Vatican Ban Hành Chỉ Nam Huấn
Giáo Mới Tập Trung Vào Việc Làm Chứng, Thương Xót Và Đối Thoại Trong Kỷ Nguyên
Số
Việc xuất
bản Chỉ nam Huấn giáo là một sự kiện vui mừng
trong sinh hoạt của Giáo hội. Đối với những người hết lòng cho nhiệm vụ to
lớn của huấn giáo, việc này có thể được coi như là một thách thức tích cực vì
nó khiến họ đánh giá cao bản chất năng động của hoạt động giáo lý, vốn luôn có
sự hiện diện đáng kể trong đời sống của cộng đồng Kitô giáo. Chỉ nam huấn
giáo là một tài liệu của Tòa thánh và được ủy thác cho toàn thể Giáo hội. Phải
mất nhiều thời gian và công việc để chuẩn bị cho tài liệu này, và ấn phẩm được
ban hành sau khi tham khảo ý kiến quốc tế rộng
rãi. Hôm nay chúng tôi giới thiệu phiên bản tiếng Ý.
Tuy
nhiên, bản dịch đã sẵn sàng bằng tiếng Tây Ban Nha (phiên bản riêng cho Châu Mỹ
Latinh và Tây Ban Nha), tiếng Bồ Đào Nha (phiên bản riêng phát hành ở Brazil và
Bồ Đào Nha), tiếng Anh (phiên bản riêng phát hành ở Hoa Kỳ và Vương quốc Anh),
tiếng Pháp, tiếng Đức và tiếng Ba Lan. Chỉ nam huấn giáo trước tiên
nhắm đến các Giám Mục, là các giáo lý viên đầu tiên trong Dân Chúa vì trách nhiệm
chính của họ là chuyển giao đức tin (tham khảo số 114). Trách nhiệm đối với
huấn giáo cũng mở rộng cho các Hội đồng Giám mục và nói riêng với các Ủy ban
Giáo lý của họ, góp phần soạn thảo một dự án quốc gia đầy hy vọng nhằm hỗ trợ
công việc của các giáo phận riêng lẻ trong lĩnh vực này (tham khảo số
413). Tuy nhiên, những người trực tiếp nhất trong việc sử dụng Chỉ
nam huấn giáo, vẫn là các linh mục, phó tế, những người tận hiến và hàng triệu
giáo lý viên giáo dân nam và nữ, với lòng quảng đại, chăm chỉ và hy vọng, sẽ trao
ban sứ vụ hàng ngày của họ trong các cộng đồng khác nhau. Sự cống hiến, mà
cùng với nó họ dốc sức làm việc, đặc biệt là trong thời kỳ chuyển giao văn hóa
như hiện tại, là dấu hiệu hữu hình về cung cách gặp gỡ với Chúa có thể biến một
giáo lý viên thành một nhà truyền giáo đích thực.
Hôm
nay, những gì chúng tôi đang trình bày về cơ bản là Chỉ nam huấn giáo thứ
ba kể từ Công đồng Vatican II. Chỉ nam đầu tiên là vào năm
1971, Chỉ nam huấn giáo Tổng quát, và Chỉ nam thứ hai là vào năm
1997, Chỉ nam tổng quát về huấn giáo, đã để lại dấu ấn của chúng suốt năm
mươi năm qua trong lịch sử huấn giáo. Những văn bản này không chỉ có một vai
trò chính, mà chúng còn là công cụ giúp cho huấn giáo thăng tiến, nhất là bằng
cách đổi mới phương pháp của nó và tính đến các cân nhắc sư phạm. Nhu cầu
về một Chỉ nam mới được sinh ra từ quá trình hội nhập văn hóa, đem lại cho huấn
giáo nét đặc trưng theo một cách riêng biệt và đặc biệt là ngày nay, đòi hỏi một
trọng tâm đặc biệt.
Ngày
nay, Giáo hội đang phải đối mặt với một thách thức lớn dưới hình thức văn
hóa kỹ thuật số. Việc tập trung vào một hiện tượng tự coi mình là có
tính toàn cầu đòi hỏi những người có trách nhiệm với công việc đào luyện không được
thoái thác. Trái ngược với quá khứ, khi mà văn hóa vẫn còn bị giới hạn
trong bối cảnh địa lý, văn hóa kỹ thuật số bị cuốn vào quá trình toàn cầu hóa
đang diễn ra và thậm chí quyết định sự phát triển của quá trình đó. Các
công cụ được tạo ra trong thập kỷ vừa qua cho thấy một sự biến đổi căn bản của
các lối ứng xử có ảnh hưởng lên tất cả sự hình thành căn tính cá nhân và các mối
quan hệ liên nhân vị. Tốc độ thay đổi ngôn ngữ, và cùng với nó, các mối
quan hệ ứng xử, cho phép chúng ta nhìn thoáng qua một mô hình giao tiếp và đào
luyện mới, chắc chắn cũng ảnh hưởng đến Giáo hội trong giới giáo dục phức tạp. Những
biểu hiện khác nhau của sự hiện diện của Giáo hội trong thế giới internet rộng
lớn chắc chắn là một thực tế tích cực, nhưng văn hóa kỹ thuật số còn tiến
xa hơn nhiều. Nó đi đến tận gốc rễ của vấn nạn liên quan đến con người có
tính quyết định trong mọi bối cảnh đào luyện và không thể không quan tâm đến chân
lý và tự do. Chỉ một mình việc đặt ra vấn đề này đã đòi hỏi phải xác minh
tính thỏa đáng của bất kỳ đề xuất đào luyện nào bất kể nguồn gốc của
nó. Tuy nhiên, đối với Giáo hội, việc xác minh này đặc biệt là cần thiết khi
cân nhắc "thẩm quyền" của Giáo Hội đối với nhân loại và yêu sách của Giáo
Hội đối với chân lý.
Tiền đề
này có lẽ, tự nó, là đủ để yêu cầu cần có một Chỉ nam mới cho huấn
giáo. Sẽ không quá lời khi nói rằng hai mươi năm trong thời đại kỹ thuật số
giống như một nửa thế kỷ trước khi thời đại đó bắt đầu. Như thế, nhu cầu cần
phải có một Chỉ nam xem xét một cách hiện thực sâu sắc những phát triển văn hóa
gần đây cũng cần ghi tâm khắc cốt những đòi hỏi của giáo lý. Vì lý do
này, Chỉ nam không chỉ đưa ra những vấn đề gắn liền với văn hóa kỹ
thuật số, mà còn gợi ý những con đường cần thực hiện để giáo lý trở thành một đề
nghị có thể hiểu được và đáp ứng được các yêu cầu của bối cảnh của mình.
Tuy
nhiên, việc đòi hỏi phải chuẩn bị Chỉ nam này có một lý do thần học
và giáo hội hơn. Sự nổi bật của chiều kích của Thượng hội đồng không thể
khiến chúng ta quên đi các Thượng hội đồng gần đây
trong Giáo hội. Năm 2005, Thượng hội đồng về Bí tích Thánh Thể: Nguồn
cội và Đỉnh cao của Sự sống và Sứ mệnh của Giáo hội; vào năm 2008, Thượng
hội đồng về Lời Chúa trong Sự sống và Sứ mệnh của Giáo hội; vào năm
2015, Thượng hội đồng về Ơn gọi và Sứ mệnh của Gia đình trong Giáo hội và Thế
giới Đương đại; và năm 2018, Thượng hội đồng về Giới trẻ, Đức tin và Biện
phân Ơn gọi. Trong tất cả các lần họp này, liên tục nổi lên các mối quan
tâm liên quan chặt chẽ đến chủ đề truyền giáo và huấn giáo như có thể được xác
minh trong các tài liệu ban hành sau đó. Cụ thể hơn, thật là thích hợp làm
nổi bật ở đây hai sự kiện bổ sung đánh dấu lịch sử của thập kỷ này liên quan đến
huấn giáo: Thượng hội đồng về việc Tân Phúc Âm hóa việc loan truyền đức
tin Kitô giáo năm 2012, với kết quả là Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng[1]
của Đức Giáo hoàng Phanxicô và kỷ niệm hai mươi lăm năm công bố Giáo lý Hội
Thánh Công giáo, cả hai đều trực tiếp liên quan đến thẩm quyền của Hội đồng
Giáo hoàng về Cổ Võ Tân Phúc Âm Hóa.
Truyền
giáo chiếm vị trí chính yếu trong đời sống của Giáo hội và trong giáo huấn hàng
ngày của Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Không thể khác được. Truyền giáo là
nhiệm vụ mà Chúa Phục sinh đã giao phó Giáo hội của mình để, trong mọi thời đại,
là lời loan báo trung thành về Tin Mừng của mình.
Không
biết đến điều này sẽ chẳng khác gì với việc làm cho cộng đoàn Kitô giáo, chỉ là
một trong nhiều hiệp hội đáng khen nào đó, trở nên mạnh mẽ trong hai nghìn năm
lịch sử của nó, nhưng không phải là Giáo hội của Chúa Kitô. Tẩm nhìn của Đức
Giáo Hoàng Phanxicô, trong số những điều khác nữa, tiếp nối cách mạnh mẽ giáo
huấn của Thánh Phaolô VI trong Tông huấn Loan Báo Tin Mừng[2]
năm 1975. Cả hai không làm gì khác ngoài việc nói đến sự phong phú phát sinh từ
Công Đồng Vatican II, liên quan đến huấn giáo, đã tìm thấy tâm điểm của nó
trong Tông huấn Việc Dạy Giáo Lý [3](1979)
của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
Do đó,
huấn giáo phải được kết hợp mật thiết với công việc truyền giáo và không thể
tách rời khỏi nó. Huấn giáo cần phải đảm nhận những đặc điểm của việc truyền
giáo, mà không rơi vào cám dỗ trở thành người thay thế cho truyền giáo hoặc muốn
áp đặt cơ sở sư phạm của mình vào việc truyền giáo. Trong mối quan hệ này,
tính ưu việt thuộc về truyền giáo, không thuộc về giáo lý. Điều này cho
phép chúng ta hiểu lý do tại sao, dưới ánh sáng của Tông huấn Niềm Vui Tin
Mừng, Chỉ Nam này có sự khác biệt là chỉ hỗ trợ như một bài “giáo
lý đầu tiên”[4]
Trọng
tâm của huấn giáo là loan báo về con người của Chúa Giêsu Kitô, là người đã vượt
qua giới hạn của không gian và thời gian để trình bày về chính mình cho mỗi thế
hệ như một tin mừng được đưa ra để đạt được ý nghĩa của cuộc sống. Trong
viễn cảnh này, một đặc tính cơ bản nổi lên mà giáo lý phải làm cho riêng
mình: đó là lòng thương xót. Các kerygma là một thông báo về
lòng thương xót của Chúa Cha hướng vào kẻ có tội không còn được coi là một người
bị loại trừ, nhưng như một vị khách đặc quyền tại bữa tiệc cứu độ bao gồm sự
tha thứ tội lỗi. Nếu chúng ta mong muốn, chính trong bối cảnh này mà kinh
nghiệm dạy giáo lý cho người dự tòng đòi hỏi có sức mạnh như kinh nghiệm về sự
tha thứ được trao ban và về đời sống mới trong sự hiệp thông với Thiên Chúa xảy
ra sau đó.
Tuy
nhiên, trọng tâm của bài giáo lý đầu tiên (kerygma) phải được hiểu theo
nghĩa chú trọng vào phẩm chất chứ không chú trọng vào thời gian. Trên thực
tế, trọng tâm đó đòi hỏi phải có mặt trong tất cả các giai đoạn của việc
dạy và học giáo lý và trong mọi bài giáo lý. Chính việc “loan
báo đầu tiên” đó luôn luôn cần được thực hiện bởi vì Chúa Kitô là điều duy nhất
cần thiết. Đức tin không phải là một cái gì đó hiển nhiên để người ta cần
đến trong những lúc khó khăn, mà là một hành động tự do gắn kết tất cả cuộc sống. Do
đó, chỉ nam này làm cho trọng tâm của kerygma thành trọng tâm của riêng
mình được diễn tả luôn luôn theo nghĩa Ba Ngôi như một cam kết của toàn thể
Giáo Hội. Huấn giáo như được trình bày trong Chỉ nam này có nét đặc trưng
là nhờ vào chiều kích này và tác động của
nó trong cuộc sống của mọi người. Trong tầm nhìn này, toàn bộ huấn giáo có
được một giá trị đặc biệt được thể hiện trong việc không ngừng đào sâu hiểu biết
của chúng ta về sứ điệp tin mừng. Nói tóm lại, huấn giáo có mục đích dẫn con
người đến sự hiểu biết tình yêu Kitô giáo, tình yêu đó dẫn dắt những người đã
chấp nhận nó trở thành những môn đệ truyền giáo.
Chỉ nam mở
ra và dù chạm đến các chủ đề khác nhau, nhưng chỉ đề cập đến mục tiêu cơ bản. Một
chiều kích đầu tiên đó là khai tâm (dẫn nhập vào mầu nhiệm) được trình bày
thông qua hai yếu tố bổ sung: một sự đánh giá mới về các dấu chỉ phụng tự khi
khởi đầu đời sống Kitô giáo, sau đó, sự trưởng thành tiệm tiến trong quá trình đào
luyện mà cả cộng đoàn đều liên quan. Khai tâm là một con đường ưu tiên phải
theo, nhưng nó không phải là tùy ý chọn lựa trong hành trình giáo lý. Tính
chất bắt buộc của nó xuất phát từ thực tế là nhờ nó, chúng ta ngày càng được
đưa nhiều hơn vào mầu nhiệm được chúng ta tin tưởng và cử hành. Chính sự nhận
thức về tính ưu việt của mầu nhiệm dẫn đến việc huấn giáo không cô lập kerygma
khỏi bối cảnh tự nhiên của nó. Việc loan báo đức tin vẫn là một loan báo về
mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa, Đấng đã trở thành con người để cứu độ của
chúng ta. Sự đáp trả của một người không gì hơn là sự chấp nhận mầu nhiệm
Chúa Kitô tự trong bản chất để làm sáng tỏ mầu nhiệm kinh nghiệm cá nhân của người
ấy (Gaudium et spes, 22)[5].
Một
tính chất mới khác của Chỉ nam là liên kết giữa việc truyền giáo và huấn giáo
theo nhiều nghĩa khác nhau (tham khảo n.62). Có một sự cấp bách trong việc
tiến hành một cuộc "hoán cải mục vụ" để giải phóng huấn giáo ra khỏi
một số tình trạng xiết cổ ngăn chặn hiệu quả của nó. Sự bóp nghẹt đầu tiên
như vậy có thể được xác định trong mô hình trường học, theo đó, việc dạy giáo
lý Khai tâm Kitô giáo được thực hiện theo mô hình trường học. Giáo lý viên
thay thế giáo viên, lớp học trở thành phòng giáo lý, lịch học giống hệt với lịch
giáo lý, v.v. Sự bóp nghẹt thứ hai là tâm thế cho rằng giáo lý trở
thành điều kiện để lãnh nhận một bí tích khai tâm cụ thể, với một khoảng trống để
lại sau đó khi việc khai tâm kết thúc. Sự bóp nghẹt thứ ba là việc khai
thác một bí tích nhân danh chiến lược mục vụ, để không bị mất đi một đàn
chiên nhỏ những người trẻ còn lại trong giáo xứ chứ không phải vì ý nghĩa mà bí
tích có được trong hoạt động cứu độ của Thiên Chúa trong đời sống Kitô hữu.
Đức
Giáo Hoàng Phanxicô đã viết rằng “Rao giảng Đức Kitô có nghĩa là cho thấy rằng
tin Ngài và theo Ngài không chỉ là điều đúng và chính đáng, mà còn là một cái
gì đẹp đẽ, có khả năng đổ đầy đời sống bằng sự rực rỡ mới mẻ và niềm vui sâu
xa, ngay cả giữa những hoàn cảnh khó khăn. Thế nên mọi cách diễn tả cái đẹp
đích thực đều có thể được nhìn nhận là một con đường dẫn tới sự gặp gỡ Chúa
Giêsu.... Vì vậy một sự đào luyện theo via pulchritudinis[6] phải
là một thành phần trong cố gắng của chúng ta để bước vào đức tin” (Evangelii
gaudium, 167). Một cách tiếp cận sáng tạo cho huấn giáo nằm ở con đường của
cái đẹp, trên hết bằng cách tăng nhận thức về di sản vĩ đại về nghệ thuật, văn
học và âm nhạc, mà mỗi Giáo hội địa phương sở hữu. Đây là lý do tại
sao Chỉ nam đã đặt con đường của cái đẹp là một trong những
“nguồn” của huấn giáo (tham khảo số 106-109).
Một chiều
kích cuối cùng được Chỉ nam cung cấp có thể được tìm thấy trong nỗ lực của nó để
đưa chúng ta dần dần vào mầu nhiệm đức tin. Đặc tính này không thể được ủy
thác cho một chiều kích duy nhất của đức tin hoặc huấn giáo. Thần học tra vấn
mầu nhiệm đã được mặc khải bằng các công cụ của lý trí. Phụng vụ cử
hành và gợi lên mầu nhiệm với đời sống bí tích. Đức ái nhận ra mầu
nhiệm của anh chị em đang đưa tay ra. Huấn giáo, theo cách tương tự, dần dần
hướng dẫn chúng ta chấp nhận và sống mầu nhiệm cách hoàn hảo trong cuộc sinh tồn
hàng ngày của chúng ta. Chỉ nam chấp nhận tầm nhìn này khi nó yêu cầu huấn
giáo được trình bày chính xác theo một cách sao cho duy trì được sự duy nhất của
mầu nhiệm trong khi vẫn nói rõ các giai đoạn khác nhau khi diễn tả mầu nhiệm ấy. Mầu
nhiệm, khi được gồm chứa trong thực tại sâu sắc của nó, đòi hỏi sự im lặng. Một
huấn giáo chân thực sẽ không bao giờ bị xúi giục cố gắng nói mọi điều về mầu
nhiệm của Thiên Chúa. Trái lại, nhiệm vụ của huấn giáo là hướng dẫn chúng
ta chiêm ngắm mầu nhiệm bằng cách làm nên sự thuyết phục từ việc thinh lặng.
Do đó,
chỉ nam trình bày huấn giáo kerygmatic không như một lý thuyết trừu
tượng, mà là một dụng cụ có giá trị hiện sinh mạnh mẽ. Huấn giáo này tìm
thấy sức mạnh của nó trong cuộc gặp gỡ cho phép người ta kinh nghiệm
sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống của mỗi người chúng ta. Một
Thiên Chúa gần gũi, yêu thương chúng ta và theo dõi các sự kiện trong lịch sử của
chúng ta bởi vì Sự Nhập Thể của Chúa Con đã làm Ngài nhập cuộc trực tiếp. Huấn
giáo phải liên quan đến tất cả mọi người, người dạy giáo lý và người học giáo
lý, trong việc kinh nghiệm sự hiện diện này và trong việc cảm thấy liên quan đến
công việc của lòng thương xót. Nói tóm lại, loại huấn giáo này cho phép
chúng ta khám phá ra rằng trước khi là một đề nghị đạo đức, đức tin thực sự là
một cuộc gặp gỡ với một con người và Kitô giáo không phải là một tôn giáo của
quá khứ, mà là một sự kiện của hiện tại. Một kinh nghiệm như vậy thúc đẩy
sự hiểu biết về tự do cá nhân như là kết quả của việc khám phá ra sự thật giải
phóng chúng ta (Gioan 8:31).
Một huấn
giáo xem kerygma là trên hết thì ngược lại với bất kỳ sự áp đặt nào, thậm chí ngược
lại sự áp đặt dù của rất nhiều bằng chứng không thể phủ nhận. Trên thực tế,
sự lựa chọn đức tin trước khi xem xét các nội dung cần phải gắn bó qua sự đồng
ý của một người, là một hành vi tự do bởi vì người ta khám phá ra rằng người ta
được yêu thương. Trong bối cảnh này, thật là tốt khi xem xét cẩn thận những
gì mà Chỉ nam đề xuất liên quan đến tầm quan trọng của hành vi đức
tin trong sự trình bày rõ ràng gồm hai phần của nó (xem số18). Suốt một thời
gian quá lâu, huấn giáo đã tập trung vào việc làm sao cho nội dung của đức tin
được mọi người biết đến và tập trung vào các phương pháp sư phạm tốt nhất để đạt
đến mục đích này, mà lại bỏ qua thời điểm quan trọng nhất đó là hành vi quyết định
sống đức tin và biểu lộ sự đồng ý của một con người.
Chúng ta
hy vọng rằng Chỉ nam huấn giáo mới này sẽ hỗ trợ và thực sự đỡ nâng việc
đổi mới huấn giáo trong một tiến trình truyền giáo mà Giáo hội đã không mệt mỏi
tiến hành trong hai ngàn năm, để thế giới đến gặp Chúa Giêsu Nazareth, con
Thiên Chúa đã thành một con người trong chúng ta, vì sự cứu độ của chúng ta.
https://www.catholicnewsworld.com/
Phêrô
Phạm Văn Trung, chuyển ngữ.
[1] ND: Evangelii gaudium.
[2] ND: Evangelii nuntiandi
[3] ND: Catechesi
tradendae
[4] ND: kerygmatic, kerygma: là việc công bố hay loan báo Tin Mừng lần đầu tiên cho dân
ngoại, phân biệt với didakhê là huấn giáo hay giảng dạy cho những người đã nghe loan báo Tin Mừng (Mt 28,19), để
con người có thể lĩnh hội càng nhiều càng tốt (x. Mt 13,19).
[5] ND: Hiến chế Vui Mừng
và Hy Vọng.
[6] ND: con đường của
cái đẹp.