Toàn văn Sứ điệp hòa bình của Đức Thánh Cha Phanxicô
vi.radiovaticana.va2013-12-14
15:49:30 – TÌNH HUYNH ĐỆ, NỀN TẢNG VÀ LÀ CON ĐƯỜNG DẪN TỚI
HÒA BÌNH
1. Trong sứ điệp Ngày
Thế Giới Hòa Bình đầu tiên của mình, tôi ước ao gửi đến mọi người, cá nhân cũng
như các dân tộc, ước mong về một đời sống được đổ đầy với niềm vui và hy vọng.
Trong trái tim của mỗi người nam và người nữ luôn thường trực một nỗi khao khát
về một đời sống sung mãn, bao gồm khao khát không thể kìm nén được về tình
huynh đệ vốn là điều lôi kéo chúng ta đến với người khác và giúp chúng ta đối
xử với họ không như là kẻ thù hay người đối địch, nhưng như là anh chị em được
đón nhận và ôm ấp.
Vì chúng ta là một hữu
thể tương quan, tình huynh đệ là một phẩm chất thiết yếu của con người. Một ý
thức sống động về mối tương quan này giúp chúng ta nhìn và đối xử với nhau như
là anh chị em đích thực. Không có tình huynh đệ thì không thể xây dựng một xã
hội công bình và một nền hòa bình bền vững và viên mãn. Chúng ta nên nhớ rằng
tình huynh đệ cách chung được học biết tại gia đình, trên hết là nhờ vào vai
trò trách nhiệm và sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên, đặc biệt là người
cha và người mẹ. Gia đình là nguồn mạch của tình huynh đệ, và như thế gia đình
chính là nền tảng và là con đường đầu tiên dẫn đến hòa bình, vì ơn gọi của gia
đình chính là thông truyền tình yêu cho thế giới xung quanh.
Việc gia tăng về các
mối liên hệ nối kết với nhau và truyền thông trong thế giới hôm nay khiến chúng
ta ý thức nhiều hơn về sự hiệp nhất và số phận chung của các quốc gia. Trong sự
năng động của lịch sử, trong sự đa dạng của các nhóm chủng tộc, xã hội và văn
hóa, chúng ta nhìn thấy những hạt giống, là ơn gọi hình thành một cộng đoàn gồm
những anh chị em biết đón nhận và chăm sóc lẫn nhau. Nhưng ơn gọi này vẫn
thường xuyên bị khước từ và lờ đi trong một thế giới bị ghi dấu bởi “sự toàn
cầu hóa dửng dưng”, điều làm cho chúng ta dần quen với sự đau khổ của người
khác và khép mình lại.
Tại nhiều nơi trên thế
giới, những tội ác chống lại những quyền nền tảng của con người dường như không
kết thúc, đặc biệt là quyền sống và quyền tự do tôn giáo. Những thảm cảnh về tệ
nạn buôn bán người, mà trong đó đời sống và nỗi tuyệt vọng của người khác là
miếng mồi ngon của những kẻ vô đạo đức, là một ví dụ điển hình cho vấn đề này.
Cùng với các cuộc xung đột vũ trang công khai là các cuộc chiến tranh ít nhìn
thấy hơn, nhưng không kém phần độc ác, đó là các cuộc chiến trong các lĩnh vực
kinh tế và tài chính, chúng phá hủy cuộc sống, phá hủy gia đình cũng như doanh
nghiệp.
Toàn cầu hóa, như ĐTC
Biển Đức 16 chỉ ra, làm cho chúng ta trở thành “hàng xóm” nhưng không giúp
chúng ta trở thành anh chị em của nhau.[1] Nhiều tình huống bất bình đẳng,
nghèo đói và bất công không chỉ là dấu chỉ của việc thiếu tình huynh đệ sâu sắc
mà còn là dấu chỉ của sự vắng mặt một nền văn hóa liên đới. Những ý thức hệ
mới, được đặc trưng bởi sự lan tràn của chủ nghĩa cá nhân, việc tự coi mình là
trung tâm và chủ nghĩa tiêu thụ vật chất, làm suy yếu đi các mối tương quan xã
hội và làm nảy sinh não trạng “thải bỏ” dẫn đến thái độ xem thường và loại bỏ
những người yếu đuối nhất và những người bị xem là “vô dụng”. Trong cách này,
sự đồng tồn tại của con người ngày càng có xu hướng trở thành một hành vi “có
qua có lại” (do ut des) đầy thực dụng và ích kỷ.
Đồng thời, rõ ràng là
hệ thống đạo đức đương đại không có khả năng tạo ra những mối tương quan huynh
đệ đích thực, vì tình huynh đệ này không muốn tham chiếu đến một vị Cha chung
là nền tảng tội hậu giúp nó tồn tại.[2] Tình huynh đệ đích thực giữa con người
giả thiết và đòi hỏi một Tình Phụ tử siêu vượt. Nếu đặt nền tảng trên việc thừa
nhận tình phụ tử này, tình huynh đệ nhân loại sẽ được củng cố: Mỗi người trở
thành một “bạn hữu” để chăm lo cho người khác.
“Em ngươi đâu?” (St
4,9)
2. Để hiểu đầy đủ hơn
về ơn gọi của con người đối với tình huynh đệ, để nhận ra một cách rõ ràng hơn
những cản trở trên bước đường hiện thực hóa ơn gọi này và để nhận ra những con
đường nhằm vượt qua những cản trở ấy, điều quan trọng nhất là chúng ta hãy để
cho mình hiểu biết kế hoạch của Thiên Chúa, một kế hoạch được trình bày trong
một cách thức trổi vượt trong Kinh Thánh.
Theo tường thuật Thánh
Kinh về sáng tạo, tất cả con người có nguồn gốc từ một cha mẹ, Adam và Eve, đôi
bạn được Thiên Chúa sáng tạo theo hình ảnh Ngài và giống như Ngài (xem St
1,26), từ họ, Cain và A-ben được sinh ra. Trong lịch sử của gia đình đầu tiên
này, chúng ta nhìn thấy nguồn gốc của xã hội và sự tiến triển của các mối tương
quan giữa các cá nhân và dân tộc.
A-ben là một người chăn
cừu, Cain là một người trồng trọt. Căn tính sâu sắc của họ và ơn gọi của họ
chính là anh em bất chấp sự đa dạng trong hoạt động và văn hóa, trong cách thức
họ tương quan với Thiên Chúa và tạo vật. Việc Cain đã giết em mình là A-ben cho
thấy một thảm kịch của sự khước từ triệt để ơn gọi làm anh em của Cain. Câu
chuyện của họ (xem. St 4,1-16) chỉ ra nhiệm vụ khó khăn mà mọi người nam và nữ
được mời gọi, để sống như một, mỗi người phải quan tâm đến người khác. Cain vì
không thể chấp nhận việc Thiên Chúa yêu mến A-ben hơn, vì A-ben đã dâng cho
Ngài lễ vật tốt nhất, - “Ðức Chúa đoái nhìn đến A-ben và lễ vật của ông, nhưng
Ca-in và lễ vật của ông thì Người không đoái nhìn. Ca-in giận lắm, sa sầm nét
mặt (St 4,4-5) – nên đã giết A-ben vì ghen tị. Theo cách này, ông từ chối xem
A-ben là anh em, có mối liên hệ đúng đắn với A-ben và sống trong sự hiện diện
của Thiên Cháu bằng cách đón nhận trách nhiệm chăm sóc và bảo vệ người khác.
Khi Thiên Chúa hỏi Cain “Em ngươi đâu?” (St 4,9), Thiên Chúa muốn Cain giải
thích điều ông đã làm. Ông trả lời: "Con không biết. Con là người giữ em
con hay sao?". Sau đó, sách Sáng Thế nói cho chúng ta biết, “Ông Cain đi
xa khuất mặt Ðức Chúa” (4,16).
Chúng ta tự hỏi đâu là
lý do đích thực khiến Cain xem thường mối tương quan huynh đệ và, đồng thời,
mối tương quan hỗ tương và huynh đệ nối kết ông với em mình là A-ben. Chính
Thiên Chúa đã kết án và quở trách Cain vì ông đã thông đồng với sự dữ: “tội lỗi
đang nằm phục ở cửa” (St 4,7). Nhưng Cain đã khước từ, ông đồng lõa với sự dữ
và quyết định “xông đến giết A-ben, em mình.” (St 4,8), như thế là ông xem
thường kế hoạch của Thiên Chúa. Và như thế, ông đã phá vỡ lời mời gọi ban sơ
của mình để trở nên con cái Thiên Chúa và sống trong tình huynh đệ.
Câu chuyện của Cain và
A-ben dạy cho chúng ta biết rằng chúng ta có một lời mời gọi huynh đệ, nhưng nó
cũng có thể trở thành thảm kịch khi phản bội lại lời mời gọi này. Điều này được
chứng thực bởi những hành động ích kỷ hàng ngày của chúng ta, chúng là nguồn
gốc của quá nhiều chiến tranh và bất công: nhiều người nam và người nữ đã chết
dưới bàn tay của anh chị em mình, những người không có khả năng để nhận ra nơi
người khác như chính họ là, nghĩa là như là những hữu thể được dựng nên trong
mối tương quan với người khác, trong sự hiệp thông và trao ban.
“Tất cả anh em đều là
anh em với nhau” (Mt 23,8)
3. Một câu hỏi tự nhiên
nảy sinh là: Người nam và người nữ trên thế giới này có khả năng để đáp trả một
cách trọn vẹn khao khát tình huynh đệ mà Thiên Chúa là Cha đã đặt để trong họ
không? Họ sẽ tự mình nỗ lực bởi chính khả năng của họ để vượt qua sự khác biệt,
ích kỷ và ghen ghét và đón nhận những khác biệt chính đáng nơi anh chị em mình
không?
Nhờ vào việc diễn giải
lời của Đức Giê-su, chúng ta có thể tóm tắt câu trả lời mà Ngài đã đưa ra:
“Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là "rápbi", vì anh em chỉ có
một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau” (xem Mt 23,8-9). Nền tảng
của tình huynh đệ được dựa trên tình phụ tử của Thiên Chúa. Chúng ta không nói
về tình phụ tử giống loài, đầy mơ hồ và bất toàn trong lịch sử, nhưng đúng hơn
là một tình yêu cụ thể đầy trổi vượt và đặc biệt của Thiên Chúa dành cho mỗi
người nam và nữ (xem Mt 6,25-30). Vì thế, chính tình phụ tử ấy làm nảy sinh một
cách hiệu quả tình huynh đệ, bởi vì tình yêu Thiên Chúa, một khi được đón nhận,
trở thành một phương tiện lớn lao biến đổi đời sống chúng ta và các mối tương
quan của chúng ta với người khác, giúp chúng ta mở mình ra với tình liên đới và
sự chia sẻ đích thực.
Trong một cách cụ thể,
tình huynh đệ nhân loại được tái tạo trong và qua Đức Giê-su Ki-tô, qua cái
chết và phục sinh của Người. Thánh giá chính là điểm nền tảng cuối cùng mà con
người không thể tự mình tái tạo nên. Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã mặc lấy bản chất
con người để cứu độ nó, yêu mến Chúa Cha cho đến chết trên Thập Giá (xem Pl
2,8), qua sự phục sinh của mình đã biến chúng ta thành một nhân loại mới, trong
sự hiệp thông trọn vẹn với ý muốn của Thiên Chúa, với kế hoạch của Người, bao
gồm một sự hiện thực hóa trọn vẹn ơn gọi làm huynh đệ.
Từ khởi đầu, Đức Giê-su
đã đón nhận kế hoạch của Cha, thừa nhận tính ưu việt của nó trên mọi sự. Nhưng
Đức Ki-tô, khi từ bỏ chính mình cho đến chết vì tình yêu dành cho Cha, Ngài đã
trở thành nguyên lý chung kết và mới mẻ dành cho tất cả chúng ta; trong Ngài,
chúng ta được mời gọi để đối xử với nhau như anh chị em, bởi vì chúng ta là con
cái của cùng một Cha. Chính Ngài là Giao ước; nơi Ngài, chúng ta được hòa giải
với Thiên Chúa và với nhau như anh chị em. Cái chết của Đức Giê-su trên Thập
giá cũng chấm dứt sự chia cách giữa mọi người, giữa dân của Giao ước và Dân
Ngoại, những người cho đến giây phút đó không còn hy vọng, vì họ không phải là
một phần của Lời hứa. Như chúng ta đọc thấy trong thư gửi Tín hữu Ê-phê-sô, Đức
Giê-su Ki-tô là Đấng hòa giải mọi người nơi chính Ngài. Ngài chính là sự bình
an, vì Ngài làm hai người trở nên một, phá vỡ bức tường phân cách chia rẽ họ,
là sự thù nghịch giữa họ. Ngài đã tạo nên nơi chính mình một dân, một con người
mới, một nhân loại mới (xem 2,14-16).
Tất cả những ai đón
nhận đời sống của Đức Ki-tô và sống nơi Ngài biết rằng Thiên Chúa là Cha và họ
sẽ trao ban trọn vẹn thân mình cho Ngài, bằng cách yêu mến Ngài trên hết mọi
sự. Một người đã được hòa giải sẽ nhận ra Thiên Chúa là Cha của mọi người, và
kết quả là, họ được mời gọi để sống đời sống đệ huynh dành cho hết mọi người.
Nơi Đức Ki-tô, người khác được chào đón và được yêu thương như người con trai
hay con gái của Thiên Chúa, như một người chị, một người anh, chứ không phải
như người xa lạ, hay tệ hơn là như một kẻ đối địch và thậm chí là kẻ thù. Trong
gia đình của Thiên Chúa, nơi mọi người con trai và con gái có cùng một Cha, và
vì họ được tháp nhập vào Chúa Ki-tô, những người con trai và con gái này sẽ ở
trong Người Con, không phải là “đời sống đáng vứt đi”. Tất cả người nam và nữ
chung hưởng một phẩm giá như nhau và không ai có thể xâm phạm được. Mọi người
đều được Thiên Chúa yêu mến. Mọi người đều được cứu chuộc bởi máu của Đức
Ki-tô, Đấng đã chết trên Thập giá và đã sống lại vì hết thảy chúng ta. Đây
chính là lý do tại sao không ai có thể tiếp tục dửng dưng trước số phận của anh
chị em mình.
Tình huynh đệ, nền tảng và là con
đường dẫn đến hòa bình
4. Điều này muốn nói
rằng, thật dễ để nhận ra rằng tình huynh đệ chính là nền tảng và con đường dẫn
đến hòa bình. Liên quan đến vấn đề này, các thông điệp xã hội mà các vị tiền
nhiệm của tôi đã viết trở nên hữu ích. Có lẽ chỉ cần trích dẫn lại những định
nghĩa về hòa bình trong các Thông điệp Populorum
Progressio của Đức Thánh Cha
Phaolô VI và Sollicitudo Rei
Socialis của Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II thì đã khá đầy đủ. Qua thông điệp thứ nhất, chúng ta biết rằng
sự phát triển hội nhất của các dân tộc là một danh xưng mới của nền hòa
bình.[3] Từ thông điệp thứ hai, chúng ta kết luận rằng hòa bình là thành quả
của sự liên đới (Opus solidaritatis pax).[4]
Đức Phaolô VI đã trình
bày rằng, không chỉ cá nhân mà các quốc gia cũng phải gặp gỡ nhau trong tình
huynh đệ. Ngài nói: “Trong tình bạn và trong sự hiểu biết lẫn nhau, trong sự
hiệp thông thánh này, chúng ta cũng phải… cùng nhau lao tác để xây dựng tương
lai chung cho nhân loại”.[5] Trước hết, nhiệm vụ này dành cho những người được
ưu tuyển. Trách nhiệm của họ được cắm rễ sâu trong tình huynh đệ nhân loại và
mang tính siêu vượt, và được biểu lộ trong ba cách: bổn phận liên đới, vốn đòi
hỏi các nước giàu hơn trợ giúp các nước kém phát triển hơn; bổn phận công bình
xã hội, cần tổ chức lại các mối tương quan giữa kẻ mạnh hơn và người yếu thế
hơn để có sự công bằng hơn; và bổn phận đức ái chung, bao gồm sự thăng tiến một
thế giới nhân bản hơn dành cho mọi người, một thế giới mà nơi ấy mỗi người có
một điều gì đó để trao và nhận, mà không xem sự thăng tiến của người này là sự
cản trở cho sự phát triển của người khác.[6]
Vậy, nếu chúng ta xem
hòa bình là thành quả của sự liên đới, chúng ta không thể không ý thức rằng
tình huynh đệ chính là nguyên lý nền tảng của nó. Hòa bình, như ĐTC Gioan
Phaolô II khẳng định, là một sự thiện không thể phân chia. Nó là một sự thiện
dành cho tất cả và nó cũng là một sự thiện không thuộc về ai. Hòa bình chỉ có
thể đạt được và được hưởng dùng, như là một phẩm chất cao nhất của đời sống và
một sự phát triển bền vững của nhân loại, nếu tất cả mọi người được hướng dẫn
bởi tình liên đới như “là một quyết tâm mạnh mẽ và bền bỉ trong việc dấn thân
cho lợi ích chung”.[7] Điều này có nghĩa là đừng để mình được hướng dẫn bởi
“ham hố lợi nhuận” hay “khao khát quyền lực”. Điều cần thiết là khao khát “từ
bỏ chính mình” vì lợi ích của người khác hơn là khai thác họ, và “phục vụ họ”
thay vì áp bức họ vì lợi ích của bản thân mình. “Tha nhân” – cho dẫu là một
người hay một quốc gia – không được xem như một loại công cụ, với khả năng làm
việc hay sức mạnh thể lý được khai thác với chi phí rẻ mạt, và rồi loại bỏ khi
không còn hữu dụng, nhưng là như “đồng loại của chúng ta”, một “trợ tá.”[8]
Tình liên đới Kitô giáo
giả thiết rằng tha nhân cần được yêu mến không chỉ “là một con người với những
quyền lợi và sự bình đẳng căn bản đối với mọi người, mà còn trở nên hình ảnh
sống động của Thiên Chúa Cha, được máu Đức Kitô cứu chuộc và là đối tượng hoạt
động của Chúa Thánh Thần”,[9] như biết bao nhiêu anh chị em khác. Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II lưu ý: “Lúc đó ý thức về tình phụ tử chung của Thiên Chúa, về
tình huynh đệ của mọi người trong Đức Kitô, ‘những người con trong Chúa Con’,
về sự hiện diện và họat động ban sự sống của Chúa Thánh Thần, đem lại cho cái
nhìn của chúng ta về thế giới một tiêu chuẩn mới để giải thích nó,”[10] để thay
đổi nó.
Tình huynh đệ, một đòi hỏi cho cuộc chiến chống đói nghèo
5. Trong Thông Điệp Bác
ái trong Chân Lý, vị tiền nhiệm của tôi đã nhắc nhở thế giới về sự thiếu hụt
tình huynh đệ giữa các dân tộc và giữa người nam và nữ là một nguyên nhân quan
trọng của nghèo đói.[11] Trong nhiều xã hội, chúng ta kinh nghiệm về một sự
nghèo nàn về các mối tương quan là kết quả của việc thiếu các mối tương quan
vững chắc trong gia đình và xã hội. Chúng ta bận tâm nhiều đến các khó khăn, bị
gạt ra bên lề, cô lập và các chứng phụ thuộc bệnh lý ngày càng gia tăng. Loại
nghèo khó này chỉ có thể vượt qua nhờ vào việc tái khám phá và tôn trọng các
mối tương quan huynh đệ trong trái tim của các gia đình và cộng đoàn, thông qua
sự chia sẻ niềm vui và nỗi buồn, những thất bại cũng như thành công, vốn là một
phần của đời sống con người.
Hơn nữa, nếu như một
mặt chúng ta đang chứng kiến một sự giảm sút trong nghèo khó thuần túy, thì mặc
khác, chúng ta cũng không thể không nhận ra rằng có một sự gia tăng rất nghiêm
trọng về tình trạng nghèo đói tương đối, nghĩa là những bất công giữa những
người và giữa các nhóm cùng chung sống trong một vùng cụ thể hay trong một bối
cảnh văn hóa lịch sử xác định. Trong ý nghĩa này, các chính sách hiệu quả cần
thăng tiến nguyên lý huynh đệ, nhằm đảm bảo cho con người – những người bình
đẳng trong phẩm giá và trong các quyền nền tảng – có thể tiếp cận đến các nguồn
vốn, các dịch vụ, hệ thống giáo dục, sức khỏe và kỹ thuật để mỗi người có cơ
hội diễn tả và hiện thực hóa dự án đời sống mình và có thể phát triển một cách
trọn vẹn như một con người.
Một người cũng thấy rất
cần có những chính sách nhằm giảm thiểu một sự bất công quá lớn trong thu nhập.
Chúng ta đừng quên rằng Giáo huấn của Giáo hội về điều được gọi là khế ước xã
hội, mà cho rằng, như thánh Tôma Aquinô nói, điều hợp luật và thực sự cần thiết
là “người ta có quyền sở hữu”,[12] trong những gì liên quan đến việc sử dụng
của mình, “họ sở hữu chúng không giống như tài sản của mình nhưng cũng là tài
sản chung cho người khác, nghĩa là chúng có thể mang lại lợi ích cho người khác
cũng như chính bản thân họ”.[13]
Cuối cùng, có một cách
thức khác để thăng tiến tình huynh đệ - và thực sự đánh bại sự nghèo đói – mà
cũng là nền tảng của tất cả những điều khác. Nó là sự tách mình ra của những
người chọn một lời sống đơn sơ và đích thực, của những người mà, bằng cách chia
sẻ tài sản của mình, họ thực sự đang cố gắng để kinh nghiệm sự hiệp thông huynh
đệ với người khác. Đây chính là nền tảng cho việc theo Đức Ki-tô và trở nên
Ki-tô hữu đích thực. Đây không chỉ là trường hợp của những người sống đời sống
thánh hiến, những người tuyên khấn lời khấn nghèo khó, nhưng là của biết bao
nhiêu gia đình và người dân đầy trách nhiệm, những người xác tín rằng, chính
mối tương quan huynh đệ của họ với tha nhân mới hình thành nên sự thiện quý giá
nhất.
Tái khám phá tình huynh đệ trong nền kinh tế
6. Các cuộc khủng hoảng
kinh tế và tài chính nghiêm trọng trong thời gian gần đây – mà nhận ra gốc rễ
của chúng chính là con người dần lạc xa Thiên Chúa và tha nhân, một mặt là do
việc theo đuổi những của cải vật chất, và mặt khác là do sự bần cùng hóa các
mối tương quan liên vị và cộng đoàn – đã thúc đẩy con người tìm kiếm sự thỏa
mãn, hạnh phúc và an toàn trong việc tiêu thụ và lợi lộc từ tất cả những gì
liên quan đến các nguyên lý của một nền kinh tế vững mạnh. Vào năm 1979, ĐTC
Gioan Phaolô II đã mời gọi mọi người lưu ý tới “một lối nhận thức thật sự nguy
hại là, trong khi sự thống trị của con người trên thế giới sự vật đang có những
bước tiến lớn lao, thì trong sự thống trị của mình, con người đang dần đánh mất
những mối dây thiết yếu và trong những cách thế khác nhau, bản tính nhân loại
đang bị lệ thuộc vào thế giới và tự mình trở nên một điều phụ thuộc và bị sử
dụng, và thậm chí việc sử dụng này không được nhận thức một cách đúng đắn –
thông qua toàn thể tổ chức đời sống cộng đoàn, qua hệ thống sản xuất và áp lực
từ các phương tiện truyền thông xã hội.”[14]
Các cuộc khủng hoảng
kinh tế nối tiếp nhau nói cho chúng ta biết chúng ta cần suy nghĩ lại về những
khuôn mẫu phát triển kinh tế của chúng ta và tiến tới một sự thay đổi trong
cách sống. Các cuộc khủng hoảng ngày nay, thậm chí với những hậu quả nghiêm
trọng cho đời sống con người, cũng cung cấp cho chúng ta một cơ hội quý giá để
tái khám phá các nhân đức khôn ngoan, tiết độ, công bình và can đảm. Các nhân
đức này có thể giúp chúng ta vượt qua những thời khắc khó khăn để tái khám phá
mối dây huynh đệ nối kết chúng ta với người khác, với một niềm tin tưởng sâu
sắc rằng con người cần và có khả năng đạt được điều gì lớn hơn là việc tối đa
hóa lợi ích cá nhân. Trên hết, các nhân đức này cần thiết để xây dựng và giữ
gìn một xã hội hợp với phẩm giá con người.
Tình huynh đệ dập tắt chiến tranh
7. Trong năm qua, nhiều
anh chị em của chúng ta tiếp tục phải gánh chịu kinh nghiệm hủy hoại của chiến
tranh, gây nên một vết thương sâu và nghiêm trọng ảnh hưởng đến tình huynh đệ.
Nhiều cuộc xung đột đang diễn ra giữa sự thờ ơ chung. Với những anh chị em đang
sống trong những vùng đất nơi đó vũ khí áp đặt khủng bố và sự hủy diệt, tôi đảm
bảo sự gần gũi cá nhân tôi và sự gần gũi của toàn thể Giáo hội, sứ mạng của
Giáo hội là mang tình yêu của Chúa Ki-tô đến với những nạn nhân không có khả
năng tự vệ, bị lãng quên bởi chiến tranh thông qua lời cầu nguyện cho sự hòa
bình, qua sự phục vụ cho những người bị thương tích, đói kém, di dân, những
người phải thay đổi nơi ở và tất cả những người đang sống trong sợ hãi. Giáo
hội cũng sẽ lên tiếng để giúp các vị lãnh đạo lắng nghe được tiếng khóc than
của những người đang gặp đau khổ và đặt một dấu chấm hết cho mọi hình thức của
hận thù, lạm dụng và bạo lực đối với các quyền nền tảng của con người.[15]
Vì lý do này, tôi mạnh
mẽ khuyến cáo những ai gieo rắc bạo lực và cái chết bằng sức mạnh của vũ khí:
Trong con người mà hôm nay bạn chỉ thấy đơn thuần là một kẻ thù bị đánh đập,
hãy khám phá ra rằng họ là anh chị em của bạn, và hãy ôm họ vào vòng tay bạn!
Hãy từ bỏ những con đường của vũ khí và đi ra ngoài để gặp gỡ người khác trong
đối thoại, tha thứ và hòa giải, để tái xây dựng hòa bình, tin tưởng và hy vọng
xung quanh bạn! “Từ quan điểm này, rõ ràng là, đối với các dân tộc trên thế
giới, xung đột vũ trang luôn luôn là một sự phủ định có chủ ý đối với sự hòa
hợp quốc tế, và tạo ra sự chia rẽ sâu sắc và những vết thương sâu đòi hỏi nhiều
năm để chữa lành. Chiến tranh là một sự khước từ cụ thể trong việc theo đuổi
các mục tiêu kinh tế và xã hội to lớn mà cộng đồng quốc tế đã đề ra".[16]
Dầu vậy, bao lâu vẫn
còn lượng vũ khí rất lớn đang lưu hành như hiện nay, những cái cớ mới có thể
luôn được tìm thấy để bắt đầu hận thù. Vì lý do này, chính bản thân tôi cũng
như các vị tiền nhiệm của tôi khẩn khoản mời gọi hạn chế sử dụng vũ khí giết
người hàng loạt và các bên cần giải trừ quân bị, bắt đầu với việc giải trừ vũ
khí hạt nhân và hóa học.
Tuy chúng ta không thể
không nhận ra rằng các thỏa thuận và các luật lệ quốc tế - là điều cần thiết và
rất đáng ao ước – nhưng tự chúng không đủ để bảo vệ con người ra khỏi những rủi
ro của xung đột vũ trang. Một cuộc hoán cải con tim cần thiết sẽ cho phép mỗi
người nhận ra nơi người khác là người anh người chị cần chăm sóc, và để cùng
làm việc với nhau trong việc xây dựng một đời sống viên mãn cho mọi người.
Chính tinh thần này đã gợi hứng cho nhiều sáng kiến trong xã hội dân sự, bao
gồm các tổ chức tôn giáo trong việc thăng tiến hòa bình. Tôi bày tỏ hy vọng
rằng các cam kết hàng ngày sẽ tiếp tục đơm hoa kết trái và áp dụng hiệu quả
trong luật pháp quốc tế về quyền đối với hòa bình, như là một quyền cơ bản của
con người và điều kiện tiên quyết cần thiết cho tất cả các quyền khác.
Tham nhũng và tội ác có
tổ chức đe dọa tình huynh đệ
8. Chiều kích huynh đệ
là điều cần thiết cho sự hoàn thiện của mỗi người nam và nữ. Những tham vọng
hợp lý của con người, đặc biệt nơi những người trẻ, không nên bị cản trở hay
chống đối, người ta cũng không nên bị cướp đi niềm hy vọng hiện thực hóa những
tham vọng này. Dầu vậy, tham vọng không được lẫn lộn với việc lạm dụng quyền
lực. Trái lại, mọi người cần thương mến nhau với tình huynh đệ (xem Rm 12,10).
Trong những bất đồng, là điều không thể tránh khỏi trong cuộc sống, chúng ta
luôn nhớ rằng chúng ta là anh chị em, và do đó cần khuyên nhủ người khác và
khuyên nhủ nhau để không xem tha nhân là kẻ thù hay một địch thủ cần bị loại
trừ.
Tình huynh đệ tạo ra
bình an cho xã hội bởi vì nó tạo ra một sự quân bình giữa tự do và công bình,
giữa trách nhiệm cá nhân và liên đới, giữa lợi ích cá nhân và ích chung. Và vì
thế, một cộng đồng chính trị cần hoạt động trong một cách thức rõ ràng và trách
nhiệm để hỗ trợ cho điều này. Các công dân phải cảm thấy mình là người đại biểu
của chính quyền công cộng liên quan đến tự do của mình. Nhưng lợi ích của các
bên đã chen vào giữa công dân và các tổ chức và phá vỡ mối quan hệ đó, điều này
đã thúc đẩy tạo ra một bầu khí xung đột lâu dài.
Một tình huynh đệ đích
thực vượt qua sự ích kỷ cá nhân, điều vốn xung đột với khả năng con người sống
trong tự do và hòa hợp với nhau. Sự ích kỷ như thế phát triển về mặt xã hội –
cho dẫu nó ở dưới nhiều hình thức của tham nhũng, rất phổ biến ngày nay, hay
trong sự huấn luyện của các tổ chức tội ác, từ những nhóm nhỏ đến những nhóm
được tổ chức trên phạm vi toàn cầu. Các nhóm này phá vỡ các luật lệ và công
bình, đụng chạm đến trái tim của phẩm giá con người. Các tổ chức này chống lại
Thiên Chúa một cách nghiêm trọng, họ làm tổn thương người khác và làm hại đến
công trình sáng tạo, điều này càng nghiêm trọng hơn khi chúng có âm điệu tôn
giáo.
Tôi cũng nghĩ về thảm
kịch đau lòng về việc lạm dụng thuốc nhằm mang về lợi nhuận mà xem thường các
luật luân lý và dân sự. Tôi nghĩ về sự tàn phá các nguồn lực tự nhiên và sự ô
nhiễm vẫn còn tiếp diễn, và thảm kịch bóc lột lao động. Tôi cũng nghĩ đến nạn
buôn tiền bất hợp pháp và sự đầu cơ tài chính, là điều thường minh chứng cho
việc bóc lột cũng như gây thiệt hại cho toàn thể hệ thống kinh tế xã hội. Tôi
nghĩ về tệ nạn mãi dâm, mỗi ngày thu lợi từ những nạn nhân vô tội, đặc biệt là
người trẻ, cướp đi tương lai của họ. Tôi nghĩ về sự kinh tởm của nạn buôn
người, các tội ác, và lạm dụng chống lại các dân tộc thiểu số, nỗi kinh hoàng
của tình trạng nô lệ vẫn con hiện diện ở nhiều nơi trong thế giới hôm nay; thảm
kịch của người di dân thường bị xem nhẹ, họ là những nạn nhân thường xuyên của
việc đối xử bất công và bất hợp pháp. Như Đức Thánh Cha Gioan 23 đã viết: “Con
người không thể tồn tại trong một xã hội chỉ dựa trên các mối tương quan quyền
lực. Thay vì khích lệ sự thành tựu và phát triển của con người như nó nên làm,
quyền lực thường cản trở và hạn chế tự do của con người”.[17] Nhưng con người
có thể hoán cải; họ sẽ không bao giờ phải thất vọng vì họ có thể thay đổi cuộc
sống của mình. Tôi ước mong điều này trở thành một sứ điệp hy vọng và tin tưởng
cho mọi người, kể cả những ai đang phạm những tội ác tày trời, vì Thiên Chúa
không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn họ hoán cải và được sống (xem Ed
18,23).
Trong bối cảnh rộng lớn
của các mối liên hệ xã hội, khi chúng ta nhìn vào tội ác và hình phạt, chúng ta
không thể giúp gì ngoại trừ việc nghĩ về những điều kiện thiếu tình thương
trong các nhà tù, nơi đó, những người bị giam giữ thường bị giản lược vào một
tình trạng không giống người (subhuman status), vi phạm đến phẩm giá con người
và cướp khỏi họ niềm hy vọng và khao khát phục hồi. Giáo hội đã dấn thân nhiều
trong môi trường này, hầu như là trong thầm lặng. Tôi khích lệ mọi người tiếp
tục dấn thân, và hy vọng rằng những nỗ lực được thực hiện trong môi trường này
của biết bao nhiêu người nam và người nữ đầy can đảm sẽ dần được các chính
quyền dân sự hỗ trợ trong sự công bằng và chân thật.
Tình huynh đệ giúp giữ gìn và nuôi dưỡng tự nhiên
9. Gia đình nhân loại
đã đón nhận một quà tặng chung từ Đấng Sáng Tạo: đó là tự nhiên. Quan điểm
Ki-tô giáo về sáng tạo bao hàm một lối đánh giá tích cực về những can thiệp hợp
lý vào tự nhiên nếu những sự can thiệp này đem lại lợi ích và được thực thi với
tinh thần trách nhiệm, nghĩa là ý thức về “ngữ pháp” được khắc ghi trong tự
nhiên và sử dụng một cách khôn ngoan các nguồn lực để mang lại lợi ích cho hết
thảy mọi người, trong sự tôn trọng vẻ đẹp, cùng đích và sự hữu ích của mọi hữu
thể sống và vị trí của nó trong hệ sinh thái. Tóm lại, tự nhiên được dành sẵn
cho chúng ta và chúng ta được mời gọi để trở nên một người quản lý đầy trách
nhiệm trên nó. Nhưng quá thường xuyên, bị thúc đẩy bởi lòng tham và khao khát
thống trị, sở hữu, sử dụng và khai thác; chúng ta không gìn giữ tự nhiên, chúng
ta cũng không tôn trọng hay xem tự nhiên như một quà tặng nhưng không mà chúng
ta cần phải chăm sóc và dành để phục vụ cho anh chị em mình, kể cả thế hệ tương
lai.
Cụ thể, lĩnh vực nông
nghiệp là lĩnh vực sản xuất quan trọng nhất, với ơn gọi quan trọng là nuôi
dưỡng và bảo vệ các nguồn lực tự nhiên để nuôi sống con người. Trong lĩnh vực
này, nỗi hổ thẹn về nạn đói vẫn tiếp diễn khiến tôi muốn chia sẻ với anh chị em
câu hỏi này: Chúng ta đang sử dụng các nguồn lực của trái đất này như thế nào?
Các xã hội đương đại cần phản tỉnh về trật tự ưu tiên mà sản phẩm hướng đến. Nó
là một nhiệm vụ thực sự áp lực để sử dụng các nguồn lực trên trái đất này sao
cho mọi người được giải phóng khỏi nạn đói. Các sáng kiến và các giải pháp khả
thi thì rất nhiều, và không chỉ giới hạn trong việc gia tăng sản phẩm. Ai cũng
biết rằng sản phẩm hiện nay đang đủ dùng, nhưng một tỉ người tiếp tục chịu đau
khổ và chết vì đói, và đây là một điều đáng xấu hổ thực sự. Vì vậy, chúng ta
cần tìm kiếm những con đường mà ngang qua đó mọi người có thể hưởng được ích
lợi từ hoa trái của đất đai, không chỉ để tránh sự gia tăng khoảng cách giữa
người có nhiều hơn và những người hài lòng với những mảnh vụn của mình, nhưng
trên hết nó là vấn đề công bình, bình đẳng và tôn trọng mỗi người. Liên quan
đến vấn đề này, tôi ước mong nhắc nhở mọi người về mục đích chung tất yếu của
tất cả tài sản là một trong những nguyên lý nền tảng trong học thuyết xã hội
của Giáo hội. Tôn trọng nguyên lý này chính là điều kiện thiết yếu giúp người
ta dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với những tài sản thiết yếu và quan trọng,
là điều mọi người cần và là quyền lợi của mỗi người nam và người nữ.
Kết luận
10. Tình huynh đệ cần
được khám phá, yêu mến, kinh nghiệm công bố và làm chứng. Nhưng chỉ có tình
yêu, là một quà tặng từ Thiên Chúa, mới có thể giúp chúng ta đón nhận và kinh
nghiệm một cách trọn vẹn tình huynh đệ này.
Chủ nghĩa duy thực
thiết yếu là điều phù hợp với chính trị và kinh tế không thể được giảm thiểu
đến những bí quyết kỹ thuật đầy lý tưởng mà không quan tâm đến chiều kích siêu
việt của con người. Khi thiếu việc mở ra với Thiên Chúa, mỗi hoạt động của con
người trở nên nghèo nàn và con người bị giản lược thành đối tượng có thể bị
khai thác. Chỉ khi các thể chế chính trị và kinh tế mở ra để chuyển động trong
một không gian rộng lớn được đảm bảo bởi Đấng duy nhất yêu mến mỗi người nam và
người nữ, khi ấy chúng mới có thể đạt được một trật tự đặt nền tảng trên tinh
thần đức ái đích thực và trở nên những khí cụ hữu hiệu trong việc phát triển
hội nhất và hòa bình của nhân loại.
Chúng ta, những người
Ki-tô hữu tin rằng trong Giáo hội, chúng ta là các chi thể của một thân thể duy
nhất, hỗ trợ nhau, bởi vì mỗi người được trao ban một ân sủng theo tiêu chuẩn
quà tặng của Đức Ki-tô, vì lợi ích chung (xem Eph 4,7.25; 1 Cor 12,7). Đức
Ki-tô đã đến thế gian để mang cho chúng ta ân sủng thần linh, nghĩa là khả năng
chia sẻ đời sống trong Ngài. Điều này đòi hỏi một sự thêu dệt một cơ cấu các
mối tương quang huynh đệ được đánh dấu bởi mối tương quan hỗ tương, sự tha thứ
và sự trao ban trọn vẹn, theo chiều sâu và chiều rộng của tình yêu Thiên Chúa
được trao ban cho con người nơi Đấng Duy Nhất, đã chịu chết và sống lại, để lôi
cuốn mọi người đến với Ngài: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em
hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ
nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau"
(Ga 13, 34-35). Đây chính là một tin tốt lành đòi hỏi mỗi người bước về phía
trước, thực thi lòng thương xót vô hạn, lắng nghe những đau khổ cũng như hy
vọng của người khác, kể cả những người ở xa tôi, và bước đi trên con đường đầy đòi
hỏi của tình yêu, một tình yêu biết trao ban và tiêu tốn chính mình một cách tự
do cho lợi ích của anh chị em chúng ta.
Đức Ki-tô ôm trọn tất
cả nhân loại và mong muốn không ai bị hư mất. “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của
Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ
Con của người, mà được cứu độ” (Ga 3,17). Ngài làm điều ấy mà không đàn áp hay
cưỡng bức bất cứ ai mở cánh cửa trái tim và tâm hồn ra với Ngài. “Anh em thì
không như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người phục
vụ. Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi
ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22,
26-27). Do đó, mọi hành động cần được nhận ra bởi thái độ phục vụ con người,
đặc biệt là những người ở xa nhất và không được biết đến. Phục vụ chính là linh
hồn của tình huynh đệ, điều xây dựng hòa bình.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ Chúa
Giê-su, xin giúp chúng con hiểu và sống mỗi ngày tình huynh đệ xuất phát từ
trái tim Con Mẹ, để chúng con mang bình an đến với mỗi người trên trái đất thân
yêu của chúng con.
Từ Vatican, 8 tháng 12
năm 2013
Nguyễn Minh Triệu sj
chuyển ngữ
[1] Xem Thông Điệp Caritas in veritate (29 tháng 6 năm 2009), 19: AAS 101 (2009), 654-655.
[2] Xem ĐTC Phanxicô, Thông Điệp Lumen fidei (29 tháng 6 2013), 54: AAS 105 (2013), 591-592.
[3] Xem ĐTC Phaolô VI, Thông Điệp Populorum progressio (26 tháng 3 năm 1967), 87: AAS 59 (1967), 299.
[4] Xem ĐTC Gioan Phaolô II, Thông Điệp Sollicitudo rei socialis (30 tháng 12 năm 1987), 39: AAS 80 (1988), 566-568.
[5] Thông Điệp Populorum progressio (26 tháng 3 năm 1967), 43: AAS 59 (1967), 278-279).
[6] Xem ibid., 44: AAS 59 (1967), 279.
[7] Thông Điệp Sollicitudo rei socialis (30 tháng 12 năm 1987), 38: AAS 80 (1988), 566.
[8] Ibid., 38-39: AAS 80 (1988), 566-567.
[9] Ibid., 40: AAS 80 (1988), 569.
[10] Ibid.
[11] Xem Thông Điệp Caritas in veritate (29 tháng 5 năm 2009), 19: AAS 101 (2009), 654-655.
[12] Summa Theologiae II-II, q. 66, art. 2.
[13] Conc. Ecum. Vat. II, Cost. past. sulla Chiesa
nel mondo contemporaneo Gaudium
et spes, 69. Cfr Leone XIII, Lett. enc. Rerum
novarum (15 maggio 1891), 19: ASS 23 (1890-1891), 651; Giovanni Paolo
II, Lett. enc. Sollicitudo rei
socialis (30 dicembre 1987),
42: AAS 80 (1988), 573-574; Pontificio Consiglio
della Giustizia e della Pace, Compendio della Dottrina sociale della Chiesa, n.
178.
[14] Thông Điệp Redemptor hominis (4 tháng 3 năm 1979), 16: AAS 61 (1979), 290.
[15] Hội đồng giáo hoàng về Công Lý và Hòa
Bình, Tóm lược Giáo Thuyết xã Hội Công Giáo, số 159.
[16] ĐTC Phanxicô, Thử gửi Tổng thống Putin, 4
tháng 9 năm 2013: L’Osservatore
Romano, 6 tháng 9 năm 2013, trang 1.
[17] Thông Điệp Pacem in terris (11 tháng 4 năm 1963), 17: AAS 55 (1963), 265.