VIẾNG MỘ HAI
THÁNH TÔNG ĐỒ PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ
(VISITA “AD
LIMINA SANCTORUM APOSTOLORUM PETRI ET PAULI”)
WHĐ – Ngày 20 tháng 6 tới đây, Hội đồng Giám mục
Việt Nam sẽ lên đường sang Rôma viếng mộ hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô,
quen gọi là ad limina. Đây là chuyến đi có ý nghĩa và tầm vóc quan trọng đối
với HĐGMVN cũng như với cộng đồng Dân Chúa tại Việt Nam. Vì thế, chúng tôi đã
xin Đức Ông Phanxicô Borgia Trần Văn Khả – một linh mục Việt Nam đã làm việc
lâu năm tại Rôma – trình bày cho bạn đọc về ý nghĩa và mục đích của chuyến đi
ad limina này. Đức Ông đã vui vẻ nhận lời và gửi cho chúng tôi bài viết hết sức
phong phú. Xin chân thành cảm ơn Đức Ông Phanxicô và xin trân trọng giới thiệu
bài viết này với tất cả anh chị em tín hữu Công giáo Việt Nam, để chúng ta cùng
hiệp thông trong tâm tình cầu nguyện cho chuyến đi của HĐGMVN.
Từ ngày 23 tháng 6 đến ngày 5 tháng 7 năm 2009,
Đức Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, các Đức Tổng Giám mục, Giám mục Việt
Nam, sẽ tới Rôma để thực hiện cuộc Viếng Mộ Hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô –
thường được gọi là visita ad limina - theo luật định và thể hiện tình
hiệp thông với Đức Thánh Cha cũng như với các Cơ quan tại trung ương của Tòa
Thánh. Vậy đâu là ý nghĩa của hành vi có tính cách giáo hội này?
I. Diễn tiến cuộc viếng mộ Hai Thánh Tông Đồ Phêrô
và Phaolô
Cuộc viếng thăm này được quy định rõ ràng trong
các luật lệ chính thức của Bộ Giáo Luật. Khoản Giáo luật 400 định rõ là các
giám mục giáo phận có bổn phận chính mình phải thực hiện cuộc viếng thăm này và
quy định những việc ngài phải làm trong cuộc Viếng thăm chính thức này. Khoản
giáo luật nói như sau: (1) “Vào đúng năm đệ nạp bản phúc trình lên Đức Giáo
Hoàng, nếu Tông Tòa không ấn định cách khác, giám mục giáo phận phải về Rôma để
viếng mộ các thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô và phải yết kiến Đức Giáo Hoàng. (2)
Giám mục phải tự mình chu toàn nghĩa vụ nói trên, trừ khi bị ngăn trở chính
đáng; trong trường hợp này, ngài phải nhờ giám mục phó, nếu có, hoặc giám mục
phụ tá, hay một tư tế khác có khả năng xứng hợp thuộc linh mục đoàn hiện đang
cư ngụ trong giáo phận của ngài để thay thế ngài chu toàn nghĩa vụ đó. (3) Vị
đại diện tông tòa có thể nhờ một người đại diện để thay thế ngài chu toàn nghĩa
vụ đó, ngay cả khi họ đang ở Rôma; vị phủ doãn tông tòa không có nghĩa vụ này”1
.
Trong vòng năm năm, giám mục giáo phận, vị đại
diện tông tòa phải gửi một bản tường trình2 về tình hình giáo phận
gửi lên Đức Giáo Hoàng. Khoản giáo luật 399, 1 nói về bản phúc trình 5 năm như
sau: “Cứ năm năm một lần, giám mục giáo phận phải đệ nạp lên Đức Giáo Hoàng
bản phúc trình về tình trạng của giáo phận đã được ủy thác cho ngài, theo biểu
mẫu và vào thời điểm theo Tông Tòa ấn định”. Các điều khoản này cũng được
nhắc lại vào năm 1988 trong Tông hiến Pastor Bonus về việc cải tổ Giáo
triều Rôma3.
Ngoài việc gặp Đức Giáo Hoàng, các giám mục cũng
lo gặp các Bộ4 hay các cơ quan khác của Giáo triều Rôma5.
Điểm này Bộ Giáo Luật không nói tới, nhưng Tông hiến Pastor Bonus đã ghi
nhận thêm như sau: “Các cuộc viếng Mộ Hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô cũng
liên hệ tới các Bộ và các cơ quan khác của Giáo Triều Rôma. Quả thế, nhờ các
cuộc tiếp xúc này, mà một cuộc đối thoại giữa các giám mục và Tòa Thánh được
tiến triển và đào sâu, các thông tin hỗ tương từ hai bên cũng được trao đổi,
các lời cố vấn cũng như gợi ý thiết thực cũng được đưa ra từ hai phía để mưu
cầu lợi ý lớn nhất và sự tiến triển cũng như việc tuân thủ kỷ luật chung của
Giáo Hội”6.
Tóm lại qua các văn kiện trên đây, chúng ta thấy
các điểm kỷ luật liên hệ tới cuộc Viếng mộ Hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô.
Các điểm này là:
– Những người có bổn phận thực hiện cuộc viếng
thăm này: là giám mục giáo phận, giám quản tông tòa; hoặc giám mục phó, giám
mục phụ tá thay cho giám mục giáo phận, hay một linh mục khác trong giáo phận
(trong trường hợp không có giám mục phó hay không có giám mục phụ tá), khi giám
mục giáo phận bị ngăn trở. Vị phủ doãn tông tòa không bị bắt buộc thi hành
nghĩa vụ viếng mộ Hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô.
– Công việc tại Rôma: khi tới Rôma, giám
mục giáo phận phải gặp Đức Giáo Hoàng. Riêng về việc gặp các Bộ và các
Cơ quan trung ương của Tòa Thánh, thì đây là điều được khuyến khích vì ích
lợi chung cho cả giám mục và cho các cơ quan này, vì ích lợi lớn hơn cho Giáo
Hội. Các giám mục thuộc Nghi lễ Đông phương thực hiện cuộc gặp gỡ với Bộ các
Giáo Hội Đông Phương. Bộ này có thẩm quyền bao gồm hầu hết các vấn đề, mà trong
Nghi lễ Latinh, thì thẩm quyền thường được chia ra cho các Bộ và các Cơ quan khác
nhau.
– Các lễ nghi: biến cố giáo hội Viếng Mộ Hai Thánh
Tông đồ Phêrô và Phaolô được biểu lộ cách cụ thể qua hành vi và lễ nghi thực
hiện tại hai Vương Cung Thánh đường lớn tại Rôma, đó là Nhà thờ Thánh Phêrô,
nơi có mộ Thánh Tông đồ Phêrô, và Nhà thờ Thánh Phaolô ở ngoại thành Rôma, nơi
có mộ Thánh Tông đồ Phaolô. Đây là thời điểm đặc biệt của sứ vụ cầu nguyện7
mà giám mục phải thi hành, riêng một mình và với các giám mục anh em khác, cũng
như với cộng đoàn giáo dân của mình. Vì thế các buổi cử hành phụng vụ và cầu
nguyện tại Mộ Hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô mang một ý nghĩa mục vụ sâu xa8.
Các giám mục liên hệ có thể cử hành Thánh Lễ trên mộ Hai Thánh Tông đồ cả, hay
cử hành một lễ nghi phụng vụ, lễ nghi đạo đức nào khác tại đây. Sau đó các giám
mục vào trong Phòng Thánh của hai đền thờ này để ký sổ ghi nhận cuộc Viếng Mộ
hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô của tất cả các giám mục trên thế giới. Các
nơi này cũng có thể gửi tới mỗi vị một chứng chỉ đã thi hành bổn phận này.
– Đoàn dân trong giáo phận: trong khi phân tích
diễn tiến và các yếu tố của cuộc viếng thăm chính thức này, người ta thấy nói
tới các giám mục mà thôi. Đúng thế, vì đó là phận vụ các ngài phải thi hành.
Tuy nhiên các giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân của các giáo phận của các giám mục
có liên hệ gì tới biến cố giáo hội này không? Câu trả lời là: có liên hệ. Vì
đây là biến cố của giám mục giáo phận, vì thế cũng liên hệ tới sinh hoạt của
toàn thể giáo phận. Điều này được hiểu trong khía cạnh hiệp thông và khía cạnh
cụ thể thực tế. Tất cả giáo phận cùng hiệp thông với giám mục của mình trong
khi ngài đến Rôma để tỏ tình hiệp thông với Giám mục Rôma và với Vị Thủ lãnh
của toàn thể Giáo Hội. Trong hành động này ngài cũng nói lên với Đức Giáo Hoàng
trọn vẹn sự hiệp thông của giáo đoàn được trao phó cho ngài coi sóc. Trong khía
cạnh cụ thể và thực tế, việc giám mục đi Rôma cần được thu xếp và thông báo cho
tín hữu trong giáo phận biết để các việc mục vụ cần tới thừa tác vụ giám mục
không bị gián đoạn hay bị nhỡ nhàng vì sự vắng mặt của ngài9. Vì thế
Giám mục cần thông báo cho các thành phần dân Chúa trong giáo phận biết để cùng
hiệp thông, cầu nguyện cho Đức Thánh Cha, cho Giáo Hội hoàn vũ, cho chính giám
mục của mình, cho giáo phận. Tại một số nơi, với hoàn cảnh cho phép, một số vị
cộng tác gần gũi nhất của giám mục, một số giáo dân khác, cùng tháp tùng vị
giám mục trong chuyến Viếng Thăm visita ad limina này, để khi đến Rôma,
họ tham dự các lễ nghi cử hành trên Mộ Hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, để
cùng cầu nguyện với giám mục của mình. Điều này cũng cho thấy Giáo Hội địa
phương đang nhắc lại cách cụ thể mối dây nối kết đích thực với Mộ Hai Thánh
Tông đồ Phêrô và Phaolô, nền tảng và biểu hiệu của Giáo Hội hoàn vũ10.
Các tín hữu thuộc giáo phận hiện đang ở tại Rôma, cũng được mời tham dự hai
buổi lễ nghi này. Nhưng phải tránh để không gây phiền hà cho sự hồi tâm tinh
thần của vị giám mục và cho thời giờ của giám mục trong cuộc viếng thăm này.
– Trước khi tới Rôma, các giám mục phải đệ trình
lên Đức Giáo Hoàng một bản tường trình về tình hình giáo phận trong năm
năm vừa qua, cho thấy các thực tại của giáo phận, các lo âu, các hy vọng, vui
mừng và các vấn đề của giáo phận11. Khoản Giáo luật 399 nói như sau:
“Cứ năm năm một lần, giám mục giáo phận phải đệ nạp lên Đức Giáo Hoàng bản
phúc trình về tình trạng của giáo phận đã được ủy thác cho ngài, theo biểu mẫu
và vào thời điểm theo Tông Tòa ấn định”12. Như vậy Giáo
luật cũng nói rõ về thời hạn phải làm phúc trình, cách thức làm bản phúc trình.
Thông thường Bộ Giám Mục13 và Bộ Rao giảng Tin Mừng cho các Dân tộc
đã gửi mẫu sẵn cho các giám mục để làm các bản tường trình ngũ niên. Hai Bộ này
sẽ nghiên cứu tìm hiểu các Bản tường trình và làm một bản tóm tắt gửi lên Phủ
Quốc Vụ Khanh, cũng như gửi tới các Bộ khác những phần liên hệ tới từng Bộ, để
như vậy khi các giám mục đến gặp từng Bộ thì tình hình của từng giáo phận đã
được nghiên cứu trước tại mỗi Bộ14. Rồi sau khi đã nhận được các soi
sáng, hướng dẫn, gợi ý của Đức Thánh Cha15 và các Cơ quan khác của
Tòa Thánh, giám mục sẽ đem về thông báo cho tín hữu trong giáo phận để đem thi
hành trong bối cảnh cụ thể của từng giáo đoàn16.
II. Ý nghĩa cuộc viếng thăm ad limina
Qua những điều vừa được trình bày trên đây, chúng
ta đã thấy được một vài ý nghĩa của Viếng thăm Ad limina của vị giám mục
giáo phận. Bộ Giám Mục trong Văn kiện về các Cuộc Thăm Viếng ad limina đã
tóm lại các yếu tố chính của cuộc viếng thăm này như sau: “Các Cuộc viếng
thăm này phải được chuẩn bị kỹ lưỡng, làm sao để 3 giai đoạn chính làm nên Cuộc
Viếng thăm này – hành hương và tôn kính mộ Thánh Tông Đồ cả, cuộc gặp Đức Thánh
Cha và các buổi trao đổi tại các Bộ của Giáo Triều Rôma được thể hiện một cách
tốt đẹp và đem lại kết quả tích cực”17.
1. Phận vụ của một giám mục giáo phận
Bộ Giáo luật khẳng định rõ ràng về nhiệm vụ của
giám mục giáo phận đi Viếng Mộ Hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô. Định chế này
trở thành luật buộc đối với các giám mục giáo phận. Đó là kết quả của một
truyền thống lâu đời trong Giáo Hội ngay từ thời xa xưa về lòng súng kính của
tín hữu với Hai Thánh Tông Đồ Cả của Giáo Hội và với nơi các Ngài đã chịu tử
đạo tại Rôma. Vào thời Trung cổ việc viếng mộ và tỏ lòng tôn kính các phần mộ
của các thánh lớn, như Thánh Giacobê tại Compostella (Tây Ban Nha), nhất là với
Hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô tại Rôma, là một thói tục rất phổ thông, vẫn
còn lưu truyền lại nơi các tín hữu, nhưng nhất là đối với các Giám Mục18.
Đức Giáo Hoàng Sisto V, với Sắc lệnh Romanus Pontifex, ban hành ngày
20-12-1585, đã thiết lập việc viếng Mộ Thánh theo định kỳ này như một luật buộc
các giám mục. Từ ngày 1 tháng giêng năm 1911, thì Tòa Thánh xác định thời gian
là 5 năm các giám mục giáo phận phải gửi bản tường trình giáo phận về cho Tòa
Thánh, và thực hiện cuộc thăm viếng này. Năm thứ nhất của chu kỳ 5 năm
này, dành cho các giám mục Nước Ý; năm thứ II, các giám mục Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha, Pháp, Bỉ, Hòa Lan, Anh, Thụy Điển, Ái Nhĩ Lan, Năm thứ ba, dành cho các
giám mục của các nước khác còn lại ở Âu Châu; Năm thứ bốn, các giám mục của Mỹ
Châu; Sau cùng, năm thứ năm dành cho các giám mục từ Phi Châu, Á Châu, Úc Đại
Lợi và các đảo khác chung quanh Úc Đại Lợi. Nhưng các nước ngoài Âu Châu, thì
cứ 10 năm thực hiện cuộc viếng thăm này một lần. Các Vị Đại Diện tông tòa ở các
xứ truyền giáo xa xôi, thì có thể nhờ một linh mục ngụ tại Rôma thực hiện hoạt
động này19. Ngày nay, Giáo Luật mới buộc tất cả giám mục thực hiện
cuộc viếng thăm này theo chu kỳ 5 năm một lần.
Trong cuộc viếng thăm này, vị Giám Mục cũng còn
gặp Người Kế Vị thánh Phêrô. Đó là việc thứ hai phải làm. Ngày xưa Phaolô đã
lên Giêrusalem để gặp gỡ Phêrô và ở lại Giêrusalem 15 ngày20. Bây
giờ Cuộc viếng thăm ad limina là cuộc gặp gỡ được thể hiện giữa các giám
mục là những người kế vị các Thánh Tông Đồ, là Đại diện và sứ giả của Chúa Kitô
tại các giáo hội địa phương, với Đức Giáo Hoàng, là Vị Đại diện của Chúa Kitô
và kế vị Thánh Phêrô, là Thủ Lãnh hữu hình của toàn thể Giáo Hội21.
Đàng khác vì các giám mục mỗi nước thường đi chung
với nhau để thực hiện cuộc Viếng ad limina, hoặc nếu đông quá thì đi
theo từng Giáo tỉnh, nên đây cũng là một dịp để các giám mục chia sẻ với nhau
những giây phút cầu nguyện, chia sẻ những kinh nghiệm của vị mục tử, thực hiện
các cuộc hành hương chung, và nhất là sống những ngày huynh đệ chân thành, sống
đậm đà tình hiệp thông trong một khung cảnh rất đặc biệt, bên Mộ Hai Thánh Tông
Đồ Phêrô và Phaolô. Tại nước mình, các giám mục đã họp nhau trong các buổi họp
của Hội Đồng Giám mục và các dịp khác, các ngài cũng có những ngày sống huynh
đệ, tuy nhiên ở trong một bối cảnh khác, được giới hạn của một Giáo Hội địa
phương, còn trong thời gian Thăm Viếng ad limina những ngày sống huynh
đệ này mang một chiều kích sâu đậm hơn, với chính Đức Thánh Cha, với các cộng
sự viên của Đức Thánh Cha trong việc cai quản Giáo Hội và qua Đức Thánh Cha,
các ngài hiệp thông với các giám mục khác trên thế giới22.
2. Tình hiệp thông
trong Giáo Hội
Một nét đậm khác của Cuộc Viếng Thăm ad limina,
đó là tình hiệp thông mang tính cách giáo hội học (communio
ecclesialis) rõ ràng. Các giám mục thực hiện Cuộc Viếng Thăm ad limina,
để nói lên tình hiệp thông với Đức Thánh Cha là Vị Đại diện Chúa Kitô, là Thủ
Lãnh của Giáo Hội; qua các giám mục, Giáo Hội địa phương biểu lộ tình hiệp
thông với Đức Thánh Cha và với Giáo Hội hoàn vũ.
Trong sinh hoạt bình thường, từ ngữ hiệp thông
ngày nay trở nên một từ rất quen thuộc, nằm trên đầu môi của nhiều người. Từ
hiệp thông trong tiếng latinh Communio, và ghép lại từ hai từ cum +
unio (unum), cho thấy tính cách cùng sống, cùng làm, cùng ăn, cùng chịu,
muôn người như một. Từ ngữ này mang tính cách sống động của sự việc hiệp nhất,
việc chia sẻ, hòa đồng, làm cùng nhịp điệu, và tất cả như cùng chia sẻ một sức
sống, một kho tàng và một vận mệnh. Hiệp thông mang tính cách linh động và mời
gọi. Hiểu như vậy Giáo Hội được coi là Giáo Hội hiệp thông, vì trong Giáo Hội
có nhiều phần tử khác biệt, đa dạng nhưng lại quy về một là Chúa Kitô và Giáo
Hội23. Nhưng việc này cũng chưa hoàn tất, vì thế mỗi người được mời
gọi để sống tình hiệp thông giáo hội và xây dựng tình hiệp thông này. Một trong
những điểm căn bản để diễn tả trung thực và chân chính bản tính của Giáo Hội,
đó là trình bày “Giáo Hội như mối hiệp thông và do đó ấn định những mối liên
hệ hỗ tương phải có giữa Giáo Hội địa phương và Giáo Hội phổ quát, giữa tập
đoàn tính và quyền tối thượng”24.
Trong Tân Ước, bản Hy lạp 70, từ ngữ hiệp thông
Koienia được dùng 16 lần và hầu hết trong các thư của Thánh Phaolô25.
Các bản dịch đã diễn tả khác nhau, đôi khi cũng làm giảm đi ý nghĩa nguyên thủy
rất phong phú của từ ngữ Koienia này. Sự hiệp thông được biểu lộ ra
trong liên hệ với Chúa Cha (1Ga 1, 3), với Chúa Kitô (1Cr 1, 9; 1Ga
1, 3. 6), với cuộc tử nạn của Đức Kitô (Pl 3, 10), với Thịt Mình Chúa
Kitô (1Cr 10, 11.16), hiệp thông với Chúa Thánh Thần (2Cr 13, 13;
Pl 2, 1), với các Tông đồ (Gl 2, 9; 1Ga 1, 3), với
cộng đoàn tín hữu (Cv 2, 42; 1Ga 1, 7), hiệp thông của đức tin (Pl
6), với ánh sáng (2Cr 6, 14), với việc rao giảng Tin Mừng (Pl 1,
5), với người nghèo khổ, các thánh (Rm 15, 26; 2Cr 8, 4; 9, 13; Dt
13, 16). Tất cả các nghĩa này cho chúng ta một cái nhìn chung về tình hiệp
thông trong Giáo Hội: tình hiệp thông này bắt nguồn từ Chúa Cha, trong Chúa
Giêsu Kitô, được nuôi dưỡng và làm tăng trưởng nhờ Chúa Thánh Thần, nhờ đó tín
hữu hiệp thông với các Thánh Tông đồ và truyền lại từ các Thánh Tông đồ (communio
apostolica), với các anh chị em khác, với các người nghèo khổ, với các
thánh, sự hiệp thông này được thực hiện trong ánh sáng của Chúa Kitô và trong
đức tin vào Ngài. Sự hiệp thông này cũng bắt buộc các tín hữu phải ra đi rao
truyền Tin Mừng của Chúa Kitô, nghĩa làm cho nhiều người nhận biết Tin Mừng này26,
nghĩa là được nhận vào sự hiệp thông của Chúa Ba Ngôi. Đây là sự hiệp thông mà
các giám mục được kêu gọi để sống, thực hiện và trở nên tông đồ, nên thừa tác
viên của sự hiệp thông này, mà Việc Thăm Viếng ad limina là một trong
những biểu hiệu cụ thể.
Tôi tớ Chúa Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói
về sự hiệp thông trong Giáo Hội như một điều chắc chắn đã đoạt được, như Ngài
viết trong văn kiện ban hành Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo vào năm 1992.
Ngài nói về Sách Giáo Lý này như là một dụng cụ của sự hiệp thông mang tính
cách giáo hội (communio ecclesialis), Ngài giới thiệu Sách Giáo Lý
này như là một hình thức phục vụ mà Người Kế Vị Thánh Phêrô gửi tới các Giáo
Hội địa phương đang hiệp thông với Tòa Thánh, còn các tín hữu phải tiếp
nhận Sách Giáo Lý này trong tinh thần hiệp thông với Giáo Hội27.
Chính Sách Giáo Lý28 đã trình bày Giáo
Hội như là Giáo Hội hiệp thông: “Chính việc hiệp thông các thánh là Giáo
Hội”29.
Giáo Hội hiệp thông này phát xuất từ sự hiệp thông
chính yếu và sâu xa nhất của Ba Ngội Thiên Chúa. Công đồng Vaticanô II, trong
Hiến chế tín lý về Giáo Hội Ánh Sáng muôn dân, sau khi đã trình bày vai
trò của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong việc thiết lập và xây dựng
Giáo Hội, và liên kết mọi người lại, đã nói như sau: “Như thế Giáo Hội phổ
quát xuất hiện như một dân tộc hiệp nhất nhờ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha30,
Chúa Con31 và Chúa Thánh Thần32” (s.
4).
Một nguồn mạch khác của sự hiệp thông của Giáo
Hội, đó là Thánh Thể. Hiến chế tín lý về Giáo Hội Ánh sáng muôn dân nói
như sau: “Bí tích Thánh Thể cũng biểu thị và thực hiện sự hiệp nhất các tín
hữu là những kẻ hợp thành một thân thể trong Chúa Kitô”33. Như
vậy chúng ta có từ hiệp thông nói chung (communio) và thuật ngữ hiệp
thông Thánh Thể (Communio eucharistica, communio sacramentalis) để
diễn tả những thực tại thật sâu xa nhưng lại đi liền với nhau. Chính vì thế
Công đồng Vaticanô II khuyến khích những ai đi tham dự Thánh Lễ hãy cố gắng để
có thể rước lễ: “Rất đáng khuyến khích các tín hữu tham dự Thánh Lễ hoàn hảo
hơn, bằng cách, sau khi linh mục rước lễ, họ cũng lãnh nhận Mình Chúa trong
cùng một Hy Lễ đó”34. Vì Thánh Lễ làm nên Giáo Hội
Hiệp thông35 và việc rước lễ bảo tồn và làm tăng trưởng sự Hiệp
thông giáo hội này. Như vậy việc rước lễ không chỉ là hành động bí tích
mang tính cách cá nhân, nhưng là hành động có tính cách giáo hội, liên hệ tới
Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI cho việc rước lễ có tính cách xã hội.
Ngài nói như sau: “Bây giờ chúng ta chú tâm vào một điểm khác: sự “thần bí”
của bí tích có tính cách xã hội, vì khi hiệp lễ, tôi được kết hợp với Chúa cũng
như với mọi người cùng hiệp lễ: “Bởi vì chỉ có một tấm bánh, và tất cả chúng ta
chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, nhưng chúng ta cũng chỉ là một
thân thể” (1Cr 10, 17). Việc kết hợp với Đức Kitô cũng đồng thời là một
sự kết hợp với những kẻ khác, với những người mà Chúa tự hiến tế cho. Tôi không
thể dành riêng Đức Kitô cho một mình tôi, tôi chỉ có thể thuộc về Người trong
cộng đoàn cùng với những ai đã thuộc về Người hay sẽ thuộc về Người. Sự hiệp lễ
kéo tôi ra khỏi bản thân để để đến với Người và đồng thời đi vào sự hiệp nhất
với tất cả mọi Kitô hữu. Chúng ta trở thành “một thân thể”, một sự hiện hữu tan
biến vào trong nhau”36. Khi một người tham dự Thánh Lễ mà không
rước lễ, thì việc tham dự của họ không trọn vẹn và không hiện diện cách trọn
vẹn trong cộng đoàn Giáo Hội và không làm nên Giáo Hội cùng với anh chị em khác
một cách trọn vẹn. Họ làm giảm đi một hành động xây dựng Giáo Hội thật quan
trọng và thật hữu hiệu.
Đến đây chúng ta hiểu ra rằng Giáo Hội là hiệp
thông và quan điểm giáo hội học này được nhấn mạnh cách đặc biệt trong suy tư
của Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới, khóa họp thứ X, với chủ đề “Giám Mục,
người tôi tớ của Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô để mưu cầu niềm hy vọng cho thế
giới”, mà Tài liệu làm việc (Instrumentum laboris 2001) đã bàn sâu
rộng về “thừa tác vụ giám mục trong một giáo hội học của tình hiệp thông”37.
Sự hiệp thông này có căn gốc từ Chúa Ba Ngôi và Thánh Thể. Sự hiệp thông mang
tính cách giáo hội này được thể hiện ra trong cụ thể dưới nhiều hình thức. Các
giám mục khi đi Viếng ad limina – trong ý nghĩa trọn vẹn của từ này - ,
đang thể hiện sự hiệp thông với Đức Thánh Cha38, với Giáo Hội hoàn
vũ.
Trong bí tích truyền chức giám mục được ban một
cách trọn vẹn chức thánh của bí tích này và là nguồn gốc cho thừa tác linh mục
và phó tế. Ngài trở thành con người hiệp thông, dấu chỉ hiệp thông trong giáo
phận được trao phó cho giám mục. Giám mục cũng được tham dự vào sự hiệp thông
của Ba Ngôi Thiên Chúa như trong bài giảng Lễ nghi truyền chức giám mục diễn
tả. Giám mục chủ phong nói: “Vậy hiền đệ hãy quan tâm đến toàn thể đoàn
chiên: Chúa Thánh Thần đặt hiền đệ điều khiển Hội Thánh, nhân danh Chúa Cha mà
hiền đệ thể hiện hình ảnh của Người trong Hội Thánh, nhân danh Chúa Con của
Người là Đức Giêsu Kitô mà hiền đệ thi hành nhiệm vụ của Ngài là Thày, là Tư Tế
và là Mục Tử, và nhân danh Chúa Thánh Thần là Đấng ban phát sự sống cho Hội
Thánh Đức Kitô và là Đấng dùng sức mạnh của Người mà nâng đỡ sự yếu hèn của
chúng ta”39. Riêng với các Tổng giám mục đứng đầu một giáo tỉnh,
dây biểu chương (pallium) mà Đức Thánh Cha trao cho vị Tổng giám mục là
dấu chỉ sự hiệp thông với Tông Tòa. Trong Nghi lễ truyền chức cho một Tổng giám
mục chính toà, Giám mục chủ phong đọc lời sau đây, khi trao dây biểu chương (pallium)
như sau: “Hiền đệ hãy nhận lấy biểu chương phát xuất từ việc tuyên tín của
Thánh Phêrô40 mà, nhân danh Đức Thánh Cha (N. . .)
chúng tôi trao cho hiền đệ làm dấu chỉ nói lên quyền Tổng Giám mục, để hiền đệ
sử dụng trong phạm vi giáo tỉnh của mình. Chớ gì biểu chương này sẽ là biểu
tượng hiệp nhất, là dấu hiệu hiệp thông với Tòa Thánh, là mối dây liên kết bác
ái, và là động lực thúc đẩy sức mạnh cho hiền đệ!”41. Cảm nghiệm
được sự hiệp thông từ Thiên Chúa Ba Ngôi, giám mục trở nên một dấu chỉ về một
linh đạo hiệp thông và linh đạo này trở nên con đường nên thánh của giám mục và
cũng là phương tiện để giám mục thánh hóa dân Chúa được trao phó cho ngài: linh
mục, phó tế, nam nữ tu sĩ, tín hữu giáo dân, các nhân viên mục vụ, qua những
tiếp xúc cá nhân với họ hay trong những cuộc họp khi thi hành công tác mục vụ,
khi các giám mục lắng nghe họ, cộng tác, cũng như phân bổ các công việc mục vụ
trong giáo phận42. Ngược lại trong chính linh đạo hiệp thông này,
giám mục cảm thấy không cô đơn, lẻ loi, nhưng nhận được từ các anh em giám mục
khác, từ cộng đoàn dân Chúa, lòng bác ái huynh đệ, sự nâng đỡ và cộng tác chân
thành, nhất là bằng các lời cầu nguyện43.
Bây giờ trong khi đến Rôma để thực hiện cuộc Viếng
Mộ Hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, giám mục thể hiện linh đạo hiệp thông
trong một cách thế khác. Cuộc viếng thăm này thật quan trọng trong đời sống của
Giáo Hội địa phương và Giáo Hội hoàn vũ. Văn kiện Các chỉ thị của Bộ Giám Mục
viết: “Các cuộc vìếng thăm này có tầm mức quan trọng đặc biệt trong
đời sống Giáo Hội, bởi vì chúng đạt tới tột đỉnh của các liên hệ giữa các
mục tử của các Giáo Hội địa phương và Đức Giáo Hoàng. Quả vậy khi Đức Giáo
Hoàng tiếp các giám mục, là anh em trong hàng giám mục, cùng với các giám mục
bàn về các vấn đề liên hệ tới lợi ích của Giáo Hội và liên hệ tới sứ vụ mục tử
của các giám mục, Đức Giáo Hoàng cũng làm cho các giám mục được kiên vững và
nâng đỡ các ngài trong đức tin và trong đức ái. Như vậy hai bên tăng cường mối
liên hệ hiệp thông phẩm trật và làm cho rõ nét tính cách “công giáo” của Giáo
Hội và sự hiệp nhất của Giám mục đoàn”44.
Các suy tư về sự hiệp thông, vừa trình bày trên
đây, có mục đích giúp cho nhận ra Cuộc Viếng Thăm ad limina của các giám
mục có được nền tảng thần học theo khía cạnh giáo hội học, theo khía cạnh mục
vụ và theo Giáo Luật. Các nhà thần học ví Cuộc Viếng thăm ad limina này
như một việc lưu chuyển của máu, đi đi lại lại, có nhận có cho, và làm cho sự
sống trong con người luôn ở thế phát triển, lưu hành và đổi mới, từ phía Người
Kế Vị Thánh Phêrô, là Đức Giáo Hoàng, và các người Kế Vị các Thánh Tông Đồ, là
các giám mục45. Hình ảnh nhà tiệc ly (x. Cv 1, 12-14) thật
đẹp, trong đó Phêrô46 đứng đầu trong sự phục vụ và trong đức ái, có
các Thánh Tông đồ cùng ưu tư với Phêrô47 về sứ vụ hiệp thông và
truyền giáo, ở trên có Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn48, ở bên
cạnh có Mẹ Maria là Nữ Vương các Thánh Tông đồ và là Mẹ của sự Hiệp thông49.
Rồi từ nhà tiệc ly này Giáo Hội sẽ đi ra đón nhận muôn dân để nên một cộng đoàn
cứu rỗi cho mọi người50, để cùng nhau tiến tới sự trong sự hiệp
thông trọn vẹn trong Chúa Ba Ngôi: “Vì tất cả chúng ta đều là con cái Thiên
Chúa và hợp thành một gia đình trong Chúa Kitô (x. Dt 3, 6) , nên khi
hiệp thông với nhau trong tình yêu qua lời đồng thanh ca tụng Chúa Ba Ngôi chí
thánh, chúng ta cùng đáp lại lời mời gọi thân tình của Giáo Hội và được tham
dự, cảm mến trước phụng vụ vinh hiển toàn hảo51.
Rôma, ngày 1-6-2009
Lm. Phanxicô Borgia Trần Văn Khả
–––––––––––––––––
1 Bản dịch chính thức Bộ Giáo Luật của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Bộ
Giáo Luật 1983, Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội 2007.
2 Hằng năm Phủ Quốc Vụ Khanh gửi tới các giáo phận trên thế giới một bản câu
hỏi (Questionnaire) về các dự liệu trong giáo phận và gửi lại cho Phủ
Quốc Vụ Khanh để dùng mà cập nhật thống kê mỗi năm, cũng như để cho in vào Annuario
Pontificio mỗi năm. Hai bản tường trình này khác nhau.
3 Tông hiến Pastor Bonus, 28-6-1988, về việc cải tổ Giáo triều Rôma,
điều. 28-32 + Annexe, trong AAS 80, 1988, tr. 831-934; L’Osservatore
Romano, 29-06-1988.
4 Theo Annuario Pontificio 2009, có 6 Bộ đã được thành lập từ lâu đời
tại Tòa Thánh: Bộ Giáo Lý Đức Tin (Congregatio pro Doctrina Fidei), được
thành hình từ năm 1542, do Đức Giáo Hoàng Nicola III thiết lập, dưới tên gọi là
một “Ủy Ban”. Bộ Các Giáo Hội Đông Phương (Congregatio pro Ecclesiis
Orientalibus), trước đây trực thuộc Bộ Truyền Giáo, nhưng từ năm 1862, Đức
Giáo Hoàng Piô IX đã tách ra và thành lập một Bộ riêng, lo các vấn đề liên hệ
tới các giáo phận thuộc Nghi lễ công giáo đông phương. Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật
Bí Tích (Congregatio de Cultu Divino et Disciplina Sacramentorum), Bộ
này qua các thời Giáo Hoàng đã có những tên gọi khác nhau, theo như được tách
rời nhau hay được hợp nhất lại thành một. Tên gọi hiện thời trên đây có từ thời
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khi công bố Tông hiến Pastor Bonus, cải
tổ Giáo triều Rôma. Bộ Phong Thánh (Congregatio de Causis Sanctorum). Từ
năm 1588 Đức Giáo Hoàng Sisto V, quy định lại việc phong thánh trong Giáo Hội,
thì phận vụ này được trao cho Bộ Nghi Lễ. Dần dần về sau mới thành hình một Bộ
Phong Thánh riêng biệt ra như chúng ta thấy ngày nay. Bộ Giám Mục (Congregatio
pro Episcopis). Bộ này cũng do Đức Giáo Hoàng Sisto V thành lập vào năm
1588. Bộ Rao Giảng Tin Mừng cho các Dân Tộc (Congregatio pro Gentium
Evangelizatione) . Vào thời Đức Giáo Hoàng Pio V, Bộ này trực thuộc Hội
đồng các Hồng Y và lo việc truyền giáo cho các vùng Châu Âu phía đông, cũng như
ngoài Châu Âu, như tại Phi Châu, Á Châu, Châu Đại Dương. Năm 1599 Đức Giáo
Hoàng Clemente VIII thành lập Bộ Truyền Giáo, và với Tông hiến Pastor Bonus,
1988, Bộ đã đổi tên thành Bộ Rao Giảng Tin Mừng cho các Dân Tộc. Bộ Giáo Sĩ
(Congregatio pro Clericis) , được thành lập vào năm 1564, mang tên là Bộ
Công Đồng. Năm 1967 Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã đổi thành Bộ Giáo Sĩ. Bộ này lo
các vần đề thuộc hàng giáo sĩ , việc dạy giáo lý, lo về tài sản của Giáo Hội,
và các phép chuẩn cho linh mục và phó tế hồi tục. Bộ Các Hiệp Hội Đời sống
Thánh hiến và các Hiệp Hội Đời sống tông đồ (Congregatio pro Institutis
vitae consecratae et Societatibus vitae apostolicae). Bộ này được Đức Giáo
Hoàng Sisto V thành lập năm 1586. Bộ Giáo Dục Công giáo (Bộ Các Chủng viện và
các Học Viện cao đẳng) (Congregatio de Institutione Catholica [de Seminariis
atque Studiorum Institutis) . Bộ này được Đức Giáo Hoàng Sisto V thành lập
năm 1588. Ngoài 6 Bộ này Giáo Triều Rôma còn có 3 Tòa Án: Tòa Ân Giải Tối Cao (Paenitentiaria
Apostolica) lo các vấn đề về tòa trong và Ơn Xá; Tòa Thượng Thẩm Tông Tòa (Supremum
Tribunale Signaturae Apostolicae) lo xử các vụ án trong Giáo Hội đã được
công bố án lệnh ở Tòa dưới, cấp giáo phận; và Tòa Án tối cao về các vụ án hôn
phối (Rota Romana).
5 Các Cơ quan
khác tại Giáo Triều, theo Annuario Pontificio 2009, gồm có: Sau Công
Đồng Vaticanô II, với những ưu tư mới về các vấn đề được Công Đồng nêu ra và
ban hành qua các Sắc lệnh, các Tuyên Ngôn, Giáo Triều Rôma có thêm các Hội Đồng
Tòa Thánh: Về Giáo Dân (Pontificium Consilium pro Laicis, thành lập ngày
6-1-1967); Về Hiệp nhất các Kitô Hữu (Pontificium Consilium ad Unitatem
Christianorum fovendam, thành lập ngày 14-1-1963); Về Gia Đình (Pontificium
Consilium pro Familia, thành lập ngày 9-5-1981); Về Công Lý và Hòa Bình (Pontificium
Consilium de Iustitia et Pace, thành lập ngày 10-12-1976); Về việc
từ thiện bác ái của Giáo Hội “Đồng Tâm” (Pontificium Consilium “Cor Unum”,
thành lập ngày 15-7-1971); Về Mục Vụ cho những người Di Dân và Lưu Động
(Pontificium Consilium de Spirituali Migrantium atque Itinerantium Cura,
thành lập ngày 19-3-1970); Về Mục Vụ cho Các Nhân viên Y tế (Mục Vụ về
Sức khỏe) (Pontificium Consilium pro Valetudinis Administris [Pro
Pastorali Valetudinis Cura], thành lập ngày 11-2-1985); Về Giải thích Giáo luật
(Pontificium Consilium de Legum Textibus, thành lập ngày 15-9-1917, và
sau đó xác định lại ngày 11-7-1967); Về Đối thoại Liên Tôn (Pontificium
Consilium pro Dialogo inter Religiones, thành lập ngày 19-5-1964); Về
Văn Hóa (Pontificium Consilium de Cultura, thành lập ngày 20-5-1982);
Về truyền thông xã hội (Pontificium de Communicationibus Socialibus,
thành lập ngày 22-2-1959, sửa đổi lại ngày 2-4-1962) .
6 Tông hiến Pastor
Bonus, nt. s. 30.
7 Giám mục là
con ngưới câu nguyện và là thày dạy sự cầu nguyện, ngài có bổn phận chu toàn sứ
vụ cầu nguyện mục vụ và cầu nguyện tông đồ: Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới,
khóa Đại Hội thứ X, Giám Mục, người tôi tớ của Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô
để mưu cầu niềm hy vọng cho thế giới, Tài liệu làm việc, Vatican 2001, s.
47.
8 Thượng Hội
Đồng Giám Mục thế giới, khóa Đại Hội thứ X, Giám Mục, người tôi tớ của Tin
Mừng của Chúa Giêsu Kitô để mưu cầu niềm hy vọng cho thế giới, nt. , s. 70.
9 Về sự vắng
mặt của Giám mục giáo phận, Bộ Giáo Luật đã quy định rõ ràng trong điều 395,
như sau: §1. “Giám mục giáo phận buộc phải giữ luật đích thân cư trú trong
giáo phận mình, dù ngài đã có Giám Mục Phó hay Giám Mục phụ tá. §2. Trừ
khi đi viếng ad limina, đi dự các Công Đồng, Thượng Hội Đồng Giám Mục, Hội Đồng
Giám Mục, hay khi phải vắng mặt vì một phận vụ được ủy nhiệm cách hợp pháp,
Giám Mục giáo phận có thể vắng mặt khỏi giáo phận vì lý do chính đáng, nhưng
không quá một tháng, hoặc liên tục hoặc cách quãng, miễn là phải liệu sao để sự
vắng mặt của mình không gây thiệt hại nào cho giáo phận. §3. Giám Mục
giáo phận không được vắng mặt khỏi giáo phận trong ngày Lễ Giáng Sinh, Tuần
Thánh và Lễ Phục Sinh, Lễ Hiện Xuống và Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô, trừ khi có
một lý do nghiêm trọng và khẩn cấp. §4. Nếu Giám Mục vắng mặt khỏi giáo
phận cách bất hợp pháp quá sáu tháng. Tổng Giám Mục phải thông báo cho Tông Tòa
biết sự vắng mặt này; nếu Tổng Giám Mục vắng mặt bất hợp pháp, thì Giám Mục cao
niên nhất trong giáo tỉnh phải báo cáo”.
10 Thượng Hội
Đồng Giám Mục thế giới, khóa Đại Hội thứ X, Giám Mục, người tôi tớ của Tin
Mừng của Chúa Giêsu Kitô để mưu cầu niềm hy vọng cho thế giới, Tài liệu làm
việc, Vatican 2001, s. 70.
11 Nt. s. 69.
12 X. Bộ Giáo
Luật, khoản 400, 1: “Vào đúng năm đệ nạp bản phúc trình lên Đức Giáo Hoàng,
nếu Tông Tòa không ấn định cách khác, giám mục giáo phận phải về Rôma để viếng
mộ các thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô và phải yết kiến Đức Giáo Hoàng”.
13 Bộ Giám Mục đặc trách về các Giáo phận đã được chính thức thiết lập Hàng
Giáo phẩm. Còn Bộ Rao giảng Tin Mừng cho các Dân tộc thì đặc trách về các giáo
phận chưa được chính thức thành lập hàng Giáo Phẩm. Riêng về Việt Nam, năm 1960
Giáo Hội tại Việt Nam đã được thiết lập Hàng Giáo phẩm (x. Tông hiến Venerabilium
Nostrorum, 24-11-1960, của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII), nhưng vì lý do đặc
biệt, nên vẫn còn tùy thuộc Bộ Rao Giảmg Tin Mừng cho các Dân Tộc. Tại Á Châu
có Giáo Hội tại Phi Luật Tân là trực thực Bộ Giám Mục.
14 Trong cuộc gặp gỡ chung các giám mục của từng nước, thường Vị Chủ tịch Hội
Đồng Giám Mục thay mặt các giám mục có mặt ngỏ lời chào kính Đức Thánh Cha và
đồng thời cũng cho thấy những nét đại cương của Giáo Hội mà các giám mục là chủ
chăn, cũng như những khó khăn, nhu cầu, trong tư thế của Hội Đồng Giám Mục.
15 Qua bài đáp từ của Đức Thánh Cha trong cuộc gặp gỡ chung các giám mục, Đức
Thánh Cha cũng phân tích tình hình Giáo Hội địa phương và đưa ra một số những
chỉ dẫn, cũng như những gợi ý để các giám mục cùng suy tư và đem ra áp dụng
trong tư thế Hội Đồng Giám mục.
16 Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới, khóa Đại Hội thứ X, Giám Mục, người
tôi tớ của Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô để mưu cầu niềm hy vọng cho thế giới,
Tài liệu làm việc, Vatican 2001, s. 69.
17 X. Bộ Giám Mục, Chỉ Nam về Cuộc viếng thăm “Ad limina”, nt.
29-6-1988, s. II.
18 X. Bộ Giám Mục, Chỉ Nam về Cuộc viếng thăm
“Ad limina”, nt. 29-6-1988, s. II.
19 X. Vittorio Bartocetti, Visita ad limina, trong, Enciclopedia
Cattolica, vol. VII, Città del Vaticano, 1951, cột 1360-1361.
20 X. Gl 1, 18.
21 X. Bộ Giám Mục, Chỉ Nam, nt. s. V. X. Hiến chế tín lý về Giáo Hội Ánh
sáng muôn dân, s. 18.
22 Sắc lệnh về Nhiệm vụ mục vụ của các Giám Mục Chúa Kitô (Christus
Dominus), 28-10-1965, s. 3.
23 X. Hiến chế tín lý về Giáo Hội Ánh sáng muôn dân, s. 7.
24 Tông hiến ban hành Bộ Giáo Luật năm 1983, Sacrae Disciplinae Leges”
(Các luật lệ của kỷ luật thánh) trong Bộ Giáo Luật 1983, nt. , tr.
12.
25 Xin ghi lại đây các chỗ có dùng từ Koienia, hiệp thông : Cv
2, 42; Rm 15, 26; 1Cr 1, 9; 1Cr 10, 11.16; 2Cr 6,
14; 8, 4; 9, 13; 13, 13; Gl 2, 9; Pl 1, 5; 2, 1; 3, 10; Plm
6, Dt 13, 16; 1Ga 1, 3, 6. 7.
26 Sắc lệnh về Nhiệm vụ mục vụ của các Giám Mục Chúa Kitô (Christus
Dominus), 28-10-1965, s. 6.
27 ĐGH Gioan Phaolô II, Văn kiện ban hành Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công
Giáo, 11-10-1992, s. 4.
28 Thuật ngữ “hiệp thông” được coi như là chìa khóa để mở việc hiểu và đào
sâu Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo.
29 Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, s. 946-962.
30 Hiến chế Ánh sáng muôn dân nói về hành động kiến tạo Giáo Hội của
Chúa Cha như sau: “Bấy giờ, như chúng ta đọc thấy nơi các Thánh Giáo phụ,
mọi người công chính từ Ađam, “từ Abel công chính đến người được tuyển chọn
cuối cùng”, sẽ được tập họp trong Giáo Hội phổ quát bên Chúa Cha” (s. 2).
Xem thêm Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo của Giáo Hội Đến với muôn dân (Ad
gentes), (7-12-1965), s. 2.
31 Hiến chế Ánh sáng muôn dân nói về hành động kiến tạo Giáo Hội của
Chúa Con như sau:”Mọi người đều được mời gọi kết hiệp cùng Chúa Kitô như
vậy. Người là ánh sáng thế gian. Chúng ta phải phát xuất từ Người, sống nhờ
Người và hướng về Người” (s. 3). Xem thêm Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo
của Giáo Hội Đến với muôn dân (Ad gentes), (7-12-1965), s. 3.
32 Hiến chế Ánh sáng muôn dân nói về hành động kiến tạo Giáo Hội của
Chúa Thánh Thần như sau: “Khi công trình Chúa Cha trao phó cho Chúa Con thực
hiện trên trần gian đã hoàn tất (x. Ga 17, 4), Chúa Thánh Thần được sai
đến trong Ngày Lễ Ngũ Tuần để thánh hoá Giáo Hội mãi mãi và như thế những
ai tin sẽ được tới cùng Chúa Cha qua Chúa Kitô trong Giáo Hội duy nhất” (s. 4).
Xem thêm Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo của Giáo Hội Đến với muôn dân (Ad
gentes), (7-12-1965), s. 4.
33 Hiến chế tín lý về Giáo Hội Ánh sáng muôn dân, s. 3.
34 Hiến chế về Phụng vụ Thánh Công Đồng chung (4-12-1963), s. 55.
35 X. Gioan Phaolô II, Thông điệp Giáo Hội từ Thánh Thể, 17-4-2003.
Tất cả chương II nói về vấn đề này, mang tựa đề: “Thánh Thể xây dựng Giáo
Hội”.
36 Đức Giáo Hoàng Beneđicto XVI, Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu,
(25-12-2005), s. 14. Bản dịch Thông điệp Thiên Chúa Là Tình Yêu, do Ủy
Ban Giáo Lý Đức Tin, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam thực hiện và do Văn Phòng Thư
Ký Hội Đồng Giám Mục Việt Nam xuất bản, 2006.
37 X. Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới, khóa Đại Hội thứ X, Giám Mục,
người tôi tớ của Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô để mưu cầu niềm hy vọng cho thế
giới, Tài liệu làm việc, Vatican 2001, các số 61-74.
38 Bộ Giáo Luật cũng định nghĩa rõ ràng tính cách hiệp thông của Giáo Hội
trong khoản luật 204 triệt 2, như sau: “Được thiết lập và được tổ chức trên
trần gian này như một xã hội, Giáo Hội này tồn tại trong Giáo Hội Công giáo, do
Đấng kế vị thánh Phêrô và các Giám Mục hiệp thông với ngài cai quản”.
39 Nghi thức Phong chức Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế, dịch theo bản
mẫu 1990 và đã được Hội Nghị Giám Mục Việt Nam năm 1991 cho phép tạm dùng, tr.
35. Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới, khóa Đại Hội thứ X, Giám Mục, người
tôi tớ của Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô để mưu cầu niềm hy vọng cho thế giới,
Tài liệu làm việc, Vatican 2001, s. 39.
40 Theo Nghi lễ trao biểu chương (Pallium), thì trước khi Đức Thánh
Cha trao dây biểu chương cho các tân Tổng Giám Mục được bổ nhiệm trong năm đó,
các dây biểu chương này được đặt trên mộ của Thánh Phêrô Tông đồ tại Đền thờ
Thánh Phêrô ở Vaticano.
41 Sách Nghi thức phong chức Giám Mục, Linh Mục, và Phó Tế, dịch theo
bản mẫu 1990 và đã được Hội Nghị Giám Mục Việt Nam năm 1991 cho phép dùng tạm,
tr. 47.
42 Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới, khóa Đại Hội thứ X, Giám Mục, người
tôi tớ của Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô để mưu cầu niềm hy vọng cho thế giới,
Tài liệu làm việc, Vatican 2001, s. 51.
43 Nt., s. 51.
44 X. Bộ Giám Mục, Chỉ Nam, nt. s. V. X. Hiến chế tín lý về Giáo Hội Ánh
sáng muôn dân, s. 29.
45 Tông hiến Pastor
Bonus, Annexe, s. 2.
46 X. Cv 1, 15; Gl 1, 18.
47 X. Ga 21, 3: Các Tông đồ nói với Phêrô: “Chúng tôi cùng đi đánh
cá với anh”.
48 X. Cv 1, 3-8; 2, 1-4.
49 X. Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới, khóa Đại Hội thứ X, Giám Mục,
người tôi tớ của Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô để mưu cầu niềm hy vọng cho thế
giới, Tài liệu làm việc, Vatican 2001, s. 53.
50 Hiến chế tín lý Ánh sáng muôn dân, s. 1.
51 X. Hiến chế tín lý về Giáo Hội Ánh sáng muôn dân, s. 51.
Đ.Ô. Phanxicô B. Trần Văn Khả