Bài 7:
NỀN TẢNG TRUYỀN GIÁO TRONG TÂN ƯỚC
Thần
học truyền giáo của thánh Gioan
“Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” (Gioan
20, 21)
***
Thánh Gioan Tông đồ là
tác giả của 5 trong 27 “sách” Tân Ước: sách
Tin Mừng, 3 Thư và sách Khải Huyền.
Nhưng nếu ta muốn tìm nền tảng của sứ vụ truyền giáo thì có lẽ ta chỉ tìm được
trong sách Tin Mừng của ngài mà thôi. Ngoài sách Khải Huyền mà toàn bộ nội dung
đều nói về cuộc chiến “một mất một còn” giữa Thiên Chúa và ma quỷ vào thời cánh
chung, các Thư của thánh Gioan cách chung có mục đích bảo vệ Tin Mừng khỏi điều
mà tác giả coi là những lối giải thích không bảo đảm.
***
1. Ki-tô
học của Tin Mừng Gioan
Đức Giê-su, theo Tin
Mừng Gioan, được cắt nghĩa như là Mô-sê, như một người đã nhìn thấy Thiên Chúa
và mạc khải về Thiên Chúa (x. Xh 3, 1-15),
thay vì chỉ đơn giản như một Đấng Mê-si-a thuộc dòng tộc Đa-vít: Đức Giê-su là
Ngôi Lời, là “Con Người”, đã đến trần gian để mạc khải về Chúa Cha (x. Gioan 1, 1-18).
Ki-tô học này mang tính
phổ quát, là yếu tố nồng cốt để hiểu thần học truyền giáo của thánh Gioan. Cốt
lõi của Ki-tô học này là lời khẳng định rằng Đức Giê-su Ki-tô là Đấng mạc khải
độc nhất vô nhị về Thiên Chúa hằng sống (x.
Gioan 1, 18).
Thánh Gioan đã mở đầu
Tin Mừng bằng một Lời Tựa (Gioan 1, 1-18),
đặt ra viễn tượng chủ đạo cho phần còn lại của Tin Mừng. Đây là một bài ca Ngôi
Lời; nó diễn tả xuất xứ, mục đích và các chiều kích hoàn vũ của sứ mạng của Đức
Giê-su phát xuất từ Cha.
Người là Ngôi Lời vốn ở
với Thiên Chúa từ nguyên thủy, và vì thế gắn bó với Thiên Chúa mật thiết đến
nỗi Ngôi Lời cũng chính là Thiên Chúa (x.
Gioan 1, 1). Ngôi Lời bắt đầu xâm nhập vào cảnh giới loài người. Nhờ Người
và trong Người, mọi loài được dựng nên và tìm được “sự sống” và “ánh sáng”
trong Người (x. Gioan 1. 3-5). Ngôi
Lời xâm nhập cả vào “thế gian”, sân khấu lịch sử của loài người và cũng được
dựng nên trong Người và nhờ Người, và những ai trong thế gian này chấp nhận
Người thì đều tìm được thân phận đích thực của mình trong Người (x. Gioan 1, 10-13). Sau cùng, ngôi Lời
này cũng cư ngụ thực sự trong cảnh giới loài người vì đã trở thành “người phàm”
và sống giữa loài người (Gioan 1, 14).
Như vậy, ngay từ đầu,
bức tranh của Gioan mang chiều kích phổ quát và hoàn vũ. Mặc dù tiêu điểm có
tính đặc thù và lịch sử – Đức Giê-su trần thế được loan báo bởi Gioan Tẩy giả
và cộng đoàn của các tín hữu Ki-tô – nhưng tất cả các đề tài đều có tính phổ
quát: nguồn gốc và ý nghĩa của tạo dựng, sự đạt tới đời sống đích thực, cuộc
tìm kiếm Thiên Chúa. Đây là yếu tố chung của mọi hệ thống tôn giáo.
Trong Tin Mừng Gioan,
tước hiệu “Con Người” mà Đức Giê-su
dùng để chỉ về mình, nói lên nguồn gốc bí ẩn của Đức Giê-su, việc Người xuống
thế gian để mạc khải Thiên Chúa, và việc hoàn tất sứ mạng mạc khải tình thương
cứu độ của Thiên Chúa cho thế gian khi Con Người được giương cao trên thập giá.
Một điều lý thú khác
trong Ki-tô học mạc khải của thánh Gioan là cụm từ “Tôi là”: Đức Giê-su trong Tin Mừng Gioan dùng tên gọi của Thiên
Chúa đã được mạc khải cho Mô-sê (x. Xh 3,
13-15) để nói về chính mình: “Tôi là
bánh trường sinh” (Gioan 6, 35),
“Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”
(Gioan 6, 51), “Tôi là ánh sáng thế gian” (Gioan
8, 12; 9, 5)... Bằng việc nối kết tên gọi của Thiên Chúa với các vị ngữ
“bánh”, “ánh sáng”..., thánh Gioan ngụ ý rằng nơi Đức Giê-su, sự hiện diện của
Thiên Chúa và cuộc tìm kiếm Thiên Chúa của loài người gặp nhau, vì sứ mạng của
Đức Giê-su là làm cho mọi người nhận biết Thiên Chúa.
Vì Ki-tô học của Gioan
mang tích chất truyền giáo nội tại – nghĩa là mạc khải Thiên Chúa cho thế giới
– nên ngài cũng dùng danh hiệu “Đấng được sai đến” để chỉ về Đức Giê-su (x. Gioan 6, 38-39.44). Vì Thiên Chúa là
Đấng “sai” Đức Giê-su đi làm sứ mạng cứu độ thế gian, nên những ai chấp nhận và
tin vào Con của Thiên Chúa thì đến được với Thiên Chúa.
Ta thấy Gioan vẽ lại
toàn thể lịch sử của Đức Giê-su như là một sứ mạng hoàn vũ. Truyền thống Nhất
Lãm sử dụng biểu tượng Do-thái với các ẩn dụ “Nước Thiên Chúa” hay “Triều đại
Thiên Chúa” để nói về sứ mạng của Đức Giê-su. Nhưng thánh Gioan đã loại bỏ các
ranh giới lịch sử và dân tộc; bây giờ đấu trường không còn giới hạn vào
Ít-ra-en nữa: Đức Giê-su của thánh Gioan xuất phát từ Thiên Chúa và bước vào
toàn thể thế giới, vào “vũ trụ”. Sứ mạng của Người không chỉ là hoàn thành niềm
hy vọng của It-ra-en về triều đại Thiên Chúa, nhưng là mạc khải cho toàn thể
loài người khuôn mặt của Thiên Chúa mà chưa ai từng thấy bao giờ (x. Gioan 1, 18). Như thế, thật chí lý
để tung hô Người trên bình diện phổ quát này là “Đấng Cứu độ trần gian” (x.
Gioan 4, 42), là “ánh sáng thế gian”
(x. Gioan 8, 12), là “Đấng xóa bỏ tội trần gian” (x. Gioan 1, 29), là “bánh... để cho thế gian được sống” (x. Gioan 6, 51).
Mặc dầu thánh Gioan vẫn
giữ lại sợi dây liên kết với lịch sử trần thế của Đức Giê-su khi tường thuật
cuộc đời của Người giới hạn vào vùng Giu-đê, Ga-li-lê... nhưng ngài vẫn luôn
luôn mô tả một cách nhất quán ý nghĩa con người và sứ mạng của Đức Giê-su trên
bình diện phổ quát.
2. Vai
trò của Chúa Thánh Thần trong thần học truyền giáo của thánh Gioan
Tin Mừng Gioan dành cho
Chúa Thánh Thần một vai trò quan trọng trong đời sống cộng đoàn, và cũng như
trong Phao-lô và Lu-ca, Chúa Thánh Thần là nhân tố quyết định cho việc truyền
giáo.
Thần học về Thánh Thần
của thánh Gioan được thấy trong bài diễn từ cuối cùng của Đức Giê-su ở các chương
14-16, ở đó tác giả sử dụng thuật ngữ “Đấng
Bảo Trợ” và tập trung vào vai trò
của Thánh Thần trong cộng đoàn. Tự bản chất của nó, bài diễn từ này tập trung
vào đời sống cộng đoàn vào thời kỳ sau Phục Sinh. Diễn từ này là một “lời từ
biệt”, nói về việc sắp sửa ra đi của Đức Giê-su và các hậu quả của sự ra đi này
đối với đời sống của cộng đoàn trên thế gian. Thuật ngữ “Đấng Bảo trợ” có thể
có những nghĩa rộng như là “người biện hộ”, “người trung gian”, “người an ủi”
hay “người khích lệ”. Dựa trên ý nghĩa của từ này trong các chương 14-16, chúng
ta thấy rằng khi Đức Giê-su đi rồi, thì Đấng Bảo Trợ sẽ duy trì cùng một mối
quan hệ ban sự sống mà các môn đệ đã được hưởng khi Người đang còn thi hành sứ
vụ ở trần gian. Thánh Thần do Chúa Cha sai đến sẽ làm cho cộng đoàn những gì mà
Đức Giê-su đã làm cho các môn đệ của Người. Như thế, Đấng Bảo Trợ sẽ “ở” với cộng đoàn (x. Gioan 14, 16), “dạy bảo”
(x. Gioan 14, 26), “hướng dẫn”, mạc khải ý của Chúa Cha cho
cộng đoàn (x. Gioan 16, 13) và cùng
với cộng đoàn đi vào cuộc đối đầu với thế gian (x. Gioan 16, 8-11).
Nhưng còn hơn thế nữa,
sự hiện diện của Chúa Thánh Thần ở giữa cộng đoàn sau Phục Sinh trở nên vô cùng
phong phú khiến tình trạng của cộng đoàn còn tốt hơn tình trạng của chính các
môn đệ của Đức Giê-su. Trong lần hiện ra đầu tiên của Đức Giê-su phục sinh (x. Gioan chương 20), việc Người sai các
môn đệ (“Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng
sai anh em” – Gioan 20, 21) ngay lập tức được chuẩn nhận bằng sự tuôn đổ
Thần Khí trên các ông (“Nói xong, Người
thổi hơi trên các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” – Gioan 20, 22).
Thánh Thần-Bảo Trợ làm cho Đức Giê-su hiện diện hơn, dễ hiểu hơn, tạo sự biến
đổi hơn.
3. Cộng
đoàn và việc truyền giáo
Các môn đệ của Đức
Giê-su và Hội Thánh – hay cộng đoàn – được Người thiết lập, được sai vào giữa
thế gian như chính Đức Giê-su được Chúa Cha sai vào thế gian.
Ngay trong Lời Tựa (Gioan 1, 1-18), chúng ta đã thấy chủ đề
này: Ngôi Lời đi vào “thế gian”, để làm “sự sống” và “ánh sáng” cho loài người,
ban cho họ quyền làm “con Thiên Chúa”, làm cho họ biết Thiên Chúa.
Nhiều đoạn văn nồng cốt
trong Tin Mừng Gioan nói lên sứ mạng của Đức Giê-su, Đấng được Chúa Cha sai đến
trong thế gian. Như đoạn Gioan 3, 16-17: “Thiên
Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì
khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người
đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người
mà được cứu độ.” Hay như đoạn Gioan
6, 38-40: “... tôi từ trời mà xuống không
phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi. Mà ý của Đấng đã
sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai,
nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả
những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ
cho họ sống lại trong ngày sau hết.”
Các đoạn văn trên đây
là những đoạn văn tối quan trọng để hiểu Đức Giê-su “được sai đi” như thế nào,
hay nói cách khác, để xác định sứ mạng của cộng đoàn có nền tảng và khuôn mẫu
là sứ mạng nào.
Nhưng thế gian, nơi mà
Đức Giê-su được Chúa Cha sai đến, và cũng là nơi mà cộng đoàn được sai đến do
chính Đức Giê-su phục sinh, bị đánh gia tiêu cực trong Tin Mừng Gioan – “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối (thế
gian), và bóng tối đã không diệt được ánh
sáng” (Gioan 1, 5); “Người (Ngôi
Lời) ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ
Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người” (Gioan 1, 10). Đó là vì thế
gian trong Tin Mừng Gioan là một ẩn dụ về chính nhân loại; nó là đấu trường
trong đó diễn ra đời sống con người và các mối tương tác. Con người được tự do
chấp nhận hay từ chối Lời; họ có thể mở ra với ánh sáng hay thích bị che phủ
bởi bóng tối (x. Gioan 3, 19-20). Tuy
nhiên, sự đánh giá tích cực hay tiêu cực về thế gian trong Tin Mừng Gioan không
xuất phát từ một suy tư siêu hình của thánh nhân về sự tốt lành hay sự xấu xa
nội tại trong trật tự của thụ tạo. Thánh Gioan nói theo cách hiện sinh, hay đúng hơn, ngài dựa trên
hậu quả của việc truyền giáo của cộng đoàn. Cũng như sứ mạng của Đức Giê-su đã
có những kết quả hỗn hợp - một số người tìm được sự sống nơi Người, trong khi
một số khác từ chối Người, thậm chí tiêu diệt Người – thì việc truyền giáo của
Hội Thánh, ban đầu cho Ít-ra-en, rồi sau cho Dân Ngoại, cũng có kinh nghiệm cay
đắng của sự từ chối và xa lánh.
Từ nhận định trên đây
về thế gian, chúng ta hiểu được chân dung người môn đệ theo Tin Mừng Gioan.
Thay vì “được gọi” như trong các Tin Mừng Nhất Lãm, các môn đệ trong Tin Mừng
Gioan được thu hút bởi lực hấp dẫn của Đức Giê-su và dần dần họ đào sâu hiểu
biết về Người. Họ phải có một đức tin mạnh mẽ và sâu xa vào Đức Giê-su và vào
Lời của Người. Một đức tin kém mãnh liệt và kém sâu xa thì không đủ: chúng ta
hãy nhớ lại việc một số môn đệ đã bỏ đi vì Đức Giê-su tuyên bố Người là “bánh
từ trời.” (Gioan 6, 34-35.48-58.66-69).
Nhưng một niềm tin như thế vẫn chưa phải là chiều kích duy nhất của đời sống
người môn đệ theo Tin Mừng Gioan. Hợp với toàn thể Tân Ước, thánh Gioan thấy
được tình yêu và phục vụ là những dấu
chỉ của niềm tin đích thực. Người môn đệ mà thực sự tin Đức Giê-su, là bạn
nghĩa thiết của Đức Giê-su và ở trong Người, thì được chia sẻ chính chất lượng
của sự kết hợp Cha và Con (x. Gioan 15,
10; 17, 21.23.26). Vì vậy các môn đệ cũng phải tỏ lộ lòng mến đối với nhau (x. Gioan 13, 12-15.34-35; 15, 12-17).
Đức tin và đức mến là nền tảng đời
sống Ki-tô giáo, nó xác định bản chất của môn đệ là những người đi theo Đức
Giê-su.
Sau cùng, người môn đệ
hay cộng đoàn Hội Thánh không được quên lời cảnh báo của Đức Giê-su về sự thù
nghịch của thế gian. Theo gương sứ mạng của Đức Giê-su và được Đấng Bảo Trợ
tăng sức, người môn đệ không được để cho thế gian quyến rũ. Thế gian ghét họ (x. Gioan 17, 14) bởi vì các môn đệ
không thuộc về thế gian là kẻ thù nghịch với Lời. Nhưng môn đệ vẫn phải ở lại
trong thế gian (x. Gioan 17, 15) vì
họ chia sẻ sứ mạng cứu độ của Đức Giê-su (x.
Gioan 17, 18-21).
Tóm lại, chủ đề sai đi trong Tin Mừng Gioan gồm bốn sứ
mạng: Gioan Tẩy Giả được Thiên Chúa sai đi để “làm chứng về ánh sáng” (x. Gioan 1, 6-9); Đức Giê-su được Chúa
Cha sai đi để làm chúng về Cha và làm công việc của Cha (x. Gioan 4, 34); Đấng Bảo Trợ được cả Chua Cha và Chúa Con sai đi
để làm chứng về Đức Giê-su; và sau cùng các môn đệ được Đức Giê-su sai đi để
làm như Người đã làm. Tất cả bốn sứ mạng đều xoay quanh Đức Giê-su nhưng không
chấm dứt ở nơi Đức Giê-su mà còn liên quan đến một sự tìm kiếm sâu xa hơn, đó
là khuôn mặt của Chúa Cha, Đấng không được sai đi, vì Người chính là nguồn gốc
và mục tiêu của mọi chứng tá của Tin Mừng.
***
Kết luận
Tuy có những điểm khác
biệt, nhưng Tin Mừng Gioan vẫn chứa một viễn tượng phổ quát và một hướng truyền
giáo như các Tin Mừng khác.
Tin Mừng thứ tư có tính phổ quát vì nó đồng hành với loài
người trong cuộc tìm kiếm Thiên Chúa. Niềm khao khát sự thật, sự sống, đường
đi, ánh sáng, là một trong rất nhiều biểu tượng của Tin Mừng thực sự giàu ý
nghĩa trong việc diễn tả cuộc tìm kiếm phổ quát của con người về Đấng siêu
việt.
Hướng đi của Tin Mừng
thứ tư là truyền giáo vì lời cuối
cùng của nó với cộng đoàn cho rằng các môn đệ đích thực của Đức Giê-su là những
người được sai đi như chính Người đã
được sai đi để đến với thế giới, để đem sự sống cho thế giới. Mặc dù ngôn ngữ
của thánh Gioan mang tính nhị nguyên khi
nói về vực thẳm ngăn cách giữa tin và không tin, giữa thế gian mở ra với ánh
sáng hay thích chấp nhận bóng tối, và mặc dầu có lời cảnh báo cho cộng đoàn
phải cảnh giác trước những giá trị sai lạc của thế gian, nhưng Tin Mừng Gioan
không kêu gọi rút lui khỏi thế gian, trái lại kêu gọi dấn thân vào thế gian.
Đã có nhà nghiên cứu
đánh gía cộng đoàn của thánh Gioan như là “phe phái” và Tin Mừng Gioan là một
tài liệu “nội bộ” được viết cho các tín hữu chứ không phải cho người ngoài. Nếu
hiểu theo nghĩa ấy thì chẳng có sách Tin Mừng nào là “truyền giáo” cả. Chúng ta
không có sách Tân Ước nào dược viết ra để thuyết phục những người không tin.
Ngược lại Tin Mừng được viết ra như là một
bản tuyên ngôn, một phát biểu đức tin cho
một cộng đoàn tín hữu. Thánh Gioan viết Tin Mừng nhằm làm sinh động đức tin của
các tín hữu của ngài vào Đức Giê-su (x. Gioan 20, 31). Tuy vậy, thánh sử đã
diễn tả các lời khuyên của ngài bằng những phạm trù và ngôn ngữ có tiềm năng
vượt qua hố ngăn cách giữa cộng đoàn của ngài và thế gian.
Còn về 3 Thư của thánh Gioan – chúng có diễn tả
cùng tinh thần truyền giáo như Tin Mừng Gioan hay không - thì vẫn còn nhiều
tranh cãi. Có nhà nghiên cứu phát biểu rằng: “Tin Mừng Gioan phản ánh mối giao tiếp của cộng đoàn với người ngoài,
còn các thư quan tâm tới người trong cộng đoàn”. Điều chúng ta có thể kết
luận được là, giống như một số sách khác của Tân Ước, các Thư Gioan cung cấp
cho chúng ta rất ít dữ kiện liên quan đến vấn đề truyền giáo. Ki-tô học của các
Thư này vẫn giữ chiều kích phổ quát, nhưng các vấn đề mà chúng phải đối diện là
các vấn đề nội bộ của Hội Thánh.
Vì vậy, đối với thần học truyền giáo của thánh
Gioan, chúng ta phải căn cứ vào sách Tin Mừng, ở đó chúng ta được cung cấp một
nhãn giới đầy đủ về thông điệp Ki-tô giáo và ơn gọi của cộng đoàn đi loan báo
Tin Mừng cho thế giới.