Công Cuộc Loan Báo Tin
Mừng Mới
Xây dựng nền văn
minh tình thương
Joseph
Cardinal Ratzinger on the New Evangelization
Cuộc sống con người tự nó không thể nhận thấy
được. Cuộc sống của chúng ta là một câu hỏi mở, một đề án chưa cho kết quả, vẫn
được hoàn chỉnh và nhận ra. Câu hỏi cơ bản của mỗi con người là : Làm sao nó có
thể nhận ra được—trở thành người? làm sao con người học được nghệ thuật sống?
Đâu là con đường dẫn tới hạnh phúc ?
Loan báo Tin Mừng nghĩa là chỉ cho thấy con
đường đó—dậy cho biết nghệ thuật sống. Khởi đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu
nói: Ta đến để loan Tin Mừng cho người nghèo khó (Lc 4, 18); nghĩa là: Ta trả
lời cho câu hỏi cơ bản của con; Ta sẽ chỉ cho con con đường sống, con đường dẫn
tới hạnh phúc—hơn thế nữa: chính Ta là con đường đó.
Sự nghèo khó sâu thẳm nhất đó là không có niềm
vui, sự ngán ngẫm cho một cuộc sống xem như ngớ ngẩn và đối nghịch. Ngày nay,
cái nghèo này đang lan tràn dưới nhiều hình thức khác nhau, trong sự giàu có
vật chất cũng như trong các nước nghèo. Sự mất khả năng vui vẻ hàm ý và sinh ra
mất khả năng yêu thương, ghen tương, kiêu căng—mọi khiếm khuyết đều tàn phá
cuộc sống cá nhân và thế giới.
Đó là lý do tại sao chúng ta cần một sự loan
báo Tin Mừng mới—nếu nghệ thuật sống vẫn chưa được biết đến, chẳng thể làm gì
được. Tuy nhiên, nghệ thuật này không phải là đối tượng của khoa học—nó chỉ có
thể truyền đạt được bằng Đấng có sự sống—Đấng đó chính là Tin Mừng được nhân
cách hoá.
I.
Cơ cấu và phương pháp
trong việc loan báo Tin Mừng mới
1. Cơ
cấu
Trước khi nói tới nội dung cơ bản của việc loan
báo Tin Mừng mới, tôi xin nói vài lời về cơ cấu và về phương cách đúng đắn.
Hội Thánh luôn luôn rao giảng và không bao giờ gián
đoạn con đường rao giảng Tin Mừng. Giáo Hội cử hành Mầu NhiệmThánh Thể mỗi
ngày, ban các bí tích, công bố Lời Hằng Sống—Lời Thiên Chúa, và dấn thân cho chính
nghĩa của công bình và bác ái. Và việc loan báo Tin Mừng này sinh hoa kết quả:
nó mang lại ánh sáng và nguồn vui, nó cho nhiều người con đường sống ; nhiều
người khác, thường thì không nhận ra, sống cái ánh sáng và hơi ấm chiếu tỏa từ
việc rao giảng trường tồn này.
Tuy nhiên, chúng ta có thể nhìn thấy diễn tiến
của phản Kitô hoá và sự đánh mất nhân bản cốt yếu rất đáng lo ngại. Đa số con người ngày nay
không tìm được Tin Mừng trong việc rao giảng thường xuyên này của Giáo Hội: Có
nghĩa là sự trả lời có tính thuyết phục cho câu hòi: phải sống thế nào ?
Đây là lý do tại sao chúng ta, cùng với việc
rao giảng không bị gián đoạn và vĩnh cửu, đi tìm một sự rao giảng mới, có khả
năng làm cho thế giới đón nghe mà không đi vào việc rao giảng cổ xưa. Mọi người
cần Tin Mừng; Tin Mừng được dành cho tất cả và không chỉ dành cho một nhóm đặc
biệt nào và đó là lý do tại sao chúng ta buộc phải đi tìm những phương cách mới
để mang Tin Mừng cho tất cả mọi người.
Thế nhưng một cám dỗ khác ẩn dấu dưới điều
này—cám dỗ bất nhẫn, cám dỗ đi tìm thành công tức thời, tìm số đông. Nhưng đây
không phải là đường lối của Thiên Chúa. Vì đối với Nước Thiên Chúa cũng như
việc rao giảng Nước Thiên Chúa, thì khí cụ và phương tiện, dụ ngôn hạt cải luôn
luôn có giá trị (Mc 4, 31-32).
Nước Thiên Chúa luôn luôn bắt đầu dưới dấu chỉ
này. Việc loan báo Tin Mừng mới không có nghĩa: dùng những phương cách mới và
tinh tế hơn để lôi cuốn đại trà tức thời nhưng lại sống xa lìa Giáo Hội.
Không—đây không phải là điều việc rao giảng mới hứa hẹn. Sự rao giảng mới có
nghĩa: không bao giờ hài lòng với sự việc: từ hạt cải, một cây cổ thụ của Hội
Thánh hoàn vũ mọc lên; không bao giờ cho là đủ về sự kiện nhiều loại chim có
thể đến tìm chỗ nơi cành cây—hơn thế nữa, nó có nghĩa là, một lần nữa và với sự
nhỏ bé của hạt cải dám, phó thác hết cho Chúa về sự việc khi nào và
thế nào hạt giống sẽ mọc lên (Mc 4,26-29).
Những việc lớn lao luôn khởi đầu từ một hạt
nhỏ, và phong trào đại trà thì luôn luôn nhất thời. Trong viễn ảnh về quá trình
tiến hoá, Teilhard de Chardin đề cập đến “white of the origines” (le blanc des
origines): Cái khởi đầu của một loài mới thì luôn luôn vô hình và không thể khám
phá ra bằng nghiên cứu khoa học. Các tiềm năng được dấu ẩn—chúng quá nhỏ bé.
Nói các khác: Những thực tại lớn lao được khởi đầu trong sự khiêm tốn.
Chúng ta ta hãy để qua một bên nếu Teillard đúng
trong thuyết tiến hoá của ông; quy luật về nguồn gốc vô hình không nói lên sự
thật—sự thật hiện diện trong chính hành động của Thiên Chúa trong lịch sử: “Thiên
Chúa không quyến luyến và chọn ngươi vì ngưới đông dân hơn hết mọi dân khác, vì
ngươi ít hơn hết trong tất cả các dân. Nhưng chính là bởi vì Thiên Chúa đã yêu
thương ngươi.” Thiên chúa nói như vậy với dân Israel trong Cựu Ước do đó diễn
tả cái nghịch lý của lịch sử Cứu Độ: chắc chắn, Thiên Chúa không tính theo số
đông; quyền lực bên ngoài không phải là dấu chỉ của sự hiện diện.
Hầu hết các dụ ngôn của Chúa Giêsu nói đến cách
thế Thiên Chúa can thiệp và vì vậy trả lời cho những lo lắng của các môn đệ,
những người mong chờ loại thành công và dấu chỉ khác từ Đấng Mêssia—loại thành
công Satan hứa tặng cho Chúa: Tất cả những sự này—các vương quốc trần gian—tôi
sẽ dâng cho Ngài…(Mt 4,9).
Dĩ nhiên, vào cuối đời thánh Phaolô đã tin
tưởng rằng ngài đã rao giảng Tin Mừng khắp cùng trái đất, nhưng các Kitô hữu
chỉ là những cộng động nhỏ nhoi phân tán khắp mọi nơi, rất tầm thường theo tiêu
chuẩn thế tục. Trong thực tế, họ là men thẩm thấu trong các bữa ăn và mang
trong họ tương lai của thế giới (Mt 13, 33).
Châm ngôn nói rằng: “Thành công không phải là
một trong các tên của Thiên Chúa.” Công việc rao giảng mới phải chịu chi phối
của mầu nhiệm hạt cải không phải để phô trương, tin tưởng vào một sự phát triển mau chóng thành một cây
lớn. Chúng ta hoặc là quá sống trong sự an toàn của cây to sẵn có hoặc trong sự
nôn nóng cho một cây mang nhiều sức sống và vĩ đãi hơn—thay vì đó chúng ta phải
chấp nhận mầu nhiệm Giáo Hội vừa là một cây cao lớn, vừa là một hạt giống bé
nhỏ. Trong lịch sử cứu độ, ngày thứ Sáu Tuần Thánh và Phục Sinh luôn luôn
gắn liền với nhau…
2. Phương
pháp
Phương pháp đúng đắn rút từ cơ cấu của sự rao
giảng mới này. Dĩ nhiên chúng ta phải dùng đến những phương pháp hiện đại để
làm cho chúng ta được nghe bằng cách thức hợp lý—hoặc tốt hơn; cách thức làm
cho tiếng nói của Thiên Chúa có thể tiếp nhận và hiểu được….Chúng ta không đi
tìm sự lắng nghe cho chính chúng ta—chúng ta không muốn phát huy quyền lực và
sự mở mang định chế của chúng ta, nhưng chúng ta ước ao phục vụ điều tốt của
con người và nhân loại, dành chỗ cho Đấng là sự sống.
Sự chiếm đoạt cá vị một con người được dành cho
Đức Kitô vì phần rỗi con người là điều kiện cơ bản của một sự dấn thân thật sự
cho Tin Mừng. Chúa Giêsu nói : “Ta đến nhân danh Cha Ta và các ngươi không tiếp
nhận Ta; nếu một người nào đó đến nhân danh mình, các ngươi sẽ đón nhận nó (Ga
5,43). Dấu chứng của Phản Kitô là người
đó nhân danh mình mà nói.
Dấu chỉ của Chúa Con là hiệp thông với Chúa
Cha. Chúa Con giới thiệu chúng ta vào sự hiệp thông của Ba Ngôi, vào chu kỳ của
tình yêu bất diệt, mà các ngôi vị là “những tương quan trọn vẹn,” hành động
thuần nhất của sự dâng hiến và đón nhận. Chương trình của Ba Ngôi Thiên
Chúa—được nhìn thấy nơi Chúa Con, Đấng không nhân danh mình mà nói—đưa ra một
mẫu sống của một nhà truyền giáo đích thực—hơn thế nữa, truyền giáo không chỉ
là cách nói nhưng còn là một lối sống trong sự lắng nghe và dâng tiếng nói cho
Chúa Cha. Chúa Giêsu nói về Chúa Thánh Thần: “Người không tự mình nói điều gì,
nhưng tất cả những gì Người nghe Người sẽ nói lại” (Ga 16,13).
Hình thức loan báo Tin Mừng mang tính Kitô học
và Thánh Thần học này đồng thời cũng là một hình thức mang tính cánh chung:
Chúa Giêsu và Thánh Thần xây dựng Giáo Hội, hiệp thông qua Giáo Hội. Việc rao
giảng Đức Kitô, rao giảng Nước Trời giả thiết sự lắng nghe tiếng của Người qua
tiếng nói của Giáo Hội. “Không tự mình mà nói” có nghĩa là nói nhân danh sứ
mạng của Giáo Hội….
Nhiều kết quả thực tiễn phát xuất từ luật chiếm
hữu này. Tất cả các phương pháp hợp lý và có thể chấp nhận được về mặt luân lý
cần được nghiên cứu—sử dụng khả năng của truyền thông là một bổn phận. Nhưng
lời nói và nghệ thuật truyền thông không thể đến được con người ở một mức độ
sâu xa như Tin Mừng.
Cách đây một vài năm, tôi có đọc tiểu sử của
một linh mục rất tốt lành trong thế kỷ chúng ta, Cha Don Didimo, cha xứ Bassano
del Grappa. Trong bài viết của ngài, chúng ta có thể tìm thấy những lời vàng
ngọc, hoa quả của một đời sống cầu nguyện và chiêm niệm. Một thí dụ cho chúng
ta, Don Didimo nói: “Chúa Giêsu rao giảng ban ngày, ban đêm người cầu nguyện.”
Với chỉ một vài lời này, ngài muốn nói: Chúa
Giêsu đã thâu nhận các môn đệ từ Thiên
Chúa. Điều này luôn luôn đúng. Chúng ta không thể tự thu nạp người ta. Chúng ta
nhận được họ bởi Thiên Chúa và cho Thiên Chúa. Không có nền tảng cầu nguyện,
mọi phương pháp sẽ trở nên rỗng không. Lời của sự loan báo phải được chìm ngập
trong một đời sống cầu nguyện mãnh liệt.
Chúng ta phải đi thêm một bước nữa. Chúa Giêsu
giảng dạy ban ngày, ban đêm Người cầu nguyện—đây không phải là tất cả. Trọn
cuộc sống của Người là con đường đi tới thánh giá, tiến về Giêrusalem—như đã
được chứng minh bằng một phương cách rất tuyệt đẹp của Tin Mừng thánh Luca.
Chúa Giêsu không cứu chuộc con người bằng lời hay ý đẹp nhưng bằng đau khổ và
cái chết của Người. Cuộc thương khó của Người là nguồn sự sống bất tận cho thế
giới; cuộc thương khó của Người mang lại quyền năng cho Lời của Người.
Chính Chúa—nối dài và khuyếch đại dụ ngôn hạt
cải—thiết lập quy luật sinh hoa kết trái bằng những lời trong dụ ngôn hạt giống
phải chết đi và vùi trong lòng đất (Ga 12, 24). Cùng với mầu nhiệm của hạt cải,
luật này vẫn có giá trị cho đến tận cùng trái đất và là nền tảng cho việc rao
giảng Tin Mừng mới.
Điều này cũng rất dễ chứng minh trong lịch sử
Kitô giáo. Ở đây tôi chỉ muốn nhắc lại buổi ban đầu của công cuộc rao giảng
trong cuộc đời thánh Phaolô. Sự thành công trong sứ vụ của Ngài không phải là
kết quả của khoa hùng biện tuyệt vời hay sự khôn ngoan mục tử; hoa quả của ngài
được liên kết với đau khổ, với sự thông hiệp trong khổ nạn với Đức Kitô (1Cr,
2,1-5….2 Cr 11,30; Gal 4,12-14).
Chúa Giêsu nói: “Sẽ không cho một dấu lạ nào
ngoại trừ dấu lạ tiên tri Jona”. Phép lạ Jonah là Đức Kitô chịu đóng đinh--họ
là những chứng nhân hoàn tất “những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu”
(Col 1,24). Qua mọi thời trong lịch sử,
lời của Tertullian vẫn luôn luôn được chứng minh: Máu các thánh Tử Đạo là hạt
giống.
Thánh Augustinô cũng nói tương tự bằng một cách
tuyệt vời hơn, Ngài giải thích Phúc Âm thánh Gioan chương 21 về lời tiên báo
cái chết của thánh Phêrô và lệnh truyền chăn dắt, cũng có nghĩa là việc thiết lập chức vụ cai quản của Ngài,
được liên kết rất mật thiết với nhau.
Thánh Augustinô chú giải bản văn Gioan 21, 16
bằng cách sau đây: “Hãy chăn dắt chiên của Ta,” nghĩa là phải chịu khổ vì chiên
của Ta…. Người mẹ không thể nào sinh con mà không phải đau đớn. Mỗi một sự ra đời
đòi hỏi sự chịu đựng, cũng chính là sự chịu đựng, và trở thành Kitô hữu là sự
ra đời. Chúng ta hãy lặp lại điều này một lần nữa bằng lời của Chúa: Nước Trời phải
đương đầu với sức mạnh (Mt 11,12; Lc 16,16), nhưng sức mạnh của Thiên Chúa là
đau khổ, là thánh giá. Chúng ta không thể cho người khác sự sống mà không phải
từ bỏ chính mình.
Quá trình chiếm hữu được nói ở trên là hình
thức cụ thể (được diễn tả bằng nhiều cách khác nhau) của việc hiến dâng sự
sống. Và chúng ta hãy suy nghĩ lời của Đấng Cứu Thế : “Ai mất mạng sống mình vì
Ta và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được nó” (Mc 8,35).
II. Nội
dung chính yếu cho việc loan báo Tin Mừng mới
1. Hoán cải:
Đối với nội dung của việc Loan Báo Tin Mừng
mới, trên hết chúng ta phải luôn ghi nhớ sự không tách biệt giữa Cựu Ước và Tân
Ước. Nội dung cơ bản của Cựu Ước được tóm gọn trong sứ điệp của của thánh Gioan
Tẩy Giả: metanoeite—hoán cải! Không đến được với Chúa Giêsu nếu không được
thanh tẩy; không thể đến được với Chúa Giêsu nếu không đáp trả lời mới gọi của
vị Tiền Hô, hơn hữa, Chúa Giêsu mặc lấy sứ điệp của Gioan trong tổng hợp lời
giảng dạy của Người: anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng (Mc 1,15).
Từ hoán cải trong tiếng Hy lạp nghĩa là: nghĩ
lại—chất vấn mình và lối sống chung chung; để cho Chúa đi vào tiêu chuẩn của
cuộc sống mình; đừng chỉ đoán xét theo ý kiến đương thời. do đó, hoán cải có
nghĩa: không sống như những người khác sống, không làm những gì họ làm, không
cho là chính đáng trong hành động gian
ác, mơ hồ, không đáng tin bởi vì người khác đã làm như vậy; bắt đầu nhìn cuộc
sống của mình với con mắt của Thiên Chúa, để đi tìm điều thiện, ngay cả nếu nó mang
lại bất tiện; không nhắm đến việc xét đoán của đa số, của con người, nhưng nhắm
đến sự công chính của Thiên Chúa—nói cách khác: đi tìm một lối sống mới, một
cuộc sống mới.
Những điều này không ám chỉ đến vấn đề luân lý; giảm Kitô giáo xuống bình diện
luân lý sẽ đánh mất cái nhìn về tính chất cơ bản sứ điệp của Đức Kitô: ân huệ của
tình bằng hữu mới, ân huệ hiệp thông với Chúa Giêsu và do đó với Thiên Chúa.
Bất cứ ai trở về với Chúa Kitô không có nghĩa là sáng tạo tiêu chuẩn đạo đức
cho chính mình, không nhằm tạo điều tốt cho riêng mình bằng sức mạnh của mình.
“Hoán cải” (metanoia) nghĩa chính xác là đối
nghịch: ra khỏi cái cho mình là đủ để khám phá và chấp nhận nội tại của chúng
ta—cái nội tại của người khác và của một Đấng khác, sự tha thứ của Người, tình
huynh đệ. Một đời sống không hoán cải có
nghĩa là tự cho mình là đủ (tôi chẳng kém hơn người khác); hoán cải là khiêm
nhường trong sự ký thác bản thân mình vào tình yêu của Đấng khác, một tình yêu
trở nên thước đo và tiêu chuẩn của đời sống của tôi.
Ở đây chúng ta cũng phải nhập tâm khía cạnh xã
hội của sự hoán cải. Chắc chắn, hoán cải phải ở bên trên tất cả các hành động
cá nhân, nó là sự cá nhân hoá. Tôi tự tách mình ra khỏi công thức “sống như bao
người khác” (tôi không cảm thấy đúng lý nữa với sự kiện mọi người làm những gì
tôi làm) và tôi nhìn ra con người của tôi trước mặt Thiên Chúa, trách nhiệm cá
nhân của tôi.
Nhưng việc cá nhân hoá thật thì cũng luôn luôn
là sự xã hội hoá sâu sắc. Chính cái “tôi” mở ra với cái “anh” trong chính thâm sâu
của nó, và do đó một cái “chúng ta” mới được ra đời. Nếu nếp sống này lan toả
khắp thế giới cho thấy nguy hiểm của sự phi-cá nhân hoá, nguy hiểm của sự không
sống cuộc sống của mình nhưng cuộc sống của những người khác, lối sống “chúng
ta” mới của lộ trình Thiên Chúa phải dành cho được trong sự hoán cải.
Khi rao giảng về sư hoán cải chúng ta cũng phải
cống hiến một cộng đoàn sự sống, một khoảng không gian cho lối sống mới. Chúng
ta không thể chỉ rao giảng bằng lời nói;
Tin Mừng làm nên cuộc sống, làm nên những cộng đoàn thăng tiến. Một sự hoán cải
thuần cá nhân thì không có sự nhất quán…
2. Nước
Thiên Chúa
Việc kêu gọi hoán cải cũng mang ý nghĩa loan
báo Tin Mừng—như là điều kiện cốt yếu. Thiên Chúa trung tâm là nền tảng trong
sứ điệp của Chúa Giêsu và cũng phải là trọng tâm của công cuộc loan báo Tin
Mừng mới.
Từ chủ chốt của lời rao giảng của Chúa Giêsu
là: Nước Thiên Chúa. Nhưng Nước Thiên Chúa không phải là một sự vật, một cơ cấu
xã hội và chính trị, một điều viễn vông. Nước Thiên Chúa là chính Thiên Chúa.
Nước Thiên Chúa có nghĩa: Thiên Chúa hiện hữu. Thiên Chúa đang sống. Thiên Chúa
hiện diện và hoạt động trong thế giới, trong cuộc sống chúng ta—trong cuộc sống
tôi.
Thiên Chúa không phải là “nguyên nhân cứu cánh”
xa vời, Thiên Chúa không phải là kiến trúc sư vĩ đại của thuyết duy thần, Đấng
dựng nên guồng máy thế giới và không còn phải là một phần của nó nữa.—ngược
lại: Thiên Chúa là thực tại quyết định và hiện diện nhất trong mỗi và mọi hành
động của đời tôi, trong mỗi và mọi lúc của lịch sử.
Khi rời đại học Mũnster, trong một hội nghị,
nhà thần học J.B.Metz nói một vài điều bất ngờ cho ông—Trong quá khứ Metz dạy
chúng ta về thuyết nhân loại học trung tâm—sự kiện thật của Kitô giáo là bước
ngoặt mang tính nhân loại học, thế tục hoá, khám phá tính trần tục của thế
giới. Rồi ông ta dạy chúng ta về thần học chính trị--tính chất chính trị của
đức tin; rồi “ký ức nguy hiểm”; và cuối cùng thần học thuật chuyện.
Sau con đường dài và khó khăn này, ngày nay ông
lại nói với chúng ta: vấn đề thực của thời đại chúng ta là “Khủng hoảng của
Thiên Chúa”, sự vắng bóng Thiên Chúa, cải trang bằng một sự sùng đạo trống
rỗng. Thần học phải trở về với thần-học thực sự, nói về và với Thiên Chúa.
Metz rất đúng: chỉ một sự cần cho con người mà
thôi: đó là Thiên Chúa. Mọi sự đều thay đổi, cho dù Thiên Chúa hiện hữu hay
không. Chẳng may—chúng ta, Kitô hữu thường sống như không có Thiên Chúa (si
Deus non daretur). Chúng ta sống theo khẩu hiệu: Thiên Chúa không hiện hữu, và
nếu Người hiện hữu, Ngài không thuộc về chúng ta.
Vì thế, việc truyền giáo trước tiên phải nói về
Chúa, rao giảng một Thiên Chúa thật: Đấng tạo Hoá—Đấng Thánh Hoá—Vị Thẩm Phán
(xem Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo).
Ở đây chúng ta cũng phải để ý đến khía cạnh
thực hành. Thiên Chúa không chỉ được biết bằng lời nói. Người ta thực sự không
biết một con người nếu họ biết người này qua trung gian. Giảng về Thiên Chúa là
giới thiệu sự tương quan với Thiên Chúa: dạy cách cầu nguyện. Cầu nguyện là đức
tin trong hành động. Và chỉ có kinh nghiệm sống với Thiên Chúa mới làm chứng sự
hiện hữu của Người.
Đó là lý do tại sao các trường cầu nguyện, cộng
đồng cầu nguyện rất quan trọng. Có một sự hài hoà giữa cầu nguyện riêng (“trong
phòng riêng”, một mình trước Thiên Chúa), “ cầu nguyện chung ngoài phụng vụ
(việc tôn sùng phổ biến) và cầu nguyện trong phụng vụ. Phải, phụng vụ trên hết là cầu nguyện; tính chất đặc thù của
cầu nguyện bao gồm công việc chính yếu không phải là chúng ta (như trong cầu nguyện
riêng và việc sùng kính chung), nhưng là chính Thiên Chúa—phụng vụ là đọc và
suy niệm Lời Chúa, Thiên Chúa hành động và chúng ta đáp trả hành động của Thiên
Chúa.
Nói về Thiên Chúa và nói với Thiên Chúa phải
luôn luôn đi đôi với nhau. Rao giảng Thiên Chúa là sự hướng dẫn đến mối hiệp thông với Thiên Chúa trong quan hệ
thân mật, được Đức Kitô thiết lập và làm sống động. Đó là lý do tại sao phụng
vụ (các bí tích) không phải là chủ đề hàng thứ sau việc rao giảng Lời Chúa,
nhưng là việc nhận ra tương quan của chúng ta với Thiên Chúa.
Trong khi bàn đến vấn đề này, cho phép tôi có
một cái nhìn tổng quát về phụng vụ. Cách thức chúng ta cử hành phụng vụ thường
quá nặng về lý trí. Phụng vụ trở thành giảng dạy, mà tiêu chuẩn của nó là: làm
cho chúng ta được hiểu—thường kết quả của nó là làm cho mầu nhiệm trở thành cái
gì tầm thường, lời chúng ta được phổ biến, sự lặp đi lặp lại những câu văn
dường như có thể đón nghe được và làm hài lòng dân chúng.
Nhưng đây không phải chỉ là một sai lầm lý
thuyết mà còn là một sai lầm về tâm lý và mục vụ. Phong trào bí ẩn thuyết, sự
lan tràn của kỹ thuật giải trí và tự huỷ chứng minh sự thiếu sót một cái gì đó
trong phụng vụ. Chính trong thế giới ngày nay của chúng ta, mà chúng ta cần sự
thinh lặng, huyền nhiệm siêu cá nhân, vẻ
đẹp.
Phụng vụ không phải là sự can thiệp của linh
mục chủ sự hay một nhóm chuyên gia; phụng vụ (nghi lễ) diễn ra theo một quá
trình hữu cơ xuyên suốt hàng thế kỷ, nó mang lại hoa trái kinh nghiệm đức tin
của các thế hệ.
Ngay cả khi người tham dự không hiểu từng lời,
họ cũng cảm nhận được ý nghĩa sâu xa, sự hiện diện của mầu nhiệm, mà vượt xa những
lời. Người chủ sự không phải là trung tâm của cử hành phụng vụ; người chủ sự
không xuất hiện trước công chúng dân danh mình—người ấy không tự mình nói hoặc
nói cho mình, nhưng nhân danh Đức Kitô. Khả năng cá nhân của người chủ sự không
có gì hết, nhưng chỉ nhờ đức tin, nhờ đó Đức Kitô được nêu bật, “Người phải lớn
lên, còn tôi phải nhỏ lại” (Gioan 3,30).
3. Đức
Giêsu Kitô
Với sự suy niệm này, đề tài Thiên Chúa được phổ
biến và lãnh hội qua đề tài Đức Giêsu
Kitô: Chỉ trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô đề tài Thiên Chúa thực sự trở nên cụ
thể: Đức Kitô là Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở Cùng Chúng Ta—cụ thể hoá “ta là,”
lời đáp trả với Thần Thánh.
Ngày nay một sự cám dỗ rất lớn loại trừ Đức
Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Người chỉ là một Giêsu lịch sử, thuần tuý là một con người .
Người ta không cần từ chối thiên tính của Đức Giêsu, nhưng chỉ cần sử dụng một
vài phương pháp để lọc ra từ Kinh Thánh một Giêsu ở mức độ chúng ta, một Giêsu
có khả năng và có thể hiểu trong khuôn khổ của nghệ thuật chép sử của chúng ta.
Thế nhưng”Giêsu lịch sử” này là tác phẩm, hình
ảnh tác gỉa của nó chứ không phải là
hình ảnh của Thiên Chúa hằng sống (2Cr 4: 4tt; Col 1,15). Đức Kitô của niềm tin
không phải là một huyền thoại; Giêsu mà
được gọi là Giêusu lịch sử là một hình ảnh thần thoại, do các nhà diễn giải
nghĩ ra . Hai trăm năm lịch sử của
“Giêsu lịch sử” phản ảnh trung thực lịch sử của các triết lý, tư tuởng của thời
đại này.
Với giới hạn của hội nghị này, tôi không thể đi
vào nội dung của việc loan báo Đấng Cứu Thế. Tôi muốn đề cập vắn gọn hai khía
cạnh quan trọng.
Trước hết là việc bước theo Đức Kitô—Đức Kitô
hiến dâng chính mình như là đường của cuộc đời tôi. Theo Đức Kitô không có
nghĩa là bắt chước Giêsu lịch sử. Nỗ lực này nhất thiết sẽ vô ích—không đúng
niên đại lịch sử. Theo Đức Kitô có mục đích cao cả hơn: tháp nhập vào Đức Kitô,
nghĩa là kết hiệp với Thiên Chúa. Lời nói như vậy hẳn rất lạ tai đối với con
người thời đại. Nhưng chúng ta thực sự khát khao sự vô tận: sự tự do vô biên,
hạnh phúc không biên giới.
Toàn bộ lịch sử những cuộc cách mạng trong suốt
hai thập niên vừa qua có thể được giải thích theo cách này. Ma tuý chỉ có thể được
cắt nghĩa theo cách này. Con người không thỏa mãn với những giải đáp bên dưới
mức độ thần thánh hoá. Thế nhưng tất cả mọi con đường được ban tặng bởi “con
rắn” (St 3,5), nghĩa là bởi sự hiểu biết tầm thường, đều thất bại. Con đường
duy nhất đó là kiết hiệp với Đức Kitô, được nhận lãnh trong đời sống bí tích.
Theo Đức Kitô không phải là vấn đề đạo đức, nhưng là một đề tài “huyền
nhiệm”—một tổng thể hành động của Thiên Chúa và đáp trả của chúng ta.
Vì thế khi bàn đến đề tài bước theo, chúng ta
nhận ra sự có mặt của một trọng tâm khác của Kitô học, tôi muốn nói đến Mầu
Nhiệm Khổ Nạn—thập giá và sự phục sinh. Trong việc tái thiết “Giêsu lịch sử”,
thường đề tài thập giá rất vô nghĩa. Với một sự giải thích tầm thường, nó trở
thành một biến cố tự nó không thể tránh, không có giá trị thần học; với một sự
giải thích mang tính chất cách mạng, nó trở thành cái chết anh hùng của kể phiến
loạn.
Chân lý thì hoàn toàn khác biệt. Thánh giá
thuộc về mầu nhiệm Thiên Chúa—đó là một biểu lộ tình yêu của Người cho đến cùng
(Ga 13,2). Bước theo Đức Kitô là thông phần vào thập giá, tháp nhập vào tình
yêu của Người, vào sự biến đổi cuộc sống của chúng ta đó là sinh ra con người
mới, được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa. Bất cứ ai từ chối thập giá thì
cũng từ chối bản chất của Kitô giáo (xem 1Cr 2,2).
4. Sự
sống đời đời
Yếu tố cuối cùng của mọi công cuộc loan báo Tin
Mừng đích thực là sự sống đời đời. Ngày nay chúng ta phải tuyên xưng đức tin
của chúng ta với một sinh lực mới trong đời sống thường ngày. Ở đây, tôi muốn
đề cập đến một khía cạnh của việc rao giảng Đức Giêsu, mà ngày nay thường bị bỏ
qua: Loan báo Nước Thiên Chúa là loan báo Thiên Chúa hiện diện, Thiên Chúa biết
chúng ta, lắng nghe chúng ta; Thiên Chúa đi vào lịch sử để thực hiện công lý.
Vì thế, việc loan báo này cũng là việc loan báo công lý, laon báo trách nhiệm
của chúng ta.
Con người có thể không làm hoặc tránh không làm
những điều họ muốn. Họ sẽ bị phán xét. Họ phải tính sổ về những việc họ làm. Sự
xác tín này có giá trị cả cho người quyền thế cũng như người bé nhỏ. Nơi đâu
điều này được tôn trọng, ở đó nói lên được những giới hạn của quyền lực trong
thế giới. Thiên Chúa đem lại công bình, và chung cuộc chỉ mình Người có thể làm
được điều đó.
Càng sống dưới con mắt của Thiên Chúa, chúng ta
càng có thể làm điều đó tốt hơn và đem
chân lý của công lý đến cho thế giới. Vì
thế đề tài đức tin trong công lý, sức mạnh của nó trong việc đào tạo lương tâm
là đề tài trọng tâm của Phúc Âm và là Tin Mừng đích thực. Nó được dành cho
những con người đau khổ do bất công của thế giới và cho những ai đi tìm công
lý.
Đây cũng là cách chúng ta có thể hiểu được sự
liên hệ giữa Nước Trời và những “người nghèo”, người đau khổ và tất cả những người được nhắc đến ở Bát Phúc
trong bài giảng trên núi. Họ được che chở bới sự chắc chắn của phán xét, bởi sự
xác tín rằng có công lý.
Đây là nội dung đích thật của đề tài về công
lý, về Thiên Chúa là vị Thẩm Phán: công lý hiện hữu. Những bất công của thế
giới không khải là lời nói cuối cùng của lịch sử. công lý hiện hữu. Chí những
ai không muốn có công lý mới có thể phản đối chân lý này.
Nếu chúng ta suy xét kỹ lưỡng việc phán xét và
tầm quan trọng của trách nhiệm của chúng ta đối với việc này, chúng ta có thể
hiểu một cách rõ ràng khía cạnh khác của việc loan báo này, đó là sự cứu chuộc,
mà Đức Giêsu, qua thập giá, mang lấy tội lỗi của chúng ta; Chính Thiên Chúa,
trong cuộc khổ nạn của Con của Người, đã trở nên Đấng bào chữa cho chúng ta là
những tội nhân, và vì vậy có thể đền bù tội lỗi cho chúng ta, niềm hy vọng cho
những tội nhân biết thống hối, hy vọng được diễn tả bằng một cách rất tuyệt đẹp
qua lời của thánh Gioan: Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta sẽ an lòng về những gì
Người khiển trách chúng ta.
“Vì Thiên Chúa cao cả hơn lòng chúng ta, và
Người biết mọi sự” (1 Ga 3, 19tt). Lòng nhân lành của Thiên Chúa thì vô biên,
nhưng chúng ta không nên giảm lòng nhân lành này xuống thái độ uỷ mị màu mè
không chân thật. Chỉ bởi tin vào sự công phán của Thiên Chúa, chỉ bởi đói khát
công lý (Mt 5,6) chúng ta sẽ mở lòng chúng ta, cuộc sống chúng ta với lòng nhân
hậu của Thiên Chúa.
Điều này có thể nhận ra được: thật không đúng
rằng: tin vào sự sống đời đời làm cho cuộc sống trần gian này thành vô nghĩa.
Trái lại: chỉ khi chuẩn mực của cuộc sống chúng ta là đời đời, thì cuộc sống
này của chúng ta trên dương thế là cao cả và có giá trị vô biên. Thiên Chúa
không phải là đối thủ trong cuộc sống chúng ta, nhưng là người bảo đảm sự cao
cả của chúng ta. Với cách này chúng ta trở lại với điểm khởi đầu là Thiên Chúa.
Nếu chúng ta suy xét rất cẩn thận sứ điệp Kitô
giáo, chúng ta sẽ không nói đến hết thảy mọi sự. Thực ra, sứ điệp Kitô giáo rất
đơn giản: Chúng ta nói về Chúa và về con người, và với cách này chúng ta nói được
tất cả mọi sự.
Joseph Cardinal Ratzinger
Address to Catechists and Religion Teachers
Jubilee of Catechists, 12 December 2000
Chuyển
dịch :
Sr, Therese Tran, MTG-DL