Sứ điệp của Đức Thánh Cha Bênêđictô
XVI nhân Ngày Hòa bình Thế giới, 1 tháng Giêng 2011
Tự do tôn giáo, đường dẫn
đến hòa bình
1. Đầu năm mới, tôi muốn gửi
đến mọi người và từng người lời chúc an vui, thịnh vượng, và trên tất cả, là
lời chúc bình an. Năm vừa kết thúc, thật đáng buồn, lại được đánh dấu bằng sự
bách hại, phân biệt đối xử, bằng những hành động đáng sợ của bạo lực và bất
khoan dung đối với tôn giáo.
Tôi đặc biệt nghĩ đến
mảnh đất Irak yêu quý đang trên đường tiến đến sự ổn định
và hòa giải hằng được mong đợi biết bao, lại tiếp tục diễn ra cảnh bạo lực
và khủng bố. Vẫn đang hiện lên trong kí ức những nỗi đau khổ gần đây của cộng
đồng Kitô hữu, và đặc biệt, cuộc tấn công đê hèn nhắm vào nhà thờ Chính tòa Đức
Mẹ hằng Cứu giúp của Công giáo nghi lễ Syri tại Bagdad, vào ngày 31-10 vừa qua,
làm chết 2 linh mục và hơn 50 tín hữu khi họ đang họp nhau cử hành Thánh lễ.
Lại còn những cuộc tấn công khác vào những ngày tiếp theo, nhắm vào các nhà
riêng, gây ra nỗi sợ hãi nơi cộng đồng Kitô giáo, khiến nhiều người trong cộng
đồng muốn di tản, hòng tìm những điều kiện sống tốt hơn. Chắc chắn rằng tôi
cũng như toàn thể Hội Thánh luôn ở bên những anh chị em ấy. Tình cảm này được
diễn tả cụ thể trong Thượng Hội đồng giám mục đặc biệt về Trung Đông mới đây.
Thượng Hội đồng đã gửi đến các cộng đoàn Công giáo tại Irak và khắp Trung Đông
sự khích lệ anh chị em sống hiệp thông với nhau và tiếp tục cống hiến một chứng
từ can trường về đức tin tại những vùng đất này.
Tôi xin chân thành cảm ơn
các Chính phủ đang tìm cách làm giảm bớt sự đau khổ của những anh
chị em này bằng tình nhân đạo và tôi kêu gọi các tín hữu Công giáo cầu nguyện
cho những anh chị em trong đức tin của mình đang hứng chịu bạo lực và không
khoan dung, và thể hiện tình liên đới của mình với những anh chị em ấy. Trong
bối cảnh này, tôi cảm thấy một cơ hội đặc biệt sống động để chia sẻ với tất cả
anh chị em một vài suy nghĩ về tự do tôn giáo, con đường dẫn tới hòa bình. Thật
đau lòng khi phải nói lên, tại một số nơi trên thế giới, không thể tuyên xưng
và tự do thể hiện tôn giáo của mình, mà không gặp nguy hiểm cho mạng sống và tự
do của bản thân mình. Tại những nơi khác, bề ngoài xem ra lặng lẽ hơn đồng thời
thành kiến cũng như sự chống đối xem ra tinh vi hơn nhắm vào các tín hữu và
những biểu tượng tôn giáo. Cho đến thời điểm hiện tại, các Kitô hữu là nhóm tôn
giáo bị đàn áp nhiều nhất vì niềm tin của mình. Nhiều người bị xúc phạm hàng
ngày và thường xuyên sống trong sợ hãi chỉ vì mưu tìm sự thật, niềm tin vào
Chúa Giêsu Kitô và đưa ra lời kêu gọi chân thành hãy công nhận quyền tự do tôn
giáo. Không thể chấp nhận những điều đó vì chúng cho thấy một sự xúc phạm đến
chính Thiên Chúa và đến phẩm giá con người, hơn nữa, là một mối đe dọa đối với
an ninh và hòa bình, và điều này ngăn cản việc thực hiện sự phát triển thực sự
con người toàn diện [1].
Vì thế chính trong
tự do tôn giáo mới nhận ra được biểu hiện có ý nghĩa đặc trưng về con người,
biểu hiện này làm cho con người có thể tổ chức cuộc đời của bản thân và đời
sống của xã hội vâng theo Thiên Chúa: trong ánh sáng của Thiên Chúa sẽ hiểu được
đầy đủ về căn tính, ý nghĩa và mục đích của nhân vị. Từ chối hoặc hạn chế một
cách độc đoán quyền tự do này có nghĩa là đang duy trì một cái nhìn giản lược
về con người; cầm hãm vai trò công cộng của tôn giáo, nghĩa là tạo ra một xã
hội bất công, vì nó không hợp với bản chất thực sự của con người, và điều này
có nghĩa là phủ định nền hòa bình đích thực và lâu dài của toàn thể gia đình
nhân loại.
Vì vậy tôi kêu gọi mọi
người nam cũng như nữ có thiện chí hãy canh tân tinh thần dấn thân nhằm xây
dựng một thế giới trong đó mọi người được tự do tuyên xưng tôn giáo hoặc niềm
tin của mình, và sống tình yêu của mình cho Thiên Chúa với tất cả trái tim, tất
cả tâm hồn và với tất cả tinh thần (x. Mt 22, 37). Đó là tâm tình gợi
cảm cảm hứng và định hướng cho Sứ điệp nhân Ngày Hòa bình Thế giới lần thứ
44 này, với chủ đề: Tự do tôn giáo, đường dẫn tới hòa bình.
Quyền thánh thiêng được
sống và có đời sống tinh thần
2. Quyền tự do tôn giáo
bắt nguồn trong chính phẩm giá của con người [2], không được bỏ qua và cũng
không được bỏ quên bản chất siêu việt của phẩm giá ấy. Thiên Chúa dựng nên người
nam và người nữ theo hình ảnh của Ngài và giống Ngài (x. St 1, 27). Đó
là lý do tại sao mỗi người có quyền thánh thiêng là được sống toàn vẹn
gồm cả phương diện tinh thần. Không nhận ra bản thể tinh thần của mình, không
mở ra cho sự siêu việt, rút vào trong chính bản thân mình, con người sẽ không
thể tìm được lời giải đáp cho câu hỏi từ trái tim mình về ý nghĩa cuộc sống và
đạt đến những giá trị và các nguyên tắc đạo đức bền vững. Vì vậy cũng sẽ không
gặt hái được những kinh nghiệm về tự do đích thực và xây dựng một xã hội công
bình [3].
Kinh Thánh, hòa với kinh
nghiệm riêng của chúng ta, cho thấy giá trị sâu xa về phẩm giá con người: “Ngắm
tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là
chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm? Chúa cho con
người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên,
cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân” (Tv
8, 4-7 ).
Trước thực tế cao cả
của bản chất con người, chúng ta có thể trải nghiệm chính niềm kinh ngạc của tác
giả Thánh vịnh. Thực tế đó được biểu lộ như mở ra cho Mầu nhiệm, như khả năng
tra vấn trong tận sâu thẳm về chính mình và về nguồn cội của vũ trụ, như một âm
vang nội tâm vọng đến tình yêu cao cả của Thiên Chúa, khởi đầu và cùng đích mọi
sự, mọi người và tất cả mọi dân tộc [4]. Phẩm giá siêu việt của con người là
một giá trị cốt lõi của nền minh triết Do Thái-Kitô giáo, mà nhờ lý trí, đã
được mọi người nhận ra. Phẩm giá này, được hiểu như một năng lực vượt khỏi tính
vật chất của bản thân và đi tìm chân lí, phải được nhìn nhận là sự Thiện phổ
quát, cần thiết cho việc xây dựng một xã hội hướng đến sự thành toàn và viên
mãn của con người. Sự tôn trọng các yếu tố thiết yếu của nhân phẩm con người,
chẳng hạn quyền sống và quyền tự do tôn giáo, là một điều kiện cho tính hợp
pháp của luân lý trong mọi chuẩn mực xã hội và pháp lý.
Tự do tôn giáo và tôn trọng
lẫn nhau
3. Tự do tôn giáo là nguồn
gốc của tự do đạo đức. Thật vậy, việc mở ra cho sự thật và sự thiện, mở ra
cho Thiên Chúa, đã cắm rễ trong bản chất con người, mang lại phẩm giá trọn vẹn
cho mỗi người và bảo đảm cho sự tôn trọng giữa mọi người với nhau một cách trọn
vẹn. Đó là lý do tại sao phải hiểu tự do tôn giáo không chỉ là không bị cưỡng
bức, mà trước hết phải là khả năng định đọat sự lựa chọn của mình theo sự thật.
Có một mối liên
hệ không thể phá vỡ giữa tự do và sự tôn trọng, bởi, “luật luân lý đòi hỏi mọi
người và mọi nhóm xã hội, khi thực hiện quyền của mình, phải tính đến các quyền
của người khác, nghĩa vụ của mình đối với người khác và đối với lợi ích chung
của mọi người [5].
Loại tự do thù nghịch
với Thiên Chúa hoặc dửng dưng đối với Ngài sẽ dẫn đến phủ nhận chính bản
thân tự do và không bảo đảm sự tôn trọng đầy đủ đối với tha nhân. Cái ý chí chỉ
tin tưởng triệt để vào bản thân mình thì không thể tìm ra sự thật, sự thiện và
không còn những lý lẽ khách quan cũng như động cơ để hành động, trừ khi có những
lợi ích nhất thời và ngẫu nhiên, ý chí ấy không có “căn tính” để giữ gìn và để
xây dựng thông qua những lựa chọn thực sự tự do và có ý thức. Vì vậy, ý chí ấy
không thể yêu cầu sự tôn trọng từ phía “những ý chí” khác vốn cũng bị tách khỏi
bản thể sâu xa của mình, rồi cho rằng mình “có lý”, hoặc cũng chẳng cần một
chút “có lý” nào. Cái ảo tưởng cho rằng có thể tìm thấy trong chủ nghĩa tương
đối về đạo đức là chìa khóa cho việc sống chung hòa bình, thực tế chỉ là nguồn
gốc của sự phân hóa và phủ nhận phẩm giá con người. Bây giờ mới hiểu sự cần
thiết phải nhận ra hai chiều kích trong cùng một con người: chiều kích tôn
giáo và chiều kích xã hội. Về vấn đề này, không thể nào cho rằng các
tín hữu “cần phải bị tước một phần con người của họ – phần niềm tin – để thành người
công dân tích cực, chẳng bao giờ cần phải chối bỏ Thiên Chúa thì mới được hưởng
các quyền của mình” [6].
Gia đình, trường dạy tự
do và hòa bình
4. Nếu tự do tôn giáo là đường
dẫn đến hòa bình, thì giáo dục tôn giáo là một tuyến đường được dành ưu
tiên cung cấp cho thế hệ mới khả năng nhận ra tha nhân là anh em, chị em, để
đồng hành và hợp tác với nhau mà làm cho mọi người cảm thấy đều là thành viên
của gia đình nhân loại, trong đó không ai bị loại trừ.
Được thiết lập trên nền
tảng hôn nhân, biểu hiện của sự kết hiệp mật thiết và bổ túc cho nhau giữa người
nam và người nữ, trong ý nghĩa này, gia đình là trường học đầu tiên đào tạo và
phát triển xã hội, văn hóa, đạo đức và tinh thần cho trẻ em vốn luôn luôn phải
tìm thấy nơi người cha, người mẹ là những nhân chứng đầu tiên về một cuộc sống
hướng tới việc đi tìm chân lý và tình yêu của Thiên Chúa. Chính các bậc làm cha
làm mẹ luôn luôn phải được tự do, không bị cản trở, với tinh thần trách nhiệm,
để truyền lại cho con cái di sản của mình về đức tin, về các giá trị và về văn
hóa. Gia đình, tế bào trước hết của xã hội loài người, chính là môi trường đào
tạo đầu tiên cho các mối quan hệ hài hòa thuộc mọi cấp độ trong đời sống chung
của con người, quốc gia và quốc tế. Chúng ta tìm thấy ở đây (tức gia đình –
ND) con đường phải đi với sự khôn ngoan để xây dựng một yếu tố làm nên xã
hội vững bền và mang tính liên đới, để chuẩn bị cho người trẻ biết nhận lấy
trách nhiệm của mình trong cuộc sống, giữa một xã hội tự do, trong tinh thần
hiểu biết lẫn nhau và yêu chuộng hòa bình.
Di sản chung
5. Có thể nói, trong số
các quyền và tự do mang tính nền tảng, bắt nguồn từ phẩm giá con người, tự do tôn
giáo có một địa vị đặc biệt. Khi quyền tự do tôn giáo được công nhận, phẩm
giá con người được tôn trọng trong chính căn nguyên của nó, thì phong hóa (ethos)
và những định chế của các dân tộc được vững mạnh. Ngược lại, khi tự do tôn giáo
bị khước từ, khi việc tuyên xưng tôn giáo hay đức tin bị ngăn cản và khi việc
sống đúng với tôn giáo, niềm tin cũng như phẩm giá con người bị xúc phạm, thì
như vậy, là đã đe dọa công lý và hòa bình, nền tảng của trật tự xã hội, vốn
được xây đắp dưới ánh sáng của Sự thật Tối hậu và Sự thiện Tối cao.
Trong ý nghĩa này, tự
do tôn giáo cũng là một thành tựu của nền văn minh chính trị và pháp luật. Đây
là điều chủ yếu: mọi người đều có thể tự do tuyên xưng và bộc lộ tôn giáo hoặc
niềm tin của mình, một cách riêng tư hay cùng với cộng đoàn, nơi công cộng hay
chốn riêng tư, bằng lời giảng dạy hay trong thực hành, qua các ấn phẩm, trong
sự thờ phượng và trong việc tuân giữ các nghi lễ. Con người không thể bị ngăn
cản nếu muốn gia nhập một tôn giáo khác hoặc không còn muốn theo đạo nào nữa.
Trong lĩnh vực này, cần có các quy định quốc tế làm điển hình và mẫu mực chính
yếu cho các quốc gia, không cho phép bất kỳ sự vi phạm nào đối với tự do tôn
giáo, trừ khi có yêu cầu hợp pháp của trật tự công cộng theo sự đòi hỏi của công
lý [7]. Như vậy quy định quốc tế công nhận các quyền có bản chất tôn giáo đều
cùng một quy chế như nhau, như quyền sống và quyền tự do cá nhân, bởi vì các
quyền này thuộc về cốt lõi của nhân quyền, những quyền phổ quát và tự nhiên mà
luật pháp của con người không bao giờ được chối bỏ.
Tự do tôn giáo không phải
là di sản độc quyền của các tín đồ, nhưng thuộc về toàn thể gia đình các dân
tộc trên trái đất. Nó là yếu tố không thể thiếu trong một Nhà nước pháp quyền, không
thể từ chối quyền này mà lại không đồng thời làm ảnh hưởng đến tất cả các quyền
và tự do căn bản, vì tự do tôn giáo là sự tổng hợp và là đỉnh điểm của các quyền
và sự tự do. Đó là “giấy quỳ” cho phép kiểm tra sự tôn trọng tất cả các quyền
con người khác” [8]. Nó thúc đẩy việc thực hiện các khả năng mang tính con
người nhất, bằng cách tạo ra những tiền đề cần thiết cho việc thực hiện sự phát
triển toàn diện, trong từng chiều kích đều nhất loạt có liên quan đến tính toàn
thể của con người [9].
Chiều kích công cộng của
tôn giáo
6. Tự do tôn giáo, như
tất cả mọi tự do, đều xuất phát từ lĩnh vực cá nhân, được thực hiện trong tương
quan với tha nhân. Tự do mà không có tương quan là thứ tự do chưa hoàn tất.
Tự do tôn giáo không giới hạn trong chiều kích cá nhân nhưng thực hiện trong cộng
đồng mà con người tham gia, và trong xã hội, điều này phù hợp với hữu thể tương
giao của con người và với tính chất công cộng của tôn giáo.
Việc đặt trong tương
quan là
một thành tố quan trọng của tự do tôn giáo, thúc đẩy các cộng đoàn tín hữu thực
hiện sự liên đới vì công ích. Nơi chiều kích cộng đoàn, mỗi người là một tồn
tại duy nhất và vô cùng độc đáo, tất cả đều đang viên mãn và thành toàn.
Không thể phủ nhận sự đóng
góp của các cộng đồng tôn giáo đem lại cho xã hội. Nhiều tổ chức từ thiện và
văn hóa thể hiện vai trò tích cực của các tín hữu trong đời sống xã hội. Quan
trọng hơn nữa là sự đóng góp của tôn giáo về đạo đức trong lĩnh vực chính trị.
Những đóng góp này không thể bị gạt bỏ hoặc ngăn cấm, nhưng phải được coi là
một đóng góp có giá trị để thúc đẩy lợi ích chung. Trong viễn tượng này, cần phải
nói đến chiều kích tôn giáo của nền văn hóa, được dệt qua nhiều thế kỷ, thông
qua những đóng góp của tôn giáo đối với xã hội và đặc biệt đạo đức. Một chiều
kích như vậy không hề bao gồm bất cứ sự phân biệt đối xử nào đối với những
người không cùng chia sẻ niềm tin, nhưng tăng cường sự gắn kết xã hội, hội nhập
và liên đới.
Tự do tôn giáo, sức mạnh
của tự do và văn minh: những nguy cơ của việc sử dụng tự do như một công cụ
7. Sử dụng tự do tôn giáo như
một công cụ nhằm che đậy những lợi ích thầm kín, chẳng hạn như lật đổ trật tự
đã được thiết lập, chiếm đoạt các nguồn tài nguyên hoặc duy trì quyền lực của
một phe nhóm, có thể gây ra thiệt hại to lớn cho xã hội. Chủ nghĩa cực đoan, chủ
nghĩa giáo điều, những hành xử trái với phẩm giá con người không bao giờ có thể
coi là hợp với công lý, dù núp dưới danh nghĩa tôn giáo. Niềm tin tôn giáo không
thể biến thành công cụ hoặc dùng vũ lực áp đặt. Điều này đòi hỏi các quốc gia
và cộng đồng khác nhau không bao giờ quên rằng tự do tôn giáo là một điều
kiện cho việc tìm kiếm sự thật và sự thật không áp đặt bằng bạo lực nhưng bằng
“chính bản thân sức mạnh của sự thật” [10]. Trong ý nghĩa này, tôn giáo là
một lực lượng tích cực và có sức thúc đẩy trong việc xây dựng xã hội dân
sự và chính trị.
Làm sao phủ nhận được sự
đóng góp của các tôn giáo lớn trên thế giới vào sự phát triển của nền văn minh?
Việc chân thành tìm kiếm Thiên Chúa càng giúp tôn trọng hơn đối với phẩm giá
con người. Các cộng đồng Kitô hữu, với di sản của mình về những giá trị và nguyên
tắc, đã đóng góp lớn trong việc giúp con người và các dân tộc ý thức về căn
tính và phẩm giá của họ, cũng như chinh phục các định chế dân chủ, khẳng định
con người có những quyền lợi và các nghĩa vụ tương ứng.
Ngày nay, trong một thế
giới ngày càng toàn cầu hóa, các Kitô hữu được mời gọi, không chỉ có trách nhiệm
dấn thân về đời sống dân sự, kinh tế và chính trị, mà còn làm chứng bằng tình
yêu và niềm tin của mình, cống hiến bằng sự đóng góp quý báu vào cuộc dấn thân
khó khăn nhưng không kém phấn khởi cho công lý, cho sự phát triển con người
toàn diện và xếp đặt một cách đúng đắn các thực tại nhân sinh. Loại bỏ tôn giáo
ra khỏi đời sống công cộng là loại bỏ một không gian có ý nghĩa sống còn, mở ra
cho siêu việt. Không có kinh nghiệm nền tảng này, khó lòng đưa xã hội hướng đến
các nguyên tắc đạo đức phổ quát, và cũng khó thực hiện được các quy định quốc
gia và quốc tế, trong đó các quyền và tự do hoàn toàn được công nhận để thực
thi, như đã được đề ra làm mục tiêu của bản Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1948 -
nhưng đáng tiếc các mục tiêu này đã không được lưu tâm hoặc đã bị phản bác.
Một vấn đề của công
lý và nền văn minh: chủ nghĩa giáo điều và sự thù địch đối với các tín hữu
gây thiệt hại cho tính thế tục tích cực của các nhà nước
8. Việc xác định và lên án
mọi hình thức của chủ nghĩa cực đoan, chủ nghĩa giáo điều tôn giáo, cũng phải
khơi lên sự phản kháng mọi hình thức thù địch đối với tôn giáo, giới hạn vai
trò công cộng của các tín hữu trong đời sống dân sự và chính trị.
Không thể quên chủ nghĩa
giáo điều tôn giáo và chủ nghĩa thế tục là những hình thức phản ánh và là biểu
hiện cực đoan của sự khước từ chủ nghĩa đa nguyên hợp pháp và nguyên tắc của
tính thế tục. Cả hai, trên thực tế, tuyệt đối hóa cái nhìn giản luợc và phiến
diện về con người, trong trường hợp thứ nhất, thì thúc đẩy những hình thức của
chủ nghĩa toàn trị tôn giáo, và trong trường hợp thứ hai, thì đứng về phía chủ
nghĩa duy lý. Một xã hội muốn áp đặt, hoặc ngược lại, muốn bác bỏ tôn giáo
bằng bạo lực, không những là một xã hội bất công đối với con người và Thiên
Chúa, mà còn bất công với chính nó. Trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa
liên quan đến con người trong mọi chiều kích tự nhiên và tinh thần, Thiên Chúa
kêu gọi nhân loại đáp lại bằng tự do và trách nhiệm, với tất cả trái tim và
toàn bộ cuộc sống của mình, trong tư cách cá nhân cũng như cộng đồng. Bản thân
xã hội, như một biểu hiện của con người và tất cả mọi chiều kích cấu thành con
người, phải sống và tổ chức cách nào thúc đẩy việc mở ra cho sự siêu việt. Đó là
lý do tại sao luật lệ và các định chế xã hội không thể hình thành mà lại không lưu
tâm chiều kích tôn giáo của công dân hoặc đến mức hoàn toàn bỏ qua chiều kích
ấy. Thông qua hoạt động dân chủ của các công dân ý thức về ơn gọi cao cả của
mình, luật pháp và các định chế này sẽ phản ánh một cách đúng đắn về bản chất
đích thực của con người và giúp con người thể hiện chiều kích tôn giáo của họ.
Vì tôn giáo không do Nhà nước tạo ra, nên không thể bị Nhà nước điều khiển mà
phải được thừa nhận và tôn trọng.
Khi hệ thống pháp luật ở các
cấp, quốc gia và quốc tế cho phép hoặc chấp nhận chủ nghĩa cuồng tín tôn
giáo hoặc bài tôn giáo, thì hệ thống ấy đã không chu toàn nhiệm vụ của mình
trong việc bảo vệ và thúc đẩy công lý và quyền của mọi người. Những thực tại
này không thể bị phó mặc cho sự tùy tiện của cơ quan lập pháp hoặc đa số, bởi
vì, như Cicero đã dạy, công lý không phải chỉ là làm luật và áp dụng luật, nó
còn là một cái gì hơn nữa. Công lý còn bao hàm sự công nhận mỗi người đều có
phẩm gia của họ [11], do đó, nếu tự do tôn giáo không được bảo đảm và được diễn
ra theo đúng bản chất của nó, thì phẩm giá con người bị xúc phạm và tổn thương,
có nguy cơ rơi vào sự thống trị của các thần tượng và các lợi ích nhất thời
được tuyệt đối hóa. Tất cả những điều đó có nguy cơ đưa xã hội đến chủ nghĩa
toàn trị về chính trị và tư tưởng đề cao công quyền một cách quá đáng, trong
khi đó, những quyền tự do lương tâm, tư tưởng và tôn giáo lại bị hạ thấp và
ngăn chặn, làm như các quyền tự do này có thể tranh chấp với công quyền vậy.
Đối thoại giữa các tổ chức
dân sự và tôn giáo
9. Di sản các nguyên tắc và
các giá trị được thể hiện qua lòng mộ đạo chân chính làm nên sự phong phú của
các dân tộc và phong hóa của họ. Di sản này trực tiếp nói với lương tâm và lý
trí mọi người nam nữ, nhắc nhở họ về mệnh lệnh phải hoán cải về đời sống luân
lý, khuyến khích họ ra sức trau giồi nhân đức và đến với nhau bằng yêu thương,
qua dấu chỉ của tình huynh đệ, như người trong cùng gia đình nhân loại rộng lớn
[12].
Tôn trọng tính thế tục tích
cực của các định chế nhà nước, cĩng phải thừa nhận chiều kích
công cộng của tôn giáo. Hướng đến mục tiêu như vậy, cần phải tiến hành cuộc
đối thoại chân thành giữa các định chế dân sự và tôn giáo nhằm phát triển
con người toàn diện và xây dựng sự hòa hợp trong xã hội.
Sống trong tình yêu
và sự thật
10. Trong thế giới toàn cầu
hóa với đặc điểm xã hội ngày càng đa sắc tộc và đa tôn giáo, các tôn giáo lớn có
thể là một nhân tố quan trọng của sự hiệp nhất và bình an cho gia đình nhân loại.
Từ những xác tín tôn giáo riêng của mình và từ sự tìm kiếm mang tính lý trí đối
với công ích, các tín hữu được mời gọi dấn thân với tinh thần trách nhiệm vào
bối cảnh tự do tôn giáo. Giữa những nền văn hóa tôn giáo khác nhau, nếu việc từ
chối bất cứ điều gì trái với nhân phẩm của mọi người nam nữ là cần thiết, thì
ngược lại, biết đón nhận những gì là tích cực đối với việc cùng chung sống về
mặt dân sự, là cả một kho báu. Không gian công cộng mà cộng đồng quốc tế dành
cho các tôn giáo và cho những giải pháp tôn giáo đưa ra về một “cuộc sống tốt
đẹp” sẽ giúp tạo ra một thước đo chung về sự thật và sự thiện, cũng như sự đồng
thuận về luân lý, đó là những gì cần thiết cho việc cùng chung sống trong công
lý và hòa bình. Những nhà lãnh đạo các tôn giáo lớn, với vai trò, tầm ảnh hưởng
và thẩm quyền trong cộng đồng của mình, là những người đầu tiên được mời gọi
tôn trọng và đối thoại với nhau.
Đối với các Kitô hữu, qua
niềm tin vào Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô mà được mời gọi sống như anh em,
gặp nhau trong Giáo Hội và cộng tác vào việc xây dựng thế giới, trong đó, mọi người và
các dân tộc sẽ “không còn làm điều ác và dùng bạo lực […] vì sự nhận biết Thiên
Chúa tràn đầy khắp xứ sở như nước phủ lòng biển cả” (Is 11,9).
Đối thoại là cùng nhau tìm
kiếm
11. Đối với Giáo Hội, sự đối
thoại giữa tín đồ các tôn giáo khác nhau là một phương thế quan trọng để hợp
tác với tất cả các cộng đồng tôn giáo hướng đến công ích. Bản thân Giáo Hội không
hề khước từ những gì chân thật và thánh thiện trong các tôn giáo khác. “Giáo
Hội chân thành tôn trọng những cách thức hành động và cách sống, những giới
luật và giáo lý, dù có nhiều điểm khác biệt với những gì Giáo Hội minh định và
đề nghị, nhưng vẫn thấy chúng mang lại một tia sáng chân lý soi cho mọi người”
[13].
Con đường như đã nêu ra
không phải là con đường của chủ nghĩa tương đối hay chủ nghĩa tổng hòa tôn giáo.
Vì thế Giáo Hội “loan báo và xác định mình phải không ngừng loan báo Đức Kitô
là ‘Đường, là sự Thật và là sự Sống’ (Ga 14, 6), trong Đức Kitô con người
tìm thấy một cuộc sống tôn giáo toàn vẹn và Thiên Chúa đã hòa giải mình với mọi
sự trong Đức Kitô” [14]. Tuy nhiên điều đó không loại trừ sự đối thoại và cùng
nhau đi tìm sự thật trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống, bởi vì, như
Thánh Tôma Aquinô đã thường nói: “Mọi sự thật, dù được bất cứ ai nói lên, cũng
đều đến từ Chúa Thánh Thần” [15].
Trong năm 2011 sẽ diễn
ra lễ kỷ niệm 25 năm Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Hòa bình, được Đấng đáng kính
Gioan Phaolô II triệu tập vào năm 1986 tại Assisi. Trong dịp đó, những nhà lãnh
đạo các tôn giáo lớn trên thế giới đã cho thấy tôn giáo là một nhân tố của liên
đới và hòa bình, chứ không phải là nguyên nhân gây chia rẽ và xung đột. Ký ức
về kinh nghiệm này là một lý do để hy vọng vào tương lai tất cả mọi tín đồ đều
cảm thấy và thực sự trở thành những người kiến tạo công lý và hòa bình.
Chân lý đạo đức trong chính
trị và ngoại giao
12. Chính trị và ngoại giao
cần phải xem xét, thừa nhận và khẳng định các di sản đạo đức và tinh thần do các
tôn giáo lớn trên thế giới mang lại là những chân lý, nguyên tắc và giá trị phổ
quát mà nếu phủ nhận chúng, thì đồng thời cũng chối bỏ chính phẩm giá con người.
Nhưng trong thực tế, thế nào là cổ võ sự thật đạo đức trong giới chính trị và
ngoại giao? Cổ võ chân lý đạo đức chính là hành động có trách nhiệm, xuất phát
từ nhận thức khách quan và đầy đủ về các sự kiện, nghĩa là hủy bỏ cấu trúc tư
tưởng chính trị vốn muốn thay thế chân lý và phẩm giá con người, đồng thời lại
khuyến khích những giá trị giả, mượn danh nghĩa hòa bình, phát triển và quyền
con người; cổ võ chân lý đạo đức còn là việc thúc đẩy sự dấn thân không ngừng
nhằm xây dựng luật pháp mang tính tích cực, dựa trên những nguyên lí của luật
tự nhiên [16]. Tất cả những điều ấy là cần thiết và phù hợp với sự tôn trọng
phẩm giá và giá trị con người, đã nhận được sự bảo đảm của các dân tộc trên
trái đất qua Hiến chương của Liên Hiệp Quốc năm 1945, trong đó trình bày các
giá trị và những nguyên tắc đạo đức mang tính phổ quát, làm cơ sở tham khảo cho
các chuẩn mực, định chế, các hệ thống của sự chung sống trên bình diện quốc gia
và quốc tế.
Vượt trên oán thù và định
kiến
13. Mặc dù có những bài học
lịch sử và sự cam kết của các quốc gia, các tổ chức quốc tế trên toàn cầu và tại
địa phương, những nỗ lực của các tổ chức phi chính phủ và mọi người nam nữ
thiện chí đang hằng ngày xả thân bảo vệ các quyền và tự do cơ bản, nhưng ngày
nay vẫn còn thấy trên thế giới diễn ra những cuộc khủng bố, kỳ thị, bạo lực, và
không khoan dung liên quan đến tôn giáo. Đặc biệt tại châu Á và châu Phi, nạn
nhân chủ yếu chính là những người thuộc các nhóm thiểu số tôn giáo, họ bị cấm
không được tự do tuyên xưng niềm tin, không được thay đổi tôn giáo. Việc ngăn
cấm này diễn ra bằng cách đe dọa, vi phạm các quyền cơ bản và tự do, xâm phạm
tài sản, cho đến việc tước đọat quyền tự do cá nhân và cả sinh mạng của họ nữa.
Ngoài ra – như tôi đã nói
trước đây – còn có những hình thức thù địch tinh vi đối với tôn giáo, mà ở các
nước phương Tây, có lúc được thể hiện qua việc chối từ lịch sử và những biểu
tượng tôn giáo nói lên căn tính và văn hóa của đa số người dân. Những thái độ này
thường nuôi dưỡng lòng hận thù và các thành kiến không đúng với cách nhìn trong
sáng và quân bình của chủ nghĩa đa nguyên và tính thế tục của các định chế,
chưa kể những thái độ này có thể ngăn cản các thế hệ trẻ tiếp xúc với di sản
tinh thần vô giá của đất nước mình.
Tôn giáo được bảo vệ thông
qua việc bảo vệ các quyền và tự do của những cộng đồng tôn giáo. Những nhà lãnh
đạo các tôn giáo trên thế giới và các vị hữu trách tại các quốc gia cần canh
tân cam kết của mình nhằm cổ võ và bảo vệ tự do tôn giáo, đặc biệt để bảo vệ
các nhóm thiểu số tôn giáo vốn không cho thấy có mối đe dọa nào đối với căn
tính của đa số, mà ngược lại, họ đại diện cho một cơ hội đối thoại và làm cho
nền văn hóa của nhau được thêm giàu có! Bảo vệ họ là cách tốt nhất củng cố lòng
nhân từ, thái độ cởi mở, lòng tốt và tinh thần tương trợ, nhờ đó, bảo vệ các
quyền và tự do cơ bản trong mọi lĩnh vực và ở tất cả mọi nơi trên thế giới.
Tự
do tôn giáo trên thế giới
14.
Giờ đây, tôi gửi đến các cộng đồng Kitô hữu
đang bị bức hại, phân biệt đối xử, hứng chịu bạo lực và không khoan dung, đặc biệt
ở châu Á, châu Phi, Trung Đông và nhất là tại Thánh Địa, nơi được Chúa tuyển
chọn và chúc phúc. Khi nhắc lại tình phụ tử và lời cầu nguyện luôn dành cho họ,
tôi cũng yêu cầu tất cả các nhà hữu trách phải hành động nhanh chóng để ngăn
chặn bất cứ hành vi ức hiếp đối với người Kitô hữu sống trong những khu vực
này. Xin cho các môn đệ của Chúa Kitô, đang phải đối mặt với nghịch cảnh hiện
tại, không để mất lòng can đảm, vì việc làm chứng cho Tin Mừng đang và sẽ luôn
là dấu chỉ phản kháng!
Chúng
ta hãy suy ngẫm những lời của Chúa Giêsu: “Phúc cho những ai sầu khổ, vì họ sẽ được
an ủi. Phúc cho những ai đói khát sự công chính, vì họ sẽ được thỏa lòng [...]
Phúc cho các con khi người ta nhục mạ, bách hại các con và nói xấu đủ điều
chống lại các con vì Thầy. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng các
con thật lớn lao ở trên trời” (Mt 5, 5-12). Vì vậy chúng ta hãy canh tân
“lời cam kết sống bao dung và tha thứ, như đã cầu xin cùng Chúa trong kinh Lạy
Cha, bằng cách tự đặt cho mình điều kiện và mức độ cần có để đáng được thương
xót như đã nài xin: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng
con” (Mt 6, 12) [17]. Không thể thắng bạo lực bằng bạo lực. Hãy cất lên
tiếng kêu đau thương với đức Tin, đức Cậy và qua việc làm chứng cho tình yêu
của Thiên Chúa! Tôi cũng mong mỏi phương Tây, đặc biệt châu Âu, hãy chấm dứt sự
thù địch và thành kiến chống lại các Kitô hữu, những người muốn định hướng cuộc
sống của mình theo các giá trị và nguyên tắc được thể hiện trong Tin Mừng. Mong
sao châu Âu hòa giải với nguồn gốc Kitô giáo của mình, đó là điều cần thiết nếu
muốn nhận ra được vai trò lịch sử của châu Âu trong quá khứ, hiện tại và tương
lai; như thế châu Âu sẽ cảm nghiệm được công lý, sự hòa hợp và hòa bình, bằng
cách vun trồng một cuộc đối thoại chân thành với tất cả các dân tộc.
Tự
do tôn giáo, đường dẫn đến hòa bình
15. Thế giới cần Thiên Chúa. Thế giới cần những giá trị đạo đức và tinh thần,
phổ quát và riêng biệt. Tôn giáo có thể mang lại những đóng góp quý báu trong
việc tìm kiếm những giá trị đó, nhằm xây dựng một trật tự xã hội có công lý và
hòa bình, trên bình diện quốc gia và quốc tế.
Hòa bình là một ơn Chúa
ban và cũng là một kế hoạch phải được thực hiện, nhưng chẳng bao giờ đạt được trọn
vẹn. Một
xã hội đã giao hòa với Thiên Chúa thì tiến đến gần hòa bình hơn, và hòa bình
không chỉ là vắng bóng chiến tranh, cũng không đơn giản là kết quả của một ưu
thế quân sự hay kinh tế, càng không phải là những thủ đoạn dối trá hoặc các dàn
xếp khôn khéo. Hòa bình, trên thực tế, là kết quả của một quá trình thanh luyện
và nâng cao văn hoá, đạo đức và tinh thần của mỗi người và của từng dân tộc,
một quá trình mà trong đó nhân phẩm con người được tôn trọng đầy đủ. Tôi mời
gọi tất cả những ai muốn trở thành người xây dựng hòa bình, đặc biệt những
người trẻ, hãy lắng nghe tiếng nói đang vang lên trong lòng mình, để tìm thấy
nơi Chúa, điểm quy chiếu vững bền cho cuộc chinh phục sự tự do đích thực, sức
mạnh vô tận đem lại hướng đi và một tinh thần mới cho thế giới, giúp thế giới
không mắc phải những sai lầm trong quá khứ. Vị Tôi tớ Chúa Phaolô VI, người có
trí tuệ và tầm nhìn xa, người đã đặt ra Ngày Thế giới Hòa bình, đã dạy rằng:
“Trước hết phải trang bị cho Hòa bình những loại vũ khí mới, khác với những thứ
dùng để giết hại và hủy diệt con người. Phải trang bị trước tiên bằng vũ khí
đạo đức, đem lại sức mạnh và uy tín cho công pháp quốc tế, bắt đầu bằng việc
tuân giữ các hiệp ước” [18].
Tự do tôn giáo thực
sự là vũ khí của hòa bình, đảm nhận một sứ mệnh lịch sử và tiên tri. Quả
thật, nó đề cao giá trị và làm sinh hoa kết quả những phẩm chất sâu xa nhất và
những khả năng giúp con người thay đổi thế giới và làm cho thế giới trở nên tốt
đẹp hơn. Tự do tôn giáo giúp nuôi dưỡng niềm hy vọng vào một tương lai được sống
trong công lý và hòa bình, cả khi đứng trước những bất công nặng nề và cảnh
khốn cùng về vật chất và tinh thần. Mong sao mọi người và mọi xã hội, thuộc mọi
mức độ và mọi nơi trên thế giới, đừng trì hoãn việc thực thi tự do tôn giáo,
con đường dẫn đến hòa bình!
Bênêđictô XVI, Giáo
hoàng
–––––––––––––––––––––––––––––––––
Chú thích
[1] x. Bênêđictô XVI, Caritas
in Veritate, 29. 55-57.
[2] x. CĐ Vatican II, Tuyên
ngôn về Tự do Tôn giáo, Dignitatis Humanae, 2.
[3] Bênêđictô XVI, Caritas
in Veritate, 78.
[4] x. CĐ Vatican II, Tuyên
ngôn về Quan hệ của Giáo hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo, Nostra
Aetate, 1.
[5] Ibid. Tuyên
ngôn về Tự do Tôn giáo, Dignitatis Humanae, 7.
[6] Bênêđictô XVI, Diễn
văn tại Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc (18 Tháng 4, 2008): AAS 100 (2008),
337, DC 2403 (2008 °, tr. 537.
[7] x.CĐ Vatican II, Tuyên
ngôn về Tự do Tôn giáo, Dignitatis Humanae, 2.
[8] Gioan Phaolô II, Thư
gửi các Đại biểu tham dự Hội nghị của Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE)
(Ngày 10 tháng 10 năm 2003), 1: AAS 96 (2004), tr. 111.
[9] x. Caritas in
Veritate, 11.
[10] x. CĐ Vatican II, Tuyên
ngôn về Tự do Tôn giáo, Dignitatis Humanae, 1.
[11] x.
[12] Bênêđictô XVI, Thư
gửi Đại diện các tôn giáo khác tại Vương quốc Anh (17 tháng Chín, 2010):
L’Osservatore Romano (ngày 18 tháng 9 năm 2010), P.12, DC 2454 (năm 2010), tr.
876.
[13] CĐ Vatican II, Tuyên
ngôn về Quan hệ giữa Giáo hội và với các tôn giáo ngoài Kitô giáo, Nostra
Aetate, 2.
[14] Ibid.
[15] Super
Evangelium Joannis, I, 3.
[16] Bênêđictô XVI, Thư
gửi Chính quyền dân sự và Ngoại giao đoàn tại Síp (Ngày 05 tháng sáu 2010):
L’Osservatore Romano (6 tháng sáu năm 2010), tr. 8, DC 2448 (năm 2010), tr. 572-573;
Ủy ban Quốc tế Thần Học, The Search for Universal Ethics: A New Look at
Natural Law, Vatican City, 2009.
[17] Phaolô VI, Sứ điệp
Ngày Hòa Bình Thế Giới 1976: AAS 67 (1975), 671, DC 1686 (năm 1975), tr.
953.
[18]
Ibid.: AAS 67 (1975), tr. 668, DC, 1686 (1975), tr. 953.
(Bản
dịch của Đức Thành, theo bản tiếng Pháp và tiếng Anh của Libreria
Editrice Vaticana)