Hội nhập văn hóa
tại Việt Nam
Kitô giáo bắt đầu được truyền vào
Việt Nam từ giữa thế kỷ XVI, tới nay đã được 450 năm. Các thừa sai đã đến Việt
Nam từ năm 1533, nhưng công cuộc truyền giáo chỉ trở nên qui mô từ khi có sự
tiếp tay của các giáo sĩ dòng Tên từ năm 1615. Các giáo sĩ dòng Tên tuy chỉ
truyền giáo tại Việt Nam trong vòng 50 năm, nhưng việc truyền giáo của họ có
qui mô, đường lối, có tổ chức và hệ thống, nên kết quả rất tốt đẹp. Đặc biệt từ
khi A-lịch-sơn Đắc-Lộ và Pierre Marquez đến Việt Nam năm 1627, công việc truyền
giáo trở nên khởi sắc hẳn.
Khi truyền giáo tại Việt Nam,
nhiều thừa sai - nhất là các thừa sai dòng Tên - đã có những nỗ lực thích nghi một cách mềm dẻo và
hội nhập văn hóa trong xã hội Việt Nam. Khuôn mặt thừa sai nổi bật nhất về khả
năng thích ứng và hội nhập văn hóa ở Việt Nam là linh mục Alexandre de Rhodes
(phiên âm tiếng Việt là A-lịch-sơn Đắc-Lộ, để tên của cha trở nên thân
thiện hơn, từ đây, trong tập này, chúng tôi sẽ gọi ngài là cha Đắc-Lộ)().
Nhưng rất tiếc là cha Đắc-Lộ bị trục xuất quá sớm (năm 1645) cũng như các giáo
sĩ dòng Tên khác (năm 1663) khiến việc truyền giáo tại Việt Nam mất đi nhiều
năng lực và tính hữu hiệu.
Cha A-lịch-sơn Đắc-Lộ
Tinh thần thích ứng và hội nhập văn hóa
Linh mục A-lịch-sơn Đắc-Lộ là một
thừa sai dòng Tên. Cha cùng với linh mục Pierre Marquez đến Việt Nam ngày
19-3-1627 tại cửa Bạng (Thanh Hóa) đánh dấu thời kỳ tốt đẹp nhất của công cuộc
truyền giáo tại đây.
Học và nói thông thạo tiếng Việt
Thực ra trước đó cha đã đến Việt
Nam để học tiếng Việt tại Đàng Trong trong một năm rưỡi, từ tháng 12-1624 đến
tháng 6-1626 (). Cha chủ trương: để hội nhập vào xã hội Việt Nam, cần phải nói
thông thạo tiếng Việt. Vì thế, đối với tiếng Việt, cha đã học chăm chỉ như
khi học thần học ở Rôma (). Nhờ thông thạo tiếng Việt, cha đã tiếp cận dễ
dàng với mọi tầng lớp xã hội, trực tiếp rao giảng Lời Chúa cho người nghe bằng
tiếng mẹ đẻ của họ, soạn thảo những cuốn sách rất có giá trị bằng tiếng Việt.
Cha Đắc-Lộ là người dám nghĩ dám
làm, rất nhiệt thành và năng nổ. Tuy là một giáo sĩ của một nước văn minh tại
Âu Châu, nhưng cha luôn luôn tôn trọng văn hóa của các dân tộc, và để truyền
giáo cho có hiệu quả, cha chủ trương chính mình phải thích ứng với họ, chứ
không nên áp đặt một chiều, bắt họ phải thích ứng với mình. Vì thế, cha luôn
luôn tỏ ra tôn trọng các phong tục địa phương.
Hòa mình theo tập tục của người
Việt
Trước khi đến Việt Nam, cha đã
từng phản đối việc bắt những tân tòng người Ấn Độ phải bỏ y phục dân tộc của
mình để mặc lấy bộ áo Tây Phương, và chống lại việc cưỡng ép người Trung Hoa
khi gia nhập đạo Công giáo phải cắt tóc ngắn trái với tập tục của họ thời đó
().0 Vì thế, khi tới Việt Nam, để hòa nhập vào xã hội người Việt, cha luôn luôn
ăn mặc như người Việt: áo thụng, quần ta, tóc dài ().
Theo gương cha Buzomi và Pina,
cha Đắc-Lộ chấp thuận để dân chúng gọi mình bằng Thầy (), để giữ khuôn
khổ Quân, Sư, Phụ của xã hội Việt. Đối với vua quan Việt Nam, Cha tự coi
mình như một người dân trong nước, luôn luôn tuân theo những nghi thức lễ nghĩa
của người Việt đặc biệt trong cách xưng hô, bái lạy, chào hỏi. () Cũng như cha
Matteo tại Trung Hoa, cha Đắc-Lộ lưu tâm tới việc tiếp xúc với những người trí
thức trong xã hội (nho sĩ, quan lại.), và để tạo cơ hội gần gũi họ, cha đã tận
dụng những kiến thức khoa học của mình để nói chuyện với họ, đặc biệt về thiên
văn học ().
Danh từ để chỉ Thiên Chúa: Đức Chúa Trời
Tại Trung Hoa và Nhật Bản
Để chỉ về Thiên Chúa, tại Nhật
Bản, thánh Phanxicô Xavier không dám dùng một danh từ Nhật Bản với nghĩa tương
đương, e có sự sai lạc, mà chỉ phiên âm danh từ Deus của tiếng Latinh
sang từ Nhật là Deusu. Còn tại Trung Hoa, cha Matteo Ricci dùng từ Thiên
Chủ, nghĩa là chủ của Trời. Thực ra, chữ Thiên của Trung Hoa vừa có
nghĩa là trời vật chất, vừa có nghĩa là nguyên lý tối cao chi phối tất
cả mọi sự, và cũng có nghĩa là Ông Trời. Nhưng dùng chữ Thiên có
thể gây hiểu lầm vì nó có hai ba nghĩa. Dùng chữ Thiên Chủ, cha Matteo
có ý nói Kitô giáo không thờ trời, mà thờ Chủ của trời. Nghĩa như thế
chính xác hơn.
Tại Việt Nam
Còn tại Việt Nam, trước khi cha
Đắc-Lộ tới, cha Buzomi, một thừa sai người Ý, đã dùng những danh từ như: Thượng
Đế, Thiên Chủ, Thiên Chủ Thượng Đế, Ngọc Hoàng. Về sau, cha Buzomi đã ngả
về danh từ Thiên Chủ của cha Matteo Ricci và bỏ những danh từ kia.
Nhưng tới khi cha Đắc-Lộ tới, cha
đã sáng chế ra một từ hoàn toàn mới, và cũng hoàn toàn nôm, khời đầu là đức
Chúa trời đất (), về sau giản lược lại thành đức Chúa trời (). Xin
lưu ý: trong ba chữ này, cha Đắc-Lộ chỉ viết hoa chữ Chúa, còn hai chữ
kia viết thường, nghĩa là trong cụm từ đó, chữ Chúa là chính, ý muốn
nói: Chúa của trời, chứ không phải trời, tương tự như chủ nhà
chứ không phải nhà.
Giải thích danh từ đức Chúa
trời
Cha đã giải thích ba chữ này
trong cuốn tự điển Việt- Bồ- La, do cha biên soạn, như sau:
1. Đức: tiếng
chỉ chức vị cao trọng, người ta nói đức vua, đức Chúa, đức ông dành cho
các hoàng tử và tướng lãnh ở Đàng Ngoài, còn ở Đàng Trong, tiếng này dành cho
nhà chúa. Đức bà chỉ vợ nhà vua nhà chúa, hoặc cung phi của vua của
chúa. Chúa Bà là chính phi của nhà vua nhà chúa; cũng dùng đức chúa
bà. Người già cả có chức vị lớn thì gọi là đức lão.
2. Chúa (Dominus),
đức Chúa trời đất, tên xưng Thiên Chúa nơi người Đàng Ngoài. Chúa cũng
là tên gọi vị cai quản toàn cõi đất nước này.
3. Thiên,
Trời (clum, i) ; Thiên địa, trời đất (clum et terra) ; Thiên
Chủ, Chúa trời (cli Dominus), tốt hơn thì nói Thiên Chúa, Chúa trời.
Tại Việt Nam, thời cha Đắc-Lộ
đến, tức thế kỷ 17, trong triều đình vừa có vua vừa có chúa. Vua
ở đây là vua Lê ở Đàng Ngoài, chỉ có hư vị chứ không có thực quyền. Còn chúa
ở đây là chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, và chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Trong bối
cảnh lịch sử này, trên danh nghĩa thì vua lớn hơn Chúa, nhưng trong thực tế thì
chúa lớn quyền hơn vua. Vì thế, vào lúc đó, dùng đức Vua trời không thực
tế bằng đức Chúa trời. Vả lại, chúa có nghĩa là chủ (),
nên cụm từ đức Chúa trời hoàn toàn đồng nghĩa với từ Thiên Chủ
của cha Matteo Ricci.
Từ đức Chúa trời có tính
cách trang trọng và dài. Theo nhu cầu của ngôn ngữ, người ta thường có khuynh
hướng nói vắn tắt đi, nhất là trong những trường hợp dùng như một đại từ. Vì
thế, ngay trong cuốn Phép Giảng Tám Ngày, cha Đắc-Lộ đã dùng những hình
thức giản lược của cụm từ này: từ đức Chúa trời đến đức Chúa, hay
Chúa trời, và cuối cùng chỉ còn vỏn vẹn một chữ Chúa ().
Một số ý niệm trong Kitô giáo
Trong số những khái niệm của Kitô
giáo, có những khái niệm:
· được diễn tả bằng những từ tiếng Việt hoàn toàn mới: như thiên
thần, linh hồn, thiên đàng, hỏa ngục, tội tổ tông, rửa tội, xức trán, thầy cả,
kẻ giảng, v.v.
· được diễn tả bằng những từ tiếng Việt đã có saün, nhưng nay
được hiểu theo nghĩa mới của đạo: như sinh thì, địa ngục, ma quỉ, tội lỗi, v.v.
· không dịch hay chưa tìm được từ tương ứng trong tiếng Việt, nên
phải tạm dùng từ của Tây Phương được phiên âm theo tiếng Việt - trong đó có những tên riêng - như ():
Tiếng Việt xưa Gốc Chữ
gốc Tiếng Việt nay
- Con-tri-song Bồ Contrição Ăn năn tội
- A-tri-song - Atrição Sám hối
- Com-mu-nhong - Communhão Rước lễ
- Vít-vồ - Bispo Đức cha
- Ga-ra-xa - Graça Ân sủng
- Câu-rút - Crux Thánh giá
- Giu-se - Jose Giuse
- Đô-minh - Domingos Đaminh
- Giu-ong - João Gioan
- I-sa-ve - Isabel Êlisabét
- (lễ) Săng-ti Latinh Sancti (lễ) Mình Máu Chúa
- Ca-tô-li-ca - Catholica Công giáo
- Khi-ri-xi-tô - Christo Chúa Kitô
Một số hình thức thích ứng và hội nhập văn hóa khác
Đưa nghệ thuật dân gian vào tôn
giáo
Người Việt Nam rất thích thi ca,
họ thường đối đáp nhau bằng những vần thơ sáng tác tại chỗ. Và đối với người
bình dân, những vần thơ luôn luôn được truyền khẩu và ghi nhớ dễ dàng hơn văn
xuôi. Cha Đắc-Lộ rất hiểu giá trị và tác dụng của thi ca, vè, vãn đối với dân
chúng Việt Nam, nên đã cha khuyến khích bà Catarina thuộc hoàng tộc () trước
tác ca vãn về giáo lý, về cuộc đời Chúa Giêsu.
Lối hát ả đào, hát chèo cũng là
những hình thức văn nghệ mà người Việt Nam ưa thích. Vì thế, Cha là người sáng
kiến ra việc áp dụng lối hát ả đào, hát chèo và múa cung đình vào việc ngắm
đứng, dâng hoa. Nhờ đó, những sinh hoạt phụng vụ trở nên hấp dẫn, vui tươi, lôi
kéo được nhiều người đến với Chúa.
Tổ chức các lễ hội công giáo
Trước đây, trong các làng xã, tại
các ngôi đình, người ta thường tổ chức những lễ hội, với những sinh hoạt vui
chơi giải trí, rước kiệu các vị Thành Hoàng. Cha Đắc-Lộ cũng cho tổ chức những
lễ hội, đình đám vào những dịp mừng lễ lớn trong Kitô giáo, và tổ chức những
buổi rước kiệu Thánh Thể, rước tượng Chúa hay Đức Mẹ. Người Kitô hữu Việt Nam
rất thích những cuộc rước kiệu như thế.
Trong các hội hè đình đám thuộc
các lễ hội dân tộc, người ta thường tổ chức những cuộc vui chơi giúp quần chúng
có dịp giải trí sau những ngày làm lụng mệt mỏi. Trong đó có những cuộc thi đua
để tuyển nhân tài: đấu đô vật, thi ca hát, làm thơ, nấu cơm thi, chạy đua, thi
bắn tên, v.v. Cha Đắc-Lộ cũng cho tổ chức những cuộc thi tuyển nhân tài vào
những dịp lễ lớn như Giáng Sinh và Phục Sinh: thi kinh, thi bổn, thi lẽ đạo,
thi ngắm đứng, thi ca hát, v.v. Giới nào thi với giới đó: người già với người
già, thanh niên với thanh niên, trẻ em với trẻ em. Nhờ vậy, mọi giới đều được
khuyến khích học hỏi, đào sâu giáo lý, lẽ đạo. một cách rất hữu hiệu và đầy
hứng khởi.
Thích nghi trong việc cử hành bí
tích Rửa tội
· Về mô thức: Để những
người lãnh nhận bí tích và những người tham dự nghi thức rửa tội lãnh nhận hoặc
tham dự một cách tích cực và ý thức hơn, nên từ năm 1645, các thừa sai muốn
dùng mô thức bằng tiếng Việt. Nhưng phải chọn công thức nào cho đúng và thích
hợp?
Khởi đầu, cha Saccano và Đắc-Lộ
đề nghị công thức: Tau rữa mầi, nhân nhít danh Cha, nhít danh Con, và nhít
danh Su-phi-ri-tô Săng-tô. Amen
Nhưng trong 35 vị tham dự hội
nghị ở Macao bàn về vấn đề này, có 31 vị không đồng ý với cha Saccanô và
Đắc-Lộ. Họ ủng hộ công thức: Tau rữa mầi, nhân danh Cha, và Con, và
Su-phi-ri-tô Săng-tô. Amen. Có hai vị bỏ phiếu trắng. Năm 1648, cha Marini
tham khảo ý kiến 14 bổn đạo Việt Nam ở Đàng Ngoài, họ cho rằng công thức sau
đúng hơn.
· Về nghi thức: Cha
Chevreuil (tới Hội An năm 1664) có ghi nhận là các cha dòng Tên tại Việt Nam
bấy giờ không hoàn toàn làm theo nghi thức rửa tội của Rôma lúc bấy giờ, vì có
nhiều điều không thích hợp với hoàn cảnh hay tâm tính của người Việt Nam. Chẳng
hạn các cha bỏ muối vào bàn tay người được rửa tội chứ không bỏ vào miệng,
không dùng nước miếng của mình để xức vào người được rửa tội, không xức dầu
trên ngực của phụ nữ. và bỏ đi nhiều lời nguyện không thích hợp (). Sự việc này
còn bị đưa ra tranh luận dài dòng giữa các dòng thừa sai cho đến năm 1742 Giáo
Hội mới chấm dứt những tranh chấp ấy.
Thích nghi trong Mùa Chay và
Tuần Thánh
Tuần Thánh là tâm điểm của phụng
vụ Kitô giáo. Để in sâu mầu nhiệm vượt qua vào tâm hồn các Kitô hữu Việt Nam,
để giúp họ sống mầu nhiệm này, các thừa sai đã tổ chức nhiều hình thái khác
nhau phù hợp với tâm hồn người Việt Nam: chẳng hạn tổ chức đóng kịch về cuộc
thương khó của Chúa Giêsu, tổ chức đám tang cho Chúa Giêsu (nhất là tại Bùi
Chu, Bắc Ninh). Việc khóc mướn trong các đám tang được thay thế bằng những kinh
ngắm với giọng điệu ngân nga biểu lộ tình cảm buồn thương.
Một thích nghi lớn lao trong Mùa
Chay và Tuần Thánh là việc ngắm đứng về những sự thương khó của Chúa Giêsu.
Việc ngắm đứng một phần nào chịu ảnh hưởng lối hát cô đầu, một lối hát Việt Nam
thuần túy: một cô hát, một người cầm trịch, người đánh trống chầu. Nhờ vậy, sự
hiểu biết và cảm thông với những đau khổ của Chúa Kitô đi sâu vào lòng người giáo
dân một cách ngọt ngào, sâu xa.
Thích ứng trong mục vụ
· Thầy giảng, Nhà
Đức Chúa Trời: Để thích ứng với tình hình khó khăn thời đó, cha Đắc-Lộ đã
thiết lập đoàn thầy giảng, là những người giáo dân được huấn luyện để
trợ lực hàng giáo sĩ trong các công việc mục vụ, tông đồ, như dạy giáo lý tân
tòng, quản trị tài sản cộng đoàn, và có thể thay thế các giáo sĩ khi các ngài
bị trục xuất. Về sau, để tiếp nối sáng kiến của cha Đắc-Lộ, các giáo sĩ dòng
Tên lập nên Nhà Đức Chúa Trời để tuyển chọn và huấn luyện các thầy
giảng trong khi chờ đợi có hàng giáo sĩ bản quốc.
· Dòng Mến Thánh Giá: Tới
năm 1668, các giám mục đã bắt đầu thành lập hàng giáo sĩ bản quốc (). Năm 1670,
các ngài còn thiết lập Dòng Mến Thánh Giá cho các phụ nữ bản xứ sống đời
tận hiến để các chị trợ lực với hàng giáo sĩ công việc mục vụ và tông đồ ().
· Hội Đồng Quí Chức: Tại
các họ đạo, để tiếp tay với các thầy cả và thầy giảng, còn có cả một hệ thống
giáo dân được gọi là Hội Đồng Quí Chức, gồm ông chánh trương, ông câu,
ông trùm, ông biện, v.v.
Ngoài việc cộng tác với các thừa
sai hay thầy cả điều hành họ đạo, họ còn là những người tìm đủ mọi cách để bao
bọc, che dấu, bảo toàn các thừa sai, các thầy cả trong thời Giáo Hội bị bách
hại, cấm cách. Họ cũng là những người lo thăm viếng, tiếp tế lương thực, tìm
cách giải cứu các thừa sai, thầy cả hay những giáo hữu bị bắt vì đạo, phải sống
cảnh tù đày, bị phân sáp. Họ luôn luôn tìm cách củng cố niềm tin của các Kitô
hữu trong mọi tình huống khó khăn nhất.
Việc trình bày giáo lý
Kitô giáo tuy phát xuất từ Á
Châu, nhưng được khai triển tại Âu Châu, nên cách diễn tả sứ điệp Kitô giáo,
hay cách trình bày giáo lý Kitô giáo phải dùng tới rất nhiều khái niệm triết
học của Tây Phương, mà rất tiếc những khái niệm ấy đôi khi xa lạ với người Á
Châu. Vì thế, các thừa sai tại Việt Nam đã cố gắng đi từ những quan niệm đang
có của người Việt để dẫn người ta đến một điểm nào đó trong giáo lý Kitô giáo.
Sau đây là một vài thí dụ cụ thể.
Thần học Tam Phụ
Người Việt Nam đặt rất nặng chữ hiếu
và chữ trung (). Nhưng chữ hiếu ấy chỉ nhắm vào một đối tượng cụ thể và
duy nhất là cha mẹ, người sinh thành ra ta. Còn chữ trung là thái độ
phải có đối với vua. Lợi dụng tinh thần trung và hiếu đó, Cha Đắc-Lộ đưa ra
Thần học Tam Phụ để giới thiệu thêm cho người Việt Nam một người cha mà họ lãng
quên hay không biết tới, đó là Cha trên trời, Đấng sinh thành ra tất cả
vũ trụ vạn vật, mà Đức Giêsu Kitô dạy ta gọi Ngài là Cha.
Ngoài ra, thần học Tam Phụ còn
giúp người Việt hệ thống hóa ba tương quan chính yếu của một người sống trong
vũ trụ, trong một đất nước và trong một gia đình, từ đó suy ra bổn phận đối với
người làm chủ vũ trụ, đất nước và gia đình. Đó là ba người cha ở ba cấp độ khác
nhau mà người ta không thể bỏ qua được.
Trong cuốn Phép Giảng Tám Ngày,
Cha Đắc-Lộ viết: Bây giờ, ta phải hay có ba đấng bề trên là ba cha, ta phải
thờ ở đấng nào cho nên đấng ấy. Đấng dưới là cha mẹ sinh ra thân xác cho ta,
đấng giữa là vua chúa trị nước, đấng trên là đức Chúa trời đất, làm chúa thật
trên hết mọi sự. Có ba đấng này ta mơí được sống được ở ().
Lợi dụng những quan niệm có saün
Cha Đắc-Lộ đã đi từ những tục
ngữ, những bài đồng ca, hay những câu ca dao thường nằm trên môi trên miệng của
người Việt để dẫn người ta đến với Thiên Chúa, hay đến với một chân lý Kitô
giáo. Sau đây là một vài thí dụ.
Bài đồng dao: Lạy trời
mưa xuống
Người Việt có bài đồng dao: Lạy
trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, v.v.. Chữ trời trong bài này là
một ý niệm mơ hồ, có thể hiểu nhiều nghĩa. Lợi dụng đề tài này, cha Đắc-Lộ dẫn
người ta đến với Chúa trời. Trong cuốn Phép Giảng Tám Ngày, cha
viết: Khi thế gian nói rằng: Lạy Trời thì thiếu một chữ Chúa, vì vậy phải
thêm đơm chữ ấy mà từ rày về sau nói làm vậy: Tôi lạy đức Chúa trời là Chúa cả
trên hết mọi sự ().
Sinh ký tử qui, quê cha
đất tổ
Cha dùng câu sinh ký tử qui
(sống là gửi, chết là về) để giới thiệu về sự sống vĩnh cửu đời sau. Người Á
Đông quan niệm rằng cuộc sống ngắn ngủi này chỉ là tạm bợ, và cuộc sống sau khi
chết mới là cuộc sống thật, đó cũng chính là quan niệm của Kitô giáo. Đa số
người Việt đều chấp nhận câu sinh ký tử qui, nên cũng saün sàng chấp
nhận quan niệm Kitô giáo về hạnh phúc mai hậu.
Trong tiếng Việt có thành ngữ quê
cha đất tổ, Cha Đắc-Lộ đã lợi dụng tinh thần yêu quê hương, mong được sống
tại quê cha đất tổ của người Việt để nói về quê hương đích thực trên
trời.
Các từ ngữ phần rỗi,
cứu rỗi, rỗi linh hồn.
Người Việt Nam ta đa số phải làm
lụng rất vất vả mới đủ sống. Vì thế, niềm hạnh phúc lớn nhất mà người ta có thể
cụ thể hóa ra, cũng là niềm mơ ước chung của mọi người là được nhàn rỗi để có
thể vui vẻ bên nhau (). Vì thế, Cha Đắc-Lộ đã dùng sự nhàn rỗi và vui vẻ để mô
tả cảnh hạnh phúc cực lạc của thiên đàng. Trong sách giáo lý cổ, câu khởi đầu
là:
H. Phải
làm gì cho được thanh nhàn vui vẻ vô cùng?
T. Phải
giữ đạo thánh đức Chúa trời.
Và từ đó phát sinh ra từ phần
rỗi, cứu rỗi, rỗi linh hồn. Chữ rỗi ở đây phải chăng
có nghĩa là được thanh nhàn, nhàn rỗi, vui vẻ.? Đó là quan niệm rất bình dân về
hạnh phúc của người Việt.
Cha Đắc-Lộ cũng lợi dụng quan
niệm saün có về âm phủ để nói về địa ngục của Kitô giáo ().
Phương pháp trình bày giáo lý
Cha Đắc-Lộ đã có nhiều kinh
nghiệm truyền giáo ở Việt Nam cũng như ở Macao. Cuốn Phép Giảng Tám Ngày là
kết quả của những kinh nghiệm ấy.
1. Theo cha,
khi rao giảng Tin Mừng, ta cứ trình bày giáo thuyết của mình cách tích cực,
không nên tranh luận, bút chiến, bài bác ai hay lý thuyết của ai. Sự chỉ trích
hay bài bác chỉ đem lại hiềm khích và ghen ghét.
2. Để phù
hợp với tâm thức của người Việt vốn chịu ảnh hưởng Tam Cương Ngũ Thường
của Nho giáo, khi trình bày giáo lý cần phải nhấn mạnh đến tứ đại (): Thiên,
Quân, Sư, Phụ. Thượng hữu Thượng Đế, Thống Quân chư sinh,
Hạ hữu vương Sư, Cận hữu Phụ Mẫu.
3. Cha
Đắc-Lộ thuộc dòng Tên, nên chịu ảnh hưởng của Linh Thao. Vì thế, cuốn Phép
Giảng Tám Ngày có tiến trình tương tự như các sách Linh Thao: bốn tuần của
Linh Thao được gia giảm và thay đổi chút ít để thích nghi với tâm thức người
Việt Nam thời ấy.
4. Tiến
trình trình bày giáo lý được phản ảnh trong 8 bài giảng của cha Đắc-Lộ:
· Ba bài đầu nói về việc Chúa tạo dựng trời
đất.
· Bài 4 nói về nạn hồng thủy và ba tôn giáo
ở Việt Nam.
· Bài 5 & 6 nói về Thiên Chúa Ba Ngôi,
Ngôi Hai nhập thể và giảng đạo.
· Bài 7 nói về cuộc tử nạn, phục sinh của
Chúa Kitô và sự hiện xuống của Thánh Thần.
· Bài 8 nói về mười giới răn, thiên đàng,
hỏa ngục, bí tích rửa tội.
5. Cách
trình bày của cha Đắc-Lộ không theo chỉ thị của Công Đồng Trentê (1545- 1563) (). Thời đó, có hai tác giả sách giáo lý nổi
tiếng là Canêsiô và Collarminô. Công Đồng chỉ thị các sách giáo lý phải mô
phỏng theo sách của Canesiô là giải thích và diễn dịch từ kinh Credo. Nhưng cha
Đắc-Lộ không theo cách đó mà khởi đi từ những việc cụ thể để phù hợp với tâm
hồn của người Việt thời ấy. Đây cũng là một trường hợp phá chấp để thích
ứng với hoàn cảnh đặc thù và cụ thể của thực tế. Sự phá chấp này có thể
gây nên những phản ứng chống lại nơi các thừa sai khác chấp cứng vào nguyên
tắc, giáo điều và lệnh bề trên.
Vấn đề thờ kính tổ tiên
Một tập tục mang tính văn hóa
Nghi lễ thờ kính tổ tiên đối với
người Việt Nam cũng như người Trung Hoa là một tập tục gắn liền với bản chất xã
hội và văn hóa của họ. Một người Việt Nam hay Trung Hoa không thực hành nghi lễ
ấy trong đời sống gia đình và xã hội của mình thì bị coi là bất hiếu, mất gốc. Vì
thế, khi Tòa Thánh ra lệnh cấm không cho người Kitô hữu thờ kính tổ tiên, thì
người Kitô hữu Việt Nam cũng như Trung Hoa lâm vào thế kẹt, và nhiều người chỉ
vì khó khăn này mà không thể trở nên Kitô hữu được.
Hai khuynh hướng của các thừa sai
Đối với vấn đề thờ kính tổ tiên,
cũng như đối với việc thích nghi và hội nhập văn hóa, các thừa sai tại Việt Nam
có hai khuynh hướng:
· một của các cha dòng Tên có khuynh hướng thích nghi và hội nhập
văn hóa mạnh, nên bênh vực việc thờ kính tổ tiên,
· và một của các cha thuộc hội truyền giáo Paris và một số dòng
khác, ít thích nghi và hội nhập văn hóa, nên chủ trương chống lại việc thờ kính
tổ tiên.
Tòa thánh chịu ảnh hưởng của
khuynh hướng sau nhiều hơn ().
Khuynh hướng và phản ứng của các
giáo sĩ dòng Tên
Năm 1716, Giáo Hội Đàng Trong
nhận được một bản chép tay của hiến chế Ex illa die. Đức Cha Péres tỏ ra
rất bỡ ngỡ khi nhận được hiến chế này. Tháng 7-1717, ngài mới nhận được hiến
chế chính thức, nên công bố thư chung biểu lộ đức vâng lời đối với Giáo Hoàng.
Cha G. B. Sauna, dòng Tên, ở Hội
An phản ứng mãnh liệt. Ngày 21-2-1717, cha ra một thư có 7 điều: cho phép giáo
hữu được mang cờ đan triệu () đi trước người chết miễn có chữ cầu cho người
chết, cho lạy trước người chết và cha mẹ, được phép thề trung thành với vua
chúa, ngày đầu năm được phép dâng cúng cha mẹ. Nhưng cha Sauna dường như làm
quá, vì sau khi được thư chung của Đức Cha Péres, cha vẫn cho phép giáo hữu làm
như cũ.
Đức Giám Mục Alexandre ở Đàng
Trong xem ra cũng tán thành việc cho phép thờ kính tổ tiên. Tòa Thánh sai Đức
Giám Mục La Baume đến Đàng Trong để điều tra xem xét, đi cùng cha Favre đến Hội
An ngày 1-5-1739. Cha Favre không đồng ý với cha dòng Tên, về sau ngài tố cáo
các cha bề trên dòng Tên ở Đàng Trong là tự cho mình ngang hàng với giám mục.
Năm 1741, Đức Cha La Baume qua
đời, ủy quyền cho cha Favre tiếp tục công việc. Và ngày 27-5-1741, cha Favre
công bố 9 điều, trong đó có việc cấm thờ kính tổ tiên dưới mọi hình thức ().
Nhưng sau đó cha Favre bỏ về. Năm 1742, hiến chế Ex quo singulari sinh
ra đủ mọi thứ tranh chấp. Và cha Favre còn viết sách phản đối đường lối truyền
giáo của các cha dòng Tên tại Việt Nam.
Cái nhìn về các tôn giáo khác
Quan niệm chung của Giáo Hội thời đó
Nói chung, cái nhìn của Giáo Hội
nói chung, và của các thừa sai nói riêng, vào thời đó về các tôn giáo khác rất
tiêu cực và phiến diện. Nói chung, các học giả Kitô giáo Âu Châu, vì chưa có
dịp tìm hiểu thật sự và sâu xa các tôn giáo Á Châu, nên luôn luôn coi các tôn
giáo Á Châu như cùng một giuộc với các tôn giáo cấp thấp ở Âu Châu ().
Cụ thể là thánh Phan-xi-cô
Xa-vi-er, một vị thừa sai truyền giáo ở Nhật Bản đồng thời với cha Matteo Ricci
tại Trung Hoa, đã sáng tác một kinh cầu cho kẻ ngoại đạo, trong đó có câu: Những
kẻ thờ lạy bụt thần ma quỉ đang sa xuống đầy rẫy hỏa ngục ().
Tư tưởng của Cha A-lịch-sơn
Đắc-lộ, một người có tư tưởng rất tiến bộ và chủ trương triệt để hội nhập văn
hóa, có thể được xem là điển hình cho nhận định của người Kitô hữu Âu Châu về
các tôn giáo Á Châu ().
Quan niệm của cha Đắc-Lộ về Phật giáo
Những quan niệm sai lầm về Phật
giáo
Những người đã tìm hiểu ít nhiều
về Phật giáo chắc không khỏi phì cười khi đọc những tư tưởng của cha Đắc-Lộ
viết về Phật giáo trong cuốn Phép Giảng Tám Ngày. Chẳng hạn có chỗ cha
viết: Bên Thiên Trúc quốc, có vua tên là Tịnh Phạn Vương, đẻ con dạ thì
sáng, song kiêu ngạo lắm (Trang 105). Không biết cha Đắc-Lộ dựa vào
những sự kiện nào mà kết luận rằng Phật kiêu ngạo lắm. Đang khi sử sách
viết về thời ấu thơ của Ngài thì lại viết ngược lại (). Cả cuộc đời của Ngài
luôn luôn đơn sơ khiêm nhượng, và do tu tập Ngài đã thành công hoàn toàn trong
việc phá được ngã chấp, là gốc rễ của mọi hình thức kiêu ngạo.
Cũng trong trang đó, cha viết: Đẻ
được một con gái đoạn thì đi ở trên rừng một mình, dẫu vợ cãi mà
chẳng cho, vì mình đã quen làm việc dối như pháp môn phù thủy..
Rõ ràng là cha không biết rõ lịch sử Đức Phật. Theo sử sách, năm 29 tuổi, Phật
cùng với vợ là Công chúa Da-du-đà-la (Yasodhara) sinh được một cậu con trai,
mà vua Tịnh Phạn đặt tên là La-hầu-la (Rahula, có nghĩa là một trở ngại). Không
biết cha căn cứ vào đâu mà viết: dẫu vợ cãi mà chẳng cho (), và mình
đã quen làm việc dối như pháp môn phù thủy. Câu sau là một lời nói xúc phạm
rất mạnh mà người Phật tử nào đọc đến cũng phải trạnh lòng.
Tiếp theo, Cha còn viết: Mà
trong nhiều quỉ dạy nó, thì có hai quỉ tên là Alala và Calala
quen làm thày dạy nó liên, mà nó thì ngồi giữa hai thày quỉ ấy,
mà dạy nó đầu hết chớ tin có Chúa trời (Trang 105-106). Theo các
sách lịch sử, thì sau khi đã thất vọng vì không tìm được chân lý tối thượng nơi
các vị thày mà Phật thụ huấn, Phật bèn tự mình đi tìm chân lý, và việc Ngài
giác ngộ hay thành đạo là hoàn toàn do tự mình quán chiếu mọi sự với trí tuệ
thanh tịnh sáng suốt, chứ không ai dạy Ngài cả. Quỉ ma chỉ là kẻ hại Ngài:
trong 49 ngày nhập định trước khi Ngài thành đạo, Ngài đã phải chiến đấu quyết
liệt với giặc Thiên Ma do Ma Vương Ba Tuần chỉ huy. Những điều cha Đắc-Lộ nói
trong câu này không biết cha lấy từ đâu ra (). Tôi không nghĩ là cha bịa đặt ra
hay cố ý xuyên tạc, nhưng có lẽ những điều cha học được hay nghe được về Phật
giáo là hoàn toàn sai lầm.
Đồng hóa Phật giáo với tôn thờ
ngẫu tượng
Cha đã đồng hóa Phật giáo với
việc tôn thờ ngẫu tượng (). Cha thường dùng chữ thờ bụt thần ma quỉ,
nghĩa là đồng hóa Bụt hay Phật với ma quỉ. Chẳng hạn như câu: Nó dạy dân
thờ bụt, và lấy mình, Thích Ca, làm cội rễ các bụt, như thể mình
là kẻ làm nên trời đất (Trang 106). Tư tưởng này hoàn toàn xa lạ với
người Phật tử. Cả đời Đức Phật, chưa bao giờ Ngài dạy người khác thờ một Đấng
nào, càng không dạy người ta thờ mình. Ngài chỉ cho mình là một trong hằng
hà sa số các vị Phật, vì thế, có bao giờ Ngài lại có tư tưởng lấy mình
làm cội rễ các bụt, như thể mình là kẻ làm nên trời đất!
Quan niệm đó giúp các giáo sĩ
hăng say truyền giáo
Phải nói rằng sự hiểu biết của
các thừa sai thời đó về các tôn giáo Á Châu hết sức thô thiển và lệch lạc, một
phần do não trạng hãnh tiến (triomphalisme) đầy thiên kiến của người Kitô hữu
Âu Châu, một phần do không tìm hiểu đến nơi đến chôâùn các tôn giáo Á Châu ().
Nhưng có lẽ cũng chính nhờ quan niệm sai lạc như thế mà các vị giáo sĩ đó đã
saün sàng hy sinh tất cả, chịu đựng tất cả kể cả cái chết, thậm chí chết
thảm thiết, chỉ vì họ muốn cứu những dân tộc Á Châu khỏi sa hỏa ngục (). Một
cách chủ quan, đó là một sự hy sinh rất cao cả phát xuất từ tình yêu.
Thiết tưởng chúng ta không nên xét đoán một cách quá hẹp hòi và thiển cận đến
nỗi lên án họ.
Chữ viết
Chữ Nôm
Trước khi có chữ quốc ngữ do cha
Đắc-Lộ, các thừa sai đã học chữ Nôm và đã dùng chữ Nôm để viết những bài giảng,
sáng tác các lời kinh giúp bổn đạo cầu nguyện. Các Kitô hữu Việt Nam đã dùng
chữ Nôm để làm thơ đạo, để viết những cảm nghĩ hay suy tư của của mình về Chúa,
về giáo lý. Từ thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 20, có biết bao nhiêu sách đạo viết do
người Kitô hữu viết ra bằng chữ Nôm: sách kinh, sách bổn, sách ngắm, sách ca
vè, thơ đạo, sách luật, sách thần học, sách bài giảng, sách quảng diễn giáo lý,
sách truyện các thánh, v.v. Trong số các sách chữ Nôm đó, có nhiều sách của
Gaspar dAmaral, Antoine Barbosa, nhất là Giêrônimô Majorica và của các thầy
giảng nhiệt thành.
Từ xưa đến lúc bấy giờ, chưa bao
giờ chữ Nôm lại được sử dụng nhiều như thế (). Vì thế, trong ba thế kỷ vừa qua,
Giáo Hội Việt Nam có biết bao nhiêu tác phẩm bằng chữ Nôm mà thời nay ít người
đọc được và lại càng ít người có khả năng hay thì giờ dịch ra. Đó cũng là một
hình thức hội nhập của sứ điệp Kitô giáo vào văn hóa Việt Nam thời trước!
Chữ quốc ngữ
Một thành quả của công cuộc
truyền giáo
Một trong những thành quả lớn của
công cuộc truyền giáo và hội nhập văn hóa tại Việt Nam là sự thành hình chữ
quốc ngữ. Công lớn nhất trong việc hình thành chữ Quốc Ngữ là của cha
A-lịch-sơn Đắc-Lộ. Thứ chữ mới này do cha sáng chế ra bằng cách dùng mẫu tự
Latinh để phiên âm tiếng Việt.
Mục đích của cha khi sáng chế ra
cách phiên âm này là để ghi lại cách phát âm tiếng Việt cho chính xác để dễ học
và dễ nhớ, vì chữ của tiếng Việt lúc đó là chữ Nôm cũng tương tự như chữ Hán,
không thể cứ nhìn vào mà phát âm được. Chắc chắn mỗi vị giáo sĩ Âu Châu học
tiếng Việt cũng đều phải tìm cách ghi lại cách phát âm của từng chữ theo một
cách nào đó.
Thứ chữ mà cha sáng chế ra để tạm
dùng ấy sau này đã trở thành chữ chính thức của người Việt, thay thế cho chữ
Nôm do Hàn Thuyên sáng chế ra nhiều thế kỷ trước đó (). Cách phiên âm của cha - cụ thể trong cuốn Phép Giảng Tám Ngày và
cuốn tự điển Việt-Bồ-La - y khá tinh vi nhưng chưa
có tính ổn định và chưa đủ khả năng phiên âm hết mọi âm của tiếng Việt. Về sau,
cách phiên âm này đã được cha Gaspar dAmiral () và một số Kitô hữu Việt Nam sửa
lại cho hoàn chỉnh.
Những tác phẩm quốc ngữ đầu tiên
Cuốn Phép Giảng Tám Ngày
và cuốn Từ điển Việt-Bồ-La () do cha biên soạn là những cuốn sách đầu tiên tại
Việt Nam viết bằng chữ quốc ngữ () mà cha đã xuất bản ở Rôma vào năm 1651. Đó
là hai tác phẩm quan trọng và đầu tiên bằng chữ quốc ngữ. Cách đặt câu tiếng
Việt trong cuốn Phép Giảng Tám Ngày đôi khi chưa được Việt lắm, điều này
dễ hiểu vì tác giả là một người Âu Châu tuy sử dụng tiếng Việt đã được 25 năm
nhưng chưa hoàn toàn thấm nhuần được pháp cú và văn pháp tiếng Việt, và cũng vì
cách lập luận của người Việt vốn khác xa với cách của người Âu Châu. Ngày nay,
người Việt Nam coi cha Đắc-Lộ là cha đẻ của chữ quốc ngữ, và mang ơn cha rất
nhiều vì sự tiện lợi rất lớn mà thứ chữ này đem lại so với chữ Nôm trước đây.
Đặc biệt, tới thế kỷ 19, các Kitô
hữu Việt Nam đã có Thánh Kinh bằng chữ quốc ngữ, do cố Schicklin (tiếng Việt
gọi là cố Chính Linh) dịch, với bản latinh ở bên để đối chiếu.
(Đã đăng trên Nguyệt san Công giáo và Dân tộc số
45, tháng 9-1998, và đã được chính tác giả gửi đăng trên Web site Simon Hòa
Đàlạt này. )
NGUYỄN CHÍNH KẾT