Tìm hiểu bất cứ một văn kiện nào xuất phát từ suy tư của Liên Hội đồng Giám mục
Á châu (LHĐGMAC) trong ba thập niên hiện hữu vừa qua, chúng ta sẽ bắt gặp được
những nhận thức đầy sức sáng tạo về Giáo Hội địa phương trong bối cảnh Á châu.
Về mặt lịch sử, chính cuộc viếng thăm mục vụ tại châu Á của Đức giáo hoàng
Phaolô VI đã thúc đẩy các Giáo Hội địa phương bắt đầu hình thành một cái nhìn
về Giáo Hội và sứ vụ thích ứng với “thế giới mới đang hình thành” tại châu Á
vào thời hậu thực dân. Các Giáo Hội tự hỏi: Các cộng đoàn tín hữu sẽ đáp lại ân
sủng, – được hiểu là Công đồng chung Vatican II – như thế nào? Các Giáo Hội sẽ
thể hiện một “bước ngoặt” có tính quyết định “về lịch sử” và “về Tin Mừng” bên
trong lịch sử “vì mọi dân tộc của châu Á” như thế nào?
Một nền thần học đang
hình thành
Sự suy tư thần học và
mục vụ có tính nhất quán và lâu dài về Giáo Hội và sứ vụ rao giảng Tin Mừng của
Giáo Hội đã giúp Liên Hội đồng Giám mục Á châu đưa ra một cái nhìn toàn bộ về
vấn đề “là Giáo Hội tại châu Á ngày nay” thực sự có nghĩa gì? Những nhận thức
nảy sinh từ một niềm tin là Chúa Thánh Thần đang nói với các Giáo Hội. Dĩ
nhiên, nhiều nhận thức phong phú có tính Giáo Hội học của Liên Hội đồng Giám
mục đặt trọng tâm vào ý nghĩa, nền thần học, và kinh nghiệm sống của Giáo Hội
địa phương.
Suy tư thần học mục vụ
của LHĐGMAC rõ ràng có tính quy nạp –hình thành từ những thực tại cụ thể của
cuộc sống. Bởi vậy, một nền Giáo Hội học với Giáo Hội địa phương làm tâm điểm
sẽ nắm bắt được một cách đầy đủ nhất những hy vọng và khát vọng của người dân
địa phương. Với tính cách là cộng đồng các môn đệ của Chúa Giêsu tại châu Á,
Giáo Hội nhất quán gắn căn tính của mình với các dân châu Á và hòan cảnh sống
của họ. Giáo Hội nỗ lực là – trong thực tế chứ không phải trong lý thuyết-
“Giáo Hội của người nghèo” và “Giáo Hội của người trẻ”. Giáo Hội chia sẻ những
thăng trầm của “Giáo Hội thầm lặng” tại nhiều nơi ở châu Á. Các ưu tiên mục vụ
của Giáo Hội quan tâm tới những người phải bỏ quê hương (di dân và tỵ nạn), phụ
nữ và bé gái, người trẻ, gia đình, người nghèo khổ, các tín đồ của các truyền
thống tôn giáo lớn của châu Á. Giáo Hội tích cực thúc đẩy sự hiệp thông ngày
càng lớn giữa các Giáo Hội địa phương ở châu Á trong sự hiệp nhất hiếu thảo với
Tòa Phêrô, người đứng đầu Giáo Hội phổ quát trong tình thương yêu; Giáo Hội cổ
vũ tính Công giáo đích thực.
Tắt một lời, chủ đề
thần học về Giáo Hội địa phương đề ra một tâm điểm thích hợp, có tính hòa nhập,
đối với đời sống của các cộng đoàn tín hữu tại châu Á. Sự kiện này giúp giải
thích tại sao trên bình diện quốc tế một suy tư thần học thực sự tốt đẹp về
Giáo Hội địa phương lại đã được hình thành tại châu Á và qua tổ chức LHĐGMAC.
Kể lại lịch sử Giáo Hội địa phương trong suy tư thần học, -rất sâu sắc, phong
phú, và đầy cảm hứng-, của LHĐGMAC là tiêu đỉểm chính của bài viết này. Về
phương diện phương pháp luận, việc giới thiệu các văn kiện của LHĐGMAC về Giáo
Hội địa phương sẽ được trình bày theo thứ tự thời gian; cách thức này cho chúng
ta một cái nhìn sáng sủa hơn. Ngoài ra, việc trích dẫn trực tiếp và rộng rãi
các văn kiện của LHĐGMAC sẽ giúp duy trì được sự tươi tắn, sáng tạo và sâu sắc
của các văn kiện gốc.
LHĐGMAC I
Hội nghị khoáng đại lần
thứ nhất của LHĐGMAC được tổ chức tại Đài Bắc, Đài Loan, vào tháng Tư năm 1974.
Hội nghị đặt trọng tâm vào chủ đề: “Rao giảng Tin Mừng tại châu Á thời Hiện
đại” (đây cũng là dịp chuẩn bị cho Thượng Hội đồng Giám mục về Rao giảng Tin
Mừng sẽ được tổ chức tại Roma sau đó, cũng vào năm này). Các Giáo Hội Á châu,
qua các Giám mục của mình, đã định rõ trách nhiệm trung tâm và khẩn thiết nhất
của sứ vụ: “Tiêu điểm tiên khởi của nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng của chúng ta,
vào thời điểm này của lịch sử, là xây dựng một Giáo Hội thực sự địa phương. Bởi
vì Giáo Hội địa phương chính là việc thể hiện và nhập thể của Thân Mình Đức
Kitô trong một dân tộc, ở một nơi và vào một thời nhất định” (LHĐGMAC I, 9-10).
“Đây không phải là một
cộng đoàn tách biệt khỏi các cộng đoàn khác của một Giáo Hội duy nhất và công
giáo. Đúng hơn, Giáo Hội địa phương tìm kiếm sự hiệp thông với tất cả các cộng
đoàn khác. Với các cộng đoàn này, Giáo Hội địa phương tuyên xưng cùng một niềm
tin, chia sẻ một Thánh Linh duy nhất và cũng một đời sống bí tích. Một cách đặc
biệt, Giáo Hội địa phương tự hào về sự hiệp thông và hiệp nhất hiếu thảo với
Tòa Phêrô, người đứng đầu Giáo Hội phổ quát trong tình thương yêu” (LHĐGMAC I,
11).
“Giáo Hội địa phương là
một Giáo Hội nhập thể trong một dân tộc, một Giáo Hội bản xứ và hội nhập trong
một nền văn hóa. Cụ thể, điều này có nghĩa là một Giáo Hội trong cuộc đối thoại
liên tục, khiêm tốn và đầy tình yêu thương với các truyền thống sống động, các
nền văn hóa, các tôn giáo –tóm lại, với tất cả các thực tại của dân tộc, trong
đó Giáo Hội đã cắm rễ sâu và vui mừng nhận lấy lịch sử và cuộc sống của dân tộc
ấy làm của mình. Giáo Hội cố gắng chia sẻ những gì thực sự thuộc về dân tôc
này: các mục đích và các giá trị, các khát vọng, các tư tưởng và ngôn ngữ, các
bài ca và nghệ thuật của dân tộc này. Giáo Hội cũng đảm nhiệm cả những yếu đuối
và sa ngã của họ để họ cũng có thể được cứu độ. Bởi Con Thiên Chúa đã đảm nhiệm
toàn bộ thân phận làm người sa ngã của chúng ta (chỉ trừ tội lỗi), nên Người đã
có thể biến con người thực sự là của Người và cứu độ con người trong mầu nhiệm
Vượt qua của Người” (LHĐGMAC I, 12).
Hội đàm Á châu về các
Thừa tác vụ trong Giáo Hội
Ba năm sau, tức vào năm
1977, trong một cuộc Hội đàm Á châu về các Thừa tác vụ trong Giáo Hội
(HATG/ACMC) được tổ chức tại HôngKong, chủ đề Giáo Hội địa phương tiếp tục được
đẩy mạnh: “…hiện tượng mới và có tính quyết định đối với Kitô giáo tại châu Á
sẽ là sự hình thành của các cộng đoàn Kitô giáo đích thực tại châu Á –Á châu
trong cách suy nghĩ, cầu nguyện, sống, thông truyền cảm nghiệm của chính mình
về Đức Kitô cho người khác. Kết quả sẽ lớn lao không chỉ đối với các thừa tác
vụ mà các Giáo Hội châu Á sẽ phải chu toàn mà cả đối với tất cả các khía cạnh
khác của đời sống của mình. Chúng ta phải thận trọng đối với việc nhìn sứ vụ tương
lai của chúng ta theo các phạm trù thuộc về quá khứ, khi phương Tây định hình
lịch sử của Giáo Hội. Nếu các Giáo Hội Á châu không khám phá ra căn tính riêng
của mình, các Giáo Hội ấy sẽ chẳng còn tương lai” (HATG/ACMC 14).
“Mỗi Giáo Hội địa
phương được xác định bởi bối cảnh nhân văn và sống trong một quan hệ biện chứng
với xã hội con người trong đó mình được đưa vào như men của Tin Mừng… Mỗi Giáo
Hội địa phương, để có thể tồn tại và phát triển, cần phải có đầy đủ trách nhiệm
và sự tự quản hợp pháp cần thiết cho sự tăng trưởng tự nhiên và hài hòa của
mình” (HATG/ACMC 25).
“Các Giáo Hội Á châu,
do đó, phải trở thành thực sự Á châu trong mọi sự. Nguyên tắc về sự bản địa hóa
và hội nhập trong một nền văn hóa là cội rễ thực sự của việc trở về nhà của
mình. Thừa tác vụ của các Giáo Hội Á châu, để trở thành đích thực, phải có liên
quan đến các xã hội Á châu. Điều này đòi hỏi về phía các Giáo Hội phải có sự
độc đáo, sáng tạo và khả năng sáng tạo, sự tự tin và lòng dũng cảm” (HATG/ACMC
26).
“Bởi vì sứ vụ của Đức
Kitô có tính phổ quát, nên tất cả các Giáo Hội địa phương đều được kêu gọi để
sống trong sự hiệp thông với nhau. Sợi giây của sự hiệp nhất, được diễn tả một
cách rõ rệt trong tính hiệp đoàn của các giám mục, với Giám mục Roma đứng đầu,
ám chỉ rằng việc mỗi Giáo Hội tìm kiếm các thừa tác vụ thích hợp với các nhu
cầu của mình có lệ thuộc vào sự kiểm tra và xét nghiệm bởi các Giáo Hội khác.
Bảo đảm của tính tông truyền và công giáo đích thực của mỗi Giáo Hội địa phương
nằm ở mối quan hệ của sự hiệp nhất này” (HATG/ACMC 27).
LHĐGMAC II
Hội nghị Khoáng đại lần
II của LHĐGMAC (Calcutta, Ấn Độ, 1978), được tổ chức xung quanh chủ đề “Cầu
nguyện – cuộc sống của Giáo Hội tại châu Á”. Các Giám mục đại diện cho biết là
một động cơ quan trọng đối với Hội nghị là “đào sâu sự hiểu biết của chúng ta
về các Giáo Hội địa phương” (LHĐGMAC II, 1), và các ngài tuyên bố “các nhiệm vụ
mà việc thực thi sứ vụ của Giáo Hội tại châu Á đòi hỏi là: cam kết xây dựng các
cộng đoàn châu Á trong đời sống Tin Mừng, hội nhập lòng tin và cuộc sống Kitô
giáo trong các nền văn hóa, nỗ lực vì sự phát triển toàn diện của con người và
sự giải phóng thực sự của các dân tộc trong công bằng và tình thươg, đối thoại
liên tôn giáo và đổi mới việc đào tạo thừa sai” (LHĐGMAC II, 3).
Đại hội Quốc tế về Sứ vụ
Đại hội Quốc tế (người
châu Á chiếm phần nổi trội) về Sứ vụ (ĐQS) được tổ chức tại Manila năm 1979,
một lần nữa, đã khẳng định một cách mạnh mẽ về vị trí trung tâm của Giáo Hội
địa phương đối với một “thời đại mới của sứ vụ” tại châu Á.
“Tính cách mới mẻ của
‘thời đại mới của sứ vụ’ này là gì? Trước hết, ‘sứ vụ’, trong thực tiễn, không
còn, và không thể tiếp tục được hiểu như là một chuyển động một chiều từ ‘các
Giáo Hội kỳ cựu’ tới ‘các Giáo Hội trẻ hơn’, từ các Giáo Hội của thế giới Kitô
giáo lâu đời tới các Giáo Hội tại các nước thuộc địa. Ngày nay, -như Công đồng
Vatican II đã khẳng định một cách rõ ràng và mạnh mẽ- mọi Giáo Hội địa phương
đều mang -và không thể không mang- tính thừa sai. Mọi Giáo Hội địa phương đều
được Đức Kitô và Cha ‘sai đi’ đem Tin Mừng cho thế giới xung quanh mình, và cho
toàn thể thế giới. Đây là một nhiệm vụ hàng đầu đối với từng Giáo Hội địa
phương. Từ nay, chúng ta đang vượt ra khỏi kiểu nói và ý tưởng về ‘Giáo Hội
thừa sai’ và ‘Giáo Hội tiếp nhận’, bởi vì, với tính cách là những cộng đoàn
sống động của một Giáo Hội duy nhất của Chúa Giêsu Kitô, mọi Giáo Hội địa
phương đều phải là một Giáo Hội thừa sai, và mọi Giáo Hội địa phương (vốn chưa
phải là sự thể hiện trọn vẹn của Giáo Hội trên đời này) cũng còn phải là một
Giáo Hội tiếp nhận. Mọi Giáo Hội địa phương đều có trách nhiệm đối với sứ vụ
của mình và đồng trách nhiệm đối với sứ vụ của mọi Giáo Hội anh em. Mọi Giáo
Hội địa phương, tùy theo khả năng của mình, phải chia sẻ ân sủng của mình vì
nhu cầu của các Giáo Hội khác, vì sứ vụ đối với nhân loại, vì sự sống của thế
giới” (ĐQS 14).
“Tính mới mẻ của ‘thời
đại mới của sứ vụ’ này còn là gì nữa? Chúng ta tin rằng Thần Khí của Chúa kêu
gọi mỗi dân nước và mỗi nền văn hóa có câu trả lời mới mẻ và sáng tạo trước Tin
Mừng. Mọi Giáo Hội địa phương có ơn gọi riêng của mình trong một lịch sự cứu độ
duy nhất, trong một Giáo Hội duy nhất của Đức Kitô. Trong mọi Giáo Hội địa
phương, lịch sử mỗi dân tộc, mỗi nền văn hóa, mục đích và giá trị, các truyền
thống của mỗi dân tộc, đều được tiếp nhận, không phải để bị giảm thiểu hay bị
phá hủy, mà để được tôn vinh và đổi mới, thanh luyện nếu cần và trở thành viên
mãn (như Công đồng Vatican II khẳng định) trong sự sống của Thánh Thần” (ĐQS
15).
Các bản tường trình của
hai cuộc thảo luận (V và VII) của Đại hội
Văn kiện này của cuộc
Thảo luận VII còn khẳng định rằng “các thừa sai từ các Giáo Hội anh em không
chỉ là những dấu sống động về tính cách phổ quát và đồng trách nhiệm của Giáo
Hội, mà do hậu cảnh văn hóa và Kitô giáo khác nhau của các thừa sai, các ngài
làm cho Giáo Hội địa phương thêm phong phú và thúc đẩy Giáo Hội này hoạt động
một cách có hiệu quả. Giáo Hội địa phương sẽ chào mừng, đón nhận và giúp các
ngài hòa mình vào trong đời sống của Giáo Hội địa phương” (10).
LHĐGMAC III
Hội nghị Khoáng đại lần
thứ ba của LHĐGMAC được tổ chức tại Bangkok (Thái Lan), năm 1982, có chủ đề
chính là “Giáo Hội – Một Cộng đoàn đức tin tại châu Á”. Một lần nữa, chúng ta
có thêm những từ mang tính cách soi sáng về Giáo Hội địa phương. Khẳng định kết
thúc LHĐGMAC III ghi nhận: “Chúng ta đã thấy Giáo Hội địa phương phải là một
cộng đoàn của sự hiệp thông được ban cho và cắm rễ trong sự sống của Ba Ngôi
như thế nào, một cộng đoàn của cầu nguyện và chiêm niệm, của việc cử hành và
sống đời sống bí tích với trọng tâm là Thánh Thể. Giáo Hội ấy phải được định rõ
bởi đời sống của tình môn đệ trong lòng tin vào Tin Mừng, theo mô hình của Mầu
nhiệm Vượt qua của Chúa Giêsu, ‘một cộng đoàn vì người khác’. Chúng ta đã hiểu
rằng việc tham gia đích thực và tinh thần đồng trách nhiệm phải là những yếu tố
thiết yếu của cuộc sống, và sự suy tư thần học, sự nhận thức chín chắn là những
bộ phận cấu thành của cuộc sống của mình. Đây là một cộng đoàn cố gắng ở trong
sự hiệp nhất chân thành với các chủ chăn của mình, bên trong những quan hệ của
sự hiệp thông địa phương và phổ quát trong một Giáo Hội duy nhất” (LHĐGMAC III,
15).
Các luận đề về Giáo Hội
địa phương
Tính cách trung tâm của
Giáo Hội địa phương trong tư tưởng thần học mục vụ tại vùng Á châu đã được làm
nổi bật qua việc Liên Hội đồng Giám mục Á châu cam kết đào sâu vấn đề này.
LHĐGMAC đã cổ vũ sự suy tư thần học bản địa Á châu ngay từ những năm đầu; việc
chính thức thành lập Ủy ban Tư vấn Thần học (TVTH/TAC) của LHĐGMAC đã diễn ra
vào thập niên 1980. Một giai đoạn năm năm khẩn trương nghiên cứu và bàn hỏi đã
dẫn đến một văn kiện súc tích có tựa đề “Các luận đề về Giáo Hội địa phương:
Một Suy tư Thần học trong Bối cảnh Á châu” (STBA/TLC). Đây là một trong những
văn kiện dài nhất do Ủy ban công bố (trên 50 trang sách in); văn kiện đã được
phát hành vào tháng giêng năm 1991. Theo quan niệm của tác giả này, trên thế
giới, đây có thể là văn kiện súc tích và tốt nhất cho tới thời điểm này về Giáo
Hội địa phương.
Văn kiện của Ủy ban Tư
vấn Thần học thuộc LHĐGMAC về Giáo Hội địa phương gồm nhiều phần. Sau phần dẫn
nhập được đặt trong bối cảnh và định nghĩa từ ngữ, mười lăm luận đề được giới
thiệu trong hai phần có chủ đề khác nhau: “Các cơ sở Thánh Kinh” (các luận đề
1-4) và “Sự ra đời, cuộc sống và Sứ vụ của Giáo Hội địa phương” (các luận đề
5-15). Kế đó là phần kết luận; cuối cùng là các hệ quả mục vụ và hành động”.
Sau đây là một số trích dẫn nổi bật nhằm giúp độc giả nắm bắt được tinh thần của
văn kiện sáng suốt này, kết quả của suy tư thần học Á châu về Giáo Hội địa
phương.
“Như chúng tôi đã ghi
nhận, Hội nghị Khoáng đại lần thứ nhất của LHĐGMAC đã nói đến việc xây dựng
Giáo Hội địa phương như tiêu điểm hiện nay của sứ vụ của Giáo Hội tại châu Á.
Nhận định này ngày nay (1991) vẫn còn giá trị… Các Giáo Hội địa phương ngày càng
phải xem mình như những tác nhân có trách nhiệm đối với việc của Giáo Hội tự
thể hiện mình” (STBA/TLC: C, 3-4).
“Chúng ta thấy thế giới
thuộc Thiên niên kỷ thứ ba đang tới gần …Tin Mừng có hiện diện hay không trong
thời đại mới này với những khúc quanh không thấy trước được của nó và tính cách
đa dạng phong phú của nó sẽ tùy thuộc phần lớn ở chỗ các Giáo Hội địa phương có
làm tròn ơn gọi của mình hay không trong khoảnh khắc lịch sử đang đến với các
Giáo Hội. Chúng ta hiểu được chút gì đó về ý nghĩa của Giáo Hội địa phương và
sự hội nhập vào văn hóa trong bối cảnh này; những ai không hiểu được điều này
không thể đáp lại các dấu chỉ của thời đại chúng ta, và tiếng tim đập của các
dân tộc chúng ta” ((STBA/TLC: C, 5).
“Chắc chắn chúng ta
phải cảm tạ về điều ngày nay chúng ta cảm nghiệm được ‘sự thúc đẩy của Thánh
Thần’ trong các Giáo Hội của chúng ta. Bởi vì đây là khoảnh khắc ưu đãi đối với
sự suy tư và nhận thức về thần học địa phương, đối với việc thu thập và phân
phối năng lực, đối với việc xây dựng những Giáo Hội địa phương đích thực trên
phần đất này của thế giới… Chúng ta chỉ có thể cầu nguyện để có thể nghe được
và nghe theo Chúa Thánh Thần, có thể để quyền năng sáng tạo của Người hướng dẫn
và để có thể dấn thân với lòng can đảm vốn là những ân sủng của Thánh Thần”
(STBA/TLC: C, 6-7).
LHĐGMAC V
Đa số các văn kiện lớn
của LHĐGMAC đều trực tiếp nói đến vai trò của Giáo Hội địa phương trong sứ vụ
và trong việc rao giảng Tin Mừng. Hội nghị khoáng đại lần thứ năm của LHĐGMAC
được tổ chức tại Bandung, Inđônêsia, vào tháng 7/1990, với chủ đề “Đồng hành
tới Thiên niên kỷ thứ Ba”. Khẳng định của Hội nghị xác nhận rằng chính Giáo Hội
địa phương là “chủ thể hành động của sứ vụ” khiến chủ đề thêm rõ ràng và có
tính tập trung hơn nữa.
“Sự đổi mới của ý thức
về sứ vụ có nghĩa… là chủ thể hành động của sứ vụ là Giáo Hội địa phương đang
sống và hành động trong sự hiệp thông với Giáo Hội phổ quát. Chính các Giáo Hội
và cộng đoàn địa phương mới có thể nhận ra và thực hiện (trong đối thoại với
từng người và với các người khác có thiện chí) con đường Tin Mừng được loan báo
một cách tốt nhất, Giáo Hội được xây dựng, các giá trị của Nước Trời được thể
hiện trong không gian và thời gian riêng của mình. Trong thực tế, chính bởi
việc đáp lại và phục vụ các nhu cầu của các dân nước tại châu Á mà các cộng
đoàn Kitô hữu khác nhau thực sự trở thành các Giáo Hội địa phương” (LHĐGMAC V,
3.3.1).
“Giáo Hội địa phương
này, vốn là chủ thể hành động của sứ vụ, là dân của Chúa tại một nơi nhất định,
toàn bộ cộng đoàn Kitô hữu –giáo dân, tu sĩ và giáo sĩ. Đó là toàn thể giáo
phận, giáo xứ, Cộng đoàn Giáo Hội căn bản và các nhóm khác. Thời của họ đã tới
đối với châu Á” (LHĐGMAC V, 3.3.2).
LHĐGMAC VI
Hội nghị Khoáng đại lần
thứ Sáu của LHĐGMAC được tổ chức tại Manila, Philippines, năm 1995, phối hợp với
cuộc tông du của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nhân Ngày Giới Trẻ Thế giới,
tổng hợp các chủ để then chốt của 25 năm lịch sử của LHĐGMAC. Bản tuyên bố kết
thúc Hội nghị có tựa đề “Làm môn đệ Đức Kitô tại châu Á ngày nay: Phục vụ sự
sống” viết: “Điểm chính yếu của các hoạt động trong những năm gần đây là thúc
đẩy các Giáo Hội tại châu Á đi tới ‘một cách thức mới là Giáo Hội’, một Giáo
Hội dấn thân để trở thành ‘một cộng đoàn các cộng đoàn’ và một dấu chỉ có thể
tin được về sự cứu độ và giải thoát” (LHĐGMAC VI, 3). Chính Thần Khí Đức Giêsu
đã tạo nên Giáo Hội như một cộng đoàn các môn đệ” (LHĐGMAC VI, 14).
Việc trở thành một Giáo
Hội địa phương đích thực tại châu Á kéo theo nhiều thách thức. Người Công giáo
Á châu nhìn nhận: “Chúng ta có thể do dự bởi vì chúng ta là một nhóm thiểu số.
Quả thực, chúng ta là một đàn chiên nhỏ tại châu Á… Nhưng chính từ vị trí yếu
kém này mà ân sủng về sự sống Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh, quyền
năng và sự khôn ngoan của Thiên Chúa lại có ý nghĩa nhất” (LHĐGMAC VI, 14.3).
Đa số các Giáo Hội địa phương tại châu Á liên tục khám phá và sống căn tính là
những thiểu số bên trong các xã hội quốc gia của họ.
Các chủ đề của LHĐGMAC
tại Thượng Hội đồng Á châu
Một văn kiện ngắn giới
thiệu những nhận thức hấp dẫn về các chủ đề then chốt của LHĐGMAC liên quan đến
Giáo Hội địa phương và được lấy lại trong Hội nghị Đặc biệt về Á châu của
Thượng Hội đồng Giám mục (“Thượng Hội đồng Á châu”), được tổ chức tại Roma từ
19/4 đến 14/5, 1998. Đức Hồng y Stephen Kim Sou-hwan của Hàn quốc, trong phần
chào mừng Đức Thánh Cha và các vị tham dự Thượng Hội đồng trong bài diễn văn
khai mạc của ngài vào ngày 20/4, đã mô tả các thực tại của châu Á “là được cấu
tạo không chỉ bởi các dân tộc khác nhau mà bởi nhiều thế giới, có thể nói được
như vậy”.
Hồng y Kim nêu lên các
nỗ lực và thực hiện của LHĐGMAC “trong 27 năm qua”; trong việc xây dựng một
Giáo Hội địa phương thực sự tại châu Á “những nỗ lực liên tục và hoàn toàn
nghiêm túc đã được thực hiện để lắng nghe, học hỏi, suy tư và hành động trên
các thực tại châu Á ngày nay vốn đã được sống trong lòng tin và cầu nguyện. Và,
chúng tôi đã cảm thấy được mời gọi luôn đổi mới sự hiểu biết về Giáo Hội và sứ
vụ của Giáo Hội, không chỉ từ những tư tưởng trừu tượng, mà đối diện với các
tình huống mục vụ nhất định và những đòi hỏi của chúng” (OR-EE: 29/4/1998: 5).
Đức giám mục Josef
Suwatan, MSC của Inđônêsia khẳng định rằng “các dân tộc châu Á cần những chứng
từ về việc ‘là Giáo Hội’”. Ngài nhấn mạnh: “LHĐGMAC V năm 1990 tại Bandung đã
nói như thế nào về ‘một cách thức mới là Giáo Hội’ tại châu Á, Giáo Hội như ‘sự
hiệp thông của những cộng đoàn’”.
Ngài lặp lại rằng: “Nên
nhớ rõ, LHĐGMAC V nói tới việc ‘là’ Giáo Hội!” (OR-EE: 29/4/1998: 15). Tổng
Giám mục Petrus Turang của Inđênêsia đã gợi lại cũng chủ đề này và nhấn mạnh
vào sự tăng trưởng của các Giáo Hội địa phương: “Các Giáo Hội tại châu Á cần áp
dụng tốt hơn nữa cái nhìn về một cách thức mới là Giáo Hội” (OR-EE: 20/5/1998:
8). Cách tiếp cận mới này cũng sẽ thể hiện, theo Giám mục John Cummins, “sự
hiệp thông được chờ đợi giữa các Giáo Hội địa phương”; điều này có nghĩa là
chấp nhận LHĐGMAC như một phương thế để thực hiện điều này” (OR-EE, 20/5/1998:
13).
Chiều kích truyền giáo
của các Giáo Hội địa phương tại châu Á được đề cao một cách mạnh mẽ tại Thượng
Hội đồng. Cha Edword Malone, Trợ tá Tổng thư ký của LHĐGMAC, nhấn mạnh tới
nhiều điểm hóc búa: “Các Kitô hữu Á châu và các Giáo Hội địa phương có một ý
thức sâu sắc về lòng biết ơn đối với đức tin đã được ban cho… Với sự canh tân
của Giáo Hội học, các sáng kiến phong phú và đa dạng trong việc thi hành sứ vụ
chắc chắn sẽ xuất hiện từ mỗi Giáo Hội địa phương…”. Cụ thể, những hành động
đặc biệt để giúp cổ vũ “sự xuất hiện của các Giáo Hội thừa sai địa phương”; như
vậy, sự quan tâm mục vụ không được đánh lạc hướng nỗ lực thừa sai của Giáo Hội
địa phương” và “việc thành lập hiện nay các hội thừa sai gốc châu Á cần phải
được củng cố ở mỗi Giáo Hội địa phương” (OR-EE: 13/5/1998: 14).
Nhiều bài tham luận tại
Thượng Hội đồng đã xoáy vào các thách đố đối với “cách thức mới là Giáo Hội” do
LHĐGMAC gợi lên. Giám mục Pakiam của Malaysia nhấn mạnh vào bản chất của sự cam
kết là “những nhân chứng của Tin Mừng với tính cách một cộng đoàn của Giáo Hội
địa phương tại một xứ sở đa chủng tộc, đa văn hóa, đa ngôn ngữ”; nên nhớ là sự
mô tả này phản ánh thực tế của đa số nước tại châu Á. Giám mục Pakiam gợi lại
các hướng dẫn của LHĐGMAC để các Giáo Hội địa phương trở thành “một sự hiệp
thông của những cộng đoàn, một Giáo Hội tham gia, một Giáo Hội đối thoại và
ngôn sứ” (OR-EE: 17/6/1998: 8).
Tại phiên họp cuối cùng
của Thượng Hội đồng vào ngày 13/5, Hồng y Darmaatmadja của Inđônêsia còn nói
đến nhiệm vụ “là Giáo Hội tại châu Á”. Đối với ngài, mọi Giáo Hội địa phương
phải chiến đấu để là “một Giáo Hội với một ‘dung mạo’ [và với một] “vẻ mặt” Á
châu; các Giáo Hội này phải tránh cái vẻ “xa lạ đối với các truyền thống và văn
hóa Á châu” (OR-EE: 17/6, 1998:10-11). Tắt một lời, các Giáo Hội phải được biết
đến như là những Giáo Hội địa phươngthực sự.
Các chủ đề của LHĐGMAC
trong Ecclesia in Asia
Tông huấn Ecclesia
in Asia do Đức giáo
hoàng Gioan Phaolô II công bố tại Tân Delhi, Ấn Độ, ngày 6/11/1999 đã gợi lại
Giáo Hội học của các Nghị phụ thuộc vùng LHĐGMAC trong Thượng Hội đồng về Á
châu. Mặc dù văn kiện triển khai “Giáo Hội học về Hiệp thông” một cách rộng
rãi, Tông huấn của Đức giáo hoàng cũng đã đưa ra những nhận thức quan trọng về
Giáo Hội địa phương tại châu Á.
Ecclesia in Asia ghi nhận rằng “Các Nghị phụ trong Thượng Hội đồng ý thức rõ về nhu
cầu cấp bách của các Giáo Hội địa phương tại châu Á là được giới thiệu mầu
nhiệm Đức Kitô theo các nền văn hóa và cách suy nghĩ của mình” (20h). Điều cần
thiết là “mỗi Giáo Hội địa phương phải trở thành điều các Nghị phụ gọi là ‘một
Giáo Hội tham gia’, nghĩa là một Giáo Hội ở đó, tất cả đều sống ơn gọi riêng
của mình và chu toàn vai trò riêng của mình” (25b)… Tông huấn ca ngợi tên gọi
‘Liên Hội đồng Giám mục Á châu’, vì nó “giúp củng cố sự hiệp nhất giữa các Giáo
Hội địa phương” và “đã tạo nơi gặp gỡ cho sự hợp tác trong việc giải quyết các
vấn đề mục vụ” (26b).
Trong Ecclesia
in Asia, Đức
Giáo hoàng Gioan Phaolô II định rõ các trách nhiệm lớn của các Giáo Hội địa
phương tại châu Á: “ở đâu có thể các Giáo Hội địa phương tại châu Á phải cổ vũ
các hoạt động về nhân quyền vì lợi ích của phụ nữ” (34g); “các Giáo Hội địa
phương, về phần mình, cần củng cố ý thức về lý tưởng của đời sống tu trì và
dâng hiến, và cổ vũ cho các ơn gọi này” (44c); sứ vụ là nhiệm vụ của mỗi Giáo Hội
địa phương, và Đức giáo hoàng nhắn nhủ “việc thiết lập bên trong Giáo Hội địa
phương tại châu Á, nơi nào chưa có, các hội thừa sai của đời sống tông đồ, với
nét đặc trưng là dấn thân đặc biệt cho sứ vụ ad gentes (Tới với muôn dân) vàad vitam (tới với sự sống) (44d).
Đức giáo hoàng Gioan
Phaolô II viết tiếp: “Các Giáo Hội địa phương tại châu Á, trong sự hiệp thông
với người Kế vị Thánh Phêrô, cần cổ vũ sự hiệp thông lớn hơn nữa của trí óc và
con tim qua sự hợp tác chặt chẽ giữa các Giáo Hội này” (24d); trong khi sự
thống nhất trong Giáo Hội là thiết yếu, cũng phải tôn trọng “tính cách đa dạng
hợp pháp của Giáo Hội địa phương và sự khác biệt của các nền văn hóa và dân tộc
các Giáo Hội tiếp xúc” (25a).
LHĐGMAC VII
Hội nghị Khoáng đại lần
thứ Bảy của LHĐGMAC, cuộc tập hợp Giáo Hội lớn của năm Thánh 2000, được tổ chức
tại Samphran, Thái Lan, từ 3 đến 12/1/2000. Hội nghị quy tụ 193 tham dự viên
(hồng y, giám mục, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân) đã đề cập đến chủ đề: “Một Giáo
Hội được đổi mới tại châu Á: Một sứ vụ của tình yêu thương và phục vụ”. Một lần
nữa, nền thần học về Giáo Hội địa phương được nêu bật trong bản tuyên bố kết
thúc Hội nghị.
Các tham dự viên khẳng
định: “từ chiều sâu của các niềm hy vọng và lo âu của châu Á, chúng tôi nghe
lời kêu gọi của Thánh Linh gửi các Giáo Hội địa phương tại châu Á. Đây là một
lời kêu gọi đổi mới và thực hiện một sứ vụ của tình thương yêu và phục vụ. Đây
là lời kêu gọi các Giáo Hội địa phương trung thành với các giá trị văn hóa,
tinh thần và xã hội và qua đó trở thành những Giáo Hội địa phương thực sự hội
nhập vào văn hóa” (LHĐGMAC VII: Dẫn nhập).
Hội nghị đã phản ánh:
“Lịch sử 30 năm của LHĐGMAC đã là một loạt những chuyển động có phối hợp hướng
tới một Giáo Hội được đổi mới”. Một trong tám phong trào được ghi nhận, được
xem là một sáng kiến mấu chốt, là “phong trào tiến tới một ‘Giáo Hội địa phương
thực sự’, tiến tới một Giáo Hội ‘nhập thể trong một dân tộc, một Giáo hội bản
xứ và hội nhập trong một nền văn hóa’”. Tuyên bố của Hội nghị khẳng định một
cách đầy xác tín: “Đây là cái nhìn về một Giáo Hội được đổi mới mà LHĐGMAC đã
triển khai suốt ba mươi năm qua. Cái nhìn này ngày nay vẫn còn giá trị”
(LHĐGMAC VII: I-A).
Bản tóm tắt chủ đề
Bản trình bày này đã
tóm tắt một cách ngắn gọn sự phát triển tư tưởng về Giáo Hội địa phương tại
châu Á trên ba thập niên qua. Nhà thần học Á châu nổi tiếng, Catalino G.
Arévalo, dòng Tên, đã phản ánh sự lớn mạnh của các Giáo Hội địa phương tại châu
Á trong tác phẩm Jahrbuch fur Kontextuelle Theologien 1995 [Niên giám các nền thần học trong
văn mạch]. Cái nhìn của tác giả trong tác phẩm này đáng được trích dẫn một cách
rộng rãi.
Tác giả ghi nhận là từ
cuộc đổi mới của Công đồng Vatican II, “Giáo Hội trong vùng của LHĐGMAC đã ngày
càng nỗ lực ‘trở thành Giáo Hội’… Đây là một thời kỳ sôi động
để đánh thức lòng trí người Kitô hữu Á châu với nỗ lực thực sự vì sự ‘thể hiện
mình của Giáo Hội’” (31). Arévalo khẳng định: “Đối với tôi, đằng sau ước muốn
xây dựng những nền thần học địa phương [các nền Giáo Hội học] là ‘giấc mơ về
tính cách công giáo’. Tính công giáo của Giáo Hội đã là một đam mê, một cách
nào đó, trong tâm trí tôi ngay từ những tiếp xúc đầu tiên của tôi với Giáo Hội
học… Đây là một hậu quả của mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Vượt Qua, đây là ý
nghĩa của Hiện Xuống, do đó (hiểu một cách đúng đắn) việc thể hiện tính
công giáo là ý nghĩa
của Sứ vụ của Giáo Hội” (32).
Arévalo viết tiếp:
“Điều đó có nghĩa là mọi dân, mọi nơi tại châu Á, đều có ơn gọi thể hiện tính
công giáo của Giáo Hội. Đức Kitô ‘chưa viên mãn’ cho tới khi toàn thể nhân
loại, mỗi thành phần của nhân loại, đã đóng góp phần của mình cho ‘Đức Kitô của
mọi dân nước’. Mỗi dân tộc có những ân sủng và sự phong phú của mình, và Cha có
một chỗ cho tất cả các ân sủng này, trong Nước Trời, trong Thân Mình của Con
Ngài. Bình đẳng và tham gia là lời kêu gọi đối với mỗi dân tộc trong gia đình
nhân loại. Bao lâu mỗi dân tộc chưa có sự đóng góp vào việc xây dựng sự thống
nhất trong đa dạng của Giáo Hội mà mỗi dân tộc có quyền và có bổn phận phải
làm, việc thực hiện sứ vụ của Giáo Hội chưa được hoàn tất” (32-33).
“Tôi ngày càng xác tín
rằng mỗi nơi, mỗi vùng tại châu Á đều có phần đóng góp riêng của mình vào bức
tranh tạo nên tính công giáo của Giáo Hội, vốn trong đầu óc của tôi, là một
trong những nguyên tắc quan trọng nhất của lòng tin chúng ta. Mỗi dân tộc đều
có quyền tìm cho mình một chỗ trong Giáo Hội. Mỗi Giáo Hội địa phương chỉ có
thể đóng góp xây dựng giấc mơ về tính công giáo này khi có vị trí bình đẳng và
tham gia, bởi vì mỗi dân tộc trong con mắt của Cha đều bình đẳng với tất cả các
dân tộc khác và có quyền được yêu thương vì chính họ và vì những ân sủng và sự
đóng góp riêng họ có thể có” (33).
“Tính công giáo bao hàm
điều này là tất cả chúng ta đều cần tới nhau. Đó là cái ý nghĩa cơ bản của Giáo
Hội địa phương đối với tôi. Một Giáo Hội địa phương không bao giờ là một phương
tiện tự thân, mà trong sự bình đẳng và tham gia, mỗi Giáo Hội địa phương đều
giúp đẩy mạnh sự hiệp thông công giáo như mục tiêu cuối cùng của việc ‘là Giáo
Hội’” (34).
“Giáo Hội công giáo là
một sự hiệp thông của các Giáo Hội địa phương. Mỗi Giáo Hội địa phương là một
Giáo Hội vào một thời và ở một nơi nhất định, nhưng cũng ở trong sự hiệp thông,
cả về lịch đại lẫn đồng đại, với Giáo Hội ở mọi thời và trên khắp thế giới. Nếu
mỗi Giáo Hội địa phương không chia sẻ trong sự hiệp thông koinonia điều là Giáo Hội phổ quát, trong sự
bình đẳng đích thực, trong sự tham gia đích thực, trong sự trao đổi các ân sủng
và chúc lành, thì giấc mơ về tính công giáo chưa được thể hiện. Phần trách
nhiệm thâm sâu nhất của chúng ta, đặc biệt với tư cách người Công giáo, là giúp
hoàn tất điều đó” (34).
Một người phỏng vấn nêu
vấn đề này với Arévalo: “Linh mục tập trung vào Giáo
Hội địa phương tại châu Á như
một tác nhân thực hiện sứ vụ…, linh mục có thấy là các Giáo Hội địa phương đang
sống cái lý tưởng là mỗi Giáo Hội địa phương được kêu gọi là một Giáo Hội
truyền giáo, được kêu gọi là một ‘Giáo Hội thừa sai’?” (35).
Arévalo đã trả lời: “Về
Giáo Hội địa phương, điều tôi nghĩ là cần phải được nói đi nói lại: cái ý nghĩa
cụ thể, đang tác động của việc hội nhập vào một nền văn hóa là tiến trình của
việc để Giáo Hội địa phương là Giáo Hội địa phương, đảm nhiệm trách nhiệm, bên
trong sự hiệp thông của tất cả các Giáo Hội trong catholica,
để ‘thể hiện chính mình’ trong chính cuộc sống và sứ vụ của Giáo Hội này… Bao
lâu các Giáo Hội địa phương chưa xem việc thể hiện chính mình là bổn phận và
trách nhiệm của mình để cố gắng thực hiện, các Giáo Hội này chưa ‘trở thành
Giáo Hội’ theo nghĩa đích thực nhất và đầy đủ nhất. Nhưng ở đây, tại châu Á, chúng
ta còn lâu mới đạt tới đó!” (35).
“Trung tâm thực hiện sứ
vụ của Giáo Hội ngày nay là Giáo Hội địa phương: cần phải nhận ra đâu là trách
nhiệm cụ thể của sứ vụ riêng của Giáo Hội địa phương vào thời gian và địa điểm
riêng của Giáo Hội này. Chúng ta sẽ thực hiện mọi nỗ lực cho việc rao giảng Tin
Mừng được đổi mới, nhưng là một sự rao giảng Tin Mừng vốn thực sự được hội nhập
vào một nền văn hóa và có tính cách toàn diện (trong mọi chiều kích của đời
thường của chúng ta). Đa số các cộng đoàn địa phương của chúng ta còn xa mới
hoàn thành các mục tiêu này” (35).
Arévalo tiếp tục với
một giọng điệu lạc quan: “Cuộc hành trình hai mươi năm qua của các Giám mục
trong LHĐGMAC đã là những năm tháng tăng trưởng mạnh mẽ đối với các Giáo Hội
địa phương của chúng ta, một cách đầy triển vọng, ‘trong sự khôn ngoan, tuổi
tác và ân sủng”. Trong những năm tới đây, những việc chúng ta thấy là cần phải
làm để thực thi sứ vụ đang ở ngay trước mắt chúng ta như những thách đố chúng
ta mới chỉ bắt đầu đối diện. Việc thực thi các việc làm này còn đó” (LHĐGMAC,
Tham luận 57b: 20).
Kết luận
Kinh nghiệm của các
Giáo Hội địa phương trên đường hành hương tại châu Á từ Vatican II là một cuộc
hành trình sôi động và gây cảm hứng của lòng tin. Đây là một kinh nghiệm trong
sự hình thành của Giáo Hội, sự ra đời và phát triển của các Giáo Hội địa
phương. Câu nói xưa cho rằng Giáo Hội luôn in via, trên đường đi tới, trong diễn
tiến –như đang chờ Chúa và vị Cứu Tinh của mình, Đức Giêsu Kitô. Đường đi không
phải là một con đường phẳng phiu. Các Giáo Hội Á châu đang thực hiện cuộc hành
hương trong quá trình đi trên đó –dưới sự hướng dẫn của Thánh Linh, Đấng tốt
lành. Người Kitô hữu Á châu là những môn đệ hành hương đầy hứng khởi, một Giáo
Hội địa phương được đổi mới vì một thế giới mới đang ra đời tại châu Á.
Các Giáo Hội địa
phương, đầy tràn sức sống của niềm tin và sức mạnh của Chúa Thánh Thần, sẽ dấn
thân vào việc đọc “các dấu chỉ thời đại” (GS 4) và đáp lại các thực tại xã hội,
chính trị, kinh tế, tôn giáo và văn hóa cụ thể. Các Giáo Hội sẽ củng cố đời
sống nội tâm (một lòng tin hội nhập trong văn hóa) và được trang bị tốt hơn cho
cuộc đối thoại với các Kitô hữu (tinh thần Đại kết) và với các người theo các
truyền thống tôn giáo khác (đối thoại liên tôn). Nói tóm lại, các Giáo Hội sẽ
cảm nghiệm việc thể hiện chính mình và “tự xem mình như những tác nhân có trách
nhiệm đối với việc tự thể hiện chính mình của Giáo Hội” (TLC: C-4). Các Giáo
Hội sẽ được biết qua kinh nghiệm rằng mình là “chủ thể tác động của sứ vụ”
(LHĐGMAC V, 3.3.1). Các Giáo Hội sẽ tự hào về “cách thức mới là Giáo Hội của
mình” (LHĐGMAC VI, 3).
Mọi Giáo Hội địa phương
tại châu Á đã tiếp nhận được vô vàn ân sủng khác nhau từ Thánh Linh. Mỗi Giáo
Hội cũng cùng chia sẻ một cách nhưng không bởi vì đã tiếp nhận một cách nhưng
không (xem Mt 10, 8). Bằng cách này, mỗi Giáo Hội địa phương góp phần vào việc
thể hiện tính công giáo của Giáo Hội. Như Arévalo viết: “Bao lâu các Giáo Hội
địa phương không chia sẻ trongkoinonia điều làm nên Giáo Hội phổ quát, trong
sự bình đẳng thực sự, trong sự tham gia thực sự, trong sự trao đổi các ân sủng
và chúc lành, giấc mơ về tính công giáo sẽ chưa được thể hiện. Chính là phần
trách nhiệm thâm sâu nhất của chúng ta, đặc biệt với tư cách người Công giáo,
là giúp đẩy tới chỗ hoàn tất” (Jahrbuch: 34). Do đó, toàn thể Giáo Hội trở
thành, như Công đồng Vatican II ghi nhận, corpus ecclesiarum (LG: 23), tổng hợp các Giáo Hội, thân
mình liên kết các Giáo Hội địa phương.
Giáo Hội công giáo là
một sự hiệp thông của những Giáo Hội địa phương; Giáo Hội công giáo được xây
dựng trên “nguyên tắc của sự hiệp thông như Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã
ghi nhận trong sứ điệp gửi các tín hữu Trung Hoa từ
Các chữ viết tắt tên các văn kiện được nói đến trong bài:
ACMC - Hội thảo Á châu về các thừa tác vụ trong Giáo Hội (Asian
Colloquium on Ministries in the Church (
EA – Ecclesia in Asia (Giáo Hội tại châu Á, 6/11/1999)
LHĐGMAC /
FABC: Liên
Hội đồng Giám mục Á châu
LHĐGMAC /
FABC I: Rao
giảng Tin Mừng ở châu Á thời hiện đại / Evangelization in Modern Day Asia (Đài
Bắc, Đài Loan, 1974) trong: FAPA I: 11-25
LHĐGMAC /
FABC II – Cầu
nguyện – Đời sống của Giáo Hội tại châu Á / Prayer – The life of the Church in
Asia (Calcutta, Ấn Độ, 1978) in: FAPA I: 27-48
LHĐGMAC /
FABC III -Giáo
Hội – Một cộng đồng đức tin tại châu Á (Bangkok, Thái Lan, 1982) in FAPA I:
49-65
LHĐGMAC /
FABC IV – Ơn
gọi và Sự vụ của Giáo dân trong Giáo Hội và trong thế giới châu Á (Tokyo, Nhật
bản, 1984) in: FAPA I: 177-198
LHĐGMAC /
FABC V FAPA – Cùng
tiến tới Thiên niên kỷ thứ Ba (Bandung, Inđônêsia, 1990 trong FAPA I: 273-289
LHĐGMAC /
FABC VI FAPA – Cộng
đoàn các môn đệ Kitô giáo tại châu Á Ngày nay: Phục vụ sự sống (Manila,
Philippines, 1995) trong: FAPA II: 1-12
LHĐGMAC /
FABC VII FAPA –Một
Giáo Hội được đổi mới tại châu Á: Một Sứ vụ Yêu thương và Phục vụ (Samphran,
Thái Lan, 2000) trong: FAPA III: 1-16
FAPA – For All the Peoples of
Asia I (1970-1991);
II (1992-1996); III (1997-2001)
GS – Gaudium et Spes
IMC – International Mission Congress
(Manila, Philippines, 1997) trong: FAPA I: 125-163
LG – Lumen Gentium
OR-EE – L’Osservatore Romano (bản tiếng Anh)
TAC – Ủy ban Tư vấn Thần học thuộc LHĐGMAC
TLC - Theses on the Local Church / Các
Luận đề về Giáo Hội địa phương (FABC Papers 60: 1-58)
_______________________
Tác giả James H. Kroeger (M.M.), Trường Thần học Loyola,