VAI TRÒ CỦA NGƯỜI GIÁO DÂN
HẬU CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II TẠI CHÂU Á VÀ VIỆT
I- LIÊN HỘI ĐỒNG GIÁM
MỤC Á CHÂU (FABC)
Nhân dịp Đức Giáo Hoàng
Phaolô VI viếng thăm mục vụ tại Manila vào tháng 11 năm 1970, có 180 Giám Mục
Châu Á tham dự đẻ cùng nhau trao đổi kinh nghiệm mục vụ trong một Châu lục đa
tôn giáo được hình thành trong những nền văn minh cũng như truyền thống lâu
đời. Tại buổi gặp gỡ này các Giám mục đã minh định rằng, cuộc sống của các dân
tộc tại Châu Á đã được đâm rễ sâu trong những truyền thống rất đa dạng, những
truyền thống xem ra khác nhau, nhưng chúng lại đan kết chặt chẽ với nhau. Bắt
nguồn từ mối đan kết này, các Giám mục cảm thấy cần phải thể hiện sự liên đới
chặt chẽ với nhau nhằm đấu tranh chống lại sự nghèo đói và bất công trong xã
hội Châu Á, và trên hết là để thực thi nhiệm vụ loan báo Tin Mừng. Từ ý thức
này các Giám Mục quyết định thành lập Liên Hội Đồng Giám Mục Châu Á (FABC, The
Federation of Asian Bishop’ Conferences). Để có thể đạt tới được mục đích đề
ra, liên Hội Đồng Giám Mục Châu Á đã nhắm đến
vai trò của người Giáo dân. Tại cuộc họp toàn thể FABC lần thứ nhất vào tháng
4, 1974, ở Đài Bắc, Đài Loan, các Giám mục đã nói: “với sự kỳ vọng lớn lao,
chúng tôi hướng tới các Kitô hữu giáo dân, cách đặc biệt, các giáo lý viên,
những người cộng tác với chúng tôi vào công truyền giáo qua nhiệm vụ của họ.
Quả thật, trong thời gian qua, đội ngũ giáo lý viên
hiện diện như những cộng tác viên rất đáng trân trọng, và hy vọng rằng, con số
giáo lý viên sẽ tăng lên trong những năm tới. Chúng tôi mong rằng, càng ngày
các giáo lý viên càng ý thức việc chia sẻ nhiệm vụ Giáo Hội, đó là ghé vai gánh
vác trách nhiệm loan báo Tin Mừng”[1].
Tuy nhiên, một đường
hướng đưa ra để canh tân vai trò người giáo dân theo
tinh thần Công Đồng Vat. II vẫn chưa được xúc tiến cách mạnh mẽ. Tại hai cuộc
họp toàn thể FABC lần II (1978) và lần III (1982) tuy có nhắc đến sự hiện diện
của người Giáo dân trong Giáo hội, nhưng đơn giản chỉ là lời mời gọi người giáo
dân ý thức về Phép Rửa đã lãnh nhận, họ phải dấn thân làm chứng cho Tin Mừng
trong sự tự nguyện và có trách nhiệm, đặc biệt trong các lãnh vực xã hội và
chính trị.[2] Như vậy, trong một
vùng đất được in sâu về sự phân chia giai cấp trong xã hội, thì việc tìm một
con đường canh tân vai trò người giáo dân trong Giáo Hội tại đó không là một
chuyện giản đơn. Thế nhưng, Giáo Hội Chúa Kitô không đơn thuần là một cơ chế
phẩm trật, nhưng còn là Nhiệm Thể Chúa Kitô (x. LG số 8), Giáo Hội luôn được
mời gọi vượt thắng cám dỗ về việc quản trị Giáo Hội theo cung cách trần thế.
Khi ban hành hiến chế Lumen Gentium, các Nghị phụ Công Đồng đã muốn nhấn mạnh
đên điều này: ”Nhờ đặc tính công giáo, mỗi
phần tử thực thi những đóng góp của riêng mình cho các phần tử khác
và cho toàn thể Giáo Hội, để tất cả và từng người được tăng triển
nhờ cùng chia sẻ mọi sự và cùng hiệp lực đạt đến tình trạng viên
mãn trong tình hợp nhất….
Thật vậy, sự khác
biệt giữa các thành viên có thể hoặc do nhiệm vụ, như trong trường
hợp những người thi hành thừa tác vụ thánh để mưu ích cho anh chị em
mình, hoặc do trạng huống và bậc sống, như trong trường hợp những
người gia nhập bậc tu trì, cố gắng nên thánh bằng con đường khổ chế
và khích lệ anh chị em bằng gương sáng của mình… Quả thật, mọi phần
tử Dân Thiên Chúa được kêu gọi chia sẻ cho nhau những điều thiện ích,
và lời nói sau đây của vị Tông Đồ cũng có giá trị cho từng Giáo
Hội: ‘Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà
phục vụ kẻ khác. Như vậy, anh em mới là những người khéo quản lý ân
huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa’ (1 Pr 4,10)”
(LG số 13). Từ chỗ đó Công Đồng nhấn mạnh: “Các chủ chăn phải biết rõ giáo
dân đóng góp rất nhiều vào thiện ích của toàn thể Giáo Hội. Các
ngài biết rằng mình được Đức Kitô thiết lập không phải để chỉ riêng
các ngài lãnh lấy tất cả sứ mệnh cứu độ của Giáo Hội đối với
thế giới, nhưng để nhận lãnh trách vụ cao cả là chăn dắt các tín
hữu và nhìn nhận các phận vụ và đặc sủng của họ để mọi người
theo cách thức riêng của mình đồng lòng cộng tác vào trọng trách
chung này”. (LG số 30).
Như bị thôi thúc bởi
đòi hỏi này, Kỳ họp khoáng đại lần IV vào tháng 9 năm 1986 taiọ Tokyo, các Giám
mục thuộc liên hội đồng Giám Mục Châu Á, đã lấy người giáo dân làm tiêu điểm
cho cuộc họp với chủ đề: “Ơn gọi và sứ vụ của người giáo dân trong Giáo Hội và
trong vùng đất Châu Á”, và điểm đáng ghi nhận, tại cuộc họp này người giáo dân
được mời tham dự như là dấu chỉ tích cực của các Giám Mục Châu Á về việc nhìn
nhận vai trò của người Giáo dân trong đời sống của Giáo Hội.
FABC IV đã trình bày
hai điểm chính yếu:
1- Nhiệm vụ người Giáo
dân trước những thách đố hôm nay tai Châu Á
2- Nhận diện sứ vụ của
người Giáo dân
1- Nhiệm vụ người Giáo dân trước những thách đố hôm nay tai Châu Á
Các tham dự đã trình
bày khía cạnh tích cực cũng như tiêu cực về xã hội Châu Á. Nơi đại lục này xuất
hiện nhiều tôn giáo quan trọng và lớn lao, chính các tôn giáo này đã mang lại
những khám phá, sự phát triển và hình thành các
nền văn hóa và các quốc gia. Bên cạnh đó cũng xuất hiện không ít hiện tượng
tiêu cực như sự xung đột, tạo ra sự phân rẽ giữa các hình thức chính trị và xã
hội, cũng như sự bành trướng về các hình thức cạnh tranh của các nền kinh tế
thế giới và sự bóc lột của các nền kinh tế này. Đứng trước thực trạng này, các
tham dự viên FABC IV đã nhấn mạnh đến sự cấp bách và ưu tiên hàng đầu là mời
gọi người giáo dân chia sẻ trách nhiệm với Giáo Hội, dấn thân phục vụ gieo vãi
men Tin Mừng, để mang lại niềm hy vọng, sự công bằng, niềm vui và chân lý cho
những con người sống trên lục địa này.
1.1 Người giáo dân phục
vụ trong các lãnh vực đa dạng khác nhau
- Nguyên nhân của
sự kiện ở Châu Á ngày càng nhiều người nghèo và phẩm giá con người ngày càng bị
chà đạp, chính là thiếu môt hệ thống chính trị vững mạnh và trong sáng, các
tham dự viên đề nghị người giáo dân tham gia vào lãnh vực chính trị để chống
lại những sự bóc lôt của các thế lực nước ngoài. Chính khi tham gia như vậy,
người giáo dân sẽ nỗ lực làm cho men Tin Mừng được đày men, cho tình yêu, sự
công bằng được thấm nhập vào các công việc chính trị. Vấn đề đáng quan ngại tại
Á Châu chính là sự giới hạn về tự do tôn giáo, gia đình và giáo dục. Giáo Hội
Châu Á đang đối diện với nạn phân biệt chủng tộc, nam nữ, quyền căn bản
con người bị chà đạp, chủ nghĩa dân tộc khơi dậy sự phân rẽ trong các sắc tộc,
con số thất nghiệp khổng lồ và các vấn nạn xã hội khác, FABC IV đã khẳng định,
đây là bổn phận cấp thiết mà người giáo dân được Giáo Hội giao phó, nỗ lực tìm
các cách thế để làm cho tinh thần Tin Mừng được thấm nhập vào bức tranh xã hội
này, chẳng hạn như đối thoại với các Giáo Hội Kitô khác, với các thành viên của
các tôn giáo, cũng như các phong trào xã hội khác nhau[3].
- Trong lãnh vực giáo dục, FABC IV trình bày hai lãnh vực mà
người giáo dân có thể đảm nhận: 1/ dấn thân chống lại nạn mù chữ và dốt nát, 2/
đòi hỏi được trình bày một nền giáo dục Kitô giáo. Các tham dự viên nhấn mạnh:
dấn thân và cộng tác vào công việc giáo dục là nhiệm vụ chính yếu của người
giáo dân.[4]
- Đối với lãnh vực truyền thông:
Các tham dự viên nhận định rằng: lãnh vực truyền thông có một ý nghĩa rất quan
trọng trong việc loan báo Tin Mừng, vì thế FABC IV đã kiến nghị các Giáo Hội
địa phương nên thiết lập hệ thống đào tạo về truyền thông cho người giáo dân
với hy vọng rằng, chính họ là những nhân tố tích cực làm cho Tin Mừng được mọi
người đón nhận qua các phương tiện truyền thông hiện đại trong thế giới hôm nay.[5]
- Đối với lãnh vực chăm sóc sức khỏe: Giáo Hội Châu
Á hôm nay đang đối diện với một vấn nạn quan trong về vấn đề đạo đức sinh học,
chẳng hạn như nạn phá thai, những chủ trương đi ngược
lại với định chế hôn nhân tự nhiên, trợ tử, ngừa thai, nạn nghiện rượu và ma
túy. Vì thế, người giáo dân cần được trang bị kiến thức nền tảng về luân lý
Kitô giáo để dấn thân phục vụ trong các lãnh vực về sức khỏe[6]
- Đối
với lãnh vực kinh tế:
a- Trong công việc trần
thế: cho tới lúc này, Giáo Hội Công giáo chưa mang lại một ảnh hưởng đáng kể
nào, có nghĩa là các sinh hoạt trần thế đều xa lạ với tinh thần Tin Mừng, chẳng
hạn như khi làm việc người ta thường có cái nhìn tiêu cực về công ăn việc làm.
Vì thế, các tham dự viên mời gọi người giáo dân phải trình bày ý nghĩa tích cực
trong công việc làm ăn . Làm sao cho mọi người nhận ra
giá trị nhân bản trong lao động, đó như là dự phần vào công việc của Đấng Tạo
Hóa.[7]
b- Ý thức trách nhiệm
xã hội trong kinh tế: Trong quá trình lao động, người giáo dân được nhắc nhở
phải làm sao cho tiếng nói của công bình, chân lý và tình yêu được vang vọng
trong mọi tầng lớp lao động, để mọi thành quả lao động luôn in dấu tinh thần
Tin Mừng[8].
1.2 Bổn phận của người
giáo dân trong gia đình
Thách đố lớn nhất đối
với Giáo Hội Châu Á chính là hiện trạng gia đình ngày nay: sự nghèo đói, sự áp
bức, tình trạng bóc lột và tước bỏ phẩm giá, sự phân rẽ và đối nghịch. Đứng
trước hiện trạng này, FABC IV mời gọi người giáo dân tích cực dấn thân để phúc
âm hóa gia đình, biến gia đình Kitô hữu thành “Giáo Hội tại gia”, làm sao đưa
văn hóa hội nhập vào đời sống đức tin để có thể trở thành một tập quán như được
thủ đắc cách tự nhiên.[9]
2. Khám phá sứ vụ
của người giáo dân
2.1 Cùng với Đức Kitô
người giáo dân như là người giải phóng trong môi trường xã hội.
Chúa
Giêsu cần phải được khám phá như là người giải phóng dân Châu Á. Vì thế, Giáo
Hội Công giáo phải tìm cho được chỗ đứng đặc biệt và đích thực trong bối cảnh
đa văn hóa và đa tôn giáo tại lục địa này. Do đó, Giáo Hội cần khích lệ người Giáo
dân dấn thân tích cực vào môi trường sống để như những người môn đệ, họ cùng
với Chúa Kitô loan báo Tin Mừng giải phóng. Quả thật, mỗi một
người giáo dân là một nhà giải phóng. Như chúa Giêsu, họ được mời gọi
dấn thân trong cách đồng truyền giáo nhằm mang lại cho cuộc sống con người ngập
tràn tình bác ái và sự công bằng xã hội. Sự dấn thân này phải
luôn mang đậm nét phong hóa và truyền thống của dân tộc. Người giáo dân trong môi trường sống của mình khi giới thiệu Tin
Mừng, phải làm thế nào để những người nghe có thể tiếp cận với Tin Mừng mà
không có một cảm giác xa lạ với truyền thống văn hóa của họ. FABC nhận
ra khả năng của người giáo dân có thể thi hành được điều này qua các cuộc tiếp
xúc mang tính cách tình làng nghĩa xóm, qua các cuộc đối thoại được xây dựng
bằng các mối tương giao trong xã hội, chẳng hạn như cùng ngành nghề, cùng môi
trường làm việc…[10]
2.2 Sứ mạng truyền giáo
của người giáo dân
Qua Bí tích Rửa tội,
người tín hữu dự phần vào sứ vụ giải phóng của Chúa Giêsu Kitô, có nghĩa là
người tín hữu không sống co cụm trong nhà thờ với những bổn phận thuộc đời sống
đạo đức phải thi hành, nhưng còn phải hướng tới việc làm cho mọi người được
tiếp cận với Tin Mừng. Vì thế, FABC IV đã nhấn mạnh, người Giáo dân phải thi
hành trong đời sống thường ngày ba nhiệm vụ đã nhận lãnh qua Phép Rửa. Với chức
vụ tư tế, người giáo dân dự phần vào mầu nhiệm cứu chuộc của Chúa Kitô, có
nghỉa là dự phần vào những đau khổ, cái chết và sự Phục sinh của Chúa. Với chức vụ tiên tri, người giáo dân được yêu cầu phải làm cho mọi
sinh hoạt thường ngày thành những chứng tá cho đức tin. Với nhiệm vụ
vương đế, người giáo dân dựng xây vương quốc Thiên Chúa ở trong và ở ngoài Giáo
Hội qua những việc làm ghi đậm đức ái, sự thật và công bằng.[11]
2.3 Canh tân về cơ cấu:
Tinh thần hiệp thông,
tính tập thể và đồng trách nhiệm: Theo tinh thần của Công đồng Vat. II, Giáo
Hội được yêu cầu công nhận người giáo dân là thành viên của Giáo Hội với các
khả năng và đặc sủng riêng biệt. Bởi đó, Giáo Hội Á Châu phải
nghĩ đến việc canh tân cơ cấu của Giáo Hội. Canh tân không chỉ là củng
cố và đa dạng hóa các tổ chức đoàn thể trong Giáo Xứ và Giáo Phận, nhưng là
kiến tạo một bầu không khí hiệp thông, tính tập thể và đồng chịu trách nhiệm
đối với các sáng kiến phong phú và năng động qua các hoạt động của người giáo
dân trong việc cộng tác với hàng giáo sĩ.[12]
2.4 Hoạt động tông đồ
của người giáo dân
Các tham dự viên FABC
IV đã nhận định rằng, hiện trạng tông đồ giáo dân tại các Giáo Hội Châu Á còn
đóng khung trong các hoạt động đoàn thể Giáo xứ và thường lệ thuộc hoàn toàn
vào sáng kiến của các cha xứ[13]. Vì thế, FABC IV yêu cầu Giáo Hội tại Châu Á
cần mạnh dạn phát huy vai trò người giáo dân tham gia vào công việc tông đồ
cách tích cực hơn, khích lệ các sáng kiến, và mời gọi họ dự phần vào các hoạt
động tong đồ như là những cộng sự viên chứ không đơn thuần là người thi hành
các chỉ thị.
a-
Canh tân mối tương quan giữa giáo sĩ và giáo dân. FABC
IV khẳng định rằng, không thể nào chỉ canh tân từ một phía giáo sĩ hay giáo
dân, nhưng sự canh tân phải khởi sự từ cả hai. Giáo sĩ
và giáo dân có mối tương tác với nhau cách chặt chẽ. Vì
thế, trong Giáo Hội không có sự kỳ thị hay áp bức. Linh mục có bổn phận
giúp người giáo dân ý thức trách nhiệm của họ trong giáo Hội để họ cùng chia sẻ
trách nhiệm xây dựng Hội Thánh Chúa với người linh mục[14].
b) Huấn luyện cho người
giáo dân: người giáo dân cần được huấn luyện bao gồm ba lãnh vực này:
- Huấn luyện toàn
bộ về kiến thức đức tin qua các lớp giáo lý
- Huấn luyện cách đặc
biệt về kiến thức cũng như lãnh đạo liên quan đến các hoạt động mục vụ như Hội
đồng mục vụ, các đoàn thể, các nhóm đặc sủng…
- FABC IV nhấn mạnh đến
chương trình huấn luyện: như các khóa huấn luyện dài ngày và ngắn ngày, khóa
huấn luyện cuối tuần.[15]
2.5 Linh đạo Giáo dân
FABC IV nhấn mạnh đến
linh đạo của người giáo dân: Qua Bí tích Rửa tội, người giáo dân được dự phần
vào cái chết và phục sinh của Đức Kitô, do đó, người giáo dân như là thành phần
của Dân Thiên Chúa, hiệp thông với Chúa Kitô và thân thể mầu nhiệm của Người. Vì thế, linh đạo của người giáo dân cũng mang đặc tích Lời chúa và
Bí tích. Có nghĩa là, đời sống của người tín hữu phải
không thể tách rời khỏi Lời Chúa và Bí tích. Để có thể chu toàn sứ vụ
của mình, người giáo dân nhất thiêt phải chăm chú đọc, lắng nghe và sống Lời
Chúa, cũng như phải siêng năng lãnh nhận các Bí tích.[16]
II – GIÁO HỘI VIỆT
1- Thư Chung 1980
Công
đồng Vat. II bế mạc, Giáo Hội Việt
“Chúng tôi xin dựa vào
Công đồng để nói với anh chị em rằng: Ơn gọi của anh chị em là nên thánh giữa
đời bằng cách sống Phúc âm của Chúa Kitô trong các phận sự trần thế (TL. 31; MV. 43). Nhờ anh chị em, Giáo hội hiện diện ngay trong
xã hội và góp phần xây dựng đời sống vật chất và tinh thần của Dân tộc. Nghĩa vụ cao cả của anh chị em là sống làm người tín hữu trung
thành của Hội thánh Chúa Kitô và làm người công dân tốt của Tổ quốc. Để
giúp anh chị em chu toàn nghĩa vụ đó, chúng tôi đặc
biệt nhắc nhở anh chị em vài điểm sau đây:
Anh chị em hãy tin vào
ơn Chúa Thánh Thần đã được đổ xuống trong lòng để nuôi dưỡng đời sống cầu
nguyện của anh chị em: cầu nguyện riêng, cầu nguyện chung trong gia đình và trong xứ đạo. Và nhất là
anh chị em hãy đào sâu đức tin bằng việc học và dạy giáo lý ngay trong gia đình
của mình. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong Tông huấn về việc dạy
giáo lý, đã lưu ý chúng ta rằng: ‘Việc dạy giáo lý trong gia đình đi trước, kèm
theo và phong phú hóa mọi hình thức dạy giáo lý khác’.
Gia đình của anh chị em phải trở nên như một trường học về đức tin, một nơi để
cầu nguyện, một môi trường sống bác ái yêu thương và rèn luyện tinh thần tông
đồ để làm chứng nhân cho Chúa (Cv 2 2, 42; 1, 8; TL. 11; TĐ. 11; LBTM. 71)
Nhưng trước tiên gia
đình của anh chị em phải được xây dựng theo phép đạo. Chúng tôi tha thiết kêu gọi anh chị em thanh niên quan tâm vun
trồng tình yêu trong sạch, và khi lập gia đình liệu cho hôn nhân của mình được
chan chứa phúc lành của Thiên Chúa.
Các nỗ lực để xây dựng
gia đình công giáo theo tinh thần Phúc âm phải đồng thời làm phát triển nơi anh
chị em và con cái những đức tính của người công dân tốt, nhất là ý thức về chân
lý và công bình, và tinh thần sẵn sàng phục vụ lợi ích của Tổ quốc. Nhờ hiện
diện và sinh hoạt tích cực giữa đời như vậy, anh chị em sẽ làm sáng Danh Chúa
và góp phần hữu hiệu vào việc xây dựng Đất nước.”[18]
Ở đây điểm tích cực của
Thư chung được nhìn thấy chính là Hội Đồng Giám Mục Việt Nam công nhận vai trò
của người giáo dân trong việc làm cho Giáo Hội được hiện diện trong xã hội qua
các góp phần xây dựng đời sống vật chất cũng như tinh thần của Dân tộc, hay nói
cách khác là đồng hành cùng với Dân tộc. Tuy nhiên, Thư Chung chỉ nhấn mạnh đến
việc sống sao cho “tốt đạo” qua việc chuyên chăm học Giáo lý, siêng năng cầu
nguyện và lãnh nhận các Bí tích, và xây dựng một gia đình vững mạnh theo tinh
thần Phúc âm. Thư chung không nói đến những chỉ dẫn thần học về nghĩa vụ và
trách nhiệm của người giáo dân trong việc tham gia vào các hoạt động của đời
sống Giáo Hội; vì thế, người giáo dân khó nhận ra chỗ đứng và vai trò của họ
trong Giáo Hội theo tinh thần Công Đồng Vat. II, họ sẽ mãi mang tâm trạng của
những người “cấp dưới” chỉ biết thi hành mệnh lệnh của “cấp trên”.
2- Đại Hội Dân Chúa
2010
Kỷ niệm 350 năm thành
lập hai Giáo phận Tông Tòa Đàng Trong và Đàng Ngoài, và 50 năm thành lập Hàng
Giáo Phẩm Việt Nam, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã khai mở đại hội Dân Chúa với
ước mong nhận được sự đóng góp ý kiến xây dựng Giáo Hội Việt Nam từ các thành
phần Dân Chúa, hầu đưa ra một định hướng nhằm phát triển Giáo Hội trong tương
lai. Đại Hội được khai mở với sự háo hức của các thành phần
Dân Chúa tại Việt
Nhìn lại 50 năm Công
Đồng, hình như vẫn còn có gì đó khúc mắc giữa mối tương giao Giáo sĩ và Giáo
dân, và người ta tự hỏi đâu là những thực hành Công Đồng theo
chỉ dẫn của Hàng Giáo Phẩm Việt
Tài liệu làm việc của Đại hội Dân Chúa 2010 cũng kỳ vọng: “sẽ mở
hướng cho Giáo Hội tại Việt
Hiểu như thế, Thư
Chung Hôi Đồng Giám Mục đã minh định: “Đại Hội Dân Chúa đã được diễn ra như
một cử hành phụng vụ để cảm tạ và tôn vinh Thiên Chúa, như một hội ngộ gia
đình để sống tình huynh đệ, đồng thời như một diễn đàn, để các đại diện của mọi
thành phần Dân Chúa sử dụng quyền tự do thiêng liêng của con cái Chúa, nói lên
những nhận thức của trí tuệ được đức tin soi sáng, những thao thức của trái tim
được đức mến nung nấu, và những khát vọng của ý chí được đức cậy khơi dậy, nhằm
xây dựng và củng cố ngôi nhà Giáo Hội Chúa Kitô giữa lòng quê hương Việt Nam
thân yêu của chúng ta hôm nay và ngày mai”[20].
Với khao khát mong muốn
làm sáng tỏ vị trí và vai trò của người giáo dân trong đời sống Giáo Hội theo tinh thần Công Đồng Vat. II, Đại Hội Dân Chúa đề nghị:
Giáo hội Việt Nam cương
quyết thực hiện mô hình Giáo hội hiệp thông và tham gia, Để thực hiện mô hình
này, cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người giáo dân tham gia vào đời sống
và sứ mạng của Giáo hội.
Các linh mục cần phát
huy cung cách lãnh đạo mang tính tham gia thay cho thái độ độc quyền và độc
đoán, cần được học hỏi về phương pháp quản trị điều hành giáo xứ theo một cách thức có khoa học và tổ chức.
Cần có qui chế chung trong việc tổ chức giáo phận, giáo xứ, liên quan đến
vai trò, trách nhiệm và sự đóng góp của giáo dân.
Cần
đẩy mạnh hơn nữa việc huấn luyện giáo dân và tổ chức các khóa thần học giáo dân
giúp họ được chuẩn bị tốt đẹp khi tham gia vào các lãnh vực đa dạng của Giáo
hội và trần thế.
Tôn trọng tiếng nói và
đề cao sự tham gia của phụ nữ trong các sinh hoạt của giáo xứ, giáo phận.[21]
Đáp lại những đề nghị
nầy, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010 đã
chỉ dẫn: “Công đồng Vatican II đã mở đường cho sự tham gia đa dạng của giáo dân
vào đời sống Giáo Hội, ngay cả trong việc đào tạo linh mục. Giáo Hội khắp nơi
đều thu lượm được nhiều hoa quả từ định hướng này.
Trong đời sống Giáo Hội tại Việt Nam, giáo dân đã và đang góp phần thật phong
phú và quảng đại cho đời sống và sứ vụ của Giáo Hội, như mang Tin Mừng của Chúa
đến những vùng xa xôi hẻo lánh, chia sẻ công sức tiền của, nhất là những lời
cầu nguyện và bao hy sinh âm thầm để xây dựng sự hưng thịnh và sinh động của
cộng đoàn Dân Chúa. Thật đáng trân trọng những đóng góp quý giá đó, nay Giáo
Hội cần quan tâm hơn đến việc phát huy phẩm chất của giáo dân bằng cách tổ chức
các khóa huấn luyện về thần học, giáo lý, Kinh Thánh, mục vụ. Đồng thời, cần canh tân những đường hướng và qui chế tổ chức giáo
phận và giáo xứ, để giáo dân có cơ hội thực thi những quyền chính đáng và trách
nhiệm của mình trong Giáo Hội.”[22]
Đại
Hội Dân Chúa đã kết thúc, nhưng thành quả của Đại Hội vẫn còn là dấu chấm hỏi. Tuy nhiên, người giáo
dân Việt Nam vẫn hy vọng rằng, Đại Hội Dân Chúa 2010 không là một biến cố đơn
thuần là để kỷ niệm một biến cố, nhưng là “thời điểm của ân sủng, là kairos qua
đó Thiên Chúa muốn làm bừng dậy cuộc canh tân Giáo Hội của Ngài tại Việt Nam”[23], và vì thế, người giáo dân vẫn tràn ngập tin tưởng
rằng, thành quả của Đại Hội Dân Chúa sẽ đâm chồi nẩy lộc, người giáo dân Việt
Nam thực sự trở thành cộng sự viên của hàng Giáo sĩ trong việc xây dựng và phát
triển Giáo Hội, chứ không mãi là những thần phần tiêu cực, thụ động trước thúc
bách canh tân của Giáo Hội để đem Tin Mừng đến cho mọi người, không mãi là
những tín hữu chỉ biết sống lo toan phần rỗi cho riêng mình, nhưng biết tham
gia “vào các sinh hoạt trong cộng đoàn với tất cả tinh thần trách nhiệm, không
chấp nhận ‘độc tài’ nhưng cũng không đồng hóa ‘tham gia’ với “dân chủ cực
đoan’, vì tất cả đều phải vâng phục Thiên Chúa và cùng nhau hướng đến mục đích
chung là xây dựng và phát triển cộng đoàn.”[24]
Để sự kỳ vọng nầy không
trở thành vô vọng, có lẽ người giáo dân đang chờ đợi hàng giáo sĩ bắt đầu hành
động bằng việc phát huy cung cách lãnh đạo mang tính tham gia thay cho thái độ
độc quyền và độc đoán, và khởi sự xây dựng các chương trình huấn luyện cho họ
dựa trên nền tảng linh đạo của người giáo dân.
[1] Sứ Điệp của Liên Hội Đồng Giám mục
Châu Á lần I, trích trong “For all the people of
[2] X. Sứ Điệp của Liên Hội Đồng Giám mục
Châu Á lần III, trích trong “For all the people of
[3] X. Sứ Điệp của Liên Hội Đồng Giám mục
Châu Á lần IV, trích trong “For all the people of
[4] X. Nt số 3.5
[5] X. Nt số
3.5.4.
[6] X. Nt số
3.9.4
[7] X. Nt số
3.7.4
[8] X. Nt số
3.8.5
[9] X. Nt số
3.4.4 và số 3.4.8
[10] X. Nt. số 4.1.3
[11] X.Nt. số 4.4
[12] X. Nt. số 4.5.2
[13] X. Nt số
4.6.2
[14] Nt số 4.7.1.2
[15] Nt số2.7.2.1 – 4.7.2.3
[16] Nt, số 4.8.1 – 4.8.6
[17] Thư chung 1980, số 7.
[18] Thư Chung 1980, số 12.
[19] Tài Liệu làm việc Đại Hội Dân Chúa 2010,
số 1.
[20] Hội Đồng Giám Mục Việt
[21] Bản đúc kết các đề nghị tại Đại Hội Dân Chúa 2010, số 11.
[22] Hội Đồng Giám Mục Việt
[23] Đề Cương Giáo Hôi tại Việt
[24] Tài Liệu làn việc Đại Hội Dân Chúa 2010,
số 16.
Tác giả: Lm Antôn Hà
văn Minh
Nguồn: giaolyductin.net (26.11.2014)