bổ túc cho
Vaticanô II. Chẳng hạn nếu như Vaticanô II dung hòa được sự chia cách giữa Giáo
hoàng với giám mục, thì cũng cần một Công đồng khác để bàn đến mối liên hệ giữa
giáo sĩ, cách riêng là linh mục, với giáo dân. Người ta cũng nhận xét rằng định
nghĩa về giáo dân của Vaticanô II còn mang tính cách giáo luật: giáo dân không
phải là giáo sĩ hay tu sĩ, và vì thế cần phải có một định nghĩa khác tích cực
hơn và có tính cách thần học hơn. Ngoài ra, nhiều người ngày nay không muốn gọi
Vaticanô II là Công đồng chung (concile oecuménique), vì Vaticanô II mới
mở rộng những cánh cửa của hiệp nhất, còn thực tế các anh em của các Giáo Hội
ngoài công giáo vẫn chưa có tiếng nói tại hội nghị. Và còn nhiều chuyện khác
nữa (31).
Quả thực Công đồng đã không làm được hết mọi
chuyện, và chính Công đồng cũng ý thức rằng mình chưa thực hiện được hết mọi dự
tính. Nhưng có lẽ chúng ta đều nhận rằng Công đồng đã làm một cuộc cách mạng về
giáo hội học, một cuộc khai phá để đem lại luồng khí mới cho Giáo Hội như Đức
Gioan XXIII từng mơ ước. Những giá trị mà Công đồng đã khám phá hoặc tái khám
phá vẫn còn đang tạo nên những chuyển biến tích cực trong Giáo Hội và trong thế
giới. Để kỷ niệm 20 năm ngày bế mạc Công đồng, Đức Gioan-Phaolô II đã triệu tập
một Thượng Hội Đồng Giám mục đặc biệt vào năm 1985 để “họp mừng, chứng thực
và cổ võ thực hiện Công đồng Vaticanô II”; các Nghị phụ đã tuyên bố rằng
Công đồng quả là một hồng ân và là ân sủng mà Thiên Chúa ban cho Giáo Hội và
cho thế giới trong thế kỷ này, và mời gọi mọi người học hỏi và đào sâu các văn
kiện của Công đồng để đem ra thực hành (32). Riêng đối với Đức Gioan-Phaolô II,
Vaticanô II là tất cả chương trình hành động của ngài: “Tôi đã được hồng ân
đặc biệt là tham dự và cộng tác tích cực vào diễn tiến của Công đồng. Đối với
tôi, cách riêng trong những năm của triều đại giáo hoàng của tôi, Vaticanô II
đã và vẫn luôn luôn là điểm quy chiếu thường xuyên cho mọi hoạt động mục vụ của
tôi, qua việc cố gắng đem các hướng dẫn của Công đồng ra áp dụng một cách cụ
thể và trung thành, ở bình diện mỗi Giáo Hội cũng như ở mức độ toàn Giáo Hội.
Phải không ngừng trở về với nguồn mạch này” (33). Và rồi để bước vào thiên
niên kỷ mới, Đức Gioan-Phaolô II cũng đã nhiều lần kêu gọi phải áp dụng Công
đồng, vì đó là một ân huệ lớn lao của Thiên Chúa: “Năm tháng qua đi, nhưng
các bản văn của Công đồng vẫn không hề mất giá trị và vẻ sáng chói. […] Đó vẫn
là địa bàn (boussole) đáng tin cậy hướng dẫn chúng ta trên nẻo đường của thế kỷ
đang tới” (34).
Giáo hội học của Vaticanô II cho tới nay vẫn còn
là một sứ điệp mang tính thời sự và có tính chất ngôn sứ. Không biết chừng nào
sẽ có Vaticanô III, nhưng ít nữa Vaticanô II vẫn còn là một luồng sáng hướng
đạo cho Giáo Hội trong thời đại chúng ta, và vai trò của các Thượng Hội Đồng
Giám mục thế giới sẽ là đào sâu và áp dụng cách sáng tạo những định hướng của
Công đồng. Xin được nêu lên một vài gợi ý nhỏ.
Trước tiên hơn lúc nào hết, Giáo Hội hôm nay vẫn
còn phải được xây dựng theo mô hình hiệp thông. Lẽ dĩ nhiên như chúng ta đã
nói, mẫu giáo hội học hiệp thông không phải là mà cũng không thể là kiểu mẫu
duy nhất để xây dựng Giáo Hội. Tuy nhiên đó là một kiểu mẫu trọng tâm, nền tảng
và thiết yếu; và nếu như sau hết mọi sự sẽ chỉ có tình yêu là tồn tại mãi mãi,
thì sự hiệp thông cũng sẽ mãi mãi là sự sống và là chứng từ của Giáo Hội đối
với thế giới. Nhân loại hôm nay bị xâu xé vì chiến tranh và hận thù, từ chiến
tranh quốc gia, chiến tranh kinh tế đến chiến tranh sắc tộc hay tôn giáo, và
con người trở thành tế vật hy sinh của những tham vọng thống trị. Vì thế con
người thời nay chờ đợi nơi Giáo Hội một chứng từ về sự hòa giải và về khả năng
hiệp nhất trong đa dạng; điều đó chỉ có được khi Giáo Hội sống hiệp thông theo
kiểu mẫu của mô hình hiệp thông nơi Chúa Ba Ngôi. Công đồng nhắc lại một lời
của Đức Gioan XXIII: “Những gì liên kết các tín hữu còn mạnh hơn những gì
chia rẽ: hiệp nhất trong những gì chính yếu, tự do trong những gì nghi ngờ, bác
ái trong hết mọi sự” (MV 92).
Bên cạnh chiến tranh bom đạn là cuộc chiến của
đồng tiền và kỹ thuật. Chúng ta đang dần dần tiến lên một xã hội giàu mạnh và
hiện đại hóa. Nhưng cái thách đố lớn lao của xã hội hôm nay là người ta chạy
theo công việc và lo làm giàu nên không còn giờ để sống cho nhau nữa. Nhất là
trong bối cảnh toàn cầu hóa, càng ngày càng có nhiều người nghèo hơn, nhiều
người cô đơn và bị bỏ rơi hơn. Xã hội hiện đại hóa cũng là một xã hội công
nghiệp hóa: tất cả đều chuyển sang máy móc tự động, ngay cả con người cũng trở
thành một cỗ máy trong xưởng máy lớn lao của thế giới. Hiện đại hóa còn là đô
thị hóa, đời sống trở nên nhộn nhịp đông đúc, nhưng trong đó mỗi người chỉ là
một con số vô danh giữa một đám đông xô bồ. Con người hôm nay cần đến một tình
yêu có khả năng ôm ấp, cảm thông và chia sẻ với những nỗi khổ đau và cô đơn của
mình, và như vậy một Giáo Hội của sự hiệp thông sẽ trở thành niềm hy vọng cho
những người đang đi tìm một mái nhà ấm áp thân yêu.
Kế đến, phạm trù bí tích áp dụng vào Giáo Hội mang
một ý nghĩa hiện sinh và giải thích lý do sự hiện diện của Giáo Hội trong thế
giới. Trung thành với lệnh truyền của Đức Kitô, Giáo Hội đã lên đường với hoài
bão làm cho tất cả các dân tộc trở thành môn đệ của Chúa. Bao nhiêu lớp người
đã vất vả ra đi gieo hạt giống Tin mừng, bao nhiêu máu đào của các vị tử đạo đã
thấm vào mảnh đất của các dân tộc, rất nhiều chương trình truyền giáo, rất
nhiều nỗ lực canh tân, nhưng hôm nay, sau hai mươi thế kỷ, Giáo Hội vẫn còn là
“đoàn chiên nhỏ bé” (Lc 12, 32) giữa cộng đoàn nhân loại đông đảo. Dù công việc
loan báo Tin Mừng đã đem lại nhiều kết quả lớn lao cả về chiều rộng lẫn chiều
sâu, Giáo Hội càng ngày càng trở thành thiểu số giữa lòng thế giới, nhất là khi
tinh thần tục hóa ngày càng thấm nhập vào mọi cơ cấu và lãnh vực của đời sống
con người. Rất nhiều khi một cách nào đó, các cộng đoàn kitô hữu giống như
những kẻ bị lưu đày giữa thế gian, như những ốc đảo giữa các đại dương mênh
mông. Giáo Hội sẽ chẳng bao giờ còn được phép mơ thấy một vương quốc kitô cạnh
tranh hoặc bao trùm các vương quốc trần gian. Nhưng không phải vì thế mà Giáo
Hội thất vọng. Giáo Hội có con đường của riêng mình. Công đồng đã diễn tả thân
phận và sứ mạng của Giáo Hội trong thế giới bằng những lời mà có lẽ mãi mãi vẫn
không bao giờ lỗi thời: “Dân tộc thiên sai, tuy hiện nay chưa bao gồm toàn
thể nhân loại và đôi khi tỏ ra như một đàn chiên nhỏ, nhưng lại là một mầm mống
vững chắc nhất của sự hiệp nhất, của niềm hy vọng và của ơn cứu độ, cho toàn
thể nhân loại. Dân tộc thiên sai ấy được Đức Kitô thiết lập để thông dự vào sự
sống, bác ái và chân lý, được Người sử dụng như khí cụ cứu độ cho mọi người, và
được sai đi khắp thế giới như ánh sáng trần gian và muối đất” (GH 9).
Sau hết, Công đồng đã mở ra cho Giáo Hội một viễn
ảnh mới để đi vào lòng thế giới hôm nay, đó là giáo hội học của phục vụ. Như
chúng ta đã trích lời của Đức Phaolô VI, một cách nào đó Giáo Hội từ nay mang
một danh hiệu mới, đó là đầy tớ của nhân loại (35). Tinh thần phục vụ thấm nhập
sâu xa vào trong các văn kiện của Vaticanô II và đã trở thành một trong những
điểm thiết yếu của Công đồng. Tinh thần phục vụ ấy ngày càng tỏ ra cần thiết và
hợp thời. Chỉ nói riêng tại châu Á, nỗ lực của Liên Hội Đồng Giám mục châu Á
(FABC) là đem tinh thần phục vụ của Công đồng vào trong bối cảnh nghèo đói, đa
văn hóa và đa tôn giáo của lục địa lớn lao này, trong đó các kitô hữu chỉ là
một thiểu số 2% (36). Càng ngày các Giám mục của châu Á càng ý thức rằng chỉ có
con đường phục vụ mới có khả năng thâm nhập vào các cơ cấu và giá trị của xã
hội để phúc âm hóa chúng. Ba mươi ba năm sau Công đồng, Thượng Hội Đồng Giám
mục về châu Á đã làm sống lại tinh thần của Vaticanô II và đồng thanh tuyên bố:
“Như Đức Giêsu, ước gì Giáo Hội ngày càng trở thành một Giáo Hội đầy tớ và
tiếp tục sứ mạng yêu thương và phục vụ các dân tộc châu Á” (37). Theo các
Nghị phụ, cách thức hiện diện đặc thù của Giáo Hội tại châu Á, đó là phục vụ.
Trở thành đầy tớ là một trong các nhân tố góp phần biến đổi bộ mặt tây phương
của Giáo Hội thành bộ mặt mang tính châu Á (38). Đây là một đòi hỏi ưu tiên, vì
trong bối cảnh châu Á, phục vụ như một tôi tớ là con đường thích hợp nhất để
thông truyền sứ điệp Tin mừng, là cách hiện diện dễ đi vào lòng người nhất, và
là cách tốt nhất để sống chung hòa bình với các tôn giáo khác.
Như vậy cái mới của giáo hội học của Vaticanô II
vẫn chưa phải là cũ đối với chúng ta. Để kết thúc, xin được trích lại lời của
Đức Cha Chủ tịch Ủy ban Giám mục về Văn hóa trong hội thảo chuyên đề “Bốn
mươi năm sau Vaticanô II nhìn lại”: “Nhìn lại Vaticanô II là một điểm
tái khởi hành. [...] Nếu trong bốn thập niên qua, Công đồng đã khơi lên bao sức
sống được mệnh danh là luồng gió mới cho Giáo Hội hoàn vũ cũng như cho Giáo Hội
địa phương, thì hôm nay thiết nghĩ, Vaticanô II cũng vẫn còn đó nền tảng sức sống
làm thành nguồn cảm hứng mới cho những cộng đoàn Giáo Hội thiết tha với sứ mệnh
lên đường. Duc in altum. Hãy chèo ra chỗ nước sâu” (39).
Chú thích:
(1) Nói một cách tổng quát, hai mươi Công đồng
trước đây xoay quanh mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, Nhập thể, Chúa Thánh Thần, ân
sủng, các bí tích, hoặc tái lập hiệp nhất và kỷ luật trong Giáo Hội. Người ta
cũng đã bàn về các thành phần trong Giáo Hội, chẳng hạn như chức linh mục hoặc
quyền tối thượng của Đức Giáo Chủ, nhưng chưa có một Công đồng nào dành được một
chương nguyên vẹn để nói về mầu nhiệm Giáo Hội.
– Ký hiệu viết tắt: GH = Hiến chế tín lý về Giáo
Hội (Lumen Gentium); MV = Hiến chế mục vụ về Giáo Hội trong thế giới hôm nay
(Gaudium et Spes); GM = Sắc lệnh về nhiệm vụ của Giám mục (Christus Dominus);
HN = Sắc lệnh về hiệp nhất (Unitatis Redintegratio); TG = Sắc lệnh về truyền
giáo (Ad Gentes); TD = Tuyên ngôn về tự do tôn giáo (Dignitatis humanae).
(2) Chẳng hạn trong các văn kiện của Vaticanô II,
có 93 lần trích dẫn các Công đồng trước, trong đó 21 lần từ Trentô và 24 lần từ
Vaticanô I; 201 lần trích dẫn hoặc qui chiếu về các văn kiện của Đức Piô XII. Xem E. Innocenti, Le citazioni pontificie nei documenti conciliari, trong
Concretezza (16-7-1966) 6-10.
(3) Xem Văn bản gửi cho Ủy
Ban chuyên môn ngày 2-7-1960, trong S. Garofaro (dir.), Dizionariodel Concilio
Ecumenico Vaticano Secondo, Roma 1969, cột 125. Chính Đức Piô XI và XII cũng đã
có ý tiếp tục Vaticanô I nhưng chưa thực hiện được. Và khi chuẩn bị Công đồng,
người ta đã nêu lên câu hỏi: đây là một Công đồng mới hay là nối tiếp Vaticanô
I.
(4) Diễn văn ngày 8-12-1969,
trong Documentation catholique 1554 (1970) 10 tt.
(5) Xem H. Pottmeyer,
Continuità e innovazione nell’ecclesiologia del Vaticano II. L’influsso del
Vaticano I sull’ecclesiologia del Vaticano II e la ri-recezione del Vaticano I
alla luce del Vaticano II, trong G. Alberigo (ed.), L’ecclesiologia del
Vaticano II: dinamismi e prospettive, Bologna 1981, 71-95.
(6) Xem A. Acerbi, Due
ecclesiologie. Ecclesiologia giuridica ed ecclesiologia di comunione nella
“Lumen Gentium”, Bologna 1975.
(7 Xem A. Dulles, Models of the Church, New York
1987. Tác giả trình bày năm mẫu căn bản: Giáo Hội như một đinh chế, như sự hiệp
thông mầu nhiệm, như bí tích, như người loan báo Tin mừng, như người tôi tớ
phục vụ. Vị Hồng Y này đề nghị một mẫu mới: Giáo Hội là cộng đoàn các môn đệ
Đức Kitô.
(8) R. Bellarminô, De
Ecclesia, III, 2, Colonia 1619, 108.
(9) Xem J. Rigal, Le mystère
de l’Eglise. Fondements théologiques et perspectives pastorales, Paris 1996,
69-70.
(10) XemY.Congar,Le Concile
de Vatican II. Son Eglise. Peuple de Dieu et Corps du Christ,Paris 1984, 10.
(11) Huấn dụ của Đức Piô IX
với Cơ Mật Viện, Multis gravibusque, ngày 17-12-1860. Đức Piô IX nhấn mạnh
nhiều lần với Cơ Mật Viện: Singulari quadam (9-12-1854), Maxima quidem laetitia
(9-6-1862); rồi trong thông điệp Vix dum a Nobis (7-3-1874). Mệnh đề sau đây đã
bị ngài lên án: “Giáo Hội không phải là một xã hội đích thực và hoàn hảo, hoàn
toàn tự do, và không được hưởng các quyền riêng và trường tồn đã được Đấng Sáng
Lập thần linh ban cho; chính quyền dân sự mới có quyền xác định các quyền của
Giáo Hội và những giới hạn để thực thi các quyền này” (Syllabus, mệnh đề 19,
8-12-1864: DS 2919). Sau này, Đức Lêô XIII cũng nhiều lần đề cập đến vấn đề này
(Diuturnum illud, 29-(6-1881; Immortale Dei, 1-11-1885: DS 3167; Libertas
praestantissimum, 20-6-1888), rồi Đức Piô X (Compendio della dottrina
cristiana, 1905), Đức Bênêđitô XV (Providentissima Mater Ecclesia, 1917), Đức
Piô XI (Divini illius magistri, 1929: DS 3685).
(12) Mansi 51, 543.
(13) Xem A. Antòn, Lo
sviluppo della dottrina sulla Chiesa nella teologia dal Vaticano I al Vaticano
II,L’ecclesiologia dal Vaticano I al Vaticano II, Brescia 1973, 64-69; O.
Rousseau, La Constitution “Lumen Gentium” dans le cadre des mouvements
rénovateurs de théologie et de pastorale des dernières décades, Unam Sanctam 51
b, 35-56; B. Kloppenburg, Ecclesiology of Vatican II, Chicago 1974, 1-10; R.
Aubert, La théologie catholique au milieu du XXe siècle, (Cahiers de
l’actualité religieuse), Tournai 1954.
(14) Acta Synodalia, I/IV,
12-121.
(15) Acta Synodalia, I/IV,
142 tt. Các nhận xét khác cũng tương tự: G. D’Avak, sđd., 148-150; A. Bea, sđd,
227-230, vv…
(16) Đức Gioan XXIII:
Audience générale, 25-10-1961, trong Acta et Documenta Concilio Oecumenico
Vaticano II Apparando, II/I, 117; Diễn văn khai mạc Công đồng, 11-10-1962,
trong Acta Synodalia Sacrosancti Concilii Vaticani II, II/I, 172; Nuntius
radiophonicus, 11-9-1962, AAS 54 (1962) 680. Đức Phaolô VI: Diễn văn khai mạc
khóa IV, 14-9-1965, AAS 57 (1965) 79; Diễn văn kết thúc khóa IV.
(17) Thượng Hội Đồng Giám Mục
1985 (kỷ niệm 20 năm bế mạc Công đồng Vaticanô II), Relatio finalis,
Enchiridion Vaticanum 9: 1980.
(18) A. Acerbi (sđd) chứng tỏ
rằng Công đồng vẫn giữ lại các yếu tố của một giáo hội học pháp lý, và nhiều
người lấy làm tiếc vì Vaticanô II đã không đẩy vấn đề tới cùng. Nhưng thực ra
các kiểu mẫu hay phạm trù giáo hội học không thể loại trừ nhau nhưng bổ túc cho
nhau, vì Giáo hội cũng mang cả chiều kích xã hội nữa.
(19) Theo Y. Congar, Le
Concile de Vatican II, sđd, 19.
(20) Cyprianô, De Oratione
Domini 23, PL 4, 553.
(21) G. Philips, L’Église et
son mystère au deuxième Concile du Vatican II, t. I, Paris 1967, 91.
(22) Xem K. Rahner, Rapporto
tra natura e grazia, trong Id., Saggi di antropologia soprannaturale, Roma
1969, 43-78; Id., Ateismo e cristianesimo implicito, trong Id., Nuovi Saggi,
III, Roma 1969, 217-248.
(23) Xem MV 42 §5; 76; TD 13.
(24) “Une chose est certaine:
l’évolution s’est faite dans le sens d’une prise de conscience croissante par
la “cité temporelle” de son autonomie vis-à-vis de la “cité spirituelle”, et
réciproquement du désengagement de cette dernière par rapport à la cité
temporelle. Mais alors que leur diversité même a pu les faire apparaýtre
parfois non seulement distinctes, mais rivales et opposées, aujourd’hui, grâce
à Dieu, et de plus en plus – et Nous voudrions souhaiter qu’il en soit ainsi
dans le monde entier – elles ne se posent plus en adversaires. En ce qui
concerne l’Église, en tout cas, son désir de collaboration avec les pouvoirs de
ce monde est sans arrière-pensée: les actes du Concile l’ont prouvé avec éclat”
(Discours au Corps diplomatique, 8 -1-1966, AAS 58 [1966] 144).
(25) Diễn văn ngày 4-10-1965,
AAS 57 (1965) 877.
(26) Diễn văn ngày 14-9-1964,
trong Documentation catholique (1964) 1222.
(27) Bài giảng tại khóa IX
của Công đồng, 7-12-1965, AAS 58 (1966) 58.
(28) Y. Congar, sđd, 27.
(29) Cf. Acta Synodalia,
II/I, 215-274.
(30) Thực ra gần một nửa Nghị
phụ muốn tách riêng lược đồ về Đức Maria. Ngày 29-10-1963, câu hỏi được đặt ra
cho các Nghị phụ là: có muốn đổi lược đồ về Đức Trinh Nữ Mẹ Giáo Hội thành
chương cuối cùng của lược đồ về Giáo Hội không? Trước hết, có chấp nhận xen
lược đồ vào Hiến chế không: trong số 2193 Nghị phụ có mặt, thì 1114 vị bỏ phiếu
thuận, 1074 phiếu chống. Kế đến, nếu xen, thì xen vào chỗ nào: Mẹ Thiên Chúa
liên kết mật thiết với mầu nhiệm Giáo Hội, nhưng giáo lý về Đức Maria lại vượt
quá giáo lý về Giáo Hội. Do đó chỉ có thể đặt vào phần cuối của Hiến chế.
(31) Xem G. Alberigo (ed.),
L’ecclesiologia del Vaticano II: dinamismi e prospettive, Bologna 1981; R.
Latourelle (ed.), Vatican II. Bilan et perspectives.
Vingt-cinq ans après(1962-1987), 3 tập, Montréal-Paris 1988; Congresso del
ventennio dal Concilio Vaticano II (Roma, 18-21/02/1985), 3 tập, Roma 1985.
(32) Thượng Hội Đồng Giám mục
1985, Relatio finalis, Enchiridion Vaticanum 9: 1780; Nuntius, ibid.,
1770-1773.
(33) Diễn văn ngày 30-5-1986,
số 5, trong AAS 78 (1986) 1273.
(34) Tông thư Novo Millennio
ineunte, 6-1-2001, số 57. Xem tông thư Tertio millennio adveniente,
(35) Bài giảng của Đức Phaolô
VI tại khóa IX của Công đồng, 7-12-1965, tức là áp ngày bế mạc Công đồng: AAS
58 (1966) 58.
(36) Xem Sứ điệp của FABC
trong cuộc gặp gỡ lần thứ I tại Manila , 29-11-1970, và các văn kiện khác tiếp
the. trong Facoltà Teologica Interregionale Milano, 7-12-1965, AAS 58 (1966)
57-58. 10-11-1994,
số 36.
+ GM Giuse Nguyễn Năng