Công Cuộc Truyền Giáo
Tại Việt Nam
Vài dòng về lịch sử
Kitô giáo bắt đầu được truyền vào Việt Nam từ giữa
thế kỷ XVI, tới nay đã được 450 năm. Tiến trình truyền giáo ở Việt Nam có thể
chia thành sáu thời kỳ :
1. Thời
kỳ khai phá (1615-1659).
Các thừa sai đã đến Việt Nam từ năm 1533, nhưng
công cuộc truyền giáo chỉ trở nên qui mô từ khi có sự tiếp tay của các giáo sĩ
dòng Tên từ năm 1615, và bắt đầu khởi sắc lên từ năm 1627 khi Alexandre de
Rhodes và Pierre Marquez đến Việt Nam. Việc truyền giáo của các giáo sĩ dòng Tên
vào thời này tuy chưa đầy 50 năm, nhưng có qui mô, đường lối, có tổ chức và hệ
thống, nên kết quả rất tốt đẹp.
2. Thời
kỳ hình thành (1659-1799).
Năm 1659, Tòa Thánh bắt đầu lập hai giáo phận tại
Việt Nam và giao cho hai giám mục thuộc Hội Truyền giáo Balê tới cai quản. Năm
1668, các giám mục đã bắt đầu thành lập hàng giáo sĩ bản quốc với các linh mục
người Việt Nam.
Để tiếp tay đắc lực với hàng giáo sĩ trong công
cuộc truyền giáo, trong hàng ngũ giáo dân có những tổ chức như :
Các thầy
giảng được các giáo sĩ dòng Tên tuyển chọn và huấn luyện (đây là sáng kiến
của Alexandre de Rhodes). Các thầy dạy giáo lý tân tòng, quản trị tài sản cộng
đoàn, và có thể thay thế các giáo sĩ khi các ngài bị trục xuất.
Năm
1670, Dòng Mến Thánh Giá được thiết lập cho các phụ nữ bản xứ : các nữ
tu hằng ngày tiếp xúc và cứu giúp những người nghèo khổ, bệnh tật, truyền giáo
cho họ, rửa tội các em nhỏ hấp hối.
Tại
các họ đạo, có Hội Đồng Quí Chức, với ông chánh trương, ông câu, ông
trùm, ông biện, v.v... để giúp điều hành họ đạo, để bao bọc, che dấu, bảo toàn
các thừa sai, các thầy cả trong thời Giáo Hội bị bách hại, cấm cách, lo thăm
viếng, tiếp tế lương thực, củng cố niềm tin cho những người bị bắt vì đạo, phải
sống cảnh tù đày.
Khó khăn lớn nhất thời kỳ này là chính quyền không
chấp nhận sự có mặt của các thừa sai nước ngoài trên đất nước Việt Nam. Nhưng
bất chấp các khó khăn, Giáo Hội Việt Nam vẫn lớn lên, và đã có được một cơ sở
vững chắc để tồn tại và phát triển với ba giáo phận, khoảng 70 linh mục Việt
Nam và trên 350.000 giáo hữu. Các giáo phận cũng như các họ đạo đều được tổ
chức một cách rất chặt chẽ, qui củ.
3. Thời
kỳ thử thách đau thương (1800-1884).
Càng về sau, các nhà vua càng nghi ngờ và lo sợ về
sự có mặt và ảnh hưởng của các thừa sai nước ngoài, nhất là sợ các thừa sai và
người công giáo ủng hộ những thế lực phản loạn muốn cướp ngôi vua. Vì thế, các
nhà vua đã ra lệnh cấm đạo càng ngày càng gắt gao. Số Kitô hữu bị bắt và bị
giết vì trung thành với Chúa Kitô lên đến 130.000 người, trong đó có 117 người
được Đức Gioan-Phaolô II phong hiển thánh năm 1988.
Mặc dù bị truy nã gắt gao và khốn khổ như thế, đạo
công giáo vẫn phát triển không ngừng. Vào những năm 1884- 1885, ở Việt Nam đã có : 8 giáo phận, với 683.000
giáo hữu (gần gấp đôi so với đầu thế kỷ 18), và 365 linh mục (gấp hơn 5 lần so
với đầu thế kỷ 18).
4. Thời
kỳ phát triển (1885-1945).
Công giáo Việt Nam chỉ thật sự được tự do và công
khai hoạt động sau khi Pháp đặt nền cai trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam (1884- 1885).
Thời này, Giáo Hội Việt Nam phát triển mạnh. Cụ thể
nhất là các cơ sở vật chất được xây dựng một cách qui mô. Chỉ trong 50 năm,
Giáo Hội công giáo đã xây dựng :
15
giáo phận với 15 tòa giám mục kiên cố và khang trang.
Hầu
như giáo phận nào cũng có tiểu chủng viện. Và trong 15 giáo phận, có 8 đại
chủng viện.
Có
3.000 nhà thờ và trên 2.000 nhà nguyện được xây kiên cố, to lớn.
Về sinh hoạt truyền giáo, Giáo Hội lập các nhà in,
xây trường học, lập các cơ sở từ thiện, khẩn hoang và chiêu dân lập ấp để tập
trung các tân tòng hầu dễ sinh hoạt. Về văn hóa và tu đức, có rất nhiều tác
phẩm ra đời.
Năm 1933, Giáo Hội Việt Nam bắt đầu có giám mục đầu
tiên người bản xứ là Đức Giám mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng. Sau đó, nhiều
giáo phận mới được thành lập, và nhiều giám mục Việt Nam được tấn phong.
Kết quả của thời kỳ phát triển này là : cuối năm
1938, số giáo hữu lên tới 1.500.000 người (gấp 2,2 lần so với cuối thế kỷ 19,
tức 50 năm trước) với 979 linh mục (gấp 2,7 lần so với cuối thế kỷ 19).
5. Thời
kỳ bất ổn vì chiến tranh (1945-1975).
Năm 1945, Pháp thất trận ở Đông Dương, và sau tìm
cách trở lại Việt Nam, nhưng phải đương đầu với một cuộc chiến tranh giải phóng
của người Việt gần 9 năm. Cuối cùng, Pháp phải rút lui khỏi Việt Nam theo Hiệp
Định Genève 21-7-1954. Hiệp định này chia Việt Nam ra thành hai miền với hai
chế độ khác nhau : miền Bắc với chế độ cộng sản, miền Nam với chế độ tư bản.
Vì sống trong hai chế độ thù nghịch nhau, nên Giáo
Hội miền Bắc và miền Nam không liên lạc được với nhau, không tiếp ứng và trợ
giúp nhau được. Sự phân chia đất nước làm Giáo Hội miền Bắc thiệt hại rất
nhiều. Trong cuộc di cư 1954- 1955, rất nhiều giáo sĩ,
tu sĩ nam nữ và 650.000 giáo hữu miền Bắc đã di cư vào miền Nam, khiến cho Giáo
Hội miền Bắc bị hụt hẫng, và cấu trúc của Giáo Hội miền Nam thay đổi rất nhiều.
Tại miền Bắc, quan hệ giữa Giáo Hội và nhà nước có
nhiều khó khăn, đôi bên nghi ngờ nhau, thiếu sự cảm thông, nên sự phát triển
của Giáo Hội bị rất nhiều hạn chế. Sau cuộc di cư, 10 giáo phận ở miền Bắc chỉ
còn có 7 giám mục, 374 linh mục, và một số ít tu sĩ, với số tín hữu là 750.000.
Vì số linh mục cũ ngày càng mất đi mà không có thêm linh mục mới, nên Giáo Hội
miền Bắc bị thiếu linh mục trầm trọng.
Tại miền Nam, quan hệ giữa Giáo Hội và nhà nước
tương đối tốt đẹp, nên sự phát triển của Giáo Hội tương đối thuận lợi. Năm
1957, Giáo Hội miền Nam có 1.168.000 giáo dân, 250 đại chủng sinh, 1.670 thầy
giảng và 1.264 linh mục.
Ngày 24-11-1960, Đức Gioan XXIII thiết lập Hàng
Giáo Phẩm Việt Nam, phục vụ cho 3 Giáo Tỉnh : Hà Nội, Huế, Sài Gòn.
Trong giai đoạn này có nhiều bất ổn gây ra do cuộc
nội chiến giữa miền Bắc và miền Nam, mà sự bất ổn lớn nhất là nỗi lo sợ triền
miên trước sự đe dọa của chủ nghĩa vô thần được trình bày và được cảm nhận như
là mục tiêu của một chế độ xã hội. Chính sự lo sợ triền miên này đã làm cho
Giáo Hội công giáo có lúc hoảng hốt, có lúc co cụm, và luôn luôn ở trong một tư
thế tự vệ...
6. Thời
kỳ chuyển hướng (1975 đến nay).
Ngày 30-4-1975, chế độ chính trị ở miền Nam sụp đổ.
Nước Việt Nam trở thành một quốc gia thống nhất theo chế độ cộng sản hay xã hội
chủ nghĩa. Một số đồng bào không đồng quan điểm chính trị với chế độ mới đã
vượt biên ra nước ngoài, trong đó có 15% người công giáo. Tại nước nhà, Giáo
Hội vẫn tiếp tục phát triển trong tinh thần : Sống Phúc Âm và hòa mình giữa
lòng dân tộc.
Trong thời kỳ này, vẫn có một số giám mục mới, một
số linh mục mới được thụ phong, các chủng viện, dòng tu vẫn hoạt động, nhưng
trong những điều kiện hạn chế và khó khăn hơn trước đây. Quan hệ giữa Giáo Hội
và nhà nước khởi đầu có rất nhiều khó khăn, nhưng càng ngày càng có hy vọng trở
nên tốt đẹp hơn, hiểu nhau hơn, bớt nghi ngờ nhau hơn.
Ngày 19-6-1988, tại Công trường Thánh Phêrô, 117
thánh tử đạo Việt Nam đã được Đức Gioan-Phaolô II long trọng tôn phong hiển
thánh. Đó là kết quả của những thế kỷ đầu truyền giáo tại Việt Nam, và cũng là
hạt giống nảy sinh nên các Kitô hữu hiện nay.
Giáo Hội Việt Nam hiện nay có 25 giáo phận với
4.500.000 tín hữu (gấp 3 lần so với năm 1938, hay 60 năm trước), tức 6,16% so
với tổng số 73.000.000 dân. Hàng giáo phẩm và giáo sĩ gồm trên 30 giám mục,
trên 1.850 linh mục (gấp 2 lần so với năm 1938). Có 6 đại chủng viện với khoảng
850 chủng sinh. Có 16 dòng nam và 7 tu hội đời nam với khoảng 1.250 nam tu. Có
trên 50 nhà dòng nữ và 8 tu hội đời nữ với khoảng 8.800 nữ tu.
Còn tại hải ngoại, cộng đồng công giáo Việt Nam
định cư trong 27 quốc gia, gồm khoảng 300.000 tín hữu (tức khoảng 15% so với
tổng số người Việt Nam ở hải ngoại), với khoảng 670 linh mục, 30 tu sĩ, 30 phó
tế vĩnh viễn, 95 đại chủng sinh và 240 nữ tu.
Việc truyền giáo hiện nay
Từ 30-4-1975 đến nay, có rất nhiều giáo dân từ miền
Bắc, miền Trung di chuyển vào miền Nam, từ thành thị di chuyển về thôn quê rồi
ngược lại, nên có sự tăng giảm đột ngột về số giáo dân. Nói chung, tại các giáo
phận, số giáo dân hầu như luôn luôn tăng lên hằng năm, nhưng vì dân số trong
các giáo phận cũng tăng, nên tỷ lệ giữa tín hữu và dân số tại một số giáo phận
tăng rất ít, nhiều khi bị sút giảm.
Trong các năm 1973, 1990 và 1993, tại 3 giáo tỉnh
của Việt Nam, tỷ lệ giữa số giáo dân và dân số như sau :
Giáo
tỉnh Hà Nội
số giáo dân : 830.000 - 1.769.000 - 1.892.081
/ dân số : 14.665.891 - 30.424.000 -
33.957.600
tỷ lệ : 5,69 % - 5,81 %
- 5,57 %
Giáo
tỉnh Huế
số giáo dân : 542.718 - 515.642
- 553.770
/ dân số : 6.003.315 - 9.700.000
- 10.460.100
tỷ
lệ : 9,04
% - 5,31 % - 5,29 %
Giáo
tỉnh TP.HCM
số giáo dân : 1.307.058 - 2.057.334
- 2.195.826
/ dân số : 11.323.937 - 23.162.000
- 25.840.000
tỷ
lệ : 11,54
% - 8,88 % - 8,49 %
Như vậy, tại giáo tỉnh Hà Nội, tỷ lệ tăng lên 1,2%
rồi giảm đi 2,4% Tại giáo tỉnh Huế, tỷ lệ giảm 37,3% rồi lại tiếp tục giảm 0,2%
Tại giáo tỉnh TP. Hồ Chí Minh, tỷ lệ giảm 26,6% rồi giảm tiếp 3,9%. Nói chung,
tại cả ba giáo tỉnh, so sánh 2 năm trước giải phóng và 20 năm sau thì số người
công giáo tuy có tăng lên, nhưng so với dân số thì tỷ lệ có giảm : Giáo tỉnh Hà
Nội giảm 1,2%