HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
GIÁO DỤC HÔM NAY, XÃ HỘI
VÀ GIÁO HỘI NGÀY MAI
THƯ CHUNG 2007 VỀ GIÁO DỤC
KITÔ GIÁO
Kính gửi: Cộng đồng Dân Chúa Việt Nam.
LỜI MỞ
1. Từ Đại Hội Hội Đồng Giám Mục
Việt Nam lần thứ X tổ chức tại Toà Tổng Giám Mục Hà-nội từ 08 đến 12-10-2007,
chúng tôi, Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục thuộc 26 giáo phận Việt Nam, xin gửi
lời chào thân ái và lời chúc bình an đến toàn thể cộng đồng Dân Chúa Việt Nam,
trong nước cũng như hải ngoại. Đặc biệt, trong tình hiệp thông liên đới và lời
cầu nguyện, chúng tôi bày tỏ niềm cảm thông và phân ưu sâu sắc đối với các thân
nhân và nạn nhân vụ sập cầu Cần Thơ ngày 26-09-2007 và cơn bão số 5 (Lekima)
ngày 02-10-2007.
2. Anh chị em thân mến, Với các
thư trước, chúng ta đã đào sâu việc thực hành đức tin qua phong cách sống mầu
nhiệm Thánh Thể (2004), sống Lời Chúa (2005) và sống Đạo (2006). Tiếp tục theo
đuổi định hướng đó và trong viễn ảnh chúng ta đang chuẩn bị kỷ niệm 50 năm
thành lập hàng Giáo phẩm vào năm 2010, Thư Chung năm nay lấy giáo dục Kitô giáo
làm chủ đề. Điều đó thật đúng lúc khi mà khắp nơi trên thế giới, giáo dục đang
là một vấn đề thời sự nóng bỏng và đặc biệt hơn nữa, tại Việt Nam, nhiều người
cho rằng đã đến lúc cần phải cương quyết nói không với tiêu cực và bệnh thành
tích trong giáo dục.
3. Mục đích của nền giáo dục Kitô
giáo không chỉ là rèn luyện nhân cách con người thành hữu ích đối với bản thân,
gia đình và xã hội, mà còn là giúp con người sống xứng đáng với tư cách con
Thiên Chúa để mai sau trở thành công dân nước trời. Sứ mạng đó được khơi nguồn
từ Chúa Cha, được thực hiện nơi Chúa Con và được kiện toàn nhờ Chúa Thánh Thần.
I. NỀN TẢNG GIÁO DỤC
KITÔ GIÁO
CHÚA CHA VÀ CÔNG TRÌNH TẠO DỰNG.
4. Công trình giáo dục Kitô giáo,
trước khi là công khó của con người, đã là kế hoạch của Thiên Chúa. Khi tạo
dựng con người giống hình ảnh Ngài, ban cho con người khả năng đạt tới chân lý
và tự do (x. Hc 17, 3 &7), Thiên Chúa Cha đã định hướng công trình sáng tạo
vũ trụ của Ngài bằng một đường lối sư phạm mềm dẻo phù hợp với lợi ích và thái
độ đón nhận của con người. Thuở ban đầu, vì Dân Ngài chọn còn cứng lòng nên
Thiên Chúa xem ra nghiêm khắc (x. Lv 26, 14-46; Đnl 28, 15-45), nhưng dần dà,
từng bước một, Ngài tỏ cho họ thấy Ngài vẫn là một Thiên Chúa “thành tín trong
mọi lời Ngài phán, đầy yêu thương trong mọi việc Ngài làm” (Tv 144, 13b).
CHÚA CON VÀ TIN MỪNG CỨU ĐỘ
5. Đường lối sư phạm của Chúa Cha
cốt là để chuẩn bị cho Chúa Con đến “dạy dỗ loài người mong chờ và đón nhận ơn
cứu độ”. Chính Chúa Giêsu cũng khẳng định mình “là đường, là sự thật và là sự
sống” (Ga 6, 14). Muốn nắm bí quyết sự sống đích thật, con người phải đến thụ
huấn tại trường học của Chúa Giêsu. Nhưng học nơi trường Chúa Giêsu không chỉ
là học làm người theo nghĩa nhân bản mà còn là học “nên hoàn thiện như Cha trên
trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).
CHÚA THÁNH THẦN VÀ VAI TRÒ TÁC THÀNH
6. Những con người đầu tiên xuất
thân từ trường học của Chúa Giêsu là các tông đồ. Chúa Giêsu là thầy dạy nhưng
chính Thánh Thần mới là Đấng tác động để giáo huấn của Chúa Giêsu, qua lời rao
giảng của tông đồ, trở thành sức mạnh biến đổi tâm hồn người nghe. Nhờ Thánh
Thần, Thánh Phaolô đã cảm thấy lời rao giảng của ngài được đón nhận ‘như chính
Lời Thiên Chúa’ (x. 1 Thes 2, 13). Ngài còn quả quyết: “Thần Khí làm cho anh em
nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên: Abba, Cha ơi” (Rm 8, 14-17).
GIÁO HỘI VÀ SỨ MẠNG GIÁO DỤC.
7. Trước khi về trời, Chúa Giêsu
đã trao cho Giáo Hội sứ mạng lên đường dạy dỗ muôn dân. Từ đó, giáo dục trở
thành sứ mạng gắn liền với sự hiện diện của Giáo Hội giữa lòng thế giới. Giáo
Hội chính là người Mẹ “săn sóc toàn diện đời sống con người, kể cả đời sống
trần thế, trong mức độ liên hệ với lời mời gọi của Thiên Chúa. Vì thế Giáo Hội
thông phần vào việc mở mang và phát huy nền giáo dục” (TN/GD, lời mở đầu). Sứ
mạng của Giáo Hội là tạo điều kiện để mọi người đều được hưởng một nền giáo dục
Kitô giáo (x. TN/GD 2).
Sứ mạng đó được thể hiện thế nào
trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, đó là vấn nạn cần phải đặt ra, nếu chúng ta
muốn có những định hướng cụ thể cho sứ mạng giáo dục Kitô giáo của Giáo Hội
Việt Nam.
II. HIỆN TÌNH GIÁO
DỤC KITÔ GIÁO TẠI VIỆT NAM
NHỮNG DẤU HIỆU LẠC QUAN.
8. Dù còn phải đối diện với vô
vàn khó khăn của thời đại – cơn khủng hoảng về chân lý, về các giá trị đạo đức,
chủ nghĩa tương đối – lãnh vực giáo dục hiện nay, trong môi trường xã hội cũng
như Giáo Hội, đã được quan tâm hơn và đang có những chuyển biến tích cực. Về
phía xã hội, hiện đang có nhiều nỗ lực lành mạnh hóa môi trường giáo dục, bài
trừ bệnh thành tích và tiêu cực trong học hành thi cử. Về phía phụ huynh, không
ít người sẵn sàng chắt chiu dành dụm từng đồng cho con cái ăn học. Những trung
tâm luyện thi, lớp ngoại khóa mọc lên như nấm khắp nơi mà vẫn không đủ đáp ứng
nhu cầu học viên mỗi lúc một gia tăng.
9. Về phía người Công giáo, sự
hiện diện của giới trẻ trong môi trường giáo dục xã hội đã phần nào được bình
thường hóa: lý lịch Thiên Chúa Giáo không còn bị kỳ thị và phân loại như trước
đây. Nhờ đó, số sinh viên Công giáo bậc đại học đã tăng lên đáng kể, ngay cả
tại những miền thôn quê. Trong lãnh vực đức tin, các lớp giáo lý dự tòng và hôn
nhân ngày càng đông học viên cho thấy giới trẻ Việt Nam ngày nay, ngược với
trào lưu dửng dưng tôn giáo phương Tây, vẫn còn quí trọng những giá trị Kitô
giáo.
10. Những tiến bộ khoa học kỹ
thuật và tin học ngày càng được xử dụng rộng rãi hơn trong mọi lãnh vực xã hội,
cũng đã góp phần không nhỏ vào công cuộc hiện đại hóa ngành giáo dục trong xã
hội cũng như Giáo Hội.
NHỮNG MỐI QUAN NGẠI.
11. Tuy nhiên, bên cạnh những dấu
hiệu lạc quan, cũng không thiếu những điều đáng quan ngại. Trước hết phải kể
đến những lệch lạc trong quan niệm về giáo dục. Do ảnh hưởng của não trạng duy
kinh tế, nền giáo dục gia đình đang bị khủng hoảng. Vì phải chạy theo công ăn
việc làm, người ta không còn dành thì giờ cho các cuộc sum họp đầm ấm gia đình,
những bữa ăn đông đủ càng lúc càng hiếm hoi. Tương quan vợ chồng, cha mẹ, con
cái vì thế mà mỗi lúc một lỏng lẻo suy yếu. Hậu quả là môi trường gia đình, vốn
được mệnh danh là “mái ấm”, không còn nồng nàn tình cảm như xưa.
Chủ nghĩa khoa bảng cũng đang gây
ra nguy cơ đưa gia đình vào thái độ háo danh. Bậc phụ huynh và ngay cả con cái,
muốn có bằng cấp chủ yếu là để được nở mày nở mặt, để có công ăn việc làm tốt,
mà quên đi rằng mục đích cao đẹp nhất của giáo dục là “ngày nay học tập ngày
mai giúp đời”.
12. Điều cũng đáng quan ngại là
bất cập trong phương cách giáo dục. Hình như người ta chỉ quan tâm đến việc đáp
ứng nhu cầu phát triển kinh tế mà coi nhẹ chiều kích phẩm cách làm người. Học
sinh đến trường nghĩ đến đối phó với thi cử nhiều hơn là học làm người. Nhà
trường quan tâm đến chỉ tiêu và kỳ tích nhiều hơn là đến sứ vụ xây dựng thực
lực cho học sinh.
13. Chủ nghĩa giáo điều trong
giảng dạy vẫn còn là một hiện tượng khá phổ biến. Thầy cô thường dạy cho học
sinh cách sao chép nguyên mẫu kiến thức, ấn định những bài văn mẫu, làm bài
theo đáp án mẫu nhiều hơn là huấn luyện họ biết sáng tạo, tìm tòi bằng chính nỗ
lực riêng của mình.
14. Mặt trái của phương tiện truyền
thông cũng là một trong những yếu tố tác hại giáo dục. Tuy góp phần thắp lên
nhiều điểm sáng về những giá trị nhân bản, truyền thông cũng tạo cơ hội cho
nhiều lạm dụng đáng tiếc. Vì thiếu ý thức, người sử dụng – phần lớn là giới trẻ
– thay vì thận trọng gạn lọc để tiếp thu tinh hoa, lại sa vào cạm bẫy của những
loại hình văn hóa phi đạo đức.
15. Trong lãnh vực đức tin, nhiều
bậc phụ huynh công giáo, kể cả các vị mục tử, vẫn còn lơ là hoặc thiếu trách
nhiệm trong việc thông truyền đức tin cho con cái, không tổ chức hoặc không lo
lắng cho con em tham dự những lớp giáo lý tại giáo xứ.
Một số nơi, giáo lý vẫn còn bị
xem là những bài lý thuyết cần phải thuộc lòng để được lãnh bí tích. Việc giảng
dạy chưa thực sự có phương pháp sư phạm phù hợp và chưa đi với chứng từ sống
động của người rao truyền.
Những bất cập trên đây đòi chúng
ta phải điều chỉnh lại cung cách giáo dục đức tin cho đúng tinh thần Tin Mừng.
Cụ thể là phải đề ra phương hướng để hành động cho Kitô hữu Việt Nam trong giai
đoạn lịch sử hiện nay.
III. ĐỊNH HƯỚNG GIÁO
DỤC KITÔ GIÁO.
16. Ý thức sứ mạng quan trọng đối
với tương lai Giáo Hội và tiền đồ dân tộc, Giáo Hội Việt Nam muốn dấn thân
trong sự nghiệp giáo dục để thực hiện sứ mạng loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu
Kitô cho mọi người cách hiệu quả và thiết thực hơn. Trong tinh thần đó, chúng
tôi kêu gọi những người có trách nhiệm giáo dục và mọi Kitô hữu Việt Nam hãy
chú trọng hơn nữa đến sứ mạng cao cả này, một sứ mạng mang nhiều đặc tính biệt
loại so với nền giáo dục xã hội trần thế.
MỘT SỨ MẠNG MANG TÍNH PHỔ CẬP
17. Cũng như Đức Giêsu được sai
đến với muôn dân (xem Lc 4, 18-19), Giáo hội cũng có sứ mạng đem Tin Mừng đến
cho mọi người (Mc 16, 15), không phân biệt thành phần, đẳng cấp xã hội hay điều
kiện kinh tế. Sứ mạng đó không phải chỉ là sứ mạng của riêng thành phần nào,
nhưng bao trùm toàn thể Giáo Hội mọi nơi mọi thời, mỗi cá nhân và mỗi cộng đoàn
(x. TH/KTHGD 1).
18. Sứ mạng đó bắt đầu bằng công
cuộc nhập thế do công đồng Vatican II đề ra. Trước khi truyền đạt đức tin, Giáo
Hội có sứ mạng “phục vụ lợi ích của xã hội trần thế và xây dựng một thế giới
nhân đạo hơn” (TN/GD 3). Muốn vậy, Giáo Hội cần phải có chỗ đứng trong nền giáo
dục của bất kỳ thể chế xã hội nào. Tại Việt Nam, điều đáng lạc quan là giáo
dục, từ trước vẫn được coi là lãnh vực độc quyền của Nhà Nước, nay đã được “xã
hội hóa”. Theo định hướng đó, tư nhân, thậm chí người nước ngoài, có quyền mở
trường tư thục.
19. Nhưng cũng đáng tiếc là đối
với các tổ chức tôn giáo tại Việt nam, cánh cửa giáo dục vẫn còn khép chặt :
tôn giáo chỉ có quyền mở trường tư thục cấp mẫu giáo. Dù vẫn không ngừng nỗ lực
làm tất cả những gì được phép để thể hiện sứ mệnh nhập thế, như mở lớp tình
thương, lập quỹ học bổng cho học sinh nghèo hoặc khuyết tật, Giáo Hội công
giáo, với tư cách là tổ chức tôn giáo, đành phải đứng bên lề sự nghiệp giáo dục
của xã hội Việt nam và, vì không có quyền nhập cuộc, đành đóng vai một quan sát
viên bất đắc dĩ.
20. Trong lãnh vực đức tin, có lẽ
hình ảnh đẹp nhất để diễn tả nét sinh động của nền giáo dục Kitô giáo là hình
ảnh cành nho của Chúa Giêsu (x. Ga 15, 16). Hình ảnh đó đặc biệt rõ nét hơn
trong hoạt động của các giáo lý viên. Họ giống như những cành nho gắn liền với
thân nho là Chúa Kitô, hút nhựa sống Lời Chúa từ thân cây là Chúa Giêsu để
chuyển đến các học viên bằng chứng từ rao giảng và thực thi huấn lệnh Chúa.
21. Theo nghĩa đó, mọi Kitô hữu
chúng ta đều là giáo lý viên, bởi vì qua bí tích rửa tội, chúng ta được mời gọi
tham gia vào một công trình giáo dục trong đó, theo lời Đức Gioan Phaolô II,
“mỗi chúng ta vừa là đích điểm, vừa là khởi điểm của việc huấn luyện: chúng ta
càng tự rèn luyện mình, càng có khả năng huấn luyện người khác” (TH/KTHGD 7). Học
và dạy cũng là củng cố đức tin cho mình và cho anh chị em mình (x. Lc 22,
31-33). Bao lâu còn là phần tử của Giáo Hội lữ hành, chúng ta còn là học trò và
còn là thầy dậy đức tin bằng chứng từ cuộc sống của chúng ta.
CÁC ĐỐI TƯỢNG ƯU TIÊN
22. Tính phổ cập của nền giáo dục
Kitô giáo một mặt không miễn trừ trách nhiệm cho bất kỳ ai, một mặt cũng đòi
buộc Kitô hữu không được loại trừ bất kỳ đối tượng nào. Muốn thế, Kitô hữu cần
quan tâm hơn đến những thành phần thường bị xã hội ruồng rẫy, khinh miệt, lãng quên:
người thất học, trẻ em không có điều kiện đến trường, thành phần cô lập do mặc
cảm hay bị kỳ thị. Chúa Giêsu khẳng định rằng sứ mệnh hàng đầu của Ngài là loan
báo Tin Mừng cho người nghèo khó, lao tù, mù lòa, bị áp bức (Lc 4, 18ss).
23. Trong bối cảnh công nghiệp
hóa của những xã hội đang phát triển, nghề nông thủ công truyền thống không còn
đủ lợi tức nuôi sống người lao động, rất nhiều người trong họ không còn con
đường nào khác hơn là trở thành di dân về thành thị tìm công ăn việc làm. Họ
phải chịu bao nhiêu thứ thiếu thốn thiệt thòi cả về vật chất lẫn tinh thần trên
đất khách quê người. Để có thể duy trì phần nào đời sống đức tin có nguy cơ bị
công ăn việc làm vùi dập. Họ cần phải hòa mình vào bầu khí đạo đức của các giáo
xứ nơi họ tạm cư. Cha xứ và giáo xứ địa phương cũng cần phải sẵn lòng nâng đỡ,
chia sẻ, đón tiếp dân, tạo điều kiện để họ sớm hội nhập vào các sinh họat đạo
đức và văn hóa nơi họ sinh sống. Lời Chúa và khung cảnh tình thân của giáo xứ
là môi trường và là điều kiện cần thiết để an ủi và khích lệ đức tin của họ nơi
Thiên Chúa, Đấng có đủ quyền năng biến cảnh sống tha hương của họ thành cuộc
hành hương đầy ý nghĩa hướng về Quê Trời.
24. Thiếu nhi và giới trẻ cũng là
những thành phần rất đáng quan tâm ở hàng ưu tiên. Thiếu nhi, những trang giấy
trắng đang chờ in những hình ảnh tươi đẹp, cần phải được thụ hưởng một nền giáo
dục chân chính về nội dung và hiệu quả về phương pháp, làm vốn liếng hành trang
hữu ích cho suốt cuộc hành trình làm người và đức tin.
25. Giới trẻ, “tương lai của Giáo
Hội và thế giới” (HT/VH 38), cần phải nhận được sự hướng dẫn tận tình từ các
nhà giáo dục và các thế hệ đi trước để nhiệt huyết tuổi trẻ của họ thực sự được
vận dụng vào công cuộc xây dựng xã hội và Giáo Hội.
MÔI TRƯỜNG GIÁO DỤC
26. Trách nhiệm giáo dục đức tin
thuộc về mọi Kitô hữu. Tuy vậy, trong thực tế, các “nhà giáo” mới thực sự là
những người được trao phó trách nhiệm giáo dục nguyên nghiệp. Đức Gioan Phaolô
II trong Tông Huấn Kitô Hữu Giáo Dân đã thiết tha kêu gọi các giáo viên đang
giảng dạy tại các trường Công giáo hay không Công giáo tích cực làm nhân chứng
cho Tin Mừng (x. TH/KTHGD 6). Như thế ngoài cuộc sống mẫu mực của một nhà giáo,
họ còn là đại sứ của Đức Kitô nơi học đường bằng chính đời sống và lương tâm
Kitô hữu. Mọi người sẽ nhìn thấy họ mà gặp được Thiên Chúa.
27. Đại chủng viện và Học viện
Công giáo, những trung tâm giáo dục có hệ thống nhân sự và phương tiện đầy đủ
nhất, phải đóng đúng vai trò của mình bằng việc “đào tạo những người sẽ đảm
nhận công việc huấn luyện giáo dân” (x. TH/KTHGD 7). Các cơ sở này không những
chỉ cung cấp cho Giáo Hội những thầy giáo, mà còn đào tạo các môn đệ của Chúa
Giêsu. Mỗi học viên sẽ rời học viện vào một lúc nào đó khi mãn trường hay khi
đi nhận một nhiệm vụ mới, nhưng không bao giờ rời trường học của Chúa Giêsu, vị
Thầy muôn thuở của các nhà giáo dục đào tạo.
28. Gia đình là Giáo Hội tại gia,
là trường học tự nhiên và căn bản trong nền giáo dục Kitô giáo. Mọi thành viên
của gia đình, ông bà, cha mẹ và các anh chị em sống đạo nhiệt thành làm thành truyền
thống đức tin gia đình. Nơi đây, đức tin được truyền thụ qua những lời cầu
nguyện, lời nhủ bảo, đặc biệt trong những biến cố vui buồn của cuộc sống và qua
những mẫu gương đức tin. Gia đình còn là “chiếc nôi của sự sống và tình yêu”
(GHXH/GH 209) giúp các phần tử gia đình cảm nghiệm tình yêu và lòng trung thành
của Thiên Chúa, đồng thời cũng giúp hình dung trước những mối tương quan liên
vị trong xã hội.
29. Trong nền giáo dục Kitô giáo,
gia đình không thể tách rời khỏi giáo xứ. Nếu tại gia đình, đức tin được truyền
thụ bằng phương pháp tiếp cận và thực hành, những bài học được giảng dạy ngay
giữa thực tế. Tại giáo xứ, đức tin được thông truyền nhờ giảng giải và việc cử
hành phụng vụ. Chính khi đối chiếu và đón nhận cảm tưởng của nhau, đoàn kết yêu
thương nhau và cầu nguyện chung với nhau, đức tin của Kitô hữu được nuôi dưỡng
và củng cố.
30. Với những lớp huấn giáo là
những phương cách căn bản của giáo dục Kitô giáo, cha xứ cùng với các giảng
viên sẽ chịu trách nhiệm khai tâm Kitô giáo và huấn giáo cho các học viên chuẩn
bị lãnh các bí tích. Tại đây, giáo dân có môi trường thể hiện đức tin với các
thành phần khác của cộng đòan và được tham dự cách ý thức vào các giờ kinh lễ,
phụng vụ, bí tích. Đó là những hình thức tham gia trực tiếp và hữu hiệu vào công
trình giáo dục Kitô giáo (x. TN/GD 4).
31. Cùng với giáo xứ, các tổ
chức, các đoàn thể Công Giáo và cộng đoàn Giáo Hội cơ bản cũng là những môi
trường không thể thiếu để giáo dục Kitô giáo được triển nở tòan vẹn và quân
bình.
TÍNH TOÀN DIỆN CỦA GIÁO DỤC KTÔ GIÁO
32. Là Mẹ và là Thầy, Giáo Hội
Công giáo có bổn phận thông truyền cho mọi người, nhất là các Kitô hữu, một nền
giáo dục toàn vẹn. Mục tiêu hàng đầu của giáo dục Kitô giáo là đức tin. Giáo
dục đức tin không chỉ là truyền lại cho tín hữu những định tín, nhưng còn giúp
cho tín hữu sống đức tin ấy trong cuộc sống cụ thể, vì ‘đức tin không có việc
làm là đức tin chết’ (Gia. 2, 17). Các tín hữu, nhờ được huấn luyện, sẽ trở
thành men, thành muối và ánh sáng cho trần gian.
33. Vì con người là linh hồn nhập
thể, khi giáo dục đức tin, Giáo Hội cũng nhằm đến giáo dục con người toàn diện
để giúp họ nhận ra phẩm giá của mình. Khi ý thức sâu sắc về phẩm giá của mình,
Kitô hữu cũng nhận lấy sứ mạng để sẵn sàng lên đường loan truyền Tin Mừng Chúa
Kitô cho người chưa tin và củng cố lòng tin của anh chị em mình. Phẩm giá Kitô
hữu luôn là những bài học suốt đời còn tiếp tục, vì tín hữu mãi là khách hành
hương. Phẩm giá ấy đang hình thành và sẽ chỉ thành toàn vào ngày cánh chung.
Cũng như sứ mạng tín hữu mãi mãi là được sai đi, tới cánh đồng lúa chín đang
thiếu thợ gặt (x. Mt 9, 37). Vấn đề giáo dục Kitô giáo ở đây hôm nay là quyết
tâm bồi dưỡng phẩm giá để thực thi sứ mạng và càng biết thực thi sứ mạng, phẩm
giá lại càng được củng cố hơn.
34. Con người sống trong xã hội
không phải là một ốc đảo, nhưng liên đới với nhau trong niềm vui cũng như ưu
sầu. Xã hội tính là một nét nổi bật của con người. Giáo dục Kitô giáo góp phần
cổ võ tình liên đới, làm cho con người có trách nhiệm với nhau, trách nhiệm đối
với xã hội và công ích, cùng xây dựng một cuộc sống tốt đẹp an bình.
35. Luôn ý thức về sứ mạng làm
chứng cho Chân lý, Giáo Hội của Đức Kitô trải qua mọi thời đại đã góp tiếng nói
của mình qua những giáo huấn mang tính xã hội. Nhờ đó, Giáo Hội chia sẻ với
nhân loại ‘những vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng’ (x. GS 1). Với giáo
huấn của mình, Giáo Hội tìm cách công bố Tin Mừng và làm cho Tin Mừng hiện diện
trong hệ thống các mối quan hệ xã hội. Khi đưa ra những chủ trương và đường lối
của mình trong lãnh vực xã hội, Giáo Hội thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình
trước những trào lưu đi ngược lại với giáo huấn Tin Mừng và đạo đức xã hội.
36. Giáo dục Kitô giáo còn nhấn
mạnh việc huấn luyện lương tâm: Huấn luyện lương tâm không chỉ là giảng dạy cho
nhau những mệnh lệnh của hệ thống luật luân lý nhưng còn là tập cho nhau hồn
nhiên lắng nghe lòng mình phán đoán thiện ác. Bởi vì “lương tâm là luật tự
nhiên vốn phản ảnh phẩm giá con người và đặt nền tảng cho các nghĩa vụ căn bản
của con người” (GHXH/GH 140), nên “lương tâm ngay thẳng càng thắng thế thì
những cá nhân càng tránh được độc đoán, mù quáng và càng nỗ lực tuân phục những
tiêu chuẩn khách quan của luân lý” (GS 16). Khi có lương tâm ngay thẳng, con
người sẽ dễ dàng cộng tác để xây dựng cuộc sống công bằng, tôn trọng phảm giá
và sự sống con người hơn.
37. Sau hết, vì luôn là một sinh
họat gắn liền với một không gian nhất định, giáo dục phải được liên kết với
truyền thống văn hóa của không gian ấy. Đặt vấn đề giáo dục Kitô giáo tại Việt
Nam có nghĩa là đặt vấn đề phát huy truyền thống văn hóa Việt Nam. Dân tộc
chúng ta luôn tự hào về tinh thần hiếu học, tôn sư trọng đạo. Truyền thống ấy
nếu trong quá khứ đã góp phần làm phong phú nền văn hóa Việt Nam và sản sinh
những danh nhân làm vẻ vang đất nước, thì nay phải trở thành một trong những
tiêu chí của nền giáo dục Kitô giáo tại Việt Nam.
38. Giáo dục là cả một công trình
lâu dài không thể hoàn thành ngay. Tuy nhiên từng bước một, cần phải đưa ra
những mục tiêu mũi nhọn cho từng giai đoạn. Đại hội năm nay đề ra phương hướng
chấn chỉnh lại nền giáo dục Kitô giáo tại Việt Nam, có nghĩa là phương hướng đó
sẽ được thể hiện trong những năm tới. Cụ thể, chúng tôi kêu gọi mọi thành phần
Dân Chúa hãy thực hiện ba bước sau đây:
- 2008: chấn chỉnh môi trường
giáo dục gia đình công giáo.
- 2009: chấn chỉnh việc đào tạo
giáo lý viên.
- 2010: chấn chỉnh cơ sở giáo dục
các giáo xứ.
LỜI KẾT
39. Anh chị em thân mến,
Giáo dục Kitô giáo là công trình
học và sống làm con người và làm con Chúa. Đây là trách nhiệm của mọi Kitô hữu
mọi nơi mọi thời. Thế hệ trước có trách nhiệm chuyển giao đức tin cho thế hệ
sau. Thế hệ sau tiếp nhận, củng cố và bàn giao cho thế hệ hậu sinh. Lịch sử là
một cuộc hành trình qua đó Kitô hữu chia sẻ đức tin cho nhau dưới sự soi dẫn
của Chúa Thánh Thần.
Giáo dục Kitô giáo còn là một sứ
mạng cấp bách. Sự thay đổi choáng ngợp của nền văn minh thời đại không cho phép
chúng ta chần chừ trì hoãn, nếu không muốn bị đẩy vào nguy cơ tụt hậu. Hơn bao
giờ hết phương châm mà chúng ta phải nêu cao là: “Giáo dục hôm nay, xã hội và
Giáo Hội ngày mai”.
Dưới sự bảo trợ của Mẹ La Vang,
thánh Giuse, các thánh Tử Đạo Việt Nam, xin mời anh chị em cùng chung vai gánh
vác mọi phận vụ của công trình giáo dục Kitô giáo để, với đức tin sống động,
Giáo Hội Việt Nam sẽ nỗ lực làm vinh danh Chúa hơn và góp phần xây dựng hạnh
phúc cho mọi người. Hiệp thông cùng anh chị em trong tâm tình cảm tạ và tôn
vinh Thiên Chúa.
Hà Nội ngày 12 tháng 10 năm 2007
+ Phêrô NGUYỄN VĂN
NHƠN
Chủ tịch HĐGM/VN
+ Giuse NGÔ QUANG KIỆT
Tổng thư ký HĐGM/VN
-------------------------
Những chữ viết tắt:
- TN/GD: Tuyên Ngôn về Giáo Dục
- HT/VH: Huấn Thị về Văn Hoá
- TĐ/TCLTY: Thông Điệp Thiên Chúa là Tình Yêu
- TH/KTHGD: Tông Huấn Kitô Hữu Giáo Dân
- GS: Hiến chế
Gaudium et Spes
- GHXH/GH: Giáo
huấn Xã hội của Giáo Hội
- PO: Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis.