CHUNG QUANH VẤN ĐỀ TÂN PHÚC ÂM HÓA
+ Phaolô Nguyễn Thái Hợp, O.P.
Lễ bế mạc Năm thánh 2010 tại Thánh địa La Vang
Trong thời gian gần đây, “Tân
Phúc Âm hóa” đã trở thành một đề tài quan trọng, thường xuyên được Đức Gio-an Phao-lô
II đề cập đến trong các văn kiện, nhất là trong các cuộc viếng thăm mục vụ ở
nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt tại Mỹ châu La tinh và Âu châu. Trước ngưỡng
cửa ngàn năm thứ ba, “Tân Phúc Âm hóa” đã trở thành chương trình mục vụ chung
của toàn thể Giáo Hội Công giáo.
Nhưng tại sao cần đến “Tân Phúc
Âm hóa” ? Phải chăng đây là một hành động chạy theo thời thượng hay bị ám ảnh
bởi “thuyết nghìn năm”? Tông thư “Tiến tới thiên niên kỷ thứ ba” (TNKB) cho
thấy khi đưa ra chương trình “Tân Phúc Âm hóa” trong viễn tưởng thiên niên kỷ
thứ ba, Giáo Hội không chủ ý chạy theo một đề tài thời thượng, càng không bao
giờ bị ám ảnh bởi “tân thiên niên thuyết, như một số người đã làm vào cuối ngàn
năm thứ nhất” (TNKB,23). Nếu phân tích kỹ chúng ta sẽ nhận thấy đây là một vấn
đề thần học và mục vụ có chiều kích lịch sử và bén rễ rất sâu trong truyền
thống của Ki-tô giáo. Những dòng sau đây sẽ cố gắng trình bày về ý nghĩa và
thách đố của “Tân Phúc Âm hóa” trong viễn tưởng thiên niên kỷ thứ ba.
1. Ý NGHĨA CỦA TÂN
PHÚC ÂM HÓA
Đứng trên phương diện suy tư
thần học, diễn ngữ “Tân Phúc Âm hóa” (Nouvelle évangélisation, New
evangelizatiom hay Nueva evangelización) khá hàm hồ và có thế tạo nên ngộ nhận
như thể muốn phủ nhận những giá trị của công cuộc Phúc Âm hóa hay truyền giáo
cũ. Trên thực tế có người đã vô tình đồng hóa “Tân Phúc Âm hóa” với “Tái Phúc
Âm hóa”, và gián tiếp cho rằng việc rao giảng Tin Mừng trước đây có những thiếu
sót cơ bản, sai lạc hoặc không còn hiệu năng, cho nên phải “Tái Phúc Âm hóa”,
nghĩa là hầu như phải xóa bàn làm lại từ đầu và tất cả.
Không ai có thể phủ nhận những
giới hạn, thiếu sót và khuyết điểm của việc rao giảng Tin Mừng trong quá khứ,
đặc biệt tại Châu Á, Châu Phi và Nam Mỹ. Nhưng bên cạnh một số “bóng đen” dày
đặc và đau lòng, còn có rất nhiều ưu điểm và “ánh sáng rạng ngời” (xem TNKB,
36). Tân Phúc Âm hóa không bao giờ chủ trương khởi đi từ số không, hay chối từ
những gia sản và giá trị của truyền thống.
Chính Đức Gio-an Phao-lô II đã
cảnh giác chúng ta đừng lẫn lộn “Tân Phúc Âm hóa” với “Tái Phúc Âm hóa”. Chữ “tân”
hay “mới” được dùng ở đây không chủ ý trình bày một “Phúc Âm mới”, khác với “Phúc
Âm cũ” đã được loan truyền từ trước đến nay. Xưa cũng như nay, chỉ có một Phúc
Âm hay Tin Mừng duy nhất, trường cửu và tự tại : “Đức Giê-su Ki-tô vẫn là một,
hôm qua cũng như hôm nay và như vậy đến muôn đời” (Dt 13,8). Tuy nhiên trong
một xã hội đa dạng, phức tạp và thay đổi không ngừng như xã hội chúng ta, dĩ
nhiên phương pháp và cách thế loan báo Tin Mừng phải luôn luôn cập nhật hóa,
ngõ hầu đáp ứng nhu cầu và yêu sách đặc biệt của thời đại. Ngỏ lời trước Hội
nghị các Giám mục Mỹ châu La tinh họp tại Port-au-Prince, Haiti, ngày 9 tháng 3
năm 1983, Đức Gio-an Phao-lô II xác định rõ rệt : “Việc kỷ niệm 500 năm rao
giảng Tin Mừng sẽ có một ý nghĩa tròn đầy nếu có sự dấn thân của quý chư huynh
Giám mục, cùng với hàng linh mục và giáo dân; dấn thân, không phải để tái Phúc
Âm hóa (re-evangelización), mà là tân Phúc Âm hóa (nueva evangelización). Mới
trong sự nhiệt thành, trong phương pháp, trong lối diễn tả” (Insegnamenti di
Giovanni Paolo II, VI, 1 (1983), Editrice Vaticana, 1983, p.698).
Xem như vậy, cái “mới” trong
diễn ngữ “Tân Phúc Âm hóa” không thuộc về bản chất và nội dung của Tin Mừng, mà
ám chỉ cách thế diễn tả và khả năng lãnh hội Tin Mừng, cũng như cách sống đạo
của chúng ta. Đối diện với tình trạng thụ động, thờ ơ, buông xuôi, hờ hững...
với sứ vụ sống và rao truyền Tin Mừng của rất nhiều người Công giáo thời nay,
yêu cầu tiên quyết là làm sao được một khí thế và nhiệt thành mới. Hơn bao giờ
hết, Giáo Hội cần những tín hữu biết đào sâu đức tin, sống trung thực với lý
tưởng của mình và can đảm, hăng say, nhiệt thành loan báo Tin Mừng cho những
người chung quanh.
Nhưng để thực hiện tốt sứ vụ đó
trong một xã hội phức tạp, đa dạng và đầy biến động, ngoài lòng nhiệt thành nói
trên, còn đòi hỏi phải biết sử dụng những phương pháp phù hợp. Như vậy, nói đến
tân Phúc Âm hóa là nói đến việc đổi mới về phương pháp, ngõ hầu có thể loan báo
Lời Chúa hữu hiệu hơn cho xã hội hôm nay. “Không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ
(...). Nhưng rượu mới thì phải đổ vào bầu mới”, (Lc 5,37-38), Đức Ki-tô không
căn dặn chúng ta như thế sao ?
Cuối cùng, tân Phúc Âm hóa luôn
đòi hỏi phải đổi mới về ngôn ngữ, lối diễn tả và cách thế trình bày sao cho phù
hợp với tâm thức và văn hóa thời đại. Đành rằng Tin Mừng của Đức Ki-tô tự bản
chất không cần một vùng đất riêng hay một thể chế chính trị hoặc xã hội nhất
định nào để sống, nhưng trách nhiệm của mỗi người tín hữu là làm sao sống và
diễn đạt niềm tin của mình bằng những chất liệu độc đáo và riêng biệt, rút từ
môi trường sống của mình. Tân Phúc Âm hóa đòi hỏi làm sao kết hợp tốt những giá
trị vĩnh cửu của Tin Mừng với những giá trị và yếu tố riêng của mỗi thời đại và
mỗi văn hóa. Nếu Lời Chúa bất biến và duy nhất, những suy tư thần học, đường
lối sống đạo, cách thế trình bày và chuyển đạt Tin Mừng phải luôn uyển chuyển
theo điều kiện văn hóa và xã hội cụ thể của người nói cũng như của người nghe.
Nói cách khác, “Tân Phúc Âm hóa”
yêu cầu làm sao thể hiện những hình thức mới trong cách thế hiểu Đạo, sống Đạo,
diễn tả Đạo, tổ chức cộng đoàn, kiến tạo xã hội, v.v. Đặc biệt, nếu giáo sĩ và
tu sĩ giữ vai trò chủ động trong các công cuộc rao giảng Tin Mừng trước đây,
tân Phúc Âm hóa cần đặt nổi vai trò của người giáo dân. Theo Đức Gio-an Phao-lô
II, “dù rằng các hình ảnh của Tin Mừng về muối, ánh sáng và men đề cập đồng đều
đến tất cả các môn đệ của Đức Ki-tô, thế nhưng chúng được áp dụng một cách đặc
biệt cho người giáo dân. Đây là một biểu tượng mang nhiều ý nghĩa, vì không
những diễn tả việc tham gia và hội nhập sâu xa của người giáo dân vào thực tại
trần thế và cộng đồng nhân loại, mà nhất là còn nói lên điểm mới mẻ và độc đáo
của chúng về ý hướng loan báo Tin Mừng cứu độ” (Tông huấn về Vai trò người giáo
dân, 15).
Chủ trương canh tân, thích nghi
và hội nhập nói trên thật sự đã khởi đi từ Công đồng Va-ti-ca-nô II. Có thể nói
Công đồng đánh dấu một khúc quanh quan trọng trong lịch sử của Giáo Hội và khai
mở một hướng đi mới. “Với một nội dung rất phong phú và sắc thái mới mẻ chưa
từng thấy, nhiều vấn đề đã được Công đồng trình bày như thể một sự loan báo cho
thời đại mới. Các nghị phụ dùng ngôn ngữ của Tin Mừng, thứ ngôn ngữ của Bài
giảng trên núi và Tám mối phúc thật. Trong sứ điệp của Công đồng, Thiên Chúa
được trình bày trong vương quyền tuyệt đối của Ngài trên mọi sự, nhưng đồng
thời cũng đảm bảo cho sự tự quyết đích thực của các thực tại trần thế.” (TTKB,
n.20).
Trong khi chăm chú lắng nghe
Lời Chúa và tìm về cội nguồn của mình, Giáo Hội của Công đồng Va-ti-ca-nô II đã
tái khám phá căn tính, ơn gọi và sứ mệnh cứu độ được lãnh nhận từ Đức Ki-tô.
Giáo Hội đã mạnh dạn thực hiện
nhiều canh tân ở nhiều cấp độ khác nhau để thực hiện sứ vụ loan báo Tin Mừng
trong thời đại mới. Hiến chế mục vụ về Giáo Hội trong thế giới hôm nay khẳng
định : “Nỗi vui mừng và niềm hy vọng, những buồn khổ và nỗi lo âu của con người
hôm nay, cách riêng của những người nghèo và của tất cả những ai đang đau khổ,
đó cũng là vui mừng và hy vọng, đau buồn và lo âu của môn đệ Đức Ki-tô. Không
có gì liên quan đến nhân loại mà không có tiếng vang trong cõi lòng tín hữu Đức
Ki-tô (...). Cộng đoàn tín hữu cảm thấy thực sự và sâu xa liên đới với con
người và lịch sử nhân loại” (GS, n.2).
Nhiều Thượng Hội đồng cũng như
Hội đồng các Giám mục thuộc phạm vi thế giới, đại lục, miền hay quốc gia đã
được triệu tập để tiếp tục đào sâu sứ vụ canh tân và thích nghi này. Đặc biệt
nhân dịp kỷ niệm 10 năm bế mạc Công đồng Va-ti-ca-nô II, một Thượng hội đồng
Giám mục đã được triệu tập với mục đích giúp Giáo Hội thích ứng hơn với sứ vụ
rao giảng Tin Mừng cho nhân loại của thế kỷ XX. Cố gắng của Thượng hội đồng là
để trả lời cho ba câu hỏi căn bản sau đây :
- Năng lực tiềm ẩn của Tin Mừng
có còn khả năng thức tỉnh lương tâm con người nữa không?
- Sức mạnh của Tin Mừng có thể
biến đổi thực sự con người ngày hôm nay như thế nào và đến đâu?
- Phải dùng những phương pháp
nào để việc loan báo Tin Mừng được hữu hiệu?
Tất cả những suy tư và kiếm tìm
của Thượng hội đồng đã được Đức Phao-lô VI đúc kết và công bố năm 1975 qua Tông
thư “Evangelii nuntiandi”. Đây là một tài liệu nền tảng của nhiều chương trình
loan báo Tin Mừng trong hai thập niên vừa qua.
Đức Gio-an Phao-lô II khai
triển và đẩy mạnh hơn nữa chương trình “Tân Phúc Âm hóa” này. Ngay từ những
tháng đầu tiên của triều đại Giáo hoàng, ngài đã bộc lộ nỗi ưu tư, băn khoăn về
sứ vụ loan báo Tin Mừng trong thế giới hôm nay. Đặc biệt nhất, năm 1983, tại Mỹ
châu La tinh ngài đã chính thức công bố chương trình “Tân Phúc Âm hóa” Mỹ châu
La tinh trong viễn tượng kỷ niệm 500 truyền giáo. Sau đó vấn đề “Tân Phúc Âm hóa”
cũng được đặt ra cho Âu châu, như một trả lời tích cực cho phong trào tục hóa
và giải trừ Ki-tô giới.
Ít lâu sau, ngỏ lời với một
cộng đoàn Công giáo tại Phi châu, Đức Gio-an Phao-lô II đã diễn tả một cách gợi
hình như sau : hát giống Tin Mừng mãi mãi bất biến và trường tồn. Tuy nhiên vì
hạt giống đó được gieo vào những thửa đất khác nhau tại Âu châu, Phi châu, Á
châu, Mỹ châu... nên khi nó đâm chồi nẩy lộc và sinh hoa kết trái tất nhiên sẽ
có những sắc thái và mùi vị khác biệt do ảnh hưởng của khí hậu và đất đai. Cuối
cùng, trước viễn cảnh thiên niên kỷ thứ ba, “Tân Phúc Âm hóa” đã trở thành
chương trình mục vụ chung của toàn thể Giáo Hội.
2- TÂN PHÚC ÂM HÓA
LÀ GÌ ?
Nói đến “Tân Phúc Âm hóa” đương
nhiên đã giả thiết một quan niệm về “Phúc Âm hóa” hay loan báo Tin Mừng. Vậy
Phúc Âm hóa là gì? Theo Đức Phao-lô VI không dễ dàng đưa ra một câu trả lời cô
đọng và thỏa đáng cho câu hỏi căn bản trên, nhất là khi chúng ta liên kết nó
với ý nghĩa, nội dung và cách thế rao giảng Tin Mừng của Đức Ki-tô. (Cf. Phaolô
VI, Evangelii nuntiandi, n.7)
Theo nguyên ngữ Hy lạp, động từ
“evangelizontai” có nghĩa là “loan báo tin mừng”, đặc biệt những tin vui thắng
trận, hòa bình, giải thoát, hạnh phúc... cho các dân tộc. Trong bối cảnh văn
hóa Hy lạp, “tin mừng” này luôn luôn là một sự kiện quan trọng, một biến cố
lịch sử đã hoàn tất, đi trước việc loan báo.
Trong phạm vi Kinh Thánh, có lẽ
tác giả của phần II sách I-sai-a là người đầu tiên đã sử dụng diễn ngữ “tin
mừng” để loan báo cho những người Do Thái đang lưu đày tại Ba-by-lon một “tin
vui” lớn lao và ý nghĩa nhất cho họ: thời gian lưu đày của họ sắp chấm dứt.
Giữa cảnh lầm than, khổ nhục kèm theo khủng hoảng rất trầm trọng về niềm tin
của một dân tộc bị phá sản, đây chính là một tin mừng tròn đầy, vừa thuộc phạm
vi trần thế vừa có chiều kích tôn giáo (Cf. Isaia 40, 1-9 ; 52,7 ; 61,1).
Đức Giê-su Ki-tô tiếp nối và
kiện toàn viễn tưởng cứu độ của Cựu Ước. Ngài khởi đầu cuộc đời công khai bằng
việc loan báo Tin Mừng và nội dung của Tin Mừng này là loan báo Nước Trời đã
gần kề. Tất cả những bận tâm, cố gắng, lo âu, khắc khoải của Ngài trong suốt
chặng đường dương thế đều xoay quanh vấn đề làm sao thực hiện tốt sứ vụ loan
báo đó. Đối diện với việc loan báo Tin Mừng về Nước Trời này, “tất cả mọi sự
trở thành thứ yếu, tương đối và phụ thuộc” (Phao-lô VI, EN.,8). Cuối cùng Ngài
đã hiến dâng chính cuộc đời, chết tức tưởi trên thập giá, để diễn tả một cách
thật tròn đầy nghĩa yêu thương, bao dung, tha thứ và cứu độ của Tin Mừng.
Dĩ nhiên, Tin Mừng cứu độ của
Đức Ki-tô là một sứ điệp phổ quát, gởi đến hết mọi người, mọi dân tộc và văn
hóa. Phủ nhận tính đại đồng này là bóp méo và xuyên tạc bản chất của nó. Tuy
nhiên cái độc đáo của Đức Ki-tô là đã liên kết tài tình tính phổ quát của tình
yêu Thiên Chúa với việc chọn lựa ưu tiên dành cho người nghèo. Theo thánh
Lu-ca, khi Đức Ki-tô trở về thăm quê hương Na-gia-rét, “Người vào Hội đường như
Người vẫn quen làm trong ngày Sa-bát, và đứng lên đọc sách Thánh. Họ trao cho
Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng :
“Thần Khí Chúa ngự
trên tôi,
vì Chúa đã xức dầu
tấn phong tôi
để tôi loan báo Tin
Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Người đã sai tôi đi
công bố
cho những kẻ bị
giam cầm biết họ được tha,
cho người mù biết
họ được sáng mắt,
trả tự do cho người
bị áp bức,
công bố một năm
hồng ân của Chúa.” (Lc 4,16-19)
Đọc xong những lời trích dẫn
trên của ngôn sứ I-sai-a, Đức Giê-su cuộn sách lại và tuyên bố: “Hôm nay đã ứng
nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe”. Hai chữ “hôm nay” này vừa nhấn mạnh
đến tính hiện đại của ơn cứu độ, vừa cho thấy với sự xuất hiện của Đức Ki-tô
khai mở thời hồng ân mà các ngôn sứ đã loan báo qua lịch sử. Trong con người
của Đức Ki-tô và ngang qua sứ mệnh cứu độ của Ngài, “Thiên Chúa hiện diện với
con người. Càng ý nghĩa hơn khi con người nói đây trước hết là những người
thiếu thốn về vật chất, những người bị tước đoạt tự do, những người không được
nhìn vẻ đẹp thiên nhiên, những người đau khổ trong tâm hồn hoặc nạn nhân của
bất công xã hội và cuối cùng những người tội lỗi” (Gioan Phaolô II, Dives in Misericordia, n.2).
Trong viễn tưởng đó, Tông thư “Tiến
tới thiên niên kỷ thứ ba” có lý để đặt nổi tính chất Ki-tô học và mô hình rao
giảng Tin Mừng của Đức Ki-tô. Chủ đề tổng quát của Năm Thánh là “tái khám phá
Đức Ki-tô Cứu độ và rao giảng Tin Mừng, đặc biệt qui chiếu về chương 4 của Tin
Mừng theo thánh Lu-ca, trong đó được nối kết chặt chẽ chủ đề Đức Ki-tô được sai
đi loan báo Tin Mừng với chủ đề Năm Hồng ân” (TTKB, n.40).
Cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi
tiếp tục sứ vụ loan báo Tin Mừng và coi đó như lẽ sống của mình. Tuy nhiên
những ai tinh ý sẽ nhận ra là đã có một “chuyển biến” về nội dung. Thật vậy,
nếu đối với Đức Ki-tô loan báo Tin Mừng có ý nghĩa loan báo Nước Trời, cộng
đoàn Ki-tô hữu nguyên thủy lại nhấn mạnh đến biến cố Đức Ki-tô bị đóng đinh và
Phục sinh. Sự khác biệt này hàm chứa một ý nghĩa Ki-tô học sâu xa. Kể từ biến
cố Phục sinh, Nước Trời đã được các Ki-tô hữu tiên khởi quan niệm như thể hiện
và cô đọng nơi Đức Ki-tô Phục sinh. Kể từ đây, lý tưởng, kiểu mẫu và hy vọng
cuối cùng của người Ki-tô hữu chính là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa làm người. Do
đó, loan báo Tin Mừng đồng nghĩa với việc loan báo Đức Ki-tô bị đóng đinh và
Phục sinh.
Bài giảng đầu tiên của thánh
Phê-rô cho dân chúng Do Thái trong lễ Hiện Xuống (Cv 2,14-41) là một thí dụ
điển hình nhất của mô hình loan báo Tin Mừng này. Thánh Phê-rô, cùng với mười
một Tông đồ, lớn tiếng tố cáo hành động sai lầm của người Do Thái đương thời (“Đức
Giê-su Na-gia-rét, là người được Thiên Chúa phái đến với anh em (...). Đức
Giê-su ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập
giá mà giết đi”), đồng thời loan báo một Tin Mừng (“nhưng Thiên Chúa đã làm cho
Người sống lại”). Hậu quả trực tiếp của việc loan báo này là một chất vấn luân
lý căn bản, đòi hỏi người nghe phải tự đặt vấn đề (“Chúng tôi phải làm gì?”).
Câu trả lời của Phê-rô thật rõ rệt và triệt để : “Anh em hãy sám hối và mỗi
người hãy chịu phép Rửa nhân danh Đức Giê-su Ki-tô”.
Xem như vậy, rao giảng Tin Mừng
hay Phúc Âm hóa luôn luôn bao hàm ba yếu tố căn bản: can đảm tố giác những sai
lầm, loan báo sứ điệp cứu độ và đòi hỏi phải thực sự sám hối, thay đổi thái độ,
nếp sống, lối suy tư, cách thế hành động và chính con người cũ.
Tông hiến “Tiến tới thiên niên
kỷ thứ ba” đã đặc biệt đề cập đến nhu cầu sám hối cá nhân và tập thể dựa trên
mầu nhiệm và sứ vụ của Giáo Hội. Theo Tông hiến, “mặc dù thánh thiện nhờ sáp
nhập với Đức Ki-tô, Giáo Hội không ngừng sám hối. Giáo Hội luôn thừa nhận,
trước Thiên Chúa và trước nhân loại, những con cái tội lỗi của mình (...). Giáo
Hội không thể bước qua ngưỡng của thiên niên kỷ mới mà không khuyến khích con
cái mình tự thanh luyện trong sám hối về những lỗi lầm, những bất trung, những
chia rẽ, những trì trệ” (TTNB, 33).
Trong việc kiểm điểm những sai
lầm ở quá khứ, có một điểm mà các Ki-tô hữu phải sám hối đặc biệt, “đó là việc
sử dụng những phương pháp bất khoan dung và thậm chí dùng bạo lực để phục vụ
chân lý” (TNKB,35). Đối riêng với cuộc sống của người Ki-tô hữu, “phải nói thêm
rằng hầu như khắp nơi người ta đã mất đi khuynh hướng thăng hoa cuộc sống con
người và bị mất phương hướng trong cuộc sống chân lý, ngay cả trong những gì
liên hệ đến giá trị căn bản của việc tôn trọng sự sống và gia đình. Một trắc
nghiệm được đặt ra cho con cái của Giáo Hội : “đến mức độ nào họ đã bị ảnh
hưởng của bầu không khí thế tục hóa và tương đối hóa về luân lý?” (TNKB, 36).
3. NHỮNG THÁCH ĐỐ
CỦA TÂN PHÚC ÂM HÓA
Một trong những ý nghĩa sâu xa
và nguyên thủy của “Năm hồng ân” là việc thực hiện lý tưởng huynh đệ đại đồng,
tái lập bình đẳng, chấm dứt những bất công xã hội và tình trạng áp bức giữa
người với người (cf. TTNB, 12-13). Trong bối cảnh kỷ niệm hai ngàn năm sinh
nhật của Đức Giê-su Ki-tô, dĩ nhiên năm hồng ân này sẽ mang một ý nghĩa và
thách đố đặc biệt. Trong phạm vi giới hạn của bài này, chỉ xin ghi lại vài
thách đố chính.
a) Thách đố thứ nhất là vấn đề
hợp nhất. Việc chia rẽ giữa những người cùng chung một niềm tin nơi Đức Ki-tô
là một trong những “vết đen” đau buồn nhất của thiên niên kỷ sắp kết thúc, một
hành động hoàn toàn đi ngược với ý muốn của chính Đức Ki-tô và trở thành gương
xấu cho thế giới. Do đó hiệp nhất là thách đố hàng đầu của tân Phúc Âm hóa.
Tông thư công nhận rằng từ sau Công đồng đã có nhiều sáng kiến đại kết được
thực hiện với nhiều độ lượng và quyết tâm. Hiện tại Uỷ ban của Tòa Thánh về
Hiệp nhất Ki-tô hữu đã trở thành một trong những trung tâm chính để thúc đẩy
tiến trình dẫn đến hiệp nhất viên mãn. Tuy nhiên vẫn còn rất nhiều khó khăn
phải khắc phục và chướng ngại phải vượt qua. Vì vậy, “đứng trước hoàng hôn của
thiên niên kỷ thứ hai, chúng ta cần tự vấn lương tâm và đưa ra những sáng kiến
hợp nhất hữu hiệu, ngõ hầu có thể trình diện trong dịp đại lễ này, nếu chưa
hoàn toàn hiệp nhất, ít ra đã tiến gần đến chỗ vượt qua những chia rẽ của thiên
niên kỷ thứ hai” (TTNB, 34).
b) Thách đố thứ hai là sứ vụ
loan báo Tin Mừng cho người nghèo (Mt 11, ; Lc 7,22). Theo Tông thư, nếu Đức
Ki-tô đã ưu tiên loan báo Tin Mừng cho những người nghèo hèn và cùng khổ, tân
Phúc Âm hóa hôm nay “không thể không đặt nổi lựa chọn ưu tiên của Giáo Hội đối
với những người nghèo và những người bị loại trừ. Người ta phải nói rằng, trong
một thế giới bị đánh dấu bởi biết bao xung đột và bất bình đẳng không thể chấp
nhận được về xã hội và kinh tế như trong thế giới của chúng ta, việc dấn thân
phục vụ công lý và hòa bình là một khía cạnh đặc biệt của việc chuẩn bị và cử
hành Năm Thánh” (TTNB, 51).
Với cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật lần thứ ba và việc hoàn cầu hóa kinh tế, tổng sản phẩm công nghiệp và
nông nghiệp của nhân loại tăng trưởng như chưa từng thấy, nhưng đồng thời hố
cách biệt giữa giàu nghèo lại sâu rộng hơn bao giờ hết. Đối diện với thực trạng
trên, tân Phúc Âm hóa không thể chỉ giới hạn ở việc chuyển đạt một số chân lý,
mà còn phải biểu lộ hành động liên đới và sám hối thực sự, có khả năng chia sẻ
và “giúp đỡ các nước bị khai trừ hay ở bên lề được hội nhập vào dòng phát triển
kinh tế và nhân bản” (Gio-an Phao-lô II, Centesimus annus, n.58).
Trong viễn cảnh đó thật rất ý
nghĩa khi Tông thư nhắc lại một truyền thống đầy ý nghĩa của Thánh kinh, theo
đó năm “Hồng ân” được thành lập với mục đích san bằng mọi bất công xã hội và
xóa bỏ mọi nợ nần (Lv 25,8-28), để chính thức kêu gọi “các Ki-tô hữu nói lên
tiếng nói của những người nghèo trên thế giới, bằng cách đề nghị Năm Thánh là
thời gian thuận lợi để nghĩ đến việc giảm bớt quan trọng, nếu chưa thể xóa bỏ
hoàn toàn, món nợ quốc tế đang đè nặng trên vận mệnh của nhiều quốc gia” (TTNB,
51).
c) Tân Phúc Âm hóa cũng đòi hỏi
hiểu biết những biến đổi về xã hội của thế giới hôm nay, đồng thời ý thức rõ
những thách đố mà khoa học kỹ thuật đang đặt ra cho việc rao giảng Tin Mừng.
Ngoài ra “Năm Thánh cũng tạo cơ hội để suy nghĩ về những thách đố khác của thời
đại chẳng hạn như những khó khăn trong việc đối thoại giữa các nền văn hóa khác
nhau, những vấn đề liên quan tới quyền lợi của phụ nữ, việc thăng tiến gia đình
và hôn nhân” (Ibidem).
Theo Tông thư, “người Ki-tô hữu
được mời gọi chuẩn bị đón năm Đại xá đầu thiên niên kỷ thứ ba bằng cách làm
sống lại niềm hy vọng vào thắng lợi cuối cùng của Nước Thiên Chúa, bằng cách
chuẩn bị mỗi ngày trong cuộc sống nội tâm, trong cộng đoàn Ki-tô hữu của mình,
trong môi trường xã hội mình đang sống, cũng như trong lịch sử thế giới. Vả
lại, chúng ta cũng cần phải đề cao và đào sâu các dấu chỉ hy vọng thấy được ở
cuối thế kỷ này, mặc dù bóng tối thường làm khuất lấp mắt chúng ta” (TTNB, 46).
Do đó việc nghiên cứu học thuyết xã hội của Giáo Hội là một nhu cầu cần thiết
và là dụng cụ của tân Phúc Âm hóa.
d) Cuối cùng, một thách đố đặc
biệt cho riêng Giáo Hội Á châu, “nơi đang được đặt ra một cách mãnh liệt vấn đề
gặp gỡ giữa Ki-tô giáo với các nền văn hóa và với các tôn giáo địa phương rất
kỳ cựu (...), bởi vì cơ cấu các tôn giáo lớn như Phật giáo và Ấn giáo được
trình bày như hàm chứa rõ rệt tính cứu độ”. Tại Ấn Độ chẳng hạn, một vài khuynh
hướng thần học đang đặt lại vai trò của Đức Ki-tô trong chương trình cứu độ.
Chính vì vậy nhu cầu cấp bách của tân Phúc Âm hóa là “khẩn cấp triệu tập một
Công nghị nhân dịp Năm Thánh để làm sáng tỏ và đào sâu đạo lý về Đức Ki-tô Đấng
Trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người, Đấng Cứu độ duy nhất của trần
gian, trong khi phân biệt rõ Ngài với những vị sáng lập các tôn giáo lớn khác,
mặc dù gặp thấy trong đó những yếu tố của chân lý mà Giáo Hội phải tôn trọng”
(TTNB, n.38).
4. TRĂN TRỞ VÀ ƯỚC MƠ
Nếu một trong những điểm độc
đáo của Ki-tô giáo là Nhập thể và nhập thế, đi vào lòng đời và làm người với
mọi người, như mọi người, ở mọi thời mọi nơi, thì có lẽ phải thành thật nhìn
nhận rằng công cuộc loan báo Tin Mừng trước đây tại Á châu chưa thành công bao
nhiêu trong việc hội nhập. Về mặt cơ cấu, Ki-tô giáo được địa phương hóa với
việc thành lập hàng giáo phẩm bản xứ, một số cơ sở tôn giáo được kiến trúc theo
kiểu Á đông và còn có thêm một số người bản xứ được phong thánh. Nhưng về văn
hóa, vẫn chưa có một nền thần học có khả năng suy tư và diễn đạt niềm tin với
những chất liệu và tâm tình của người Á đông. Tin Mừng vẫn chưa thực sự “nhập
thể” vào văn hóa Á châu.
Tuy nhiên, hiện tại chúng ta
đang ở vào một giao điểm lịch sử đặc biệt với những thách đố mới mẻ. Những cơn
lốc và bước ngoặt lịch sử đang biến vùng Đông Nam Á thành “điểm nóng” của thế
giới hôm nay, với một thực tế thật bề bộn và ngổn ngang, nhưng đầy ấp hứa hẹn.
Cả một vùng đất rộng lớn đang được nhào nặn, căng kéo, lôi ghì dưới sức ép của
truyền thống và những tác động gay gắt của tiến trình hiện đại hóa theo mô hình
Tây phương.
Một số người cho rằng quá trình
hiện đại hóa do “Tây phương Ki-tô giáo” đem đến đã bén rễ thành công tại Đông
Nam Á. Người Á đông hôm nay, dù ý thức hay không, đã bổ sung vào thế giới quan
và nhân sinh quan của mình những quan niệm mới mẻ về khoa học kỹ thuật, cách tổ
chức xã hội, mô hình sản xuất, lối sống..., nghĩa là ngầm thừa nhận văn hóa và
mô hình “Tây phương” như một trong những mẫu mực của cuộc sống. Xét về phương
diện phát triển kinh tế thì Á châu Thái bình dương hiện nay là vùng năng động
nhất và đã thành công trong việc áp dụng kỹ thuật vào phát triển kinh tế. Tuy
nhiên xét về phương diện đưa ra một “mô hình văn hóa” có giá trị như một lối
sống toàn cầu thì các nước Á châu, kể cả Nhật, vẫn chưa thành công. Cho đến
nay, chỉ mới xuất cảng những hàng hóa tiêu dùng được chế theo mô hình kỹ thuật
Tây phương, chứ chưa đưa ra một “lối sống toàn cầu” sản xuất tại Nhật Bản hay
tại Trung Hoa. Có lẽ để trả lời cho những thách đố lớn lao đó, Nhật Bản đã
quyết định tăng 50% số ngân khoản dành cho việc nghiên cứu về phát triển.
Cái cũ - cái mới, tâm và trí,
Đông và Tây, khuynh hướng trực giác hay khuynh hướng khoa học, hoài vọng quá
khứ hay lạnh lùng nhìn thẳng tương lai... đang tranh giành nhau để khẳng định
vai trò chủ động ở Đông Nam Á. Một cơn sốt vỡ da đang diễn ra, với nhiều lo âu
và hứa hẹn. Xem ra xu hướng hiện đại hóa theo mô hình Tây phương đang thắng thế
và đầy xác tín.
Nhưng nói đến khoa học kỹ thuật
Tây phương là phải nói đến nguồn gốc Ki-tô giáo của nó. Thật vậy, khoa học kỹ
thuật chỉ có thể khai sinh và phát triển nhờ quan niệm phi huyền thoại hóa của
Ki-tô giáo: chỉ có Thiên Chúa là thần duy nhất, còn tất cả mọi sự chỉ là tạo
vật. Dĩ nhiên con người cũng chỉ là tạo vật, nhưng là một tạo vật được dựng nên
theo hình ảnh của Thiên Chúa và được trao phó nhiệm vụ quản trị, điều khiển và
chế ngự thiên nhiên. Tuy nhiên hoa hồng nào mà chẳng có gai. Với thời gian chủ
trương phi huyền thoại hóa đã đưa nhiều người Tây phương đến chỗ phủ nhận chính
cỗi nguồn của mình, trần tục hóa cuộc sống, tàn phá thiên nhiên và có hiểm họa
tự tiêu diệt.
Đây là một cơ hội tốt để Giáo
Hội Công giáo tại Á châu, từ vị thế đặc biệt của mình, đóng góp cho dân tộc
trong cố gắng tìm kiếm và chọn lựa một con đường phát triển phù hợp với những
giá trị tinh thần và văn hóa. Làm sao đáp ứng được những đòi hỏi của đất nước
trong giai đoạn chuyển mình này? làm sao tiếp thu cái ưu điểm của khoa học kỹ
thuật và kinh tế thị trường nhưng tránh được mặt xấu, tiêu cực và sa đọa trong
nếp sống Tây phương? Làm sao khai mở cho nhân loại một con đường mới, kết hợp
hài hòa giữa phát triển kinh tế và kỹ thuật với chiều sâu tâm linh và truyền
thống văn hóa.
Nhiều nơi trong Giáo Hội kỷ
niệm Năm 2000. Nhưng nhiều dấu hiệu cho thấy có lẽ hình như chỉ bận tâm đến
những chuyện nội bộ cục diện, như việc tổ chức hành hương hay đi rước; hoặc
đang muốn làm sống lại những cái cũ, đã bị chôn vùi từ lâu, mà lãng quên những
thách đố lớn lao có chiều kích lịch sử thuộc phạm vi văn hóa, hội nhập, phát triển...
Tôi sợ rằng lại một lần nữa Ki-tô giáo bỏ mất cơ hội ngàn vàng và rồi mai sau
lại một lần nữa sẽ phải ân hận!
daminhvn.net Thứ ba, 22 Tháng 2 2011
06:50 Tài Liệu