HIẾN CHẾ TÍN LÝ VỀ
MẠC KHẢI CỦA THIÊN CHÚA (Phần II)
Dù Công đồng
Vatican II đã bế mạc hơn 40 năm, Hiến chế Tin lý vế Mạc Khải Lời Thiên Chúa vẫn là bản văn quan
trọng đã được Huấn quyền ban hành nhằm hướng dẫn việc học hỏi Kinh Thánh. Bản văn đã được Giáo Hoàng Học
Viện Piô X dịch và xuất bản năm 1972. Sau năm 1975, một nhóm linh mục đã duyệt
lại Bản dịch ấy. Vào năm 2005, Ủy Ban Giáo lý Đức tin trực thuộc Hội Đồng Giám
Mục Việt-nam đã ra bản dịch chính thức sau đây. Riêng Lời giới thiệu và các chú
thích nhằm minh họa bản văn, chúng tôi xin lấy từ Bản dịch GHHV Piô X.
KHOÁ VIII
HIẾN CHẾ
TÍN LÝ
VỀ MẠC
KHẢI CỦA THIÊN CHÚA
Dei Verbum
CHƯƠNG IV
CỰU ƯỚC
14. Lịch sử cứu độ trong các sách Cựu Ước
Thiên Chúa chí ái, vì ân
cần dự định và chuẩn bị việc cứu độ toàn thể nhân loại, nên do một kế hoạch đặc
biệt, đã tuyển chọn cho mình một dân tộc để trao gửi các lời hứa. Thật vậy, sau
khi đã ký kết giao ước với Abraham (x. St 15,18) và với dân Israel qua trung gian
Môsê (x. Xh 24,8), Ngài đã dùng lời nói và hành động mà mạc khải chính mình là
Thiên Chúa độc nhất, chân thật và hằng sống cho dân Ngài đã thủ đắc riêng, nhờ
đó Israel nghiệm thấy đâu là những đường lối Thiên Chúa đối xử với loài người,
và nhờ chính Ngài phán dạy qua miệng các ngôn sứ, họ ngày càng thấu hiểu các
đường lối ấy cách sâu xa rõ ràng hơn, và đem phổ biến rộng rãi hơn nơi các dân
tộc (x. Tv 21,28-29; 95,1-3; Is 2,1-4; Gr 3,17). Nhiệm cuôc cứu độ mà các thánh
sử đã tiên báo, thuật lại và giải thích, còn tồn tại trong các sách Cựu Ước với
tính cách là lời thật sự của Thiên Chúa. Vì vậy, các sách đã được Thiên Chúa
linh hứng này vẫn giữ một giá trị trường cửu: “Quả
thế, mọi lời xưa đã chép trong Thánh Kinh, đều được chép để dạy dỗ chúng ta.
Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng
ta vững lòng trông cậy” (Rm 15,4). 34*
----------------------------------
34*– Số
này bàn về lịch sử cứu độ trong Cựu Ước, xét như là cuốn sách và kế hoạch
cứu dộ. Thiên Chúa đã phán qua các biến cố trong lịch sử dân Do-thái và qua các
Ngôn sứ (nghĩa rộng): đã có Lời Chúa trước khi có sách, nhưng bây giờ Lời Chúa được tồn
trữ trong sách. Nên lưu ý tới ý hướng của việc tuyển chọn dân Do-thái: phổ quát
tính của ơn cứu độ. Cựu Ước gồm nhiều giai đoạn: giai đoạn các Tổ Phụ đánh dấu
bằng lời hứa,
giai đoạn Môsê thiết lập dân Chúa trong Giao Ước, giai đoạn Ngôn sứ trong đó
Mạc khải được khai triển.
15. Tầm quan trọng của Cựu Ước đối với các
ki-tô hữu
Nhiệm cuộc Cựu Ước được
bố trí với mục đích chính yếu là để chuẩn bị và loan báo theo cách ngôn sứ (x.
Lc 24,44; Ga 5,39; 1 Pr 1,10) và để chỉ ra bằng những hình bóng khác nhau (1 Cr
10,11) ngày quang lâm của Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ muôn loài và của Vương Quốc
của Đấng Mêsia. Tùy theo hoàn cảnh nhân loại trước thời Chúa Kitô thiết lập
công cuộc cứu độ, các sách Cựu Ước bày tỏ cho mọi người biết Thiên Chúa và con
người ta, cùng những cách thế mà Thiên Chúa công bình và nhân từ đối xử với
loài người. Tuy có nhiều bất toàn và tạm bợ, các sách ấy chứng tỏ khoa sư phạm
đích thật của Thiên Chúa
[29].
Do đó, các ki-tô hữu phải thành kính đón nhận các sách này: chúng diễn tả một
cảm thức sâu sắc về Thiên Chúa, tàng trữ những lời giáo huấn cao siêu về Ngài,
một khoa khôn ngoan hữu ích về đời sống con người, và những kho tàng kinh
nguyện tuyệt diệu; sau cùng trong đó ẩn chứa mầu nhiệm ơn cứu độ chúng ta. 35*
---------------------------------
35*– Số này bàn
về việc ki-tô hữu đọc Cựu Ước. Ba ý tưởng: tương quan giữa Cựu và Tân Ước, bản
tính các sách Cựu Ước, giá trị của Cựu Ước đối với các ki-tô hữu. Chúa Kitô là
ý nghĩa của Cựu Ước: của cả các biến cố cũng như các sách. Tất cả những gì xảy
ra trước Chúa Kitô đều có mục đích chuẩn bị. Việc tuyển chọn dân Do-thái, lịch
sử, văn hoá của dân này v.v… đều chuẩn bị chính con người, ngôn ngữ và tôn giáo
của Chúa Kitô v.v… Bản văn nói đến những “khuôn mẫu”: không nên hiểu theo nghĩa
kỹ thuật, nhưng theo ý là những biến cố quá khứ trở thành những “mẫu”, những
“hình” của một biến cố tương lai nhờ đó những biến cố kia được trọn nghĩa. Việc
liệt kê giá trị của Cựu Ước hơi lộn xộn. Bản văn nhắc đến tính cách tạm thời
của Cựu Ước để đề phòng chống lại nền luân lý tiền Kitô giáo của dân Do-thái.
Người ta nói đến “kho tàng kinh nguyện” để bênh vực các thánh vịnh, chống lại
những người muốn loại bỏ thánh vịnh ra khỏi phụng vụ.
16. Tính duy nhất giữa Cựu và Tân Ước
Vậy Thiên Chúa, Đấng
linh hứng và tác giả các sách Cựu và Tân Ước, đã khôn ngoan xếp đặt cho Tân Ước
được tiềm ẩn trong Cựu Ước và Cựu Ước được tỏ hiện trong Tân Ước [30].
Thật vậy, tuy Chúa Kitô đã thiết lập Giao Ước mới trong máu Ngài (x. Lc 22,20;
1 Cr 11,25), nhưng các sách Cựu Ước, đã được thâu dụng trọn vẹn trong lời rao
giảng Phúc Âm [31],
thì đạt được và giãi bày đầy đủ ý nghĩa của mình trong Tân Ước (x. Mt 5,17; Lc
24,27; Rm 16,25-26; 2 Cr 3,14-16), và ngược lại, làm sáng tỏ và giải nghĩa Tân
Ước. 36*
---------------
36*– Sự duy nhất
của Cựu Ước và Tân Ước. Đoạn này bàn cách lẫn lộn về các sách vừa Tân Ước vừa
Cựu Ước. Tân Ước đã thu gồm toàn thể Cựu Ước, ngoại trừ tính cách
bất toàn và tạm thời. Như thế nghĩa là các sách Cựu Ước được sát nhập vào lời
rao giảng Phúc Âm như thành phần của một Mạc khải duy nhất. Do đó, chúng hiện ở
trong một ngữ cảnh mới, chúng đã được biến đổi vì đã đạt được ý nghĩa tối hậu.
Nên lưu ý rằng không những Tân Ước soi sáng Cựu Ước, mà Cựu Ước còn giúp giải
nghĩa Tân Ước, chẳng hạn phải hiểu Isaia Đệ Nhị dưới ánh sáng của thánh Phaolô
và ngược lại.
CHƯƠNG V
TÂN ƯỚC 37*
17. Sự trổi vượt của Tân Ước
Trong các sách Tân Ước,
Lời Thiên Chúa là quyền năng của Thiên Chúa để cứu rỗi mọi tín hữu (x. Rm
1,16), được trình bày và biểu dương sức mạnh cách trổi vượt. Thật vậy, khi đến
thời viên mãn (x. Gl 4,4), Ngôi Lời đã thành xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta,
đầy tràn ân sủng và chân lý (x. Ga 1,14). Chúa Kitô đã thiết lập Nước Thiên
Chúa trên trần gian; bằng việc làm và lời nói, Ngài đã biểu lộ Cha Ngài và
chính Ngài ra; và khi chết, sống lại và lên trời vinh hiển, khi cử Thánh Thần
đến, Ngài đã hoàn tất công việc của Ngài. Chính Ngài, là Đấng độc nhất có những
lời ban sự sống đời đời, khi được nâng lên cao khỏi mặt đất (x. Ga 12,32, bản
hy-lạp), Ngài đã kéo mọi người đến với mình (x. Ga 6,68). Nhưng mầu nhiệm này
chưa bao giờ được tỏ cho các thế hệ khác biết, nay đã được mạc khải trong Thánh
Thần cho các thánh Tông đồ và các Ngôn sứ của Ngài (x. Ep 3,4-6, bản hy-lạp) để
họ rao giảng Phúc Âm, khơi động lòng tin vào Đức Giêsu, là Đấng Kitô và là Đức
Chúa, và quy tụ Giáo Hội. Về những việc này, các sách Tân Ước vẫn còn nêu ra
một bằng chứng trường tồn và thần linh. 38*
----------------------
37*– Trong Lược
đồ thứ nhất, chương này hầu như có tính cách hoàn toàn biện giáo và tiêu cực.
Sau đó, người ta soạn thảo lại theo một tinh thần cởi mở hơn. Nhưng thật sự,
chương này hầu như chỉ bàn về các Phúc Âm.
38*– Bản văn này
phát xuất từ bản thảo thứ ba. Câu thứ nhất được coi như luận đề mà cả số này
trình bày. Theo tư tưởng của chương I, Tân Ước là chính Chúa Giêsu và công
trình của Ngài. Trong khi hoàn tất Cựu Ước, Tân Ước mạc khải cho chúng ta Thiên
Chúa như Người
Cha. Bản văn không nói Chúa Giêsu đã thiết lập Giáo Hội (Giáo Hội
xuất hiện vào thời các Tông đồ). Như thế người ta chấp nhận sự phân biệt giữa
“Nước Chúa” và Giáo Hội (x. GH 5, 8). Hoạt động của Chúa Giêsu được đặt trong
lịch sử và ngày nay vẫn còn thực hiện. Bản văn dùng động từ ở thì hiện tại: Ngài “kéo”
thay vì “đã
kéo” của Lược đồ trước. Tiếng “mầu nhiệm” chỉ Chúa Kitô và công
trình của Ngài chứ không đúng y như nghĩa của Thánh Phaolô. Lưu ý mục đích
truyền giáo của Mạc khải.
18. Các sách Phúc Âm bắt nguồn từ các Tông
đồ
Không ai không biết rằng
trong tất cả các Sách Thánh, kể cả các sách Tân Ước, các sách Phúc Âm xứng đáng
có địa vị trổi vượt, vì là chứng tích chính yếu về đời sống và giáo huấn của
Ngôi Lời Nhập Thể, Đấng Cứu Chuộc chúng ta.
Trong mọi thời và ở mọi nơi,
Giáo Hội đã và vẫn quả quyết rằng bốn sách Phúc Âm bắt nguồn từ các Tông đồ 39*.
Thật vậy, những điều mà theo lệnh truyền của Chúa Kitô, các Tông đồ rao giảng,
sau này nhờ Chúa Thánh Thần linh hứng, chính các ngài và những người sống bên
các ngài đã lưu truyền cho chúng ta bằng bản văn làm nền tảng đức tin: đó là
Phúc Âm dưới bốn hình thức, theo Mátthêu, Máccô, Luca và Gioan [32].
----------------------
39*– Giá trị
chứng tích của các sách Phúc Âm là thiết yếu đối với Giáo Hội. Nhưng trước kia
cách thế bênh vực giá trị đó không được thích hợp cho lắm khi đặt nền tảng trên
hai lý do: các thánh sử trung thực và thấu đáo vấn đề. Điều này buộc phải chứng
minh rằng các ngài là Tông đồ hay môn đệ các Tông đồ; nhưng theo lịch sử, sự
kiện đó không chắc chắn. Vì thế, bản văn bỏ qua vấn đề này. Cùng với Thánh
Truyền, Công đồng xác nhận rằng các Phúc Âm “bắt nguồn từ các Tông đồ” và
truyền lại cho chúng ta dưới hình thức “theo Mátthêu...” v.v... Nguồn gốc này
là lời rao giảng hay Phúc Âm truyền khẩu. Mối liên lạc giữa lời rao giảng và
Thánh Kinh được Chúa Thánh Thần bảo đảm; nguồn mạch của Phúc Âm được rao giảng
là chính Chúa Kitô.
19. Tính lịch sử của các sách Phúc Âm 40*
Mẹ thánh Giáo Hội đã và
vẫn còn bền bỉ quả quyết rằng bốn sách Phúc Âm nói trên, mà Giáo Hội không ngần
ngại khẳng định lịch sử tính, trung thành lưu truyền những gì Chúa Giêsu, Con
Thiên Chúa, khi sống giữa loài người, thật sự đã làm và đã dạy nhằm phần
rỗi đời đời của họ, cho tới ngày Ngài được đưa lên trời (x. Cv 1,1-2). Thật
vậy, sau khi Chúa lên trời, các Tông đồ đã truyền lại cho những người nghe
những điều Ngài đã nói đã làm với sự thông hiểu đầy đủ hơn [33]
mà chính các ngài có nhờ học được từ các biến cố vinh hiển của Chúa Kitô và nhờ
ánh sáng Thánh Thần Chân Lý
[34] dạy dỗ. Vậy các thánh sử đã viết bốn Phúc Âm:
các ngài chọn một số trong nhiều điều đã được truyền lại bằng miệng hay đã được
chép ra rồi, tóm tắt hoặc giải thích một số điều tuỳ theo tình trạng của các
Giáo Hội, sau cùng các ngài vẫn giữ hình thức lời giảng, mà bao giờ cũng nhằm
truyền đạt cho chúng ta những điều xác thực và chân thành về Chúa Giêsu [35].
Quả thế, dựa trên ký ức hay kỷ niệm riêng, hoặc dựa trên lời chứng của những
người “từ đầu đã chứng kiến và phục vụ Lời Chúa”, các ngài đã viết ra với chủ ý
giúp chúng ta am tường tính “xác thực” của những điều chúng ta đã được dạy dỗ
(x. Lc 1,2-4).
-------------------
40* – Lịch sử
tính của các sách Phúc Âm là điểm quan trọng của Hiến chế. Lược đồ thứ nhất
nặng tính cách bút chiến và kết án các lầm lạc của những người nghi ngờ
những câu chuyện thời thơ ấu và những cuộc hiện ra v.v… Thái độ này nghịch với
tinh thần của Đức Gioan XXIII (x. AAS 54 (1962) 729) và giả thuyết một ý niệm
về chân lý lịch sử nặng tính cách khoa học hơn là Thánh Kinh, như có thể tìm
thấy nơi những văn kiện chính thức, ví dụ: “các bản văn phải tương xứng với
những sự kiện đã xảy ra trong thực tế” (Tđ. Paraclitus, EB số 457). Nhưng khoa chú
giải đã cũng minh chứng việc soạn thảo Phúc Âm rất phức tạp: phải lưu tâm đến
những truyền thống khác nhau, những thích ứng trong khi rao giảng, vai trò của
các cộng đoàn sơ khai v.v… Nhiều Nghị Phụ sợ rằng lịch sử tính sẽ lu mờ nếu
lướt qua phương pháp “văn hình sử”. Các cuộc bàn cãi sôi nổi, kéo dài, và các
Nghị Phụ đã xin Đức Giáo Hoàng can thiệp để tiếng “lịch sử” được giữ lại trong
văn bản. Trong khi đó, để giúp giải quyết các vấn đề, Uỷ ban Giáo Hoàng về
Thánh Kinh đã phát hành một Huấn Thị về Phúc Âm (14-5-1964). Sau cùng bản văn
được chấp thuận đã loại bỏ mọi nghi ngờ về lịch sử tính của Phúc Âm; đó là một
chân lý mà Giáo Hội đã quả quyết bằng đức tin và lý trí (đã và đang quả quyết).
Nhưng “lịch sử” trong Phúc Âm lại là một loại đặc biệt, phải xác định sau khi
nghiên cứu văn loại của từng đoạn. Phúc Âm truyền đạt cho chúng ta “những điều
chân thật và trung thực” về Chúa Giêsu; như thế nghĩa là: những điều chính thực
không thay đổi; phải hiểu tiếng “điều chân thật” theo như đã nói ở số 11. Tóm
lại, Phúc Âm không phải là một bản văn phúc trình về những biến cố đã qua,
nhưng là một lời truyền bá những sự kiện quan hệ cho ơn cứu độ.
20. Các sách khác trong Tân Ước
Ngoài bốn quyển Phúc Âm,
thư quy Tân Ước còn gồm các thư thánh Phaolô và những bản văn khác thời các
Tông đồ, đã được viết dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần. Do ý định khôn
ngoan của Thiên Chúa, các sách ấy xác nhận những gì liên hệ đến Chúa Kitô,
trình bày ngày một rõ ràng hơn giáo huấn đích thật của Ngài, rao giảng sức mạnh
cứu độ của công trình thần linh của Chúa Kitô, và tường thuật lại những bước
đầu và sự bành trướng kỳ diệu cùng tiên báo sự hoàn tất vinh hiển của Giáo Hội.
41*
Thật thế, Chúa Giêsu đã
ở bên các Tông đồ như Ngài đã hứa (x. Mt 28,20) và đã cử Thánh Thần Bảo Trợ đến
để dẫn dắt các ngài đến chân lý vẹn toàn (x. Ga 16,13).
--------------------
41*– Số
này không bị thay đổi mấy. Nó xác quyết rằng, ngoài Phúc Âm, Tân Ước còn có
nhiều bản văn khác, nhưng không nêu ra danh sách. Theo Công đồng, những bản văn
này có nội dung:
a) thần học: dùng những lý chứng để xác quyết sứ mệnh của Chúa Kitô. Số này
chấp nhận sự tiến triển nội tại của Tân Ước, đặc biệt trong Kitô học và Giáo
Hội học.
b) giảng thuyết: lời rao giảng về Chúa Kitô.
c) lịch sử: Công vụ Tông đồ thuật lại những “bước đầu” của Giáo Hội; người ta
đã dùng chữ “tổ chức” ở trong bản thảo trước.
d) tiên tri: loan báo ngày kết thúc (Khải huyền).
THÁNH KINH TRONG ĐỜI
SỐNG GIÁO HỘI 42*
21. Tầm quan trọng của Thánh Kinh đối với
Giáo Hội 43*
Giáo Hội đã luôn tôn
kính Thánh Kinh như đã tôn kính chính Thánh Thể Chúa: nhất là trong phụng vụ
thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như
bàn tiệc Mình Chúa Kitô mà trao ban cho các tín hữu. Giáo Hội đã và vẫn luôn
luôn coi Thánh Kinh cùng với Thánh Truyền như là quy luật tối cao cho đức
tin của mình, bởi vì Thánh Kinh, được Thiên Chúa linh ứng và được ghi chép một
lần cho mãi mãi, truyền đạt Lời của chính Thiên Chúa cách bất di bất dịch và
làm vang dội tiếng Chúa Thánh Thần trong lời của các Ngôn sứ và các Tông đồ. Vì
vậy, toàn thể công việc rao giảng trong Giáo Hội cũng như chính đạo Kitô phải
được Thánh Kinh nuôi dưỡng và hướng dẫn. Quả thật, trong các sách thánh, Cha
trên trời âu yếm đến gặp con cái và trò chuyện với họ. Trong Lời Thiên Chúa, có
năng lực lớn lao có thể nâng đỡ và ban sinh lực cho Giáo Hội, còn đối với con
cái Giáo Hội thì thành sức mạnh cho đức tin, lương thực cho linh hồn, nguồn
sống tinh tuyền và trường tồn cho đời sống thiêng liêng. Bởi thế, lời nói sau
đây hoan toàn đúng về Thánh Kinh: “Thật vậy, lời Thiên Chúa sống động và linh
hoạt” (Dt 4,12), “có sức xây dựng và ban phần gia nghiệp cho mọi người đã được
thánh hoá” (Cv 20,32; x. 1 Th 2,13).
--------------------------
42*–
Chương này phát xuất từ bản thảo thứ hai. Sau đó trong bản thảo thứ ba, người
ta xác nhận thêm những yếu tố của Lược đồ về Lời Thiên Chúa do Văn phòng Hiệp
nhất soạn thảo. Tựa đề đã thay đổi nhiều lần. Trước tiên tựa đề là: Về Thánh Kinh trong Giáo
Hội; như thế có vẻ quá thần học, nên đã được đổi thành về Việc dùng Thánh Kinh
trong Giáo Hội; nhưng tựa đề này lại có vẻ quá tầm thường. Sau cùng
người ta chấp nhận tựa đề hiện tại; tuy nhiên không phải là không gặp chống
đối, vì nhiều người muốn dùng tiếng “Lời Chúa” để bao gồm cả Thánh Truyền nữa.
Chương này có
tính cách mục vụ. Thật vậy, “đời sống Giáo Hội” bao gồm tất cả mọi hoạt động
hướng nội cũng như hướng ngoại, như thế gồm cả việc truyền giáo.
43*– Trong những
bản thảo trước, số này mang tựa đề: “Nỗi bận tâm của Giáo Hội đối với Thánh
Kinh”. Nhưng tựa đề này lại nghiêng về khía cạnh tự vệ. Sau đó các Nghị Phụ
chấp nhận tựa đề hiện tại: “Giáo Hội tôn trọng Thánh Kinh”. Người ta chỉ có thể
nói rõ hơn khi so sánh với Thân Thế Chúa; so sánh này gặp nhiều chống đối vì
nhiều Nghị Phụ nghĩ rằng những khuynh hướng tân thời muốn giảm thiểu sự hiện
diện Chúa trong phép Thánh Thể và hình như bản văn này khuyến khích. Nhưng Uỷ
Ban vẫn duy trì bản văn vì sự so sánh này có tính cách cổ truyền và hơn nữa sự
hợp nhất giữa Lời Chúa và bí tích lại rất quan trọng trong đời sống Giáo Hội
(Phụng vụ). Tầm quan trọng của Thánh Kinh được diễn tả trong câu “cùng với Thánh
Truyền, Thánh Kinh … là quy luật tối cao hướng dẫn đức tin”. Đây là một quy
luật khách quan, vì được linh hứng (Thiên Chúa nói với chúng ta qua Thánh
Kinh); thứ đến nó là quy luật bất biến, vì Thiên Chúa không thay đổi và – theo
cách nói nhân loại – điều gì đã được viết thì đẽ được viết rồi. Bởi thế hậu quả
là đời sống Giáo Hội luôn được nuôi dưỡng bởi cùng một nguồn mạch duy nhất, và
điều đó được bảo đảm sự liên tục trong lịch sử cũng như sự bình đẳng trong các
nền văn hoá khác nhau.
-----------------------
44*– Việc dịch
Thánh Kinh ra các sinh ngữ là một nhu cầu truyền giáo (x. TG 22; MV 44), là một
đòi hỏi của công giáo tính nơi Giáo Hội (x. GH 13) và là một đòi hỏi của việc
hiệp nhất (x. GH 15, HN 14-17, 19-23). Mỗi Giáo Hội dịch Thánh Kinh ra tiếng
bản xứ là làm giàu thêm cho Giáo Hội phổ quát, vì tất cả các bản dịch giả thiết
một sự thấu hiểu mới về Mạc khải.
--------------------
45*– Số này nhấn
mạnh nhiệm vụ tông đồ của các tiến sĩ Giáo Hội và khuyến khích những nhà chú
giải và thần học cộng tác với nhau. Nhìn nhận tầm quan trọng của khoa học để
đào sâu Lời Chúa, mặc dầu Giáo Hội có quyền quyết định tối hậu những nghi ngờ
(Huấn Quyền) nhưng đồng thời lại đề phòng thứ khoa học (chú giải và thần học)
quá cằn cỗi về phương diện mục vụ.
24. Thánh Kinh và Thần học 46*
Khoa Thần học dựa trên
lời Thiên Chúa đã được viết ra, cùng với Thánh Truyền, như dựa trên một nền
tảng trường tồn; nơi Thánh Kinh, Thần học được củng cố hết sức vững chắc và
luôn trẻ trung, nhờ nghiên cứu dưới ánh sáng đức tin tất cả chân lý tiềm ẩn
trong mầu nhiệm Chúa Kitô. Thánh Kinh chứa đựng lời Thiên Chúa và vì được linh
hứng nên thật sự là Lời Thiên Chúa; do đó, việc nghiên cứu Thánh Kinh phải là
như linh hồn của khoa Thần học [38].
Nhờ chính lời Thánh Kinh này, thừa tác vụ lời Chúa, gồm có việc giảng thuyết
của các vị chủ chăn, việc dạy giáo lý và toàn thể giáo huấn Kitô giáo, trong đó
bài diễn giảng trong phụng vụ phải chiếm ưu thế, được nuôi dưỡng lành
mạnh và tăng cường sinh lực thánh thiện.
-----------------------
46*– Ở đây
người ta bàn về vai trò Thánh Kinh trong Thần học. Vậy Thánh Kinh là nền tảng:
là điểm khởi phát và là điểm quy chiếu. Thánh Kinh làm cho nền Thần học trẻ lại
vì đem lại những đề mục và những viễn tượng mới. Thánh Kinh là “linh hồn của
Thần học” (x. ĐT 16), là nguyên lý sự sống, là nguồn nghị lực của Thần học.
Nhưng Thánh Kinh không phải là tất cả, vì Thần học cũng phải quan tâm đến Thánh
Truyền, đến những suy tư của người khác, những trực giác của tín hữu v.v… và
phải luôn luôn tạo nên những tổng hợp mới để hiểu thêm Thánh Kinh. Cũng vậy,
tín điều phải quy chiếu về Thánh Kinh để thấu hiểu và đào sâu trong ánh sáng
Thánh Kinh.
Các giám mục, là những người
“gìn giữ giáo lý tông truyền” [42],
có phận sự dạy cách thích hợp cho các tín hữu đã được uỷ thác cho các ngài biết
sử dụng cho đúng các Sách Thánh, nhất là Tân Ước và trước hết là các sách Phúc
Âm, nhờ các bản dịch Sách Thánh; các bản dịch này phải có kèm theo những lời
giải thích cần thiết và đầy đủ, để con cái Giáo Hội có thể gặp gỡ Thánh Kinh
cách bảo đảm và ích lợi, cũng như được thấm nhuần tinh thần Thánh Kinh.
Hơn nữa, cũng nên xuất bản Thánh
Kinh với các ghi chú thích hợp, tiện dụng cho cả những người ngoài Kitô
giáo và thích nghi với hoàn cảnh của họ. Các vị chăn dắt linh hồn cũng
như các ki-tô hữu, dù trong bậc sống nào, cũng nên khôn ngoan phổ biến các bản
ấy.
-------------------------
47* – Lần
đầu tiên trong lịch sử một Công đồng kêu gọi đọc Thánh Kinh. Những người phục
vụ Lời Chúa: linh mục, phó tế, các người dạy giáo lý… mang một trách vụ
lớn hơn. Tuy nhiên vài Nghị Phụ bối rối và coi lời khuyến khích tổng quát đọc
Thánh Kinh là một mối nguy hiểm. Phải đọc “theo tinh thần của Giáo Hội”, vì vậy
người ta nhấn mạnh đến kinh nguyện như là một câu đáp lại lời Thiên Chúa Đấng
nói trong Thánh Kinh.
Lãnh tụ
của phong trào này là các giám mục, các ngài có bổn phận kiểm soát và khuyến
khích. Sau cùng, Thánh Kinh được ban cho Giáo Hội để Giáo Hội mang đến cho mọi
người, vậy phải khuyến khích các đợt xuất bản dành cho người ngoài Kitô giáo.
Đó là một sáng kiến truyền giáo tốt đẹp.
Vì thế, ước gì nhờ việc
đọc và học hỏi Sách Thánh, “Lời Thiên Chúa được phổ biến mau chóng và
được tôn vinh” (2 Tx 3,1), và kho tàng mạc khải, đã được uỷ thác cho Giáo Hội,
ngày càng lấp đầy tâm hồn con người. Cũng như đời sống Giáo Hội được tăng
trưởng nhờ năng tiếp xúc với mầu nhiệm Thánh Thể, cũng thế ta được phép hy vọng
rằng đời sống thiêng liêng nhận được một sự thúc đẩy mới nhờ việc tăng thêm
lòng sùng kính Lời Thiên Chúa, là Lời “tồn tại muôn đời” (Is 40,8; x. 1 Pr
1,23-25).
Tất cả và từng điều đã được ban bố trong
Hiến chế Tín lý này đều được các Nghị Phụ Thánh Công đồng chấp thuận. Và dùng
quyền tông đồ Chúa Kitô trao ban, hợp cùng các Nghị Phụ khả kính, trong Chúa
Thánh Thần, chúng tôi phê chuẩn, chế định và quyết nghị, và những gì đã được
Thánh Công đồng quyết nghị, chúng tôi truyền công bố cho Danh Chúa cả sáng.
48*– Số này là
lời kết luận của chương VI, chứ không phải của tất cả Hiến chế. Tinh thần của
đoạn này cũng là tinh thần truyền giáo sâu xa. Nên lưu ý việc chuyển tiếp từ
việc đọc sách
đến Lời Chúa
trong câu thứ nhất, vì Thánh Kinh chứa đựng “kho tàng mạc khải” của Thiên Chúa
cho Giáo Hội, và vì Giáo Hội sẽ luôn sống bằng Lời Chúa như chính Ngôi Lời.
Do vị Tổng Thư ký của Thánh Công
đồng trong phiên họp khoáng đại lần thứ 171 ngày 15-11-1965.
Có người thắc mắc về phẩm tính
thần học của giáo thuyết được trình bày trong lược đồ của Hiến chế Tín lý về
Mạc khải của Thiên Chúa và được đem ra đầu phiếu.
Uỷ ban về Giáo lý Đức tin và phong hoá trả lời thắc
mắc trên theo Tuyên ngôn ngày 6 tháng 3 năm 1964:
“Xét theo tập tục Công đồng và chủ đích mục vụ của Công đồng
hiện tại, Thánh Công đồng này xác định rằng, Giáo Hội chỉ phải tuân giữ những
điều có liên quan đến đức tin và phong hoá được chính Thánh Công đồng tuyên bố
là như vậy”.
“Còn những điểm khác được Thánh Công đồng trình bày, vì là
giáo thuyết và Huấn Quyền tối thượng của Giáo Hội, nên tất cả và mỗi một ki-tô
hữu phải chấp nhận và hiểu theo ý của chính thánh Công đồng, dựa trên những
tiêu chuẩn của phương pháp giải thích thần học: ý Công đồng tỏ lộ qua nội dung
được trình bày hoặc qua cách diễn tả của Công đồng”.
PERICLES FELICI
Tổng Giám mục hiệu toà
Samosate
Tổng Thư ký Thánh Công
đồng Vatican II
Nguồn: Ủy
Ban Kinh Thánh
Thuộc Hội Đồng Giám Mục VN
[29] Piô XI, Tđ. Mit brennender Sorge, 14-3-1937: AAS 29 (1927), tr.
151.
[30] T. Âutinh, Quaest. In Hept. 2, 73: PL 34, 623.
[31] T. Irênê, Adv. Haer. III, 21, 3:
PG 7, 950 (= 25, 1:
[32] Xem T. Irênê, Adv. Haer III, 11, 8: PG 7, 885; Sagnard, tr. 194.
[33] Xem
[34] Xem
[35] Xem Huấn thị Sancta Mater Ecclesia do Uỷ Ban Giáo Hoàng về các Nghiên cứu Thánh Kinh xuất bản: AAS 56 (1964), tr. 715.
[36] Xem Piô
XII, Tđ. Divino Afflante Spiritu, 30-9-1943: EB 551, 553, 567. Uỷ Ban Kinh Thánh Giáo hoàng, Huấn thị De
S. Scriptura in Clericorum Seminariis et Religiosorum Collegiis recte docenda,
13-5-1950: AAS 42 (1950), tr. 495-505.
[37] Xem Piô XII, nt.: EB 569.
[38] Xem Lêô
XIII, Tđ. Providentissimus Deus:
EB 114. – Bênêđíchtô XV, Tđ. Spiritus Paralitus,
15-9-1920: EB 483.
[39] T. Âutinh, Serm. 179, 1: PL 38, 966.
[40] T. Giêrônimô,
Comm. in Is., Prol.: PL 24, 17. – X. Bênêđíchtô XV, Tđ. Spiritus Paraclitus: EB 475-480. – Piô XII, Tđ. Divino Afflante Spiritu: EB 544.
[41] T. Ambrosiô, De Officiis ministrorum I, 20, 88: PL
16, 50.
[42] T. Irênê, Adv. Haer. IV, 32, 1: PG 7, 1071, (=
49,2