HỘI NHẬP VĂN HÓA LÀ GÌ?
Để phúc âm hóa có hiệu quả
Bất kỳ
người Kitô hữu nào cũng có sứ mạng phúc âm hóa. Sứ mạng đó bắt nguồn từ bí tích
Thánh Tẩy khiến ta trở nên con cái Thiên Chúa và được chia sẻ với Chúa Kitô
thiên chức vua, tư tế và ngôn sứ (). Chia sẻ những thiên chức ấy, người Kitô
hữu cũng chia sẻ với Chúa Kitô sứ mạng phúc âm hóa, làm cho muôn dân trở nên
môn đệ Chúa, đồng thời dạy bảo họ tuân giữ những điều Chúa truyền
cho mình . Sứ mạng đó lại càng trở nên rõ rệt và chính thức hơn khi chúng ta
lãnh nhận bí tích Thêm Sức, Thánh Thể, nhất là với những người đã lãnh nhận bí
tích Truyền Chức, và những người đã tận hiến đời mình cho việc mở mang Nước
Chúa.
Có sứ
mạng phúc âm hóa, ta phải phúc âm hóa sao cho có hiệu quả, nghĩa là phải phúc
âm hóa có kế hoạch, có phương pháp và nghệ thuật. Muốn thế, một trong những vấn
đề quan trọng nhất phải làm là mềm dẻo và khéo léo thích ứng cách
rao truyền sứ điệp Kitô giáo với đối tượng và hoàn cảnh, đồng thời hội
nhập sứ điệp Kitô giáo vào môi trường văn hóa của từng
dân tộc mà mình muốn phúc âm hóa. Giữa thích ứng và hội nhập văn hóa có nhiều
điểm giống nhau, nhưng cũng có những khác biệt căn bản.
THÍCH ỨNG LÀ GÌ?
1. Định nghĩa
Thích
ứng là ứng biến cho thích hợp:
- ứng biến là thay đổi (=biến) cách đối phó (=ứng) khi sự việc
xảy ra,
- thích hợp là vừa khít (=thích), tương xứng, phù hợp (=hợp)
với sự việc hay tình huống xảy ra.
Thích
ứng là tùy theo từng tình huống cá biệt mà thay đổi cách ứng xử cho phù hợp
từng tình huống một. Thích ứng có nghĩa tổng quát hơn hội nhập văn hóa.
Trong
phúc âm hóa, thích ứng là rao giảng sứ điệp Kitô giáo sao cho phù hợp với từng
trường hợp, từng hoàn cảnh cụ thể của mỗi dân tộc, của mỗi xứ đạo, hay của mỗi
cá nhân. Nghĩa là phải thay đổi phương thức phúc âm hóa, cách thức rao giảng,
cách ứng xử, cách diễn tả sứ điệp... sao cho phù hợp với từng tình huống cụ thể
của người nghe, để việc phúc âm hóa đi đến kết quả tốt đẹp. Hay nói cách khác
là phải tùy cơ ứng biến, tùy duyên hóa độ .
Để làm
sáng tỏ vấn đề, ta thử đưa ra một vài hình ảnh minh họa.
2. Một vài minh họa về thích ứng
a) Thầy thuốc tùy bệnh cho toa
Việc
thích ứng cũng giống như việc thầy thuốc tùy bệnh cho toa. Y lý chỉ có
một và bất biến, nhưng bệnh thì nhiều vô kể, mỗi bệnh mỗi khác, không
bệnh nào giống bệnh nào. Khi y lý được áp dụng vào từng cơn bệnh, nó sẽ biến
thành rất nhiều phương thức trị liệu hay toa thuốc khác nhau, mỗi bệnh một toa.
Bệnh giống nhau, thuốc mới giống nhau. Bệnh khác nhau, thuốc sẽ khác nhau. Thầy
thuốc càng giỏi, nghĩa là càng nắm vững y lý, thì càng biết gia giảm các vị
thuốc trong cùng một bài thuốc để trị những bệnh nhân tuy cùng một chứng bệnh
nhưng lại hơi khác nhau về một số chi tiết nhỏ nhặt nào đó. Có biết gia giảm
như thế, việc chữa trị mới nhanh chóng và hữu hiệu. Chỉ những thầy thuốc dở mới
áp dụng cùng một toa thuốc như nhau cho những con bệnh khác nhau. Những thầy
thuốc loại này là những người không nắm vững được y lý, nên không biết cách áp
dụng y lý đó trong những trường hợp cá biệt khác nhau của bệnh tật.
Cũng
vậy, người rao giảng chân lý phải nắm vững chân lý mình rao giảng, và hễ nắm
vững chân lý mình rao giảng thì cũng sẽ biết thay đổi cách trình bày chân lý ấy
tùy theo trình độ tâm linh, trí tuệ, não trạng, tính tình của người nghe để họ
cũng nắm vững chân lý và thật sự áp dụng chân lý ấy vào đời sống của họ. Không
biết phải thay đổi cách trình bày chân lý thế nào cho phù hợp với từng đối
tượng, điều đó chứng tỏ rằng người rao giảng chưa nắm vững được chân lý mình
rao giảng. Một khi đã nắm vững được chân lý trong vấn đề mình nói, thì tuy trình
bày cùng một vấn đề, nhưng khi trình bày cho một nông dân, cách thức trình bày
hay hình thức diễn tả ắt phải khác với cách trình bày cho một bác sĩ. Có nắm
vững chân lý thì mới có khả năng trình bày cách thích ứng như thế cho các đối
tượng khác nhau.
b) Dòng điện thay đổi tùy theo dụng cụ điện
Sự thích
ứng cũng tương tự như sự thay đổi của dòng điện: cùng một dòng điện nhưng tùy
theo công suất tiêu thụ của mỗi dụng cụ mà cường độ dòng điện thay đổi để thích
ứng với dụng cụ, làm phát sinh những công năng khác nhau, hầu cung ứng đủ năng
lực để dụng cụ hoạt động mà không vượt quá sức chịu đựng của dụng cụ. Cùng một
dòng điện 220 volt, khi vào một dụng cụ 100 watt, thì cường độ dòng điện là
0,45 ampère, nhưng khi vào dụng cụ 1000 watt, thì cường độ tăng lên 10 lần
thành 4,54 ampère . Nếu không có sự thích ứng đó, dòng điện sẽ làm hư hỏng dụng
cụ điện hoặc không đủ năng lực cần thiết để đáp ứng nhu cầu người sử dụng.
Ngoài
ra, khi đi vào những dụng cụ điện, dòng điện còn biến đổi thành những hình thái
khác nhau của năng lượng. Khi vào bóng đèn, điện biến thành ánh sáng, vào quạt
máy thì thành gió, vào bếp điện thì thành hơi nóng, vào tủ lạnh thì thành hơi
lạnh... Thật là trái tự nhiên khi dòng điện đi vào những môi trường tiêu thụ
khác nhau mà lại sinh ra cùng một công năng hay cùng một hình thái năng lượng
như nhau.
c) Cây nào sinh trái nấy
Tương tự
như thế, cùng mọc trên một thửa đất như nhau, nhưng cây nào sinh trái đó. Cây
khác nhau thì không thể vì cùng mọc trên một thửa đất mà sinh ra cùng một loại
trái được. Cây cam sinh trái cam, cây chanh sinh trái chanh thì cả hai cây đều
hoạt động đúng với luật tự nhiên. Nhưng nếu cả hai cây đều sinh ra cùng một thứ
trái thì đó quả là chuyện lạ thường, nghịch tự nhiên. Mà một trong những nguyên
tắc căn bản của Kitô giáo là hành động theo luật tự nhiên, không chấp nhận
những gì phản tự nhiên.
Như vậy,
cùng suy tư và khai triển mặc khải duy nhất của Đức Kitô, thì
người Á châu với vũ trụ quan động, nhận thức luận đa diện và nhất nguyên không
thể có cùng một cách diễn tả chân lý, cùng một lối suy tư thần học như người Âu
Châu với vũ trụ quan tĩnh, nhận thức luận đơn diện và nhị nguyên được. Ép buộc
người Á châu khi suy tư thần học cũng phải đi đến cùng một kết luận thần học y
như những kết luận thần học đã có trước của người Âu Châu thì chẳng khác nào ép
cây cam phải ra cùng một loại trái như cây chanh. Như vậy, có tự nhiên và hợp
lý không khi mà cái nào ra trước thì được tự do ra theo điều kiện riêng và bản
chất nội tại của mình, còn cái nào ra sau thì phải ép mình mà ra giống như cái
đã ra trước - vốn đã được chính thức hóa làm khuôn mẫu để duy trì sự thống nhất
cho toàn thể - bất chấp việc phải đi trái với bản chất nội tại và những điều
kiện riêng của mình?
3. Thích ứng để tồn tại và phát triển
Thích
ứng là một điều kiện quan trọng để tồn tại, phát triển, và thành công. Phàm tất
cả mọi sinh vật trên thế giới này, sinh vật nào biết thích ứng với hoàn cảnh
xung quanh mình, thì dù có mỏng dòn yếu ớt vẫn có thể tồn tại và phát triển.
Còn sinh vật nào không biết thích ứng, thì dù có mạnh mẽ hay vững chắc tới đâu,
cũng sẽ không phát triển được nếu không muốn nói là bị tiêu diệt .
Đối với
các tôn giáo cũng thế, hễ biết thích ứng với hoàn cảnh chung quanh, với những
tình huống luôn luôn thay đổi, thì sẽ tồn tại và phát triển. Không chịu thích
ứng thì sẽ bị luật đào thải loại trừ. Cũng thế, việc phúc âm hóa nếu muốn thành
công thì phải thích ứng với đối tượng, với môi trường, với hoàn cảnh, thời
thế... Trong việc phúc âm hóa, sự thích ứng đó là tùy duyên hóa độ, là
hội nhập văn hóa.
HỘI NHẬP VĂN HÓA LÀ GÌ?
1. Định nghĩa
Hội nhập
văn hóa sứ điệp Kitô giáo là đưa sứ điệp Kitô giáo vào trong nền văn hóa của
dân tộc bằng cách diễn tả sứ điệp Kitô giáo một cách thích ứng
với nền văn hóa đó, đồng thời hoàn chỉnh nền văn hóa đó theo tinh
thần Kitô giáo. Như vậy hội nhập văn hóa là một cuộc hội thoại giữa đức
tin và văn hóa, nó có hai chiều:
1. Một đằng là thích ứng sứ điệp
Kitô giáo với văn hóa của dân tộc lãnh nhận sứ điệp, vận dụng những yếu tố phù
hợp với tinh thần Kitô giáo trong văn hóa của dân tộc ấy để diễn tả sứ điệp,
hầu đưa sứ điệp vào lòng dân tộc ấy một cách thuận lợi và dễ dàng. Chẳng hạn
khi diễn tả sứ điệp Kitô giáo cho người Việt Nam, ta nên dùng những ý niệm,
hình ảnh, câu nói quen thuộc đối với người Việt như ca dao tục ngữ, hay những
quan niệm triết lý Đông Phương để giải thích, truyền đạt. Không nên lạm dụng
triết lý Tây Phương hay những hình ảnh tuy quen thuộc với người Tây Phương,
nhưng lại rất xa lạ với người Việt để diễn đạt sứ điệp. Nhờ sự thích ứng đó,
Kitô giáo trở nên dễ hiểu, thân thuộc và dễ chấp nhận với người Việt. Nếu
không, Kitô giáo sẽ trở thành xa lạ, ngoại lai, khó hiểu và khó chấp nhận.
2. Đằng khác hội nhập văn hóa còn là biến
đổi nền văn hóa đó, làm cho nền văn hóa đó hoàn thiện hơn. Nói khác đi
là làm cho nền văn hóa ấy mang nhiều tinh thần Tin Mừng hơn. Đây chính là mục
đích phải đạt được của việc hội nhập văn hóa: đó là phúc âm hóa
nền văn hóa đó, tức làm cho sứ điệp Tin Mừng ảnh hưởng trên quan niệm, cách suy
nghĩ, cách hành xử của dân chúng, làm cho tinh thần Chúa Kitô thấm nhuần vào
lòng dân tộc ấy. Nếu sự thích ứng trên mà không nhằm mục đích này, hay không
đạt được mục đích này, thì đó không phải là hội nhập văn hóa đúng nghĩa. Đó mới
chỉ là hội nhập văn hóa nửa vời, hời hợt.
Như vậy,
hội nhập văn hóa - có nghĩa hẹp hơn thích ứng - là thích ứng về mặt văn hóa khi
đem một sứ điệp tôn giáo đến với một dân tộc nào đó. Nhiều trường hợp thích ứng
chỉ là thích ứng mà không phải là hội nhập văn hóa. Nhưng mọi trường hợp hội
nhập văn hóa đều có tính thích ứng.
Trong
việc loan báo Tin Mừng, hội nhập văn hóa sứ điệp Kitô giáo là rao giảng sứ điệp
đó một cách thích ứng với nền văn hóa hay những yếu tố văn hóa của từng dân tộc
để có thể phúc âm hóa nền văn hóa đó, làm cho nền văn hóa đó thấm nhuần tinh
thần Tin Mừng. Như vậy, hội nhập văn hóa không phải chỉ theo một chiều là thích
ứng cách diễn tả sứ điệp với nền văn hóa của dân tộc, mà còn theo chiều ngược
lại là nhờ sự thích ứng đó mà sứ điệp Kitô giáo mới dễ dàng thấm sâu vào nền
văn hóa ấy, biến đổi nền văn hóa ấy trở nên tốt hơn, thuận lợi cho việc mở mang
Nước Chúa hơn. Chiều thứ nhất là phương tiện, chiều thứ hai là mục đích phải
đạt được. Nếu hội nhập văn hóa mà không nhắm phúc âm hóa các nền văn hóa, thì
chưa phải là hội nhập văn hóa đúng nghĩa.
2. Vài thí dụ và phản thí dụ về hội nhập văn hóa
a) Tượng Chúa Giêsu da đen
Một
trong những cách cụ thể để hội nhập văn hóa tại Phi châu là: hình Chúa Giêsu và
Đức Mẹ đều là da đen. Điều đó quả là trái ngược với sự thật lịch sử, vì Chúa
Giêsu và Đức Maria là người Do Thái da trắng chứ đâu phải là người Phi châu da
đen. Nhưng điều trái với sự thật lịch sử ấy lại đúng với chân lý (lý lẽ
chân thật) vì nó diễn tả đúng tinh thần nhập thể và cứu độ của Thiên Chúa:
Thiên Chúa muốn chia sẻ thân phận của nhân loại qua con người Đức Giêsu Kitô,
nên nếu Ngài muốn chia sẻ thân phận với người Phi châu nghèo nàn đau khổ thì
Ngài phải là người da đen.
Vả lại,
đối với người Phi châu, thì người da trắng là kẻ thù, là người bóc lột và đặt
ách nô lệ lên đầu lên cổ họ. Vì thế, da trắng hay mầu trắng tượng trưng cho
những gì xấu xa nhất, đến nỗi tại châu Phi có những thành ngữ như: xấu như
da trắng, hay đểu như da trắng. Mà Đức Giêsu và Đức Mẹ lại tượng
trưng cho những gì cao cả nhất, tốt đẹp nhất, nếu các Ngài được tạc tượng là người
da trắng thì quả là trớ trêu, khó chấp nhận đối với họ. Trong bối cảnh đó, tạc
tượng các Ngài là da đen chính là hội nhập văn hóa.
b) Tượng Chúa bị cùi
Một thí
dụ khác tương tự: Một vị giám mục tới thăm một trại cùi. Ngài cảm thấy bị xúc
phạm rất mạnh khi thấy Chúa Giêsu, Đấng mà mình tôn thờ, lại bị tạc tượng thành
một người cùi: cùi chân cùi tay, lở miệng sứt tai trông rất gớm ghiếc. Vị giám
mục quyết tâm điều tra cho bằng được xem ai là tác giả sự sỉ nhục ghê gớm ấy.
Cuối cùng, một thầy dòng già - phục vụ trong trại cùi lâu năm và cuối cùng đã
bị lây bệnh - tự thú mình là tác giả. Thầy thưa với Đức Cha: Con không biết
phải làm thế nào để diễn tả tình thương yêu tột cùng của Chúa Giêsu đối với
những người đau khổ đến tận cùng, cả thể xác lẫn tinh thần, như những người cùi
trong trại này, hơn là cho họ thấy Ngài cũng chia sẻ thân phận bị cùi như họ,
thậm chí hơn họ nữa: đã bị cùi mà còn chịu đóng đinh nhục nhã để cứu họ....
Vị giám mục hiểu ra và công nhận thầy già có lý. Tạc tượng như thế, chính là
thích ứng, là hội nhập văn hóa, là tùy duyên hóa độ.
c) Phản thí dụ: Ở xứ nóng mà mặc đồ dày
Một số
dòng tu được thành lập ở Âu Châu là nơi khí hậu tương đối rất lạnh so với Việt
Nam hay Phi châu. Vì thế, y phục của các dòng tu này phải nhiều và dày để thích
ứng với khí hậu lạnh đó. Vì tai là phần dễ nhiễm lạnh nhất trên đầu, nên họ
thường che kín cả hai tai. Và người sáng lập dòng thường gán cho mỗi thứ áo mặc
vào một ý nghĩa tương ứng với những tôn chỉ hay các nhân đức căn bản của linh
hạnh dòng. Đó là một cách nhắc nhở tuyệt vời.
Nhưng
khi tới hoạt động ở các xứ nóng vùng nhiệt đới, tu sĩ các dòng đó vẫn mặc đầy
đủ các thứ quần áo đó y như khi sống và hoạt động ở những xứ lạnh. Y phục vừa
nhiều vừa dài rộng như thế, đôi khi trắng toát từ đầu đến chân, làm sao phù hợp
được với khung cảnh của đám dân nghèo mà họ phục vụ, không có đủ vải để che
thân? Bộ quần áo trắng toát làm sao phù hợp được với màu da đen của dân Phi
châu, và với não trạng không ưa mầu trắng của họ? Và bộ quần áo tu sĩ đó quả là
khác thường, lập dị so với cách ăn mặc của người dân bản xứ.
Thế
nhưng nhiều dòng tu vẫn luôn luôn coi là quan trọng việc giữ cho đúng bản sắc
riêng của dòng mình, không muốn bị lẫn lộn với dòng khác, và coi việc hòa đồng
với dân chúng địa phương chỉ là thứ yếu.
d) Phản thí dụ: Thánh Phaolô nói về sự sống lại ở Hy Lạp
Sự thất
bại của thánh Phaolô khi rao giảng ở Hy Lạp, trước pháp viện Athen (Arêôpagô)
có thể là một bài học cho ta về hội nhập văn hóa (Xem Cv 17,16-34). Người Hy
Lạp tại Athen đã yêu cầu Phaolô rao giảng và họ đã lắng tai nghe. Họ đã để cho
Phaolô nói một đoạn dài mà chắc hẳn họ cũng cảm thấy hấp dẫn vì nó lạ tai, và
không có gì ngược với triết lý của họ. Nhưng khi ngài nói về việc Đức Kitô sống
lại thì họ bỏ đi không thèm nghe nữa, vì điều đó đi ngược hẳn lại quan niệm
triết lý của họ: họ vốn xác tín rằng thân xác là tù ngục của linh hồn, nên chết
là giải thoát cho linh hồn, thì thân xác sống lại để làm gì? Sự sống lại đối
với người Do Thái là việc dễ hiểu, dễ chấp nhận, nhưng đối với người Hy Lạp là
chuyện khó hiểu và rất khó chấp nhận. Họ cần phải được chuẩn bị để thay đổi
quan niệm cũ trước khi nghe sự thật khó chấp nhận ấy.
3. Cần phải chuẩn bị người nghe
a) Chuẩn bị tiệm tiến
Trong
những lần gặp gỡ đầu, thiết tưởng thánh Phaolô chưa nên đề cập đến những vấn đề
căn bản của Kitô giáo mà do sự khác biệt về văn hóa, người Hy Lạp chưa thể chấp
nhận được. Trước khi đề cập đến những vấn đề khó chấp nhận ấy, cần phải chuẩn
bị cho họ để họ đón nhận dễ dàng hơn, có thể phải mất một thời gian khá lâu.
Đâu phải người Hy Lạp không thể đón nhận ý tưởng người chết sống lại. Họ không
đón nhận chỉ vì lúc đó họ chưa được chuẩn bị tư tưởng để đón nhận. Vì như chúng
ta thấy hiện nay, đa số người Hy Lạp đã trở thành Kitô hữu, nghĩa là họ đã
chấp nhận và tin điều ấy.
Trong nghệ
thuật đắc nhân tâm, các nhà viết sách đều khuyên ta nên làm cho người nghe gật
đầu đồng ý với ta ngay từ đầu, và phải khôn khéo làm cho họ tiếp tục gật đầu
cho tới khi họ hoàn toàn đồng ý với ta. Phải đi từ những điều dễ đồng ý nhất,
rồi từ từ chuyển đến những điều khó đồng ý hơn, cứ thế cho đến những điều khó
đồng ý nhất, không nên có sự đột ngột thiếu chuẩn bị. Việc phúc âm hóa đòi hỏi
kết quả lâu dài và vững bền, không phải là việc có thể làm gấp rút thiếu chuẩn
bị. Bao lâu người nghe còn đồng ý với ta thì ta còn cơ hội để rao giảng cho họ.
Nếu họ bất đồng ý với ta từ ban đầu, họ sẽ không thèm nghe ta nữa, và ta không
thể tiếp tục rao giảng cho họ: như thế là ta đã đánh mất họ ngay từ đầu.
Thật ra,
người ta có thể chấp nhận những điều khó chấp nhận nhất, miễn là họ được chuẩn
bị một cách tiệm tiến và có phương pháp. Rất nhiều trường hợp người ta không
chấp nhận được là do sự khác biệt về văn hóa. Chẳng hạn nhiều người Kitô hữu
khi nghe nói tới chuyện ngày tốt ngày xấu, hay thuyết luân hồi... là gạt đi ngay,
không chấp nhận được. Cũng như nhiều người Phật tử nghe nói tới hình phạt hỏa
ngục đời đời hay chuyện đền tội thay cho người khác thì cho ngay là chuyện phi
lý không thể chấp nhận và không thèm nghe tiếp. Nhưng có biết bao người mới đầu
không chấp nhận được một điều gì đó, thế mà về sau lại cảm thấy điều không thể
chấp nhận ấy cũng có lý để rồi cuối cùng chấp nhận.
b) Thích ứng hai chiều
Nếu có
điểm nào trong sứ điệp mà người nghe chưa thể chấp nhận được, thì ta chưa nên
nói tới điểm đó vội. Nhưng ta nên dành một thời gian để chuẩn bị cho họ đón
nhận điểm đó dễ dàng hơn. Không nên đốt giai đoạn: Dục tốc bất đạt.
Nghĩa là khi không thể thích ứùng cách diễn tả sứ điệp với người nghe, thì ta
phải tìm cách giúp người nghe thích ứng với cách diễn tả sứ điệp ấy. Sự thích
ứng cần phải được hiểu theo hai chiều như thế mới thích đáng: vừa thích ứng
cách diễn tả sứ điệp với người nghe, vừa giúp người nghe thích ứng với cách
diễn tả sứ điệp. Điều quan trọng là làm sao cho sứ điệp Kitô giáo được đón nhận
một cách vui vẻ, tự nguyện, do người nghe giác ngộ được chân lý, chứ không phải
chấp nhận một cách miễn cưỡng, chấp nhận mà chưa thấy được sự khả tín của nó.
4. Văn hóa đa dạng của các dân tộc
Do những
điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội, sinh thái... khác nhau, mỗi dân tộc có
một nề nếp sinh sống riêng biệt, với những phong tục tập quán, não trạng, quan
niệm về sự vật, lề lối tư tưởng khác biệt nhau. Những yếu tố khác nhau ấy tạo
nên những nền văn hóa khác nhau, khiến mỗi dân tộc có một nền văn hóa riêng.
Chẳng hạn, tuy Việt Nam và Căm-pu-chia là hai nước ráp ranh nhau, nhưng văn hóa
của hai dân tộc khác hẳn nhau: ngôn ngữ, phong tục, tập quán, y phục, đồ ăn
uống, kiến trúc nhà cửa, nghệ thuật... đều khác nhau. Có những điều rất dễ
hiểu, dễ chấp nhận nơi dân tộc này, lại là những điều rất khó hiểu và khó chấp
nhận nơi dân tộc kia. Quan niệm và lề lối suy tư giữa hai nền văn hóa có thể
khác biệt đến độ bên này dãy núi Pyrénée là chân lý thì bên kia là sai lầm
.
Chẳng
hạn, những thế kỷ trước, đang khi tại châu Âu người ta cho rằng tự tử dưới bất
cứ hình thức nào đều không nên, thậm chí là một tội nặng tương đương với giết
người, thì tại Nhật Bản, việc tự tử để tự đền tội mình - hay samurai -
trong những trường hợp phạm lỗi nặng là một điều đáng khuyến khích, biểu lộ nhân
cách và lòng tự trọng của mình. Ai không dám tự xử trong những trường hợp đó
thì bị coi là hèn nhát, đáng khinh. Hay hiện nay, đang khi tại một vài vùng ở Á
châu, việc ăn thịt chó hay mèo cũng tương tự như ăn thịt bất cứ thú vật nào
khác, thì tại các nước Âu Mỹ đó là một điều ghê tởm không thể chấp nhận được,
thậm chí có nơi có thể bị đưa ra tòa án và bị kết án tù mấy tháng. Vì thế, một
người tới phúc âm hóa tại một vùng nào, không thể cứ hành xử theo quan niệm văn
hóa của dân tộc mình mà được người khác đồng ý và nể phục.
Do đó,
khi rao giảng một sứ điệp tôn giáo cho một dân tộc, ta phải lưu tâm và thích
nghi với những khác biệt về văn hóa của dân tộc ấy, đồng thời thay đổi cách
thức diễn tả sứ điệp tôn giáo sao cho phù hợp với não trạng, lề lối suy tư cũng
như quan niệm của từng dân tộc, nghĩa là phù hợp với những yếu tố văn hóa của
dân tộc ấy, thì người nghe dễ chấp nhận sứ điệp ta rao giảng.
5. Để làm người khác biến đổi...
Muốn biến đổi ngoại cảnh, phải
biến đổi mình trước
Sứ điệp
Kitô giáo chỉ có một và luôn luôn phải giữ nguyên vẹn, không được biến đổi,
nhưng cách diễn tả hay trình bày sứ điệp ấy phải thay đổi tùy theo điều kiện
văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị... của đối tượng phúc âm hóa. Nhờ sự thích
ứng ấy người nghe mới lãnh hội được sứ điệp ta muốn trình bày, đồng thời mới
chịu thay đổi đời sống, cách quan niệm, suy nghĩ, nói năng và hành động của họ.
Như vậy, chính ta phải thay đổi để thích ứng với đối tượng trước, sau đó đối
tượng mới có thể thay đổi như lòng ta mong ước.
Trong
quá trình biến đổi và làm chủ thiên nhiên, trước tiên con người tìm hiểu luật
của thiên nhiên, sau đó tuân theo luật đó, nghĩa là phải thích ứng với thiên
nhiên, và càng thích ứng với thiên nhiên, con người càng có khả năng biến đổi
và làm chủ thiên nhiên. Không ai có thể làm cho thiên nhiên tuân theo ý mình
trước khi chính mình tuân theo luật của thiên nhiên đã. Cũng như một người muốn
điều khiển một chiếc xe gắn máy, trước tiên bản thân anh ta phải thích ứng với
chiếc xe, nghĩa là phải tuân hành nghiêm túc những thể lệ hay qui luật của
chiếc xe đó. Nếu không như thế, anh sẽ không bao giờ điều khiển được chiếc xe.
Đó chỉ
là một vài minh họa khá què quặt để nói lên rằng muốn phúc âm hóa một nền văn
hóa mà không đếm xỉa đến những qui luật, những đòi hỏi của nền văn hóa ấy, chỉ
muốn áp đặt những gì mình muốn trên đó, thì việc Phúc âm hóa ấy sẽ không bao
giờ thành công.
MẦU NHIỆM NHẬP THỂ VÀ HỘI NHẬP VĂN HÓA
Thuật
ngữ hội nhập văn hóa (Inculturation) là một thuật ngữ rất mới,
chỉ được dùng trong các văn kiện chính thức của Giáo Hội từ năm 1974. Ý nghĩa
hiện hành của từ ngữ này bắt nguồn từ Mầu nhiệm Nhập Thể: Ngôi Lời nhập thể
thành người, để Lời của Thiên Chúa nhập thể vào ngôn ngữ loài người, được
chuyển dịch hay diễn tả bằng ngôn ngữ của con người, qua Đức Giêsu Kitô.
1. Lời Thiên Chúa nhập thể thành lời con người
a) Lời vô hạn trở thành lời hữu hạn
Điều
chúng ta cần phải lưu ý và đào sâu là Thiên Chúa thì vô hạn, lời của Thiên Chúa
cũng siêu việt và vô hạn, nên khi nhập thể vào ngôn ngữ rất hạn chế của con
người, thì Lời của Thiên Chúa được diễn tả qua ngôn ngữ loài người nơi Đức
Giêsu Kitô đã trở thành hữu hạn để thích ứng với trình độ hữu hạn của con
người. Do đó, có một sự bất bình đẳng hay bất tương xứng giữa Lời Vô Hạn của
Thiên Chúa và lời hữu hạn của con người mà Đức Giêsu dùng để mặc khải
cho nhân loại về Thiên Chúa. Lời Vô Hạn của Thiên Chúa - hay Ngôi Lời - thì
tuyệt đối, siêu việt không gian, thời gian, vượt khỏi khả năng lãnh hội của con
người và khả năng diễn đạt của ngôn ngữ con người. Nhưng lời của Đức Giêsu Kitô
- được diễn tả bằng ngôn ngữ hạn hẹp của con người - thì không thể còn đầy đủ
tính chất như Lời Vô Hạn của Thiên Chúa nữa. Thực tại vô hạn mà lại được diễn
tả bằng ngôn ngữ hữu hạn của con người thì sẽ bị ngôn ngữ ấy biến thành hữu
hạn, vì nếu không thì cái hữu hạn làm sao chứa được cái vô hạn? Tuyệt đối hóa
và vô hạn hóa ngôn ngữ của con người mà Đức Giêsu dùng để diễn tả về Thiên Chúa
vô hạn thì quả có gì đó không hợp lý, không ổn.
b) Để thích ứng với sự hữu hạn của con người
Lời vô
hạn và tuyệt đối ấy khi nhập thể thành lời của con người thì trở nên hữu hạn và
tương đối, bị hạn chế trong không gian và thời gian, trong khả năng lãnh hội
rất hạn chế của con người. Vì nếu lời nói mà cao siêu quá thì con người sẽ
không hiểu nổi. Chính Đức Giêsu cũng nói: Thầy còn nhiều điều phải nói với
anh em, nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí Sự Thật
đến, Người sẽ dẫn (chứ không phải nói) anh em tới Sự Thật toàn vẹn
(Ga 16,12-13). Sự Thật toàn vẹn chắc chắn không thể dùng ngôn ngữ con người mà
nói hết được: Đạo khả đạo phi Thường Đạo . Nghĩa là chân lý mà diễn tả
được thành lời thì không còn là Chân Lý Bất Biến nữa. Chỉ những ai được Thần
Khí Sự Thật soi dẫn mới có thể hiểu được Sự Thật Toàn Vẹn.
2. Vài minh họa về việc nhập thể (=trở nên hữu hạn)
a) Nhà bác học
Lời của
Thiên Chúa nhập thể vào lời của con người phần nào giống như một nhà bác học
nọ, khi ông ta ở trong phòng thí nghiệm của ông với đầy đủ mọi máy móc tân kỳ,
mọi chất liệu thượng hảo hạng, thì ông có thể chế tạo ra bất cứ chất nào có
trên trần gian này. Nhưng khi ông đến chơi nhà một người học trò có một phòng
thí nghiệm đơn sơ nghèo nàn, thì tại đó, ông chỉ có thể chế tạo được một số
chất nào đó thôi, với một độ tinh khiết cũng rất giới hạn. Tài năng của ông vẫn
y nguyên, nhưng điều kiện có thay đổi, nên kết quả cũng thay đổi. Khả năng chế
tạo của ông tại nhà người học trò bị giới hạn vì bị lệ thuộc vào những điều
kiện quá hạn chế.
Cũng
vậy, Lời nguyên thủy của Thiên Chúa thì vô hạn, viên mãn, nhưng khi nhập thể
vào ngôn ngữ nghèo nàn của loài người thì không thể vẫn vô hạn và viên mãn y
như Lời nguyên thủy được.
b) Việc viết sách
Tương tự
như vậy, khi tôi viết tập sách này, tôi phải diễn đạt ý tưởng của tôi thành
lời, nhưng tôi cảm thấy mình không thể diễn đạt được hoàn toàn trung thực và
hết ý của mình, phần vì khả năng diễn đạt của tôi còn yếu kém, phần vì chính
tiếng Việt cũng có giới hạn của nó. Vì thế, điều tôi viết ra không thể là trọn
vẹn hay viên mãn ý tưởng mà tôi có về vấn đề này. Có những điều tôi muốn người
đọc phải tự hiểu, hiểu xa hơn điều tôi viết ra. Nếu tôi phải trình bày đề tài
này cho các em học giáo lý rước lễ lần đầu, vốn chưa có ý niệm rõ rệt về vấn đề
này, thì ý tưởng của tôi trình bày ra còn bị giới hạn nhiều hơn nữa, vì khả
năng lãnh hội còn ít ỏi của các em. Tôi có diễn đạt tài tình cách mấy, thì bài
trình bày cho các em không thể đầy đủ bằng bài trình bày cho người lớn, và các
em có nghe bài iq trình bày cho người lớn thì cũng sẽ không hiểu được bằng
người lớn...
c) Người cha truyền đạt sự khôn ngoan cho con
Tương tự
như vậy, trí khôn con người quá hạn hẹp, nên Thiên Chúa không thể mặc khải cho
con người tất cả những chân lý vô biên của Ngài. Ngài chỉ có thể mặc khải một
phần rất nhỏ những gì có thể mặc khải được về Ngài, phù hợp với khả năng lãnh
hội rất nhỏ bé của con người. Có muốn mặc khải nhiều hơn thế cũng vô ích. Cũng
như một người cha khôn ngoan, ông không thể truyền thụ hết sự khôn ngoan của
mình cho một đứa con còn nhỏ. Sự truyền thụ mà người cha có thể làm được chỉ là
một phần rất nhỏ sự khôn ngoan của mình. Ông phải chờ nó lớn lên, rồi mới
truyền thụ tiếp.
Cũng
vậy, mặc khải của Đức Giêsu Kitô về Thiên Chúa không thể là tất cả những gì có
thể nói được về Thiên Chúa. Vậy, chúng ta đừng cho là tuyệt đối những gì còn
tương đối, đừng cho là viên mãn những gì còn thiếu sót.
3. Lời phổ quát thành lời cá biệt
a) Ngôi Lời chỉ dùng một ngôn ngữ cá biệt
Khi nhập
thể thành lời của con người, Lời của Thiên Chúa còn bị nhiều hạn chế khác nữa.
Nhân loại có hàng trăm thứ tiếng khác nhau, không có tiếng nào chung cho tất cả
thế giới. Vì thế, để nhập thể vào ngôn ngữ loài người, Thiên Chúa phải chọn một
ngôn ngữ đặc thù nào đó để Lời Ngài nhập thể vào. Và Ngôi Lời đã nhập thể vào
dân tộc Do Thái, với ngôn ngữ Do Thái, trong nền văn hóa Araméen.
Tiếng Do
Thái chưa hẳn đã là ngôn ngữ thích hợp nhất hay tốt nhất để qua đó Ngài tự mặc
khải cho con người. Cách lựa chọn của Ngài không giống như cách của con người:
Ngài chọn người hay điều mà Ngài muốn, vì tình thương, theo sự tự do của Ngài,
không vì người đó tài đức hay điều ấy có gì đặc biệt... Cũng vậy, văn hóa
Araméen không hẳn đã là văn hóa hay nhất, thích hợp nhất để diễn tả sứ điệp của
Ngài.
Hội nhập
văn hóa là làm cho sứ điệp của Chúa Kitô tái nhập thể vào các nền văn hóa cá
biệt của các dân tộc để sứ điệp ấy trở thành phổ quát, đến được với tất cả mọi
người, mọi dân tộc trên thế giới.
b) Sứ điệp Đức Kitô cần mặc những bộ áo ngôn ngữ và văn hóa khác
nhau
Lời của
Thiên Chúa tuy chỉ nhập thể vào dân tộc Do Thái, với tiếng Do Thái, trong văn
hóa Araméen, nhưng Lời đó không phải chỉ nói với dân tộc Do Thái hay những
người thuộc văn hóa Araméen, mà nói với tất cả mọi dân tộc, thuộc mọi nền văn
hóa trên thế giới. Vì thế, để rao truyền sứ điệp ấy cho mọi người trong mọi dân
tộc, sứ điệp ấy phải được dịch từ tiếng Do Thái sang tất cả mọi thứ tiếng,
nghĩa là sứ điệp ấy phải mặc rất nhiều bộ áo ngôn ngữ khác nhau để phù
hợp với mọi dân tộc, thì mọi người mới hiểu được.
Ta thấy
bộ Tân Ước của chúng ta khởi đầu đã gồm nhiều thứ tiếng khác nhau, nhưng chủ
yếu là tiếng Hy Lạp. Sau đó, Lời Chúa được chuyển dịch thành nhiều ngôn ngữ
khác nhau: khởi đầu là những ngôn ngữ vùng Trung Đông, sau là tiếng La-tinh, và
hiện nay hầu như đã được dịch sang tất cả những ngôn ngữ hiện có trên thế giới,
kể cả những ngôn ngữ của những dân tộc thiểu số .
Tương tự
như thế, sứ điệp Đức Kitô phải mặc lấy những bộ áo văn hóa khác nhau để
được rao truyền một cách thích hợp cho tất cả mọi người, chứ không thể giữ
nguyên bộ áo văn hóa nguyên thủy, hay giữ cố định và duy nhất một bộ áo
văn hóa nào.
c) Đó là nhiệm vụ của các Giáo Hội địa phương
Việc mặc
cho sứ điệp ấy những bộ áo văn hóa khác nhau, với những cách diễn tả khác nhau
để thích ứng với mọi dân tộc, mọi người trên thế giới, không phải là phận vụ
của Đức Kitô nữa, mà là phận vụ của Giáo Hội khi phúc âm hóa, nhất là của các
Giáo Hội địa phương, và của những Kitô hữu phúc âm hóa. Việc mặc cho sứ điệp
Đức Kitô những bộ áo ngôn ngữ và văn hóa thích hợp với từng dân tộc, chính là hội
nhập văn hóa, tức là làm cho sứ điệp Đức Kitô nhập thể vào các nền văn
hóa của mọi dân tộc, hầu biến đổi và thánh hóa các nền văn hóa ấy.
4. Nhập thể chính là: Thiên Chúa vô hạn biến thành con người hữu
hạn
Đức
Giêsu - vốn là Thiên Chúa Tuyệt đối, vô
hạn, ngang hàng với Thiên Chúa - đã nhập thể để trở thành
tương đối, hữu hạn, thành xác thịt yếu đuối như mọi người. Cũng vậy, sứ điệp
của Đức Giêsu Kitô - vốn là Lời của Thiên
Chúa, là Chân Lý Tuyệt Đối, Vô Hạn - đã nhập
thể thành chân lý tương đối, hữu hạn, bị hạn chế bởi ngôn ngữ của con người.
Trong việc nhập thể, Thiên Chúa trở thành con người, vô hình trở nên hữu hình,
vô hạn thành hữu hạn. Cũng vậy, khi Lời của Thiên Chúa nhập thể thành ngôn ngữ
của con người, thì Chân Lý vốn không lời, không thể diễn tả được trở thành có
lời và được diễn tả, Chân Lý vốn phổ quát trở thành cá biệt, Chân Lý vốn duy
nhất bất biến trở thành nhiều cách diễn tả khác nhau để thích ứng với những
hoàn cảnh khác nhau của con người.
Diễn tả
Chân Lý phổ quát và duy nhất ấy thành nhiều định thức diễn tả khác nhau phù hợp
với từng nền văn hóa của các dân tộc, chính là hội nhập văn hóa. Đương nhiên
định thức diễn tả nào cũng đều tương đối, bị giới hạn, khiếm khuyết... và chúng
ta phải chấp nhận những hạn chế đó.
a) Nếu Ngôi Lời nhập thể ở Việt Nam...
Như vậy,
việc hội nhập văn hóa vừa bắt nguồn từ Mầu Nhiệm Nhập Thể, vừa tiếp nối công
việc Nhập Thể của Ngôi Lời trong thời gian, vào các nền văn hóa khác nhau của
nhân loại. Nói cách khác, hội nhập văn hóa là làm cho sứ điệp phổ quát của Đức
Giêsu Kitô được nhập thể vào trong các môi trường văn hóa khác nhau, được diễn
tả thành những định thức cá biệt phù hợp với những điều kiện văn hóa, tư tưởng
của từng dân tộc trong từng thời đại.
Để cụ
thể hóa cho dễ hiểu, chúng ta thử đặt vấn đề là nếu Đức Kitô nhập thể thành một
người Việt Nam vào thời đại tân tiến ngày nay, thì Ngài sẽ được đặt tên là gì,
Ngài sẽ nói tiếng gì, Ngài sẽ trình bày sứ điệp của Ngài như thế nào, Giáo Hội
của Ngài sẽ phát triển thế nào?... Chắc chắn Ngài sẽ trình bày cũng một sứ
điệp ấy, nhưng cách trình bày của Ngài sẽ khác. Cách trước đây, phù hợp với
người Do Thái cách đây hai ngàn năm, có thể sẽ không thích hợp lắm với người
Việt Nam thời đại này.
Nhưng
trong thực tế Ngài chỉ nhập thể có một lần duy nhất là người Do Thái, vào thế
kỷ thứ nhất chứ không nhập thể nhiều lần trong những dân tộc hay nền văn hóa
khác. Vì thế, Giáo Hội có nhiệm vụ chuyển dịch cách trình bày sứ điệp của Ngài
trước đây thành những cách trình bày khác phù hợp với từng dân tộc, từng nền
văn hóa, miễn sao nội dung sứ điệp vẫn chỉ là một, không thay đổi. Đó là
hội nhập văn hóa.
b) Nếu thần học truyền thống do người Việt Nam...
Và giả
sử thứ hai là nếu sứ điệp của Ngài được các giáo phụ là những người Việt Nam
suy tư, khai triển và diễn tả trực tiếp cho người Việt Nam, thì các giáo phụ ấy
sẽ dùng triết lý nào làm dụng cụ để khai triển và suy tư? Chắc chắn không thể
dùng triết lý Hy Lạp hay kinh viện Tây Phương, mà phải dùng triết lý Á Đông.
Nhưng
nếu như thế thì:
- Nền thần học của Giáo Hội lúc đó sẽ thế
nào? Có giống như nền thần học truyền thống được khai triển trong nền văn hóa
Tây Phương như hiện nay không?
- Nếu đem thần học được khai triển trong
nền văn hóa Việt Nam sang trình bày cho người Âu Châu thì người Âu Châu có hiểu
được dễ dàng và chấp nhận nó không? Phản ứùng của người Âu Châu lúc đó thế nào?
- Lúc đó có nên áp đặt triết lý của Việt
Nam lên mọi Kitô hữu thuộc tất cả các nền văn hóa, để bắt buộc mọi Kitô hữu
muốn hiểu được sứ điệp Đức Giêsu Kitô thì phải học triết lý Việt Nam như một
điều kiện tất yếu để hiểu được sứ điệp ấy?
Trả lời
cho những câu hỏi này sẽ giúp chúng ta nhận ra đường hướng mình phải làm trong
việc hội nhập văn hóa sứ điệp Kitô giáo tại Việt Nam, cũng như tại các quốc gia
khác.
c) Lời của Thiên Chúa cần phải nhập thể nhiều lần và tại nhiều nơi
khác nhau
Khi nhập
thể là người, Thiên Chúa trở thành Đức Giêsu Kitô, Ngài bị hạn chế rất nhiều.
Nếu đã là người Do Thái, Ngài không thể cùng một lúc là người Việt Nam hay
Trung Hoa được. Nếu đã dùng ngôn ngữ Do Thái để diễn tả Chân Lý bằng những yếu
tố văn hóa cá biệt của Do Thái, thì không thể cùng một lúc diễn tả Chân Lý ấy
bằng một ngôn ngữ cá biệt khác, với những yếu tố văn hóa cá biệt của ngôn ngữ
ấy được.
Để cứu
chuộc nhân loại, Thiên Chúa chỉ cần nhập thể làm người một lần là đủ nơi Đức
Giêsu Kitô, là người Do Thái, cách đây 20 thế kỷ. Ngài không cần phải nhập thể
nhiều lần để thành người của những dân tộc khác. Nhưng để Chân Lý mà Ngài đã
mặc khải đến được với mọi người, nếu Chân Lý ấy chỉ nhập thể duy nhất có một
lần, nghĩa là chỉ được diễn tả bằng tiếng Do Thái, với những yếu tố văn hóa Do
Thái, thì không đủ, mà cần phải nhập thể vào trong tất cả mọi ngôn ngữ, mọi nền
văn hóa của nhân loại.
Đó chính
là sứ mạng của Giáo Hội, của mọi Kitô hữu. Đó chính là phúc âm hóa. Vì thế, bản
chất của phúc âm hóa chính là hội nhập văn hóa sứ điệp Kitô giáo vào
các dân tộc. Do đó, phúc âm hóa mà không hội nhập văn hóa, không làm cho sứ
điệp Đức Kitô nhập thể vào mọi tình huống cụ thể của con người thì chưa phải là
phúc âm hóa đúng nghĩa.
GIÚP NGƯỜI NGHE HIỂU BẰNG CHÍNH NGÔN NGỮ CỦA HỌ, THEO VĂN HÓA CỦA HỌ
1. Dẫn người khác đi thẳng đến Thiên Chúa
a) Không cần phải qua trung gian
Phúc âm
hóa có hội nhập văn hóa là làm cho người nghe hiểu được sứ điệp của Đức Kitô
bằng ngôn ngữ của họ, bằng những quan niệm, phạm trù, biểu tượng trong truyền
thống văn hóa của dân tộc họ. Bắt họ phải chấp nhận những yếu tố văn hóa ngoại
lai mới có thể hiểu được sứ điệp của Thiên Chúa là phản hội nhập văn hóa.
Người ta
có thể trực tiếp đến gặp gỡ Đức Kitô, hay đi thẳng đến Thiên Chúa ngay từ nền
văn hóa của dân tộc họ, không cần phải qua trung gian một nền văn hóa xa lạ nào
khác. Cũng như: nếu có ai nhờ ta chỉ đường tới một nơi nào đó, ta nên chỉ cho
họ con đường gần nhất, dễ đi nhất, hợp với phương tiện của họ nhất, đi thẳng
từ chỗ của họ đến nơi đó. Chứ ta không nên chỉ cho họ tới nhà của ta đã,
rồi mới từ nhà ta tới nơi đó. Con đường đến với Thiên Chúa cũng thế, phải trực
tiếp đi từ vị trí của mỗi người, không nên bắt họ phải gián tiếp đi qua vị trí
của người thứ ba.
b) Tại châu Á, sứ điệp Kitô giáo được diễn tả
và
khai triển bằng triết lý Tây Phương
Khi phúc
âm hóa vào Âu Châu, sứ điệp Kitô giáo đã được diễn tả, khai triển bằng những
yếu tố văn hóa Âu Tây, bằng hệ thống triết lý Hy Lạp là triết lý của chính họ.
Tương tự như vậy, đúng ra khi phúc âm hóa vào Á châu, sứ điệp đó cũng phải được
diễn tả và khai triển bằng những yếu tố văn hóa Á châu, bằng hệ thống triết lý
Đông Phương vốn đã thâm nhập vào mọi lãnh vực đời sống của người Á châu.
Thế
nhưng khi Kitô giáo truyền vào Á châu, các thừa sai Âu Châu dường như đã không
nghĩ đến hệ thống triết lý ấy trong việc diễn đạt và khai triển sứ điệp Kitô
giáo cho người Á châu. Hệ thống triết lý dùng làm nền tảng cho công việc ấy là
triết lý của người Tây Phương, có vẻ xa lạ đối với người Đông Phương. Vì thế,
thời trước, muốn hiểu sâu và đào sâu sứ điệp Kitô giáo, người Á châu phải học
thần học, mà muốn học thần học thì phải nắm vững triết lý Tây Phương mới có thể
học được, vì thần học dùng những ý niệm triết học Tây Phương để diễn tả. Điều
đó cho tới ngày nay vẫn còn rõ nét trong chương trình đào tạo các linh mục, tu
sĩ tại các chủng viện, các trường thần học ở Á châu: phải học mấy năm triết Tây
- nói chính xác hơn, triết học Kinh Viện - mới có thể bước vào thần học!
2. Giáo Hội có lý khi làm điều ấy
a) Chỉ Tây Phương mới có triết học
Đương
nhiên Giáo Hội làm như vậy không phải là phi lý. Chỉ cách đây 50 năm, quan niệm
chung của người Tây Phương và những người chịu ảnh hưởng tư tưởng Tây Phương
là: chỉ Tây Phương mới có triết học, và chỉ triết học Tây Phương mới có giá trị
hay mới xứng đáng là triết học.
Nói
chung, người Tây Phương có một ưu điểm rất lớn là luôn luôn hệ thống hóa, phân
tích và tổng hợp mọi vấn đề, tìm cách diễn tả mạch lạc rõ ràng tất cả những gì
có thể diễn tả được, thậm chí cả những sự không thể xác định rõ ràng chính xác
được . Ngay từ xưa, đã có những nỗ lực hệ thống hóa các tư tưởng triết lý của
các trường phái tư tưởng để làm thành bộ môn triết học. Vì thế, đối với các
thừa sai, chỉ có triết học Tây Phương là triết học duy nhất có thể dùng để khai
triển và diễn tả sứ điệp Chúa Kitô.
b) Triết học Tây Phương được Kitô giáo rửa tội và thuần hóa
Triết
học Tây Phương được dùng để khai triển sứ điệp Kitô giáo là một triết học được
các giáo phụ cũng như các nhà thần học Tây Phương tinh luyện để trở nên một dụng
cụ phù hợp với sứ điệp Kitô giáo. Như vậy, sự phát triển của Kitô giáo ở Tây
Phương cũng giúp cho triết học Tây Phương phát triển. Thật vậy, tại châu Âu,
không phải chỉ Kitô giáo chịu ảnh hưởng văn hóa Tây Phương, mà ngược lại, văn
hóa Tây Phương cũng chịu ảnh hưởng tốt đẹp của Kitô giáo rất nhiều. Đó chính là
khía cạnh tích cực của hội nhập văn hóa. Kitô giáo phát triển khắp Âu Châu, và
các nhà thần học đã dùng triết lý Tây Phương như một dụng cụ hữu hiệu để diễn
tả sứ điệp của mình. Do đó, các nhà thần học đã có công rất nhiều trong bồi đắp
cho nền triết học này ngày càng vững chắc, có cơ sở và hệ thống hơn.
c) Đông Phương không có triết học
Còn
người Đông Phương không có khuynh hướng hệ thống hóa như thế. Từ xa xưa, đã có
biết bao nhà tư tưởng lớn ảnh hưởng trên tư tưởng của người Đông Phương, nhưng
tại Đông Phương, không có những nỗ lực hệ thống hóa và trình bày lại những tư
tưởng ấy theo hệ thống để trở thành một bộ môn triết học như bên Tây Phương.
Mãi về sau, khi người Đông Phương tiếp xúc với văn hóa Tây Phương, họ mới bắt
đầu có những nỗ lực hệ thống hóa các tư tưởng của tiền nhân. Và triết học Đông
Phương mới dần dần hình thành, nhưng cho tới nay vẫn chưa có hệ thống bằng
triết học Tây Phương.
Trước
đây, không phải là phi lý khi có nhiều học giả Tây Phương cho rằng Đông Phương
chỉ có triết lý chứ không có triết học, cho dù triết lý của Đông
Phương rất thâm thúy, cao sâu. Thật vậy, tới giữa thế kỷ 20, khi thấy triết học
Tây Phương đi vào bế tắc, nhiều triết gia bắt đầu hướng sự nghiên cứu của mình vào
triết lý Đông Phương. Lúc đó, họ mới nhận ra Đông Phương cũng có những nền minh
triết rất tuyệt vời, và có nhiều triết gia Tây Phương đã say mê những nền minh
triết ấy.
Vì thế,
chúng ta không thể trách cứ các nhà lãnh đạo Giáo Hội hay các thừa sai trước
đây đã không biết dùng triết lý Đông Phương để diễn tả sứ điệp Kitô giáo cho
người Đông Phương. Việc diễn tả sứ điệp Kitô giáo theo cung cách văn hóa của
từng dân tộc mới chỉ được ý thức và nhấn mạnh đặc biệt trở lại sau khi nhìn lại
một quá trình phúc âm hóa tại các đại lục khác với Âu Châu để rút ra ưu và
khuyết điểm.
3. Ngày nay, mỗi dân tộc phải tự diễn tả sứ điệp Kitô giáo theo
cung cách văn hóa của mình
Nhưng
hiện nay chúng ta đang ở một thời điểm khác với các thừa sai ngày xưa.
- Một
mặt, các dân tộc bị trị thời thực dân ngày xưa vùng dậy và tự giải phóng, ý
thức dân tộc và tự trị rất mạnh. Vì thế, họ không dễ dàng chấp nhận những hình
thức nô lệ hay áp đặt như trước, trong lãnh vực chính trị, kinh tế, xã hội cũng
như văn hóa. Trong thần học, người ta không còn dễ dàng chấp nhận hiểu hay diễn
tả sứ điệp Chúa Kitô theo thần học truyền thống vốn được xây dựng trên nền tảng
văn hóa Tây Phương. Họ đòi hỏi phải có một nền thần học thích hợp để suy tư và
diễn tả sứ điệp Kitô giáo theo cung cách văn hóa của dân tộc họ.
- Mặt
khác, triết học kinh viện cùng với triết học Tây Phương xưa không còn phù hợp
với con người thời đại, thêm vào đó, triết học Đông Phương càng ngày càng được
hiểu biết và đánh giá cao hơn.
Vì thế,
chúng ta cần phải suy tư, tìm cách diễn tả đức tin hay sứ điệp Kitô giáo theo
cung cách văn hóa của dân tộc chúng ta. Do đó, chúng ta cần phải yêu mến nền
văn hóa của mình đồng thời học hỏi về văn hóa ấy, biết được những nét đặc biệt
của nền văn hóa mình, để diễn tả đức tin cho phù hợp.
a) Phải yêu mến nền văn hóa của mình
Văn hóa
của một dân tộc là tinh hoa của dân tộc ấy, kết tinh từ điều kiện sống, phong
cách sống, triết lý sống, nếp suy nghĩ, sự khôn ngoan... của dân tộc ấy. Dân
tộc nào cũng đều tự hào về nền văn hóa của mình, và có tự hào như vậy dân tộc
ấy mới tiến bộ, mới dám ngẩng mặt lên giữa các dân tộc khác. Chẳng hạn người
Việt Nam thường tự hào về 4.000 năm văn hiến của dân tộc mình.
Trong
việc phúc âm hóa, để hội nhập văn hóa một cách dễ dàng và tốt đẹp, chúng ta cần
phải yêu mến dân tộc mình, đồng bào mình, đồng thời yêu cả nền văn hóa của mình
nữa. Có yêu nền văn hóa của mình, có tự hào về nó, ta mới có hứng khởi và cảm
thấy dễ dàng tìm những lối diễn tả phù hợp với nền văn hóa ấy. Không yêu mến
nền văn hóa của mình, hay có mặc cảm tự ty về nền văn hóa ấy, ta sẽ cảm thấy
ngượng ngập, e dè khi phải diễn tả theo cung cách của nền văn hóa ấy. Có yêu
mến nền văn hóa của mình, ta mới có nhiều động lực để tìm hiểu, đào sâu và biết
rõ nền văn hóa ấy.
b) Cần nắm vững triết lý Đông Phương
Nếu
người Tây Phương đã dùng triết học Tây Phương để diễn tả sứ điệp Kitô giáo, thì
theo tinh thần hội nhập văn hóa, người Đông Phương cũng cần phải dùng triết học
Đông Phương để diễn tả sứ điệp ấy. Trước đây, để học thần học truyền thống, các
chủng sinh hay tu sĩ phải học hai ba năm triết Tây thì mới có thể có dụng cụ để
đi vào nền thần học truyền thống. Ngày nay, muốn suy tư, khai triển, diễn tả
đức tin của mình trong truyền thống văn hóa dân tộc, chúng ta cũng cần phải nắm
vững những gì liên quan đến văn hóa Á Đông, chẳng hạn triết Đông, vũ trụ quan,
nhân sinh quan và nhận thức luận của Á Đông, cần phải thấm nhuần triết Đông,
thì dần dần chúng ta mới có thể có những cách diễn tả đức tin phù hợp với phong
cách của dân tộc được.
Ngày
xưa, triết học Tây Phương được hệ thống hóa, được đào sâu và phát triển qua bao
thế hệ cũng vì nó được hữu dụng trong Kitô giáo, được dùng làm dụng cụ để diễn
tả đứùc tin. Cũng vậy, nếu chúng ta quyết tâm dùng triết lý Đông Phương để diễn
tả đức tin, thì dần dần triết lý ấy cũng sẽ được xây đắp, hệ thống hóa để trở
thành một dụng cụ tốt cho đức tin Kitô giáo. Và đó là một cơ hội rất tốt để
chúng ta Phúc âm hóa triết lý Đông Phương, và qua đó Phúc âm hóa nền văn hóa
Đông Phương.
c) Khả năng của Triết Đông
Triết lý
Đông Phương chắc chắn chẳng kém cạnh gì triết lý Tây Phương nếu không muốn nói
nó có nhiều khả năng hơn. Ngày nay, người Âu Châu càng ngày càng khám phá ra
giá trị thâm thúy của triết Đông, của Kinh Dịch, và càng có nhiều triết gia tìm
học. Kinh Dịch là một triết lý sống của nhiều dân tộc ở Á châu. Có lẽ trên thế
giới này không có một thứ triết lý nào ảnh hưởng vừa sâu vừa rộng trong sinh
hoạt của dân chúng như Kinh Dịch. Thật vậy, tại châu Á từ xưa tới nay, mọi lãnh
vực của đời sống đều áp dụng ít nhiều triết lý Kinh Dịch? Các loại khoa học
(Đạo học, binh pháp, y học, bốc phệ, địa lý, thiên văn...), nghệ thuật (cầm,
kỳ, thi, họa, vũ, nhạc...), cho tới việc ăn uống, giữ gìn sức khỏe... đều chịu
ảnh hưởng của triết lý Kinh Dịch. Triết lý ấy là một triết lý động.
d) Triết Đông là một triết lý động
Chính
Công Đồng Vatican II cũng chủ trương: Từ một quan niệm tĩnh về vũ trụ, nhân
loại đã bước sang một quan niệm động và tiến hóa hơn . Quan niệm của triết
lý Hy Lạp Tây Phương là một quan niệm tĩnh, còn quan niệm của triết lý Đông
Phương là một quan niệm động. Nhiều triết gia Tây Phương hiện đại, nhiều nhà
thần học Kitô giáo Tây Phương đã đả kích triết lý Hy Lạp mà Tây Phương đã dùng
làm nền tảng cho tòa nhà triết học và thần học của mình. Chẳng hạn nhà thần học
Charles Duquoc, trong cuốn Lhomme Jésus, Christologie I, essai dogmatique
có viết: ... các giáo phụ, vì thừa hưởng nền văn hóa triết học của thời đại
bấy giờ... đã sử dụng một dụng cụ mà ngày nay đã trở thành vô giá trị .
Triết
Đông phù hợp với các tôn giáo Đông Phương
Nếu phải
dùng triết lý để suy tư về Thiên Chúa, để khai triển những mặc khải của
Thiên Chúa, thì chắc chắn giữa hai nền triết lý Đông và Tây, triết lý của
Đông Phương phù hợp với công việc ấy hơn triết lý Tây Phương. Theo linh mục
Aloysius Pieris - một thần học gia Á châu thuộc
Dòng Tên - thì triết lý Tây Phương phát
xuất từ triết lý Hy Lạp, vốn được dùng làm dụng cụ để khai triển tôn giáo của
người Hy Lạp (thờ thần Zeus), là tôn giáo mà cha xếp vào loại tôn giáo vũ
trụ (cosmic) . Trước Kitô giáo, ở Tây Phương không có một tôn giáo nào
thuộc tầm cỡ siêu vũ trụ cả, nên không có một triết lý nào phù hợp với một tôn
giáo thuộc tầm cỡ siêu vũ trụ (metacosmic) như Kitô giáo cả. Vì thế, để
hội nhập văn hóa, các giáo phụ Latinh và Hy Lạp đã rửa tội và tinh luyện
triết lý này để trở thành một công cụ khai triển Kitô giáo, vì không có một thứ
triết lý nào khác tốt hơn. Còn triết lý Đông Phương, vốn là những công cụ của
các tôn giáo siêu vũ trụ tại châu Á như Lão giáo, Phật giáo... nên dẫu sao nó
vẫn có nhiều khả năng và phù hợp hơn với loại tôn giáo cao cấp này.
CẦN PHÂN BIỆT NỘI DUNG SỨ ĐIỆP VỚI CÁCH THỨC DIỄN TẢ SỨ ĐIỆP
Để hội
nhập văn hóa, cần phân biệt nội dung sứ điệp mà mình muốn rao giảng với cách
thức mình dùng để diễn tả nội dung ấy. Không phân biệt được đâu là nội dung đâu
là hình thức, cái nào cốt tủy cái nào phụ thuộc, ta sẽ không biết cái nào thay
đổi được, cái nào phải giữ lại, ta sẽ bắt người khác phải chấp nhận những điều
không cần thiết và không phù hợp với họ. Và có khi chính vì những phụ thuộc
không thích hợp đó mà người ta không thể chấp nhận được nội dung chính yếu của
sứ điệp ta muốn rao giảng.
Điều đó
tương tự như khi ta muốn bán một món hàng mà ai cũng cần hoặc thích, nhưng lại
đựng trong một bao bì mà không mấy người thích, khiến họ cứ nhìn vào bao bì là
cảm thấy không thích hay không muốn mua món hàng ấy. Sở dĩ ta không phân biệt
giữa món hàng và bao bì, coi hai yếu tố ấy là bất khả phân ly, là một tổng thể
duy nhất, có thể vì ta đã bán được món hàng đó chạy như tôm tươi ở một
vùng khác vốn ưa thích loại bao bì đó.
Sự phối hợp giữa sứ điệp Kitô
giáo và văn hóa hay triết lý Tây Phương
Thật
vậy, những gì chúng ta đang rao giảng hiện nay, là một tổng thể được phối hợp
chặt chẽ bởi hai yếu tố: sứ điệp của Đức Kitô (cốt tủy) và triết lý Tây Phương
(phương tiện dùng để diễn tả sứ điệp ấy). Cuộc phúc âm hóa của chúng ta tại
châu Âu đã thành công với tổng thể đó, và chúng ta đã coi tổng thể đó là nguyên
chất sứ điệp Đức Kitô. Khi phúc âm hóa sang Á châu, chúng ta đã đưa chính
tổng thể đó ra và giới thiệu đó là sứ điệp Đức Kitô, làm như đó là sứ điệp
thuần túy của Ngài. Thế là người Á châu vì không quen với cách diễn tả đầy tính
Tây Phương ấy nên đã không thấy sứ điệp ấy phù hợp với mình, và không nhận ra
sứ điệp ấy rất cần thiết cho hiện hữu của mình.
Để phúc
âm hóa cho có hiệu quả, chúng ta cần xác định rõ điều chúng ta muốn rao giảng
là sứ điệp của Đức Kitô chứ không phải là một triết lý hay một nền văn hóa nào
mà ta dùng để khai triển hay diễn tả sứ điệp ấy. Việc hội nhập văn hóa đòi hỏi
ta phải phân biệt rõ ràng cốt tủy và phụ thuộc, mục đích và phương tiện, để nếu
cần thì saün sàng thay đổi những gì tùy phụ hay những gì là phương tiện, để làm
nổi bật những gì là cốt tủy, là mục đích. Cái gì tùy thuộc cần phải thay thế
bằng cái khác thích hợp hơn thì nên bỏ không thương tiếc. Cái gì là cốt tủy
không thể thay đổi được thì phải giữ lại với bất cứ giá nào. Đừng để cho cái
tùy phụ giết chết cái cốt tủy, hay để cho phương tiện làm lu mờ mục đích.
Sự kết hợp ấy không phải là bất
khả phân ly
Người
bán hàng kia sẽ thật là khờ dại nếu nghĩ rằng món hàng kia cứ phải đi đôi với
cái bao bì ấy mới được, bất chấp sở thích của khách hàng. Kết quả sẽ là: chỉ vì
cái bao bì ấy mà hàng bị ế. Vấn đề cần phải đặt ra trong trường hợp này là sự
kết hợp giữa sứ điệp Kitô giáo và triết lý Hy Lạp hay văn hóa Tây Phương có
phải là một cuộc kết hôn bất khả phân ly hay không. Tại sao người Á châu nào
muốn đào sâu sứ điệp ấy lại cứ phải học triết lý Tây Phương, chứ không phải là
triết lý của mình, như vẫn thấy trong tất cả các trường thần học ở Á châu, Công
giáo cũng như Tin Lành? Có phải sứ điệp Kitô giáo chỉ có thể diễn tả bằng triết
lý Hy Lạp, hơn là bằng triết lý Á châu?
Không
phải thế! Trước Công Đồng Vatican II, có thể Giáo Hội đã không đặt nặng ý thức
hội nhập văn hóa. Nhưng qua Công Đồng Vatican II ta thấy ý thức hội nhập văn
hóa của Giáo Hội rất mạnh và rõ nét. Chúng ta cần tìm hiểu chủ trương hội nhập
văn hóa của Giáo Hội qua Công Đồng Vatican II và các văn kiện khác của Giáo
Hội.
NGUYỄN
CHÍNH KẾT