Bài giảng được soạn sẵn của ĐTC Phan-xi-cô dành cho buổi đọc Kinh
Chiều với các Giám mục, Linh mục và Tu sĩ trong nhà thờ Chính Tòa Havanna,
Cu-ba, chiều Chúa Nhật 20.09.2015
Anh
chị em thân mến!
Chúng
ta đã cùng nhau quy tụ lại trong nhà thờ Chính Tòa lịch sử này để qua những
Thánh Vịnh, chúng ta ca ngợi niềm tín trung của Chúa đối với dân Ngài, và để
nói lời tạ ơn vì sự hiện diện của Ngài, vì lòng nhân hậu khôn cùng của Ngài. Những
bức tường của ngôi Thánh Đường này không chỉ nói với chúng ta về niềm tín trung
và lòng nhân hậu của Thiên Chúa, nhưng cũng còn nói về một số „những con người
da mồi tóc bạc“ – một sự nhắc nhớ sống động và một sự hồi tưởng của lời Thánh Vịnh:
„Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương;
lòng trung tín Chúa trải dài từ đợi nọ sang đời kia.“ Anh chị em thân mến,
chúng ta hãy cùng nói lên lời tạ ơn!
Chúng
ta tạ ơn vì sự hiện diện của Chúa Thánh Thần với sự phong phú về các đặc sủ
khác nhau trên khuôn mặt của rất nhiều nhà truyền giáo đã đến trên hòn đảo này,
và sau cùng đã trở thành những người Cu-ba giữa những người Cu-ba – một chỉ dấu
về việc Ngài giữ trọn tình thương của Ngài đến muôn đời.
Bài
Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe thuật lại cho chúng ta biết về việc Chúa Giê-su đã
thực hiện cuộc đối thoại với Cha của Ngài, nó đặt chúng ta vào trong trung tâm
của sự thân mật giữa Chúa Cha và Chúa Con, và sự thân mật ấy đã biến thành một
cuộc cầu nguyện. Khi giờ của Ngài đến gần, Chúa Giê-su đã cầu nguyện cùng Thiên
Chúa Cha cho các môn đệ của Ngài, cho những người đang ở quanh Ngài, và cho những
người sẽ đến với Ngài (xc. Ga 17,20). Thật là tốt cho chúng ta nếu chúng ta suy
nghĩ tới điều rằng, trong giờ phút có tính quyết định đối với Ngài, Chúa Giê-su
đã đưa cuộc sống của những người thuộc về Ngài, và cụ thể đó là cuộc sống của
chúng ta, vào trong lời cầu nguyện của Ngài. Và Ngài đã xin cùng Cha Ngài hãy bảo
vệ họ trong sự hiệp nhất và trong niềm vui. Chúa Giê-su hiểu rất rõ tấm lòng của
những con người thuộc về Ngài, và Ngài cũng hiểu rất rõ con tim của chúng ta.
Vì thế Ngài đã cầu nguyện, Ngài đã xin với Cha của Ngài, xin Cha bảo vệ họ để họ
không bị xâm chiếm bởi một niềm ý thức mà nó có xu hướng cách biệt, và do đó khiến
người ta co cụm lại trong những điều có tính an toàn riêng, trong sự chắc chắn
riêng và trong những không gian riêng: không còn chăm lo cho những người khác nữa,
và thể hiện qua cách là họ co cụm vào trong những „nông trại“ nhỏ bé, mà những
nông trại ấy sẽ đập vỡ khuôn mặt đa dạng của Giáo hội ra thành nhiều mảnh. Đó
là những trạng huống sẽ tự kết liễu trong sự phiền muộn theo chủ nghĩa cá nhân,
trong một sự phiền muộn mà nó sẽ dần dẫn tới sự bất mãn và làm phát sinh những
lời ai oán không ngớt, cũng như làm phát sinh tính đơn điệu. „Đó không phải là Thánh Ý của Thiên Chúa đối
với chúng ta, đó cũng không phải là cuộc sống trong Thánh Thần“ (Evangelii
gaudium, 2), tức cuộc sống mà Chúa Giê-su đã mời gọi các môn đệ cũng như mời gọi
chúng ta bước vào. Vì thế Ngài đã cầu nguyện và Ngài đã cầu xin để sự sầu muộn
và tình trạng cách biệt đừng choán chỗ trong con tim chúng ta. Chúng ta muốn
làm điều đó, chúng ta muốn nối tiếp lời cầu nguyện của Chúa Giê-su, muốn nối tiếp
những lời của Ngài để cùng nói lên: „Lạy
Cha Chí Thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha […] để họ nên một như
chúng ta“ (Ga 17,11), „và để niềm vui
của họ được nên trọn vẹn“ (xc. Ga 15,11).
Chúa
Giê-su cầu nguyện và Ngài cũng mời gọi chúng ta cầu nguyện, vì Ngài biết rằng,
có rất nhiều điều mà chúng ta chỉ có thể lãnh nhận như là ơn ban; có rất nhiều
điều mà chúng ta chỉ có thể sống như là ân sủng. Sự hiệp nhất là một ân sủng mà
chỉ có Chúa Thánh Thần mới có thể ban cho chúng ta; nhiệm vụ của chúng ta là cầu
xin cho được ơn đó và thực hiện tốt nhất công việc của chúng ta để chúng ta được
biến đổi nhờ vào hồng ân này.
Sự hiệp
nhất vẫn thường bị nhầm lẫn với tính đồng nhất mà theo đó, người ta phải làm tất
cả mọi việc giống hệt như nhau, phải cảm nghĩ và nói năng giống hệt nhau. Nhưng
đó không phải là sự hiệp nhất; đó là sự đồng nhất. Nó có nghĩa là dập tắt hoàn
toàn sự sống của Thánh Thần, nó có nghĩa là bóp ngẹt các đoàn sủng mà Ngài đã
phân phát vì niềm hạnh phúc của dân Ngài. Sự hiệp nhất sẽ bị đe dọa bất cứ lúc
nào khi chúng ta muốn bài trí người khác theo hình mẫu của chúng ta và giống hệt
như chúng ta. Vì thế, sự hiệp nhất là một hồng ân và không phải là một cái gì
đó mà người ta có thể cưỡng bức bằng bạo lực hay bằng mệnh lệnh. Cha rất vui
khi được thấy anh chị em ở đây, những người nam và những người nữ thuộc đủ lứa
tuổi khác nhau, từ những hoàn cảnh khác nhau, với những tiểu sử khác nhau,
nhưng được hiệp nhất cùng nhau qua lời cầu nguyện chung. Chúng ta hãy cầu xin
Chúa, xin Ngài làm cho niềm ước mong có được sự gần gũi lớn lên giữa chúng ta.
Xin Ngài làm cho chúng ta có thể trở nên những „tha nhân“, của nhau, và trở nên
gần gũi nhau, với những khác biệt, những sai sót và những phong cách của chúng
ta, nhưng vẫn luôn gần gũi; với những cuộc đối thoại và những cuộc tranh luận của
chúng ta, bằng cách là chúng ta phát biểu một cách cởi mở và không nói sau
lưng. Xin Ngài làm cho chúng ta trở thành những mục tử gần gũi với đoàn chiên; xin
Ngài giúp chúng ta dám để cho đoàn chiên của chúng ta đặt ra cho chúng ta những
câu hỏi, cũng như để cho họ chất vấn chúng ta. Những cuộc thảo luận, và những
cuộc tranh luận đang được mong muốn trong Giáo hội, và thậm chí Cha dám nói rằng:
rất cần thiết. Chúng là chỉ dấu cho thấy rằng, Giáo hội đang sống, và cho thấy
rằng, Chúa Thánh Thần vẫn đang tiếp tục hoạt động, Ngài đang làm cho Giáo hội
tiếp tục phát triển. Khốn cho những cộng đoàn nào mà ở đó không có tiếng CÓ
cũng không có tiếng KHÔNG! Những cộng đoàn đó giống như những cuộc hôn nhân mà
trong đó không còn có sự đối thoại nữa, vì người ta đã đánh mất mối quan tâm,
vì người ta đã đánh mất Tình Yêu.
Ở phần
thứ hai, Chúa Giê-su đã cầu xin cho chúng ta được tràn đầy bởi chính niềm vui
trọn hảo mà Ngài đang sở hữu (xc. Ga 17,13). Niềm vui của các Ki-tô hữu, và đặc
biệt là niềm vui của những người được Thánh Hiến chính là một dấu chỉ hoàn toàn
rõ ràng về sự hiện diện của Chúa Ki-tô trong cuộc sống của họ. Nếu có những
khuôn mặt sầu muộn thì đó là một tín hiệu cảnh báo cho thấy có một điều chi đó
không ổn. Và Chúa Giê-su đã cầu xin điều ấy từ Chúa Cha đúng vào thời điểm khi
Ngài có ý định đi lên núi Cây Dầu, khi Ngài phải tái nhắc lại lời thưa „Fiat“ của
Ngài. Cha không hề nghi ngờ rằng, tất cả anh chị em đều phải mang những gánh nặng
không hề ít hy sinh, và cũng không hề nghi ngờ rằng, đối với một số người, những
hy sinh ấy đã được thể hiện từ nhiều thập niên rồi. Chúa Giê-su đã cầu xin –
ngay cả trong cuộc hiến tế của Ngài -, xin cho chúng ta đừng bao giờ đánh mất
niềm vui trước việc biết được rằng, Ngài đã chiến thắng thế gian. Niềm xác tín
này chính là điều sẽ thúc giục chúng ta, ngày lại ngày hãy tái củng cố Đức Tin
của mình. „Với một sự bén nhậy mà nó
không bao giờ gây thất vọng cho chúng ta, nhưng luôn luôn có thể trao lại niềm
vui cho chúng ta, [với lời cầu nguyện của Ngài và với sự phản chiếu của Ngài
trên khuôn mặt của dân tộc chúng ta], Ngài sẽ cho phép chúng ta ngẩng cao đầu
và tái bắt đầu“ (Evangelii gaudium, 3). Thật quan trọng biết chừng nào khi
điều mà nó là một chứng tá cao quý đối với đời sống của dân tộc Cu-ba cũng
chính là điều tỏa chiếu niềm vui ấy một cách không ngừng và ở khắp mọi nơi, bất
chấp sự mệt mỏi, nỗi hoài nghi, thậm chí là sự vô vọng mà nó là một cơn cám dỗ
rất nguy hiểm, nó có khả năng phá hủy tâm hồn!
Anh
Chị em thân mến, Chúa Giê-su đã cầu xin để chúng ta được nên một, và xin cho niềm
vui của Ngài được lưu lại trong chúng ta. Chúng ta hãy thực hiện điều đó và
chúng ta hãy hiệp nhất cùng nhau trong lời cầu nguyện!
Havanna ngày 20 tháng 09 năm 2015
ĐTC Phan-xi-cô
Lm Đa-minh Thiệu O.Cist – chuyển ngữ