SỨ ĐIỆP NGÀY THẾ GIỚI DI DÂN VÀ TỊ NẠN LẦN THỨ 97: "MỘT GIA
ĐÌNH NHÂN LOẠI DUY NHẤT"
(TTCG cập nhật: 27/10/2010
00:28:51)
Ngày 26/10/2010, Toà
Thánh đã công bố Sứ điệp Ngày Thế giới Di dân và Tị nạn lần thứ 97. Giáo Hội sẽ
cử hành ngày này vào ngày Chúa Nhật 16/01/2011 với đề tài: “Một gia đình nhân
loại duy nhất”. Xin giới thiệu bản dịch Việt ngữ của Lm. Võ Xuân Tiến, dịch từ bản tiếng Pháp.
SỨ ĐIỆP NGÀY THẾ GIỚI
DI DÂN VÀ TỊ NẠN LẦN THỨ 97:
“MỘT GIA ĐÌNH NHÂN LOẠI
DUY NHẤT”
Anh chị em thân
mến,
Ngày Thế giới Di
dân và Tị nạn mang lại cho toàn thể Giáo Hội cơ hội suy tư về một đề tài gắn
liến với hiện tương di dân đang gia tăng, cơ hội cầu nguyện để các tâm hồn mở
ra cho sự tiếp đón của người Kitô hữu và làm việc để gia tăng trên thế giới sự
công bằng và bác ái, những trụ cột của việc xây dựng một nền hoà bình đích thực
và bền vững. “Như Thầy đã yêu mến các
con, các con cũng hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34) là lời mời gọi mà
Chúa mạnh mẽ nói với chúng ta và làm mới chúng ta luôn: nếu Chúa Cha kêu gọi
chúng ta trở nên những người con yêu dấu trong Con yêu dấu của Ngài, thì Ngài
cũng kêu gọi chúng ta hết thảy nhìn nhận nhau như là những anh chị em trong
Chúa Kitô.
Từ mối liên hệ
sâu xa này giữa những con người nảy sinh đề tài mà năm nay tôi đã chọn làm suy
tư: “Một gia đình nhân loại duy nhất”,
một gia đình anh chị em duy nhất trong những xã hội đang luôn trở nên đa sắc
tộc và liên văn hoá, nơi những con người của những tôn giáo khác nhau cũng được
khích lệ đối thoại, để có thể đạt tới sự chung sống yên bình và hiệu quả trong
sự tôn trọng những khác biệt chính đáng. Công đồng Vatican II khẳng định: “Thật vậy, mọi dân tộc đều thuộc về một cộng đoàn,
cùng chung một nguồn gốc, vì Thiên Chúa đã cho toàn thể nhân loại sinh sống
trên khắp mặt địa cầu. Họ lại có cùng một mục đích tối hậu là Thiên Chúa, Ðấng
vẫn hằng trải rộng sự quan phòng, chứng tích lòng nhân hậu và ý định cứu độ cho
hết mọi người” (Tuyên ngôn Nostra
aetate, số 1). Như thế, “chúng
ta không sống cạnh nhau cách ngẫu nhiên; chúng ta hết thảy trải qua cùng một
con đường như là những con người và do đó như là anh chị em” (Sứ
điệp Ngày Thế giới Hoà bình 2008,
số 6).
Con đường là như
nhau, con đường của sự sống, nhưng những hoàn cảnh mà chúng ta trải qua trên
chặng đường này thì khác nhau: nhiều người phải đương đầu với kinh nghiệm khó
khăn về sự di cư, nơi những diễn tả khác nhau của nó: quốc nội hay quốc ngoại,
thường xuyên hay theo mùa, kinh tế hay chính trị, tự nguyện hay bó buộc. Trong
những trường hợp khác nhau, việc ra đi khỏi đất nước của mình được gây nên bởi
những hình thức bách hại khác nhau, đến nỗi việc trốn chạy là cần thiết. Vả
lại, chính hiện tượng toàn cầu hoá, đặc điểm của thời đại chúng ta, không chỉ
là một tiến trình kinh tế xã hội, nhưng còn bao hàm “một nhân loại càng ngày càng trở nên liên kết”,
vượt quá những biên cương địa lý và văn hoá. Về vấn đề này, Giáo Hội không
ngừng nhắc nhớ rằng ý nghĩa sâu xa của tiến trình lịch sử này và tiêu chí luân
lý nền tảng của nó rõ ràng nảy sinh ra từ sự hiệp nhất của gia đình nhân loại
và từ sự phát triển của nó trong sự thiện (x. Bênêđictô XVI, thông điệp Caritas in veritate, số 42). Bởi thế,
tất cả mọi người đều thuộc về một gia đình duy nhất, người di cư hay dân chúng
địa phương đón tiếp họ, và tất cả mọi người đều có cùng một quyền hưởng những
của cải của trái đất mà mục đích của nó là phổ quát, như học thuyết xã hội của
Giáo Hội dạy. Chính ở đây mà sự liên đới và chia sẻ tìm thấy nền tảng của
chúng.
“Trong một xã hội trên đường toàn cầu hoá, thì công
ích và sự dấn thân cho nó không thể không đảm nhận những chiều kích của toàn
thể gia đình nhân loại, tức là của cộng đồng các dân tộc và các quốc gia, đến
độ hình thành sự hiệp nhất và hoà bình cho thành đô nhân loại, và, cách nào đó,
biến nó thành hình ảnh tiên trưng của thành đô không biên giới của Thiên Chúa”
(Thông điệp Caritas in veritate,
số 7). Đó là viễn ảnh trong đó cũng cần phải xem xét thực tại di dân. Quả thế,
như Tôi tớ Chúa là Đức Phaolô VI đã nhận xét, “việc thiếu tình huynh đệ giữa những con người và giữa các dân tộc là
nguyên nhân sâu xa của việc chậm phát triển” (Thông điệp Populorum progressio, số 66), và -
chúng ta có thể thêm vào - nó tác động mạnh đến hiện tượng di dân. Tình huynh
đệ nhân loại là kinh nghiệm, đôi khi gây ngạc nhiên, về một mối quan hệ xích
lại gần, bằng một liên hệ sâu xa với người khác, khác với tôi, được đặt nền
tảng trên sự kiện là những con người. Được đảm nhận và sống cách có trách
nhiệm, nó nuôi dưỡng một đời sống hiệp thông và chia sẻ với mọi người, đặc biệt
với những người di dân; nó nâng đỡ việc trao ban chính mình cho người khác, vì
thiện ích của họ, thiện ích của mọi người, nơi cộng đồng chính trị địa phương,
quốc gia và thế giới.
Đấng đáng kính
Gioan Phaolô II, nhân dịp Ngày Thế giới Di dân năm 2001, đã nhấn mạnh rằng “[công ích phổ quát] bao gồm toàn thể gia đinh các
dân tộc, bên trên mọi thói ích kỷ quốc gia chủ nghĩa. Chính trong bối cảnh này
mà cần phải xem xét quyền di dân. Giáo Hội nhìn nhận mọi người có quyền này,
dưới khía cạnh kéo của nó: có thể đi ra khỏi đất nước của mình và có thể vào
một nước khác tìm kiếm những điều kiện sống tốt hơn” (Sứ điệp Ngày Thế giới Di dân năm 2001, số 3; x.
Gioan XXIII, Thông điệp Mater et Magistra,
số 30; Phaolô VI, Thông điệp Octogesima
adveniens, số 17). Đồng thời, các Nhà nước có quyền đặt quy chế cho
các luồng di dân và bảo vệ các biên giới của mình, mà vẫn luôn bảo đảm sự tôn
trọng đối với phẩm giá của mỗi nhân vị. Vả lại, những người nhập cư có nghĩa vụ
hội nhập vào đất nước đón tiếp, tôn trọng những luật lệ và căn tính quốc gia
của nó. “Như thế sẽ phải dung hoà việc
tiếp đón đối với mọi người, đặc biệt với những người túng thiếu, với việc lượng
giá các điều kiện cần thiết cho một cuộc sống xứng đáng và hoà bình đối với các
cư dân xuất thân từ đất nước và đối với những người đến sáp nhập với họ”
(Sứ điệp Ngày Thế giới Hoà bình 2001,
số 13).
Trong bối cảnh
này, sự hiện diện của Giáo Hội như là dân Thiên Chúa đang lữ hành trong lịch sử
giữa tất cả các dân tộc khác, là một nguồn tin tưởng và hy vọng. Quả thế, Giáo
Hội là “trong Chúa Kitô, cách nào đó là
bí tích, tức là vừa là dấu chỉ vừa là phương thế của sự kết hợp thân mật với
Thiên Chúa và của sự hiệp nhất tất cả loài người” (Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, số 1); và, nhờ hành động
của Chúa Thánh Thần nơi mình, “nỗ lực hướng đến việc khôi phục tình huynh đệ
phổ quát không phải là vô ích” (Gaudium
et Spes, số 38). Cách đặc biệt, chính Thánh Thể là, trong lòng Giáo
Hội, một nguồn mạch hiệp thông vô tận cho toàn thể nhân loại. Nhờ nó, Dân Thiên
Chúa ôm lấy “mọi quốc gia, chủng tộc, dân
tộc và ngôn ngữ” (Kh 7,9). không phải xuyên qua một thứ quyền lực
thánh thiêng, nhưng xuyên qua sự phục vụ cao cả của đức ái. Quả thế, việc thực
thi đức ái, đặc biết đối với những người nghèo và yếu thế nhất, là một tiêu chí
chứng tỏ tính đích thực của những cử hành Thánh Thể (x. Gioan Phaolô II, Tông
thư Mane nobiscum Domine, số
28).
Chính dưới ánh
sáng của đề tài “Một gia đình duy nhất”,
mà cần phải xem xét cách cụ thể hoàn cảnh của những người tị nạn và những di
dân bó buộc khác, họ đại diện cho một phần quan trọng của hiện tượng di dân.
Đối với những người đang chạy trốn những bạo lực và bách hại này, cộng đồng
quốc tế đã có những dấn thân rõ rệt. Việc tôn trọng các quyền của họ, cũng như
những lo âu đúng đắn đối với sự an toàn và sự liên đới xã hội, tạo điều kiện
cho một sự chung sống ổn định và hài hoà.
Cũng trong
trường hợp các di dân bó buộc, sự liên đới được nuôi dưỡng bởi “kho dự trữ”
tình yêu mà nảy sinh từ sự kiện xem mình như là một gia đình nhân loại duy nhất
và, đối với các tín hữu Công giáo, như những chi thể của Nhiệm Thể của Chúa
Kitô: Quả thế, chúng ta lệ thuộc lẫn nhau, hết thảy chúng ta đều có trách nhiệm
về anh chị em của chúng ta trong nhân tính, và, đối với những người tin, trong
đức tin. Như tôi đã từng có dịp nói, “đón
tiếp những người tị nạn và dành cho họ lòng hiếu khách biểu lộ một cử chỉ liên
đới nhân loại đúng đắn đối với mọi người, để họ không cảm thấy bị cô lập do sự
bất bao dung và do thiếu quan tâm” (Buổi tiếp kiến chung, ngày
20/06/2007: Insegnamenti II,
1 (2007), 1158). Điều đó có nghĩa rằng sẽ cần phải giúp đỡ những ai đang bị bó
buộc rời bỏ mái nhà hay mảnh đất của họ để tìm ra một nơi mà họ sẽ có thể sống
trong hoà bình và an toàn, làm việc và đảm nhận những quyền và nghĩa vụ hiện có
nơi đất nước tiếp đón họ, bằng cách đóng góp vào công ích, mà không quên đi
chiều kích tôn giáo của cuộc sống.
Sau cùng, tôi
xin nói lên một tư tưởng cụ thể, luôn được kèm theo bằng lời cầu nguyện, cho
các sinh viên nước ngoài và quốc tế, mà cũng biểu hiện một thực tại đang gia
tăng giữa lòng hiện tượng di dân to lớn. Nó hệ tại một phạm trù cũng mặc lấy
một tầm quan trọng xã hội, trong viễn ảnh trở về lại các đất nước nguồn gốc của
họ, với tư cách là những nhà lãnh đạo tương lai. Họ tạo nên “những chiếc cầu văn hoá” và kinh tế
giữa những nước này và những nước tiếp đón, và tất cả điều đó rõ ràng đi theo
hướng hình thành nên “một gia đình nhân
loại duy nhất”. Chính sự xác tín này mà cần phải nâng đỡ sự
dấn thân cho các sinh viên nước ngoài và kèm theo sự chú ý đối với các vấn đề
cụ thể của họ, như là những khó khăn tài chính hay nỗi sợ hãi cảm thấy cô độc
để đối diện với một môi trường xã hội và đại học rất khác biệt, cũng như những
khó khăn hội nhập. Về vấn đề này, tôi xin nhắc lại rằng “thuộc về một cộng đồng
đại học có nghĩa là ở chỗ giao tiếp giữa các nền văn hoá đã khuôn đúc nên thế
giới hiện đại” (Gioan Phaolô II, Diễn văn
cho các Giám mục Hòa Kỳ thuộc Giáo tỉnh Chicago, Indianapolis và Milwaukee, đang viếng
thăm ad limina ngày 30/05/1998, 6:
Insegnamenti XXI, 1 [1998], 1116). Chính ở trường học và ở đại học
mà nền văn hoá của các thế hệ mới được hình thành: trong một chừng mực to lớn
nào đó, khả năng xem nhân loại như là một gia đình được kêu gọi trở nên hiệp
nhất trong đa dạng, tuỳ thuộc vào những thể chế này.
Anh chị em thân
mến, thế giới di dân là rộng lớn và đa dạng. Nó được hình thành từ những kinh
nghiệm tuyệt với và hứa hẹn, cũng như, bất hạnh thay, từ những kinh nghiệm
khác, bi đát và bất xứng của con người và các xã hội tự cho là dân sự. Đối với
Giáo Hội, thực tại này cấu thành một dấu chỉ hùng hồn của thời đại chúng ta, mà
cách rõ ràng hơn nữa nhấn mạnh ơn gọi của nhân loại hình thành nên một gia đình
duy nhất và, đồng thời, những khó khăn, mà thay vì hợp nhất nó, lại chia rẽ và
xâu xé nó. Chúng ta đừng đánh mất niềm hy vọng và cùng nhau cầu xin với Thiên
Chúa là Cha của mọi người, để Ngài giúp đỡ chúng ta trở nên, mỗi người với tư
cách là người đầu tiên, những người nam và người nữ có khả năng tương giao
huynh đệ; và, trên bình diện xã hội, chính trị và thể chế, để việc hiểu
biết và quý trọng lẫn nhau giữa các dân tộc và các nền văn hoá được gia tăng.
Với những lời cầu chúc này, đồng thời cầu xin sự cầu bầu của Đức Thánh Trinh Nữ
Maria Stella Maris (Sao
Biển), bằng tất cả tấm lòng, tôi xin gửi đến mọi người Phép Lành Toà Thánh,
cách đặc biệt cho những người di dân và tin nạn và cho hết những ai đang làm
việc trong lĩnh vực quan trọng này.
Từ Castel
Gandolfo, ngày 27 tháng 9 năm 2010
BÊNÊĐICTÔ XVI, mục tử của các mục tử