WGPSG – Hội nghị khoáng đại thứ X của FABC sắp khai mạc tại Gp. Xuân Lộc -
Việt Nam. Việc tìm hiểu nhiều hơn về FABC sẽ giúp cho những thành quả của FABC
được phát huy nơi các cộng đoàn tín hữu tại Á châu.
Suy tư thần học và mục vụ bao giờ cũng xuất hiện trong một bối cảnh cụ thể
được tạo nên bởi sự cộng hưởng của nhiều yếu tố: văn hóa, tôn giáo, kinh tế, xã
hội… Những yếu tố này làm nên vóc dáng của một dân tộc trong một không gian và
thời gian cụ thể. Do đó, để thấu hiểu những suy tư thần học và cảm nhận được
những thao thức mục vụ của Liên Hiệp các Hội Đồng Giám Mục Á Châu (FABC),[1] không thể không
quan tâm đến Kitô giáo trong bối cảnh Á châu.
GIÁO HỘI CÔNG GIÁO TRONG BỐI CẢNH Á CHÂU
Đúng như Đức Gioan Phaolô II đã viết trong tông huấn Ecclesia in Asia,
thật là nghịch lý khi Đức Giêsu vốn được sinh ra trên mảnh đất Á châu lại
bị hầu hết dân châu Á xem như một khuôn mặt của phương tây hơn là châu Á.[2] Và cho đến bây
giờ, sau 20 thế kỷ Tin Mừng được loan báo trên toàn thế giới, Đức Giêsu vẫn cứ
là khuôn mặt xa lạ với đa số người dân châu Á. Thực tế là tại châu lục mênh
mông này, chỉ có hơn 2% người dân tin vào Đức Giêsu Kitô. Ngoại trừ Philippines
là đất nước có tỷ lệ người Công giáo đáng kể, còn lại các quốc gia khác, người
Công giáo là thiểu số thật nhỏ nhoi. Điều đau đớn hơn nữa là Kitô giáo bị xem
là sản phẩm của quyền lực và văn hóa phương Tây, xa lạ với văn hóa và đời sống
của người dân châu Á;[3] do đó không thu hút được nhiều người dù đã hiện diện ở đây rất lâu.
Có đặt mình trong bối cảnh đó, mới hiểu được tại sao mối quan tâm lớn nhất
của các Giáo hội địa phương tại châu Á là làm thế nào để Giáo hội Chúa Kitô
trên châu lục này không bị đánh giá là một Giáo hội xa lạ nhưng là một Giáo hội
cắm rễ sâu trong mảnh đất châu Á. Như Sergio Luciani đã nhận xét cách chí lý,
chính mối quan tâm mục vụ đó đã thúc đẩy các giám mục Á châu tập trung suy tư
của mình vào những vấn đề thuộc lãnh vực Giáo hội học hơn là những lãnh vực
khác trong Thần học. Nói cách khác, có một nguyên lý hoặc minh nhiên hay mặc
nhiên tác động trên định hướng toàn diện của FABC là làm sao hình thành một tầm
nhìn mới về Giáo hội, có khả năng đáp trả những nhu cầu và vấn nạn trong hoạt
động mục vụ.[4] Đối với các giám mục Á châu, thần học và mục vụ là hai việc không thể tách
rời.
Chính trong bối cảnh đó mà FABC đã và đang thúc đẩy việc xây dựng một cách
thế hiện diện mới của Giáo Hội tại châu Á. Theo các giám mục Á châu, xây dựng
một cách thế hiện diện mới của Giáo Hội trên đại lục này trước hết là phải làm
sao xây dựng Giáo hội thực sự trở thành một Giáo hội địa phương
(local Church), một Giáo hội ăn rễ sâu vào những thực tại đời sống của các dân
tộc Á châu. Muốn hiểu thế nào là một Giáo hội địa phương thì hãy qui chiếu về
mầu nhiệm Thiên Chúa làm người như là suối nguồn và nguyên lý nền tảng cho suy
tư thần học cũng như cho công tác mục vụ. Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người đã không
diễn ra cách chung chung mơ hồ, nhưng trong một bối cảnh lịch sử, địa lý và văn
hóa rất cụ thể. Và bối cảnh cụ thể đó đã gây ảnh hưởng rất lớn trên cuộc sống
của Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ: lối sống, cách rao giảng, kể cả cuộc khổ nạn
và cái chết của Người. Tương tự như thế, để thi hành và chu toàn sứ vụ yêu
thương và phục vụ của mình, Giáo hội cần phải nhập thể vào trong một bối cảnh
nhân sinh cụ thể.[5] Do đó, ngay từ lần họp Hội Nghị Khoáng Đại (Plenary Assembly) đầu tiên,
các giám mục châu Á đã mô tả Giáo hội địa phương là “một Giáo hội nhập thể
trong một dân tộc, một Giáo hội bản địa, một Giáo hội hội nhập trong một nền
văn hóa.”[6] Ở một nơi khác, các ngài khẳng định rất mạnh rằng Giáo hội “chỉ thực sự
trở thành Giáo hội khi nhập thể vào một dân tộc và một nền văn hóa, trong không
gian và thời gian cụ thể. Mầu nhiệm Giáo hội chỉ là một, toàn thể và phổ quát,
nhưng sự thể hiện cụ thể của Giáo hội thì thay đổi, đa dạng và đặc thù.”[7]
MỘT GIÁO HỘI ĐỐI THOẠI
Định hướng đã rõ ràng nhưng vấn đề là phải làm gì và làm thế nào để Giáo
hội thực sự hội nhập trong một nền văn hóa và trở thành một Giáo hội bản địa.
Theo các giám mục châu Á, định hướng đó chỉ trở thành hiện thực khi Giáo hội
bước vào cuộc đối thoại với mọi thực tại đời sống của người dân tại nơi
mà Giáo hội đang có mặt, không chỉ là sự có mặt của cơ chế nhưng là sự hiện
diện của một Giáo hội muốn mang lấy những ưu sầu và lo lắng, mừng vui và hy
vọng của người dân làm ưu sầu và lo lắng, mừng vui và hy vọng của chính mình.[8]
Nói đến châu Á là nói đến cái nôi của những tôn giáo lớn trên thế giới như
Do thái giáo, Kitô giáo, Hồi giáo, Ân giáo, cũng như những truyền thống tâm
linh khác như Phật giáo, Khổng giáo và Lão giáo. Những tôn giáo và truyền thống
tâm linh này đã ghi dấu ấn lâu đời và sâu sắc trên đời sống của các dân tộc Á
châu, hình thành những giá trị tôn giáo và văn hóa của Á châu, đặc biệt là sự “yêu
mến thinh lặng và chiêm ngắm, tính đơn sơ, hài hòa, siêu thoát, bất bạo động,
cần mẫn, kỷ luật, sống đạm bạc, khao khát học hỏi và truy tìm triết ly.”[9] Nói đến châu Á
cũng là nói đến đại dương những người nghèo khổ. Thật thế, dân số châu Á chiếm
2/3 dân số toàn cầu và tuy có một số quốc gia được đánh giá là những nước phát
triển cao, phần đông vẫn là những nước nghèo, và một số được xếp vào hàng nghèo
nhất thế giới.
Trong bối cảnh đó, nếu Giáo hội muốn tiến bước trên con đường đối thoại thì
không thể không quan tâm đến những thực tế nói trên của châu Á. Chính vì thế mà
từ nhiều năm qua, các giám mục châu Á đã không ngừng thúc đẩy và khuyến khích
tiến hành cuộc đối thoại ba mặt với các truyền thống lâu đời tại châu Á,
với nhiều nền văn hóa khác nhau tại Á châu, và với đại dương mênh mông những
người nghèo khổ. Cuộc đối thoại này phải là cuộc đối thoại liên lỉ, khiêm tốn
và tràn ngập tình yêu thương. Phải là cuộc đối thoại liên lỉ chứ không chỉ là
một vài hoạt động mang tính thời vụ trong một vài thời điểm nào đó; đúng hơn đó
phải là một thái độ sống thấm sâu vào trong cung cách hiện diện và hoạt động
của Giáo hội. Phải là một cuộc đối thoại trong khiêm tốn để cùng nhau lắng nghe
tiếng nói của Thánh Thần chứ không phải với thái độ trịch thượng của những kẻ
tự cho mình là độc quyền chân lý. Phải là một cuộc đối thoại chứa chan yêu mến,
tôn trọng và tương kính, dứt khoát khước từ bạo lực dưới bất cứ hình thức nào.
Chính qua hành trình đối thoại đó mà Giáo hội mới có thể nhập thể vào trong
những truyền thống xã hội, văn hóa và tôn giáo của các dân tộc đang hiện diện
tại châu Á, cũng như hòa vào khát vọng của người dân hướng đến một xã hội nhân
đạo và công bằng hơn. Cũng chính qua hành trình đối thoại đó mà Giáo hội mới
mong trở thành một Giáo hội Á châu trong cách suy nghĩ và diễn đạt tư tưởng
thần học của mình chứ không chỉ lệ thuộc những phạm trù tư tưởng tây
phương vốn xa lạ với tâm thức Á châu. Đồng thời, xuyên qua con đường đối thoại,
Giáo hội có thể sống và thể hiện tính phổ quát của Giáo hội trong nét đặc thù
của mình (universality in particularity) bởi lẽ Giáo hội địa phương không chỉ
có nghĩa là một phần của Giáo hội (partial Church) cũng không chỉ đơn thuần là
một đơn vị quản trị trong cơ chế mênh mông là Giáo hội toàn cầu.[10] Đúng hơn,
mỗi Giáo hội địa phương chứa đựng toàn bộ mầu nhiệm Giáo hội và như thế là toàn
thể thực tại Giáo hội được thu nhỏ.[11]Cuối cùng, cũng chỉ qua nẻo đường đối thoại đó
mà cộng đoàn Giáo hội địa phương mới hy vọng chu toàn sứ mạng chia sẻ kinh
nghiệm đức tin với những anh chị em thuộc các truyền thống tôn giáo hay những
nền văn hóa khác, và loan báo Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân
loại.
MỘT GIÁO HỘI NHƯ SỰ HIỆP THÔNG CỦA NHỮNG CỘNG ĐOÀN
Để xây dựng một cách thế hiện diện mới, Giáo hội cần đối thoại với mọi thực
tại đời sống Á châu. Đó là cả một hành trình dài và trong hành trình đó, nội bộ
Giáo hội cũng cần được đổi mới. Theo đó, cần có một tầm nhìn mới về Giáo hội và
nỗ lực xây dựng Giáo hội như là sự hiệp thông của các cộng đoàn
(communion of communities) và là một Giáo hội tham gia (a participatory
Church). Trong Hội nghị khoáng đại lần thứ nhất, FABC đã khẳng định, “ Giáo hội
tại châu Á phải là sự hiệp thông của các cộng đoàn, nơi đó, giáo dân, tu sĩ và
giáo sĩ nhìn nhận và đón nhận nhau như anh chị em.”[12] Khẳng định này được chính Đức Gioan
Phaolô II xác quyết trong tông huấn Ecclesia in Asia: “ Các nghị phụ đã
chọn mô tả giáo phận như là sự hiệp thông của các cộng đoàn qui tụ chung quanh
Chủ chăn, ở đó hàng giáo sĩ, những người sống đời thánh hiến, và giáo dân đều
tham dự vào cuộc đối thoại bằng cuộc sống và con tim được ân sủng Thánh Thần
nâng đỡ.”[13]
Về mặt thần học, cách nhìn và trình bày về Giáo hội như sự hiệp thông giữa
các cộng đoàn được xây dựng vững chắc trên nền Giáo hội học về hiệp thông.[14] Thực vậy, dù các
tài liệu của FABC không minh nhiên nói đến một nền Giáo hội học nào nhưng một
nghiên cứu sâu cho thấy có một nền Giáo hội học bao trùm và làm nền cho tất cả
những tuyên ngôn cũng như tài liệu của FABC: đó là cách nhìn và cách hiểu về
Giáo hội như là Hiệp Thông.[15]
Nếu nói đến thực tại sâu xa nhất của Giáo hội thì phải nói rằng Giáo hội
chính là sự hiệp thông (koinonia) bắt nguồn từ sự hiệp thông của Thiên Chúa Ba
Ngôi. Do đó Giáo hội là bí tích, nghĩa là dấu chỉ và khí cụ cho sự hiệp thông
giữa Thiên Chúa và con người theo hai mặt: một bên là Thiên Chúa vì yêu thương
đã trao ban chính mình cho nhân loại (self-communication), một bên là sự đáp
trả của con người trong tin yêu và hy vọng.[16] Sự hiệp thông này trước hết là sự hiệp thông
của người tín hữu với Thiên Chúa, sự hiệp thông làm cho họ được nên một với Thiên
Chúa và được diễn tả qua những tương giao hài hòa với Chúa trong cuộc sống
người tín hữu. Sự hiệp thông ở chiều sâu này khơi nguồn cho mối hiệp thông mà
Kitô hữu chia sẻ cho nhau trong Đức Kitô qua tác động của Thánh Thần. Đây là
hai chiều kích không thể tách rời nhau – Đức Gioan Phaolô II gọi là chiều ngang
và chiều dọc – của mầu nhiệm hiệp thông duy nhất. Một đàng, sự hiệp thông với
Thiên Chúa là nền tảng và điều kiện thiết yếu cho mối hiệp thông đích thực giữa
các Kitô hữu. Đàng khác, mối hiệp thông giữa các anh chị em Kitô hữu lại chính
là hoa trái hữu hình nhất và thuyết phục nhất cho sự hiệp thông với Thiên Chúa.
Chỉ trong ý nghĩa toàn diện và sâu xa đó mới có thể nói về Giáo hội như bí tích
của sự hiệp nhất nhân loại.[17] Không chỉ là bí tích của sự hiệp nhất nhân loại, Giáo hội còn là bí tích
của sự phục hồi toàn thể vũ trụ bởi vì Đấng Trung gian của sự hiệp thông này là
Đức Giêsu Kitô, Đấng đã Thiên Chúa đặt làm Đầu Giáo hội và đồng thời làm Đức
Chúa của cả vũ trụ (Cl 1, 14-18).[18] Như thế, Giáo hội là cộng đoàn của những con người sống hiệp thông với
Thiên Chúa và với nhau, đồng thời là những người phục vụ cho công cuộc phục hồi
sự hài hòa nguyên thủy của toàn thể vũ trụ.
Quả là một tầm nhìn rất sâu và rất rộng về bản chất cũng như về sứ mạng của
Giáo hội. Vấn đề là làm thế nào để không ngừng dưỡng nuôi và phát triển sự hiệp
thông đó, và phải làm gì để diễn tả sự hiệp thông đó trong đời sống Giáo hội?
Sự hiệp thông này được nuôi dưỡng và tăng trưởng nhờ các bí tích đức tin,
bắt nguồn từ bí tích Thánh tẩy và không ngừng được xây dựng nhờ Thánh Thể; do
đó cử hành Thánh Thể phải là suối nguồn và đỉnh cao của cộng đoàn Kitô hữu.[19] Như Đức Bênêđictô
XVI đã nhấn mạnh, Thánh Thể và Qui tụ (gathering) (nghĩa chính của từ ekklesia
là triệu tập, qui tụ) là hai mặt không thể tách rời của từ communio (hiệp
thông). Giáo hội là sự hiệp thông với Lời Chúa và Mình Chúa. Sự hiệp thông này
đưa con người đến với nhau không chỉ là chuyện bên ngoài như một cuộc họp mặt
trong đời sống xã hội mà là “từ bên trong và từ bên trên,” do đó làm cho họ nên
“một Dân, một Thân Mình.”[20] Chính vì mối liên hệ hết sức chặt chẽ giữa Thánh Thể và Giáo hội như thế
mà các nghị phụ trong Thượng Hội Đồng khóa đặc biệt năm 1985 một đàng nhấn mạnh
rằng hiệp thông là “ý tưởng nền tảng và trung tâm” để hiểu về Giáo hội; đàng
khác các ngài kêu gọi đào sâu một nền Giáo hội học mang chiều kích Thánh Thể
(Eucharistic Ecclesiology).[21]
Trong lòng Giáo hội, sự hiệp thông này được diễn tả qua mối hiệp thông giữa
các Giáo hội địa phương với nhau cũng như với Giáo Hội hoàn vũ. Mỗi cộng đoàn
Giáo hội địa phương không được phép khép lại với chính mình nhưng cần liên kết
với các cộng đoàn khác, cụ thể là với những giáo xứ và giáo phận khác. Mối hiệp
thông này được diễn tả cách tuyệt vời qua từ ngữ “các Giáo hội chị em” được sử
dụng lần đầu tiên trong Hội nghị khoáng đại lần thứ ba của FABC. Sau khi nói
đến mối hiệp thông giữa các Giáo hội địa phương tại châu Á trong việc cầu
nguyện với nhau và cho nhau, học hỏi những thành công cũng như thất bại của
nhau, chia sẻ với nhau những mối quan tâm chung về thần học cũng như mục vụ, hỗ
trợ nhau về nhân sự cũng như vất chất, các giám mục Á châu đã tóm tắt những
hoạt động đó trong một câu: “càng ngày chúng ta càng trở nên những
Giáo-hội-chị-em đích thực trong một gia đình duy nhất là Giáo hội Chúa Giêsu
Kitô.”[22]
Đồng thời mỗi Giáo hội địa phương phải liên kết với Giáo hội duy nhất và
phổ quát; có thế mới thực sự sống tính duy nhất Công giáo (Catholica
unitas) của Giáo hội Chúa Kitô.[23]
Về mặt thần học, mối tương quan giữa các Giáo hội địa phương và Giáo Hội
hoàn vũ là vấn đề quan trọng và cần được hiểu cho đúng đắn. Những phạm trù thuần
túy xã hội không thể giải thích và trình bày sâu sắc đủ về mối tương quan này
bởi lẽ Giáo hội là một mầu nhiệm mang trong bản chất mình những chiều kích vượt
lên trên những phạm trù xã hội. Theo giáo huấn của Công đồng Vatican II, Giáo
hội duy nhất và phổ quát hiện diện trong và ngoài các Giáo hội
địa phương. Điều này có nghĩa là Giáo hội phổ quát không chỉ đơn thuần là tổng
số các Giáo hội địa phương gộp lại. Nhưng mỗi Giáo hội địa phương đã là “một
thực tại đầy đủ và toàn diện của mầu nhiệm hiệp thông trong Chúa Kitô, và Giáo
hội phổ quát là sự hiệp thông của tất cả những mối hiệp thông đó, là Giáo hội
của các Giáo hội.”[24] Nói theo cách diễn tả quen thuộc và nổi tiếng của Henri de Lubac thì “Giáo
hội là toàn thể trong từng phần: duy nhất trong số nhiều , và tất cả trong mỗi
phần.”[25] Sự hiệp thông đó được diễn tả cách hữu hình qua tính hiệp đoàn của các
giám mục mà đứng đầu là giám mục của Rôma. Quyền bính của giám mục Rôma không
thể chỉ được nhìn như quyền bính về mặt luật pháp đối với các Giáo hội địa
phương, nhưng trước hết và trên hết phải được nhìn như “ưu quyền về mục vụ nhằm
phục vụ tính duy nhất đức tin và sự sống của toàn thể Dân Thiên Chúa.”[26] Giây liên kết này
bảo đảm cho tính Tông đồ và Công giáo đích thực của mỗi Giáo hội địa phương,
đồng thời bảo đảm rằng một Giáo hội địa phương sẽ không bao giờ rời xa cấu trúc
căn bản mà Đấng Sáng lập đã ban cho Giáo hội.[27]
MỘT GIÁO HỘI THAM GIA
Như đã khai triển, dựa trên một nền Giáo hội học về hiệp thông, các giám
mục Á châu thúc đẩy việc xây dựng Giáo hội như là sự hiệp thông của các cộng
đoàn. Thế nhưng sự hiệp thông giữa các cộng đoàn chỉ có thể trở thành hiện thực
– chứ không chỉ là những suy tư thần học trừu tượng – nếu có sự hiệp thông giữa
các thành phần Dân Chúa trong từng cộng đoàn. Do đó, để ứng dụng suy tư này vào
trong thực tế của đời sống mục vụ, các giám mục Á châu đưa ra một hướng đi mới,
đó là làm sao mỗi Giáo hội địa phương phải trở thành một Giáo hội tham
gia (a participatory Church), trong đó mọi thành phần Dân Chúa đều có ơn
gọi và vai trò riêng của mình, đồng thời cùng tham gia vào sứ mạng chung của
Giáo hội.
Trong tông huấn Người Kitô hữu giáo dân(Christifideles Laiici), Đức Gioan
Phaolô II nói đến một nét đặc thù trong thời đại hiện nay là hiện tượng tham
gia (phenomenon of participation). Sau khi nói đến thời đại này như là thời đại
của chủ nghĩa nhân bản, ngài nhấn mạnh đến nhu cầu của con người hôm nay là
muốn được tham gia vào tiến trình của xã hội mà trong đó họ là thành viên, và
Đức Gioan Phaolô II coi đó là “một trong những nét đặc thù nhất của nhân loại
hôm nay, một dấu chỉ thời đại đang phát triển trong nhiều lãnh vực và bằng
nhiều cách khác nhau.”[28] Tiếp theo đó, ngài bàn đến sự tham gia của người giáo dân vào trong đời
sống của giáo xứ, nhấn mạnh vai trò hết sức cần thiết của người giáo dân trong
mọi sinh hoạt của cộng đoàn Giáo hội.[29] Quan điểm của Đức Giáo Hoàng được minh họa rõ
nét nhất qua cách ngài triển khai dụ ngôn những người thợ làm vườn nho (Mt
20,1-16) trong phần đầu của tông huấn. Tất cả mọi người đều được goị đi làm
việc trong vườn nho của Chúa. Không có chuyện thất nghiệp ở đây và cũng không
được phép để cho ai thất nghiệp! Nếu hiểu vườn nho ở đây là Giáo hội thì Giáo
hội phải trở thành một “Giáo hội Tham gia”, trong đó mọi người đều tham gia và
đồng trách nhiệm, mọi người đều bình đẳng và đều cảm thấy mình thực sự là thành
viên.[30]
Dựa trên ý tưởng căn bản này, văn phòng Giáo dân và Văn phòng Phát triển
Con người thuộc FABC đã triển khai một số chỉ dẫn trong việc xây dựng một Giáo
hội Tham gia tại Á châu.[31]
Theo đó, Giáo hội Tham gia trước hết là một cộng đoàn trong đó mọi tín
hữu đều dự phần vào sứ mạng của Dân Chúa trong Giáo hội cũng như trong thế
giới (a community of authentic participation). Đó không chỉ là Giáo hội mà hàng
giáo sĩ đóng vai trò độc tôn, tự mình quyết định mọi sự, và người giáo dân chỉ
đóng vai trò thụ động đón nhận hoặc dửng dưng quan sát. Thực ra, mọi tín hữu
đều được chia sẻ chức năng tiên tri, tư tế và vương đế của Chúa Kitô nhưng mỗi
người thể hiện theo cách riêng của mình.[32] Vì thế mọi người đều có quyền và có bổn phận
góp phần vào việc xây dựng Thân Mình Chúa Kitô.
Kế đến, đó là một cộng đoàn đồng trách nhiệm (a community of
co-responsibility) trong đó mọi tín hữu đều chia sẻ trách nhiệm chung và trở
nên đồng nghiệp trong cùng một sứ mạng là sứ mạng yêu thương và phục vụ của
Chúa Kitô. Khi người giáo dân tham gia vào công việc chung của Giáo hội, họ
không thể chỉ bị xem như cánh tay nối dài của linh mục; đúng hơn họ chia sẻ
trách nhiệm chung với linh mục nhưng thể hiện theo ơn gọi và vị trí riêng của
mình. Hiểu như thế, linh mục và những người có vai trò lãnh đạo khác trong cộng
đoàn không thể là những người lãnh đạo độc đoán và thống trị, nhưng phải thê
hiện sự lãnh đạo theo tinh thần Phúc Âm, sự lãnh đạo của người tôi tớ (servant
leadership) nhằm hỗ trợ, khuyến khích, và đồng hành với mọi thành viên của cộng
đoàn thay vì áp đặt và ép buộc họ.
Tiếp theo, đó là một cộng đoàn bình đẳng thực sự ( a community of
true equality). Như Công Đồng Vaticanô II đã khẳng định, mọi tín hữu đều bình
đẳng với nhau về phẩm giá cũng như về hoạt động mà họ chia sẻ trong việc xây
dựng Thân Mình Chúa Kitô.[33] Trên nền tảng đó, không thể có sự kỳ thị hay phân biệt giữa giáo sĩ với
giáo dân, trí thức với bình dân, người giàu với người nghèo, kẻ quyền thế với
người cô thế…vì tất cả đều được gọi đến sự thánh thiện, tất cả đều được chia sẻ
cùng một ân huệ đức tin tất cả đều có cái gì đó để trao ban và hiến tặng. Không
ai chỉ hoàn toàn trao ban mà không cần nhận lãnh, và cũng không ai chỉ nhận
lãnh mà không có gì để trao ban.
Ngoài ra, đó còn là cộng đoàn trong đó mọi tín hữu cảm thấy mình thật sự
thuộc về Giáo hội, và cùng với anh chị em khác, thật sự được chia sẻ đời
sống và sứ mạng chung của Giáo hội (a community of belonging and sharing). Mỗi
Chúa nhật, mọi tín hữu cùng đến nhà thờ cử hành Thánh lễ. Tuy nhiên, họ có thể
nhìn nhau như những người xa lạ, và sau Thánh lễ, không hề có quan hệ gì với
nhau. Một cộng đòan phượng tự như thế chưa thề là hình ảnh của Giáo Hội tham
gia. Chính vì thế, các giám mục Á châu kêu gọi anh chị em tín hữu nối dài cử
hành phượng tự bằng việc cầu nguyện chung và chia sẻ Phúc Âm, cũng như có những
việc làm chung với nhau, nâng đỡ nhau để có thể thể hiện tinh thần Phúc Âm
trong cuộc sống.[34] Có như thế, các tín hữu mới có thể nên một trong tâm trí, và những ân huệ
khác nhau mà Thánh Thần ban cho mỗi người mới được khơi dậy và hoạt động.
Hiểu như thế, Giáo hội Tham gia không chỉ đơn thuần là một cộng đoàn được
tổ chức và phân công tốt với nhiều ban ngành đoàn thể phụ trách nhiều công tác
mục vụ khác nhau (a task-group church), trong khi đó đa số thành viên vẫn chỉ
thụ động hoặc dửng dưng quan sát. Thực tế là những ban ngành đoàn thể trong một
giáo xứ giỏi lắm cũng chỉ vận dụng được 10% tài năng của cộng đòan. Số còn lại
vẫn thụ động và bất hợp tác. Còn trong tầm nhìn của Giáo Hội tham dự thì giáo
xứ là nơi mà đặc sủng của mỗi người đều được nhìn nhận và mời gọi góp phần, nơi
mà mỗi người có thể phát triển khả năng của mình hầu sinh ích cho công việc
chung. Vấn đề là tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để những đặc sủng và tài
năng đó được nhìn nhận và phát triển.
Cuối cùng, Giáo hội Tham gia phải là cộng đòan tích cực tham dự vào sứ
mạng Chúa Kitô, sứ mạng loan báo ơn giải thoát cho kẻ bị giam cầm, trả lại
ánh sáng cho kẻ mù lòa, và giải thoát những người bị áp bức (Lc 4,18). Điều đó
có nghĩa là tầm nhìn của cộng đòan phải vượt xa hơn bốn bức tường của ngôi nhà
Giáo hội để đồng cảm và chia sẻ những âu sầu lo lắng, vui mừng và hy vọng của
con người hôm nay. Điều đó cũng có nghĩa là người Kitô hữu không thể hành động
đơn độc nhưng phải đồng hành và cộng tác với những anh chị em thuộc các tôn
giáo bạn và mọi người thành tâm thiện chí trong nỗ lực cầu nguyện, làm việc,
đấu tranh và khổ đau của họ nhằm xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn.[35]
Thực ra hình ảnh một Giáo hội Tham gia như đã mô tả là hình ảnh quá lý
tưởng, một ước mơ hơn là hiện thực. Các giám mục Á châu cũng biết điều đó,
nhưng chúng ta cần những ước mơ như thế, những ước mơ đẹp như chính Tin Mừng
Đức Giêsu, những ước mơ đó luôn vẫy gọi ta tiến về phía trước, không cho phép
ta ngủ quên trong một vài thành công hiện tại, nhưng luôn thúc đẩy ta lên
đường. Điểm then chốt làm nên một Giáo hội Tham gia là chính Chúa Kitô. Sẽ
không có một Giáo hội như thế nếu mỗi tín hữu không sống mối quan
hệ yêu thương và bạn hữu với Chúa Kitô. Chính mối quan hệ này thúc đẩy người
tín hữu “tham dự” vào sứ mạng của Chúa Kitô, và đây là nguồn động lực cho sự “tham
giạ” đích thực của mỗi Kitô hữu vào sứ mạng Chúa Giáo hội. Chính ở đây, mà việc
chia sẻ Lời Chúa và cử hành Thánh Thể có tầm quan trọng đặc biệt vì đó là hai
phương thế hữu hiệu nhất giúp người tín hữu đi sâu vào mối quan hệ cá vị với
Chúa Kitô.
Để tóm tắt, không gì tốt hơn là lặp lại chính những lời của các giám mục:
“Giáo hội tại Á châu phải là một cộng đoàn hiệp thông ăn rễ sâu trong đời
sống Chúa Ba Ngôi, một cộng đoàn cầu nguyện và chiêm niệm, một cộng đoàn cử
hành bí tích với Thánh Thể là trung tâm. Sự tham gia chân thực và tinh thần
đồng trách nhiệm phải là những yếu tố then chốt trong đời sống của cộng đoàn.
Đó là một cộng đoàn cố gắng duy trì sự hiệp nhất với các chủ chăn và mối hiệp
thông với Giáo hội duy nhất. Cộng đoàn đó được mời gọi làm chứng cho những ý
nghĩa và giá trị mà mình tuyên xưng, để cho những giá trị đó nhập thể vào trong
lối sống của mình, diễn tả chúng trong cách thế hiện diện, đối thoại và thực
hành của mình trong mọi lãnh vực hoạt động của Giáo hội, một Giáo hội có mặt
trong lịch sử này giữa lòng thế giới. Cuối cùng, cộng đoàn đó không ngừng tiến
về phía trước trong sứ vụ của mình, đồng hành vơí toàn thể nhân loại trong hành
trình đi tới Vương quốc của Chúa Cha”.[36]
[1] FABC
(Federation of Asian Bishops' Conferences) là tổ chức nối kết nhiều Giáo hội
địa phương tại châu Á lại vớí nhau. Tổ chức này bắt nguồn từ cuộc gặp gỡ lịch
sử của 180 giám mục châu Á tại Manila vào tháng 11 năm 1970, nhân chuyến viếng
thăm mục vụ của Đức Phaolô VI tại Philippines. Kể từ ngày đó, FABC không ngừng
thúc đẩy sự cộng tác giữa các Hội đồng giám mục các nước tại châu Á. Để tìm
hiểu kỹ hơn, có thể đọc Felix Wilfred, “The Federation of Asian Bishops'
Conferences: Orientations, Challenges and Impact”, For All the People of Asia,
Vol. I, xx-xxiiv.
[2] Đức Gioan Phaolô II, Ecclesia in Asia, số 20.
[3] For All the People of Asia, Vol. I, xxiv.
[4] Xem Sergio Luciani. “Ce que l’Esprit dit aux
Eglises: Orientations pastorales et théologiques de la Fédération des
Conférences épiscopales d’Asie,” Eglise d’Asie, Dossier et documents, số
01-1996. Thực ra, trong những năm gần đây, cũng đã có sự căng thẳng giữa Bộ
Giáo Lý Đức Tin và một vài nhà thần học châu Á về một số vấn đề thuộc lãnh vực
Kitô học. Tuy nhiên, đó là sự căng thẳng với cá nhân các thần học gia, còn đối
với FABC, mối bận tâm lớn nhất vẫn mang tính mục vụ và tập trung vào lãnh vực
Giáo Hội học.
[5] Xem “Asian Colloquium on Ministries in the
Church”, For All the Peoples of Asia, Vol. I, 72.
[6] “Statement of the First Plenary Assembly of
the FABC,” For All the Peoples of Asia, Vol. I, 12.
[7] International Congress on Mission, “Basic
Christian Communities and Local Ministries,” For All the Peoples of Asia, Vol.
1, 148. Ở đây chúng tôi không thể không liên tưởng đến khẳng định của các giám
mục Việt Nam trong Thư Chung 1980 về việc xây dựng một Giáo hội đồng hành với
dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào. Hướng đi của các giám mục Việt Nam
hoàn toàn gần gũi với các giám mục châu Á. Vấn đề chỉ là cung cách “đồng hành”
và quan niệm về “hạnh phúc”.
[8] Suy tư thần học về Giáo hội địa phương là một
trong những đề tài được FABC quan tâm đặc biệt. Để có tầm nhìn sâu và rộng hơn
về vấn đề này, có thể đọc FABC’s Theological Advisory Commission, “Theses on
the Local Church,” Being Church in Asia (Manila: Claretian Publications, 1994).
[9] Xem Special Assembly for Asia of the Synod of
Bishops, Lineamenta, 3.
[10] Ibid., 67.
[11] Ibid., 67.
[12] “Statement of the First Plenary Assembly of
the FABC,” For All the Peoples of Asia, Vol. I, 287.
[13] Đức Gioan Phaolô II, Ecclesia in Asia, số 25.
[14] Để tìm hiểu kỹ nền Giáo hội học về hiệp
thông, có thể tham khảo Jean Marie Tillard, Church of Churches: The Ecclesiology
of Communion, (Collegeville, Minnesota: Liturgical Press, 1987). Nguyên bản
tiếng Pháp: Eglise des Eglises (Prais: Cerf, 1987).
[15]Julma Neo đã khai triển triển chủ đề này trong
“Fostering Communion in the Local Church through the basic Ecclesial
Communities,” Asian Colloquium on Church in Asia in the 21st
Century, (Manila, 2000), 271-293.
[16] Xem “Statement of the Third Plenary Assembly
of the FABC,” For All the Peoples of Asia, Vol. I, 56.
[17]Ecclesia in Asia, số 24.
[18] FABC’s Theological Advisory Commission, “Asian
Christian Perspective of Harmony,” For All the Peoples of Asia, Vol. II, 268.
[19] “Statement of the Third Plenary Assembly of
the FABC”, For All the Peoples of Asia, Vol. I, 56.
[20]Joseph Cardinal Ratzinger, Called tạ ơn
Communion: Understanding the Church today, (San Francisco: Ignatius Press,
1991), 77.
[21] Ibid., 82.
[22] “Statement of the Third Plenary Assembly of
the FABC,” For All the Peoples of Asia, Vol. I, 54.
[23] “Statement of the Third Plenary Assembly of
the FABC,” For All the Peoples of Asia, Vol. I, 56.
[24] FABC’s Theological Advisory Commission, “Theses
on the Local Church,” Being Church in Asia, 11.
[25] Henri de Lubac, The Splendor of the Church,
(New York: Sheed & Ward, 1956), 105.
[26] Ecclesia
in Asia, số 24.
[27] Xem “Asian Colloquium on Ministries in the
Church”, For All the Peoples of Asia, Vol. I, 73. Để tìm hiểu về vị trí và quyền
bính của Đức Giáo Hoàng trong viễn tượng Giáo hội học về hiệp thông, có thể đọc
Hermann Josef Pottmeyer, Towards a Papacy in Communion: Perspectives from
Vatican Council I and II, (New York:Crossroad, 1998); Jean Marie Tillard, The
Bishop of Rome, (Wilmington, Del:Micheal Glazier, 1983).
[28] Đức Gioan Phaolô II, Christifideles Laici, số 5.
[29] Ibid., 28.
[30] Statement of the Third Plenary Assembly of
the FABC,” For All the Peoples of Asia, Vol. I, 56.
[31] Khi có dịp đối chiếu và so sánh, người đọc có
thể thấy những khai triển triển của châu Á về Giáo hội Tham dự rất giống với
những khai triển triển của Liên Hiệp các Hội Đồng Giám Mục Châu Phi.
[32] Statement of the Fifth Plenary Assembly of
the FABC,” For All the Peoples of Asia, Vol. I, 283.
[33] Lumen
Gentium (Hiến Chế Giáo Hội), số 32
[34] Ibid.,
287.
[35] Ibid.,
293
[36] “Statement of the Third Plenary Assembly of the
FABC”, For All the Peoples of Asia, Vol. I, 60.