SỨ ĐIỆP NGÀY THẾ GIỚI HÒA BÌNH 2016: CHIẾN THẮNG SỰ DỬNG DƯNG VÀ
MANG LẠI HÒA BÌNH
(xuanbichvietnam.net) Tháng Mười Hai
30th, 2015.
1. Thiên Chúa không dửng dưng !
Thiên Chúa coi trọng nhân loại, Thiên Chúa không bỏ rơi nhân loại! Khởi đầu năm mới, với niềm xác tín sâu
xa này, tôi xin kèm theo những lời cầu chúc dồi dào phúc lành và bình an, dưới
dấu chỉ của niềm hy vọng, cho tương lai của mọi người nam và người nữ, của mọi
gia đình, dân tộc và quốc gia trên thế giới, cũng như các vị Quốc Trưởng và
Chính Phủ và các vị hữu trách các tôn giáo. Quả thế, đừng đánh mất niềm hy vọng
nhìn thấy trong năm 2016 mỗi người dấn thân mạnh mẽ và đầy tin tưởng, ở những cấp
độ khác nhau, để thực hiện công lý và hòa bình. Vâng, hòa bình là ân huệ của
Thiên Chúa và công trình của con người. Hòa bình là ân huệ của Thiên Chúa,
nhưng ân huệ được giao phó cho mọi người nam và người nữ được kêu gọi để thực
hiện điều đó.
Giữ gìn những lý do hy vọng
2. các cuộc chiến
tranh và các hành động khủng bố, với những hậu quả bi thảm của chúng, những vụ
bắt cóc giam giữ người ta, những cuộc bách hại vì những động cơ sắc tộc hay tôn
giáo, những vụ lạm dụng quyền lực, đã đánh dấu một năm vừa qua. Nơi nhiều vùng
trên thế giới, những điều này đã trở nên phổ biến đến độ người ta có thể gọi là
một “cuộc chiến tranh thế giới lần thứ ba phân mảnh”. Nhưng một số biến cố của
những năm qua và của năm vừa kết thúc mời gọi tôi, trong viễn ảnh của năm mới,
làm mới lại lời khích lệ đừng đánh mất niềm hy vọng vào khả năng của con người,
với ân sủng của Thiên Chúa, chiến thắng sự dữ và không bỏ mặc cho sự cam chịu
và sự dửng dưng. Những biến cố này cho thấy khả năng của con người hành động vì
tình liên đới vượt quá những lợi ích cá nhân, sự vô cảm và sự dửng dưng đối với
những hoàn cảnh cấp bách.
Trong số đó tôi
muốn nhắc lại nỗ lực gặp gỡ của các nhà lãnh đạo trên thế giới, trong khuôn khổ
của Hội nghị lần thứ 21 về biến đối khí hậu (COP 21), để tìm kiếm những con đường
mới nhằm đương đầu với những biến đổi khí hậu và bảo vệ Trái đất, ngôi nhà
chung của chúng ta. Và điều này nhắc nhớ đến hai biến cố trước đó ở bình diện
thế giới: Hội nghị thượng đỉnh Addis Abeba nhằm tập hợp quỹ cho việc phát triển bền
vững của thế giới; và việc Liên Hiệp Quốc thông qua chương trình nghị sự 2030
vì sự phát triển bền vững, nhắm đảm bảo, trước thời điểm này, một cuộc sống xứng
đáng hơn cho tất cả mọi người, nhất là cho những dân tộc nghèo trên thế giới.
Năm 2015 cũng
đã là một năm đặc biệt đối với Giáo Hội, bởi vì nó đánh dấu việc kỷ niệm 50 năm
công bố hai văn kiện của Công đồng Vatican II, những văn kiện diễn tả cách rất
hùng hồn ý nghĩa của sự liên đới của Giáo Hội với thế giới. Đức Giáo hoàng
Gioan XXIII, lúc khởi đầu Công đồng, đã muốn mở toang cánh cửa của Giáo Hội để
việc tương giao giữa Giáo Hội và thế giới được cởi mở hơn. Hai văn kiện, Nostra
aetate vàGaudium et spes, là những văn kiện biểu trưng cho mối tương quan mới mẻ về đối
thoại, liên đới và đồng hành mà Giáo Hội muốn đi vào lòng nhân loại. Trong
Tuyên ngôn Nostra aetate, Giáo Hội đã được mời gọi mở ra cho việc đối thoại với những niềm
tin ngoài Kitô giáo. Trong Hiến chế mục vụ Gaudium
et spes, vì « niềm
vui và hy vọng, sự u buồn và lo lắng của con người thời nay, nhất là của người
nghèo và của người đau khổ, cũng là niềm vui và hy vọng, sự u buồn và lo lắng của
các môn đệ của Chúa Kitô” (1), nên Giáo Hội muốn thiết lập một cuộc đối thoại với
gia đình nhân loại về những vấn đề của thế giới, như là dấu của tình liên đới
và lòng tôn trọng (2).
Chính trong viễn
ảnh này, cùng với Năm Thánh Lòng Thương Xót, tôi muốn mời gọi Giáo Hội cầu nguyện
và làm việc để mọi Kitô hữu có thể có một tâm hồn trưởng thành, khiêm tôn và trắc
ẩn, có khả năng loan báo và chứng tỏ lòng thương xót, “tha thứ và trao ban”, mở
ra “cho những ai đang sống trong những vùng ngoại vi của cuộc sống, mà thế giới
hiện đại đã thường tạo nên cách thê thảm”, để không rơi vào “sự dửng dưng vốn hạ
thấp nhân phẩm, trong thói quen làm tê liệt tâm hồn và ngăn cản việc khám phá
ra sự mới mẻ trong trong thói vô liên sỉ hủy hoại” (3).
Có nhiều lý do
để tin vào khả năng của con người cùng nhau hành động, trong sự liên đới, trong
sự nhận biết mối tương liên và sự tương tùy lẫn nhau của mình, mang trong tâm hồn
những chi thể mòng giòn nhất và việc bảo vệ công ích. Thái độ đồng trách nhiệm
liên đới này nằm ở cội nguồn ơn gọi căn bản về tình huynh đệ và đời sống chung.
Phẩm giá và những mối tương quan liên vị làm cho chúng ta như những hữu thể
nhân linh, được Thiên Chúa tạo dựng theo hình ảnh và giống như Ngài. Xét như là
những thụ tạo được ban cho một phẩm giá bất khả tước bỏ, chúng ta tồn tại trong
mối tương quan với anh chị em của chúng ta, mà chúng ta có một trách nhiệm.
Chính như thế mà sự dửng dưng là một mối đe dọa cho gia đình nhân loại. Khi
chúng ta đang tiến đến một năm mới, tôi muôn mời gọi mỗi người nhận biết sự kiện
này, để chiến thắng sự dửng dưng và chinh phục hòa bình.
Một số hình thức dửng dưng
3. Chắc chắn rằng
thái độ của kẻ dửng dưng, của người khép kín lòng mình không quan tâm đến người
khác, của người khép mắt lại không thấy những gì xung quanh hay lẩn trốn để
không bị quấy rầy bởi những vấn đề của người khác, là một loại hình của con người
khá phổ biến và hiện diện ở mỗi thời đại của lịch sử. Tuy nhiên, vào thời đại
chúng ta, điều đó đã vượt quá lãnh vực cá nhân để mang lấy một chiều kích toàn
cầu và tạo nên hiện tượng “toàn cầu hóa sự dửng dưng” này.
Hình thức dửng dưng đầu tiên trong xã hội loài người là sự dửng dưng đối với Thiên Chúa mà sự
dửng dưng đối với tha nhân và công trình tạo dựng bắt nguồn từ đó. Và đây là một
trong những hậu quả nghiêm trọng nhất của một chủ thuyết nhân bản sai lạc và một
chủ nghĩa duy vật thực hành, được liên kết với một tư tưởng duy tương đối và tự
do phóng túng. Con người nghĩ mình là tác giả của chính mình, của cuộc sống của
mình và của xã hội; nó tự mãn và tìm cách không chỉ thay thế Thiên Chúa, những
còn làm cho Ngài biến mất hoàn toàn; do đó, nó không nghĩ bổn phận đối với ai,
ngoại trừ chính mình, và nó chỉ muốn có các quyền lợi (4). Chống lạị lối hiểu
biết sai lệch về con người, đức Bênêđíctô XVI đã nhắc lại rằng chẳng phải con người
cũng chẳng phải sự phát triển của nó có khả năng mang lại cho chính mình ý
nghĩa tối hậu của mình (5). Trước Ngài, đức Phaolô VI đã từng khẳng định rằng
“chỉ có một nền nhân bản đích thực khi mở ra cho Tuyệt Đối, trong sự nhìn nhận
một ơn gọi, vốn mang lại một ý tưởng đích thực cho cuộc sống con người” (6).
Sự dửng dưng đối
với tha nhân mang những bộ mặt khác nhau. Có những người thạo tin, nghe radio,
đọc báo hay tham dự các chương trình truyền hình, nhưng họ làm điều đó một cách
hững hờ, hầu như theo một tình trạng thói quen: những người này có phần biết đến
những bi kịch đang tác động đến nhân loại, nhưng họ không thấy mình liên quan,
họ không sống lòng trắc ẩn. Đó là thái độ của người biết nhưng giữ cái nhìn, tư
tưởng và hành động của mình hướng về chính mình mà thôi. Bất hạnh thay, chúng
ta phải công nhận rằng việc gia tăng các thông tin, nét riêng của thời đại
chúng ta, tự nó không có nghĩa là một sự gia tăng lòng quan tâm đến các vấn đề,
nếu nó không được kèm theo bằng một sự cởi mở lương tâm theo nghĩa liên đới
(7). Hơn nữa, nó có thể dẫn đến một sự bão hòa nào đó vốn làm tê liệt và, trong
một chừng mực nào đó, tương đối hóa tính nghiêm trọng của các vấn đề. “Một số
người chỉ bằng lòng với việc cáo buộc những người nghèo và những nước nghèo về
những vấn đề của họ, bằng những lối khái quát hóa thiếu cơ sở, và muốn tìm ra
giải pháp trong việc “giáo dục” để trấn an họ và biến họ thành những người được
thuần hóa và vô hại. Điều đó càng làm cho tức giận hơn nữa nếu những người bị
loại trừ chứng kiến gia tăng căn bệnh ung thư xã hội là sự tham nhũng ăn rễ sâu
nơi nhiều nước – nơi các chính phủ, doanh nghiệp và các tổ chức – bất kể ý thức
hệ chính trị của những người cai trị là gì” (8).
Trong một số
trường hợp, sự dửng dưng được biểu lộ như là việc thiếu quan tâm đối với thực tại
xung quanh, nhất là nơi xa xôi nhất. Một số người thích không tìm kiếm, không
tìm hiểu, và hưởng sự sung túc và tiện nghi của mình, không còn nghe tiếng kêu
đau đớn của nhân loại đau khổ. Hầu như không thể nhận thấy, chúng ta đã trở nên
không có khả năng cảm nghiệm lòng trắc ẩn đối với người khác, đối với những bi
thảm của họ; việc săn sóc họ không liên quan đến chúng ta, như thể những gì xảy
đến cho họ thì thuộc về trách nhiệm bên ngoài chúng ta, không thuộc về chúng ta
(9). “Khi cuộc sống chúng ta tốt đẹp và chúng ta đầy đủ tiện nghi, chúng ta
quên nghĩ đến người khác (điều mà Chúa Cha không bao giờ làm), chúng ta không
còn quan tâm đến các vấn đề của họ nữa, các đau khổ của họ và những bất công mà
họ phải chịu… Như thế tâm hồn chúng ta đang rơi vào sự dửng dưng: khi cuộc đời
tôi tương đối tốt đẹp và mọi sự thành công, tôi quên đi những mảnh đời xấu số”
(10).
Khi sống trong
ngôi nhà chung, chúng ta không thể không tự hỏi về tình trạng sức khỏe của nó,
như tôi đã tìm cách tự vấn trong Thông điệp Laudato
si’. Sự ô nhiễm nguồn
nước và không khí, việc khai thác bừa bãi các khu rừng, việc phá hủy môi trường,
thường là kết quả của sự dửng dưng của con người đối với tha nhân, bởi vì mọi sự
đều liên quan. Cũng thế, lối hành xử của con người đối với động vật có một ảnh
hưởng đến các mối tương quan của mình với tha nhân (11), đó là chưa nói đến người
cho phép mình làm ở nơi khác điều mà người ấy không dám làm ở nhà mình (12).
Trong những trường
hợp này, và trong những trường hợp khác, sự dửng dưng đặc biệt tạo nên một sự
khép kín và sự thiếu dấn thân và do đó kết thúc bằng việc đóng góp vào sự vắng
bóng hòa bình với Thiên Chúa, với tha nhân và với công trình tạo dựng.
Hòa bình bị de dọa bởi việc toàn cầu
hóa sự dửng dưng
4. Sự dửng dưng
đối với Thiên Chúa vượt quá phạm vi thâm sâu và thiêng liêng của cá nhân, và nó
bao gồm phạm vi công cộng và xã hội. Như đức Bênêđíctô XVI đã khẳng định, “có một
mối liên hệ sâu xa giữa việc tôn vinh Thiên Chúa và bình an của loài người dưới
thế” (13). Quả thế, “nếu không mở ra cho siêu việt, con người dễ trở nên mồi
ngon của chủ thuyết tương đối và, tiếp đến, nó khó lòng hành động theo công lý
và dấn thân cho hòa bình” (14). Việc lãng quên hay chối bỏ Thiên Chúa, vốn dẫn
con người đến chỗ không còn nhìn nhận bất cứ chuẩn mực nào nữa bên trên mình và
coi mình như là chuẩn mực duy nhất, đã sinh ra những sự tàn độc và bạo lực vô
cùng (15).
Trên bình diện
cá nhân và cộng đoàn, sự dửng dưng đối với tha nhân, con đẻ của sự dửng dưng đối
với Thiên Chúa, mang lấy dáng vẻ của sự trơ ì và của sự thiếu dấn thân vốn nuôi
dưỡng việc kéo dài những hoàn cảnh bất công và sự mất cân bằng xã hội nghiêm trọng.
Những hoàn cảnh này, đến lượt mình, có thể dẫn đến những cuộc xung đột, hay dù
thế nào đi nữa, sinh ra một bầu khi bất mãn có nguy cơ không sớm thì muộn đổ ra
nơi bạo lực và sự thiếu an toàn.
Theo nghĩa này,
sự dửng dưng và sự thiếu dấn thân vốn là hậu quả của nó tạo nên sự thiếu sót
nghiêm trọng đối với bổn phận mà mọi người, trong chừng mực những khả năng và
vai trò của mình trong xã hội, đều phải đóng góp cho công ích, cách riêng cho
hòa bình, vốn là một trong những thiện ích cao quý nhất của nhân loại (16).
Tiếp đến, khi sự
dửng dưng đối với tha nhân, đối với phẩm giá, các quyền căn bản và sự tự do của
họ, đổ vào bình diện thể chế, trong một nền văn hóa thấm nhiễm óc lợi nhuận và
chủ nghĩa khoái lạc, thì nó tạo điều kiện và đôi khi biện hộ cho những hành động
và những chính sách mà cuối cùng tạo nên những mối đe dọa cho hòa bình. Một lối
hành xử dửng dưng như thế cũng có thể đi tới chỗ biện minh cho một số chính
sách kinh tế tệ hại, báo hiệu những bất công, những chia rẽ và bạo lực, nhằm đạt
được sự sung túc cho bản thân và cho quốc gia. Quả thế, thông thường các dự án
kinh tế và chính trị của con người có mục đích là chinh phục hay duy trì quyền
lực và của cải, ngay cả với cái giá là chà đạp các quyền và những đòi hỏi căn bản
của người khác. Khi dân chúng thấy các quyền sơ đẳng của mình bị chối bỏ, như
là thức ăn, nước uống, sự trợ giúp y tế hay việc làm, thì họ bị cám dỗ tìm kiếm
chúng bằng vũ lực (17).
Vả lại, sự dửng
dưng đối với môi trường thiên nhiên, vốn tạo điều kiện cho sự tàn phá rừng, sự
ô nhiễm và những thiên tai mà xua đuổi các cộng đồng hết thảy ra khỏi nơi sinh
sống của mình, làm cho cuộc sống của họ trở nên bấp bênh và không an toàn, tạo
nên những sự nghèo khổ mới, những hoàn cảnh bất công mới với những hậu quả thường
là tai hại về mặt an toàn và hòa bình xã hội. Có bao nhiêu cuộc chiến tranh đã
được thực hiện và sẽ còn bao nhiêu cuộc nữa do thiếu tài nguyên hay để đáp ứng
việc tìm kiếm vô độ các tài nguyên thiên nhiên (18)?
Từ sự dửng dưng đến lòng thương xót:
hoán cải tâm hồn
5. Cách đây một năm, trong Sứ điệp Ngày Thế Giới Hòa Bình, “Không còn nô lệ nữa nhưng là huynh đệ”, khi tôi gợi lên hình ảnh về tình
huynh đệ nhân loại trong Thánh Kinh giữa Cain và Abel (x. Kn 4, 1-16), thì đó
là để lôi kéo sự chú ý đến cách thức mà tình huynh đệ đầu tiên này đã bị phản bội.
Cain và Abel là anh em. Cả hai đều phát xuất từ cùng lòng mẹ, họ bình đẳng về
phẩm giá và đều được tạo dựng theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa; nhưng tình
huynh đệ thụ tạo của họ đã bị phá vỡ. “Cain không chỉ không chịu được em mình
là Abel, nhưng còn giết em vì ganh tỵ” (19). Từ đó, tình huynh đệ tương tàn trở
nên hình thức phản bội, và việc Cain khước từ tình huynh đệ với Abel là sự đoạn
tuyệt đầu tiên trong các mối tương quan huynh đệ, liên đới và tôn trọng lẫn
nhau trong gia đình.
Để kêu gọi con
người có trách nhiệm với đồng loại của mình, lúc ấy Thiên Chúa can thiệp, như
Ngài đã làm lúc Ađam và Eva, cặp cha mẹ đầu tiên, đã cắt đứt mối hiệp thông với
Đấng Tạo Hóa. “Chúa nói với Cain: “Abel em ngươi đâu?”. Anh ta đáp: “Tôi không
biết. Tôi có phải là người giữ em tôi đâu ? ». Chúa đáp lại :
« Ngươi đã làm gì thế ! Hãy lắng nghe máu của em người kêu gào lên tới
Ta ! » (Kn 4,9-10).
Cain nói không
biết những gì đã xảy ra cho em mình, anh ta nói không phải là người giữ em
mình. Anh ta không thấy trách nhiệm về sinh mạng, số phận em mình. Anh ta thấy
mình không can hệ. Anh ta dửng dưng với em mình, cho dầu họ được liên kết bởi
nguồn gốc chung. Thật đáng buồn ! Thật là bi kịch tình huynh đệ, gia đình,
nhân loại ! Đó là biểu lộ đầu tiên của sự dửng dưng giữa anh em với nhau.
Trái lại, Thiên Chúa không dửng dưng : máu của Abel có giá trị lớn lao trước
mắt Ngài và Ngài yêu cầu Cain giải thích. Vì thế, Thiên Chúa tỏ mình ra từ khởi
đầu nhân loại như là Đấng quan tâm đến số phận của con người. Về sau, khi con
cái Israel làm nô lệ bên Ai Cập, Thiên Chúa đã can thiệp một lẫn nữa. Ngài nói
với Môisê : « Ta đã thấy, Ta đã thấy sự khốn cùng của dân Ta ở Ai Cập.
Ta đã nghe thấy tiếng kêu của dân này trước các kẻ áp bức của họ ; vâng,
Ta biết những nỗi lo âu của họ. Ta đã xuống để giải thoát họ khỏi tay người Ai
Cập và đưa họ lên ra khỏi đất này đến một mảnh đất màu mỡ và rộng lớn, đến một
mảnh đất chảy sữa và mật ong » (Xh 3, 7-8). Điều quan trọng là ghi nhận những
động từ mô tả sự can thiệp của Thiên Chúa : Ngài dõi theo, Ngài lắng nghe,
Ngài biết, Ngài xuống, Ngài giải thoát. Thiên Chúa không dửng dưng. Ngài quan
tâm và hành động.
Cũng thế, nơi
Con của Ngài là Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã xuống ở giữa loài người, Ngài đã nhập
thể và bày tỏ tình liên đới với con người, trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi.
Chúa Giêsu đồng hóa với nhân loại : « Trưởng Tử giữa một đoàn em đông
đúc » (Rm 8,29). Ngài không bằng lòng chỉ dạy cho đám đông, nhưng Ngài
chăm sóc họ, đặc biệt khi Ngài thấy họ đói khát (x. Mc 6,34-44) hay không có việc
làm (x. Mt 20,3). Cái nhìn của Ngài không chỉ hướng đến con người, nhưng còn hướng
đến cá biển, chim trời, cỏ cây hoa lá, lớn nhỏ ; Ngài ôm lấy toàn thể thọ
tạo. Chắc chắn, Ngài thấy, nhưng Ngài không giới hạn ở đó, bởi vì Ngài chạm đến
con người, Ngài nói với họ, hành động vì họ và giúp đỡ người nghèo khổ. Không
chỉ thế, Ngài còn xúc động và khóc (x. Ga 11,33-44). Và Ngài hành động để chấm
dứt nỗi đau khổ, nỗi u buồn, nỗi cùng khổ và cái chết.
Chúa Giêsu dạy
chúng ta biết thương xót như Chúa Cha (x. Lc 6,36). Trong dụ ngôn người
Samaritanô nhân hậu (x. lc 10, 29-37), Ngài tố giác sự thiếu giúp đỡ trước một
nhu cầu cấp bách của người đồng loại : « Ông thấy nạn nhân và đi qua
một bên » (x. lc 10,31.32). Đồng thời, với mẫu gương này, Ngài mời gọi
thính giả của mình, cách riêng các môn đệ, học biết dừng lại trước những đau khổ
của thế giới này để xoa dịu, trước những vết thương của tha nhân để săn sóc, bằng
những phương tiện mà mình có, bắt đầu bằng thời gian của mình, bất chấp có nhiều
bận rộn. Quả thế, sự dửng dưng thường kiếm cớ : trong việc tuân giữ nghi lễ,
trong số lượng những thứ mình phải làm, trong những sự đối kháng làm cho chúng
ta xa rời lẫn nhau, trong những thiệt hại đủ loại mà ngăn cản chúng ta xích lại
gần.
Lòng thương xót
là con tim của Thiên Chúa. Bởi đó, nó phải là con tim của tất cả những ai nhìn
nhận mình là những thành viên của đại gia đình duy nhất của những người con của
Ngài ; một con tim đập mạnh ở nơi đâu phẩm giá con người – phản ánh dung mạo
của Thiên nơi các thọ tạo của Ngài – có can hệ. Chúa Giêsu cảnh báo chúng
ta : tình yêu đối với tha nhân – những người ngoại kiều, các bệnh nhân, tù
nhân, những người vô gia cư, ngay cả các kẻ thù – là thước đo của Thiên Chúa để
xét xử hành động của chúng ta. Số phận đời đời của chúng ta tùy thuộc ở đó.
Không lạ gì thánh Phaolô mời gọi các Kitô hữu Rôma vui với người vui và khóc với
người khóc (x. Rm 12,15), hay việc ngài khuyến cáo các tín hữu Conrintô tổ chức
quyên góp bày tỏ tình liên đới với những thành phần đau khổ khác của Giáo Hội
(x. 1Cr 16, 2-3). Và thánh Gioan viết : « Nếu ai có của cải thế gian
và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao
tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được ? » (1Ga 3,17 ; x.
Gc 2,15-16).
Đó là lý do tại
sao « điều tiên quyết đối với Giáo Hội và tính khả tín của việc rao giảng
của Giáo Hội là sống và làm chứng cho lòng thương xót. Ngôn ngữ và những cử chỉ
của Giáo Hội phải chuyển tải lòng thương xót để thấm nhập tâm hồn con người và
thúc đẩy họ tìm lại con đường trở về cùng Chúa Cha. Chân lý đầu tiên của Giáo Hội
là tình yêu của Chúa Kitô. Từ tình yêu này, mà cho tới chỗ tha thứ và trao hiến
chính mình, Giáo Hội trở nên tôi tớ và trung gian bên cạnh con người. Do đó, ở
đâu Giáo Hội hiện diện, thì ở đó lòng thương xót của Chúa Cha phải được biểu lộ.
Trong các giáo xứ của chúng ta, các cộng đoàn, các hiệp hội và các phong trào,
nói tóm lại, ở đâu có người Kitô hữu, thì bất cứ ai cũng phải có thể tìm thấy một
« ốc đảo của lòng thương xót »» (20).
Như thế, chúng
ta cũng vậy, chúng ta được mời gọi biến tình yêu, lòng trắc ẩn, lòng thương xót
và tình liên đới thành một chương trình sống thực sự, một lối hành xử trong các
mối tương quan với nhau (21). Điều đó đòi hỏi sự hoán cải tâm hồn : tức là
ân sủng của Thiên Chúa biến đổi trái tim chai đá của chúng ta thành trái tim bằng
thịt (x. Xh 36,26), có khả năng mở ra cho tha nhân bằng một tình liên đới đích
thực. Quả thế, điều đó còn hơn cả một « tình cảm trắc ẩn mơ hồ hay sự động
lòng hời hợt đối với những sự dữ mà biết bao nhiêu người, gần hay xa, phải chịu »
(22). Tình liên đới « là quyết tâm chắc chắn và kiên trì ra sức cho công
ích, tức là vì lợi ích của mọi người và mỗi người bởi vì hết thảy chúng ta đều
thực sự có trách nhiệm đối với mọi người » (23), bởi vì lòng trắc ẩn làm
phát sinh tình huynh đệ.
Được hiểu như
thế, tình liên đới tạo nên thái độ luân lý và xã hội vốn trả lời tốt nhất cho ý
thức về những vết thương của thời đại chúng ta và về mối tương tùy hiển nhiên
ngày một gia tăng, đặc biệt trong một thế giới toàn cầu hóa, giữa đời sống của
cá nhân và cộng đoàn của mình trong một nơi chốn nào đó và đời sống của những
người nam và người nữ khác trên thế giới (24).
Cổ võ một nền văn hóa liên đới và
thương xót để chiến thắng sự dửng dưng
6. Tình liên đới như là nhân đức luân lý và thái độ xã hội, hoa
trái của sự hoán cải bản thân, đòi hỏi một sự dấn thân của nhiều người có trách
nhiệm giáo dục và đào tạo.
Tư tưởng đầu
tiên của tôi hướng đến các gia đình, vốn được kêu gọi đến một sứ mạng giáo dục
đầu tiên và bất khả lẩn tránh. Gia đình là nơi đầu tiên được sống và chuyển tải
những giá trị tình yêu và huynh đệ, cùng chung sống và chia sẻ, quan tâm và săn
sóc tha nhân. Gia đình cũng là môi trường đầu tiên để thông truyền đức tin, bắt
đầu bằng những cử chỉ đạo đức đơn sơ mà người mẹ dạy cho con cái của mình (25).
Liên quan đến
các nhà giáo dục và đào tạo mà, ở trường học hay nơi những trung tâm xã hội hóa
khác nhau dành cho thiếu nhi và thanh thiếu niên, đều có nhiệm vụ đòi hỏi giáo
dục thiếu nhi và giới trẻ, họ được mời gọi ý thức rằng trách nhiệm của họ liên
quan đến các chiều kích luân lý, thiêng liêng và xã hội của con người. Những
giá trị tự do, tôn trọng lẫn nhau và liên đới có thể được thông truyền từ độ tuổi
trẻ nhất. Nói với các vị hữu trách của các cơ sở có nhiệm vụ giáo dục, đức
Bênêđíctô XVI đã khẳng định : « Ước gì mỗi cơ cấu giáo dục có thể là
một nơi mở ra cho siêu việt và cho tha nhân ; một nơi đối thoại, gắn kết
và lắng nghe, nơi mà người trẻ cảm thấy mình có giá trị trong những tiềm năng
riêng của mình và sự phong phú nội tâm của mình, và học biết kính trọng thực sự
các anh chị em của mình. Ước gì nơi này cũng có thể dạy thưởng thức niềm vui nảy
sinh từ sự kiện mỗi ngày sống trong tình bác ái và lòng trắc ẩn đối với tha
nhân, và trong sự tham dự chủ động vào việc xây dựng một xã hội nhân bản và
huynh đệ hơn » (26).
Các tác nhân
văn hóa và các phương tiện truyền thông xã hội cũng có một trách nhiệm trong
lãnh vực giáo dục và đào tạo, đặc biệt trong xã hội hiện đại, trong đó việc tiếp
cận các dụng cụ thông tin và truyền thông càng ngày càng phổ biến hơn. Nhiệm vụ
của họ là đặt mình lên trên tất cả để phục vụ sự thật chứ không phải những lợi
ích riêng. Quả thế, các phương tiện truyền thông « không chỉ thông tin,
nhưng còn uốn nắn các tâm trí và do đó chúng có thể đóng góp cách to lớn vào việc
giáo dục giới trẻ. Điều quan trọng phải nhớ rằng mối liên hệ giữa giáo dục và
truyền thông là rất chặt chẽ : quả thế giáo dục đạt tới qua những phương
tiện truyền thông, vốn ảnh hưởng đến việc đào tạo con người một cách tích cực
hay tiêu cực » (27). Các tác nhân văn hóa và những cơ quan truyền thông
cũng phải tỉnh thức để cách thức mà họ đạt được và truyền bá thông tin phải
luôn hợp pháp và phù hợp với đạo đức.
Hòa bình : hoa trái của một nền
văn hóa liên đới, thương xót và trắc ẩn
7. Ý thức về mối đe dọa của việc toàn cầu hóa sự dửng dưng, chúng
ta không thể không nhận thấy rằng, trong khung cảnh được mô tả trên đây, cũng
được lồng vào nhiều sáng kiến và hoạt động tích cực chứng tỏ lòng trắc ẩn, lòng
thương xót và tình liên đới mà con người có khả năng.
Tôi muốn nhắc lại
một vài mẫu gương dấn thân đáng khen ngợi, mà cho thấy làm thế nào mỗi người có
thể chinh phục sự dửng dưng khi chọn lựa không quay lưng lại đối với tha nhân của
mình, và là những thực hành tốt đẹp trên con đường hướng đến một xã hội nhân bản
hơn.
Có nhiều tổ chức
phi chính phủ và các nhóm từ thiện, ở trong và ngoài Giáo Hội, mà các thành
viên của chúng, khi có dịch bệnh, tai ương hay xung đột vũ trang, đã đương đầu
với những khó khăn và nguy hiểm để săn sóc những người bị thương và các bệnh
nhân và để chôn kẻ chết. Bên cạnh chúng, tôi muốn đề cập đến những con người và
những hiệp hội trợ giúp các người di dân đang phải băng qua sa mạc hay trên biển
khơi để tìm kiếm những điều kiện sống tốt hơn. Những hoạt động này là nhưng
công việc của lòng thương xót thể xác và tâm hồn, mà chúng ta sẽ chịu phán xét
vào lúc kết thúc cuộc đời chúng ta.
Tư tương của
tôi hướng đến các phong viên và các nhiếp ảnh gia mà thông tin cho công luận về
những hoàn cảnh khó khăn đang chất vấn các lương tâm, và đến những ai đang dấn
thân để bảo vệ các quyền con người, cách riêng các quyền của các dân tộc thiểu
số và các thiểu số tôn giáo, những dân tộc bản xứ, các phụ nữ và trẻ em, và tất
cả những ai đang sống trong những điều kiện dễ bị tổn thương nhất. Trong số họ,
cũng có nhiều linh mục và nhà truyền giáo mà, như những vị mục tử nhân lành, vẫn
ở bên cạnh các tín hữu của mình và nâng đỡ họ bất chấp những nguy hiểm và khó
khăn, cách riêng trong suốt các cuộc xung đột vũ trang.
Tiếp đến, có biết
bao gia đình, giữa nhiều khó khăn xã hội và công ăn việc làm, đang dấn thân cụ
thể « lội ngược dòng », với giá phải hy sinh nhiều, để giáo dục con
cái mình về những giá trị liên đới, trắc ẩn và huynh đệ ! Biết bao gia
đình đã mở rộng tâm hồn và ngôi nhà của mình cho người túng thiếu, như những
người tị nạn và di dân ! Tôi muốn cám ơn cách đặc biệt tất cả những người,
những gia đình, các giáo xứ, các cộng đoàn tu trì, các đan viện và các đền
thánh, đã đáp lại cách nhanh chóng lời kêu gọi của tôi tiếp đón một gia đình tỵ
nạn (28).
Sau cùng, tôi
muốn đề cập đến các bạn trẻ đang hiệp lực để thực hiện các kế hoạch liên đới và
tất cả những ai mở rộng vòng tay để giúp đỡ tha nhân nghèo túng nơi các thành
phố của họ, nơi các nước hay các vùng khác nhau trên thế giới. Tôi muốn cám ơn
và khích lệ tất cả những ai dấn thân trong những hoạt động thế này, cho dù
chúng không không phải là đối tượng quảng cáo : sự đói và khát công lý của
họ sẽ được no thỏa, lòng thương xót của họ sẽ cho họ tìm được lòng thương xót
và, như là những người kiến tạo hòa bình, họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa (x.
Mt 5,6-9).
Hòa bình trong dấu chỉ của Năm Thánh
Lòng Thương Xót
8. Trong tinh thần của Năm Thánh Lòng Thương Xót, mỗi người được mời
gọi nhận ra làm thế nào sự dửng dưng được biểu lộ trong cuộc sống của mình, và
thông qua một dấn thân cụ thể để đóng góp vào việc cải tiến thực tại trong đó
mình sống, khởi đi từ gia đình của mình, từ láng giềng của mình hay từ nơi làm
việc của mình.
Các Nhà Nước
cũng được mời gọi có những cử chỉ cụ thể, những hanh vi can đảm đối với những
người mỏng giòn nhất trong xã hội, như các tù nhân, những người di dân, người
thất nghiệp và các bệnh nhân.
Đối với các tù
nhân, trong nhiều trường hợp, xem ra thật cấp bách có những biện pháp cụ thể để
cải thiện điều kiện sống của họ trong các nhà tù, dành một sự quan tâm đặc biệt
cho những người bị giam giữ trong khi chờ đợi xét xử (29), mang trong tâm trí mục
đích giáo dục cải tạo của hình phạt và lượng giá khả năng đưa vào trong luật
pháp quốc gia những hình phạt thay cho việc giam tù. Trong khung cảnh này, tôi
muốn tái kêu gọi các thẩm quyền nhà nước xóa bỏ án tử hình, nơi nào vẫn còn
hình án này, và xem xét khả năng ân xá.
Liên quan đến
người di dân, tôi xin mời gọi suy nghĩ lại luật pháp về việc di dân, để nó được
thúc đẩy bởi ý muốn đón tiếp, trong sự tôn trọng các bổn phận và các trách nhiệm
hỗ tương, và có thể tạo điều kiện cho việc sáp nhập những người di dân. Trong
viễn ảnh này, một sự quan tâm đặc biệt phải được dành cho những điều kiện cư
trú của người di dân, nhớ rằng sự ẩn trốn có nguy cơ đưa họ đến tội phạm.
Vả lại, trong
Năm Thánh này, tôi muốn đưa ra lời kêu gọi cấp bách đến các vị hữu trách các
Nhà Nước hãy thực hiện những cử chỉ cụ thể cho các anh chị em của chúng ta đang
đau khổ vì thiếu công ăn việc làm, thiếu đất đai và nhà ở. Tôi nghĩ đến việc tạo
nên những chỗ làm việc xứng đáng, để đấu tranh chống lại vết thương xã hội của
nạn thất nghiệp, vốn trở nên gánh nặng cho nhiều gia đình và các bạn trẻ và có
những hậu quả rất lớn trên việc duy trì toàn thể xã hội. Việc thiếu công ăn việc
làm làm tổn thương ý thức về phẩm giá và niềm hy vọng, và có thể được đền bù chỉ
phần nào nhờ tiền trợ cấp, cũng cần thiết, dành cho người thất nghiệp và gia
đình của họ. Một sự quan tâm đặc biệt phải dành cho người nữ – bất hạnh thay vẫn
còn bị phân biệt kỳ thì trong lãnh vực lao động – và cho một số hình thức lao động,
mà những điều kiện của họ thật bấp bênh hay nguy hiểm và tiền công không tương
xứng với tầm quan trọng của sứ mạng xã hội của họ.
Sau cùng, tôi
muốn mời gọi thực thi những hành động hữu hiệu để cải thiện những điều kiện sống
của các bệnh nhân, bảo đảm cho mọi người được tiếp cận với việc săn sóc y tế và
thuốc men cần thiết cho cuộc sống, bao hàm cả khả năng săn sóc tại gia.
Hướng cái nhìn
bên kia biên cương của mình, các vị hữu trách của các Nhà Nước cũng được mời gọi
làm mới lại các mối tương quan với các dân tộc khác, cho phép mọi người có được
một sự tham dự hữu hiệu và một sự hội nhập vào đời sống của cộng đồng quốc tế,
để tình huynh đệ cũng được thực hiện bên trong gia đình các quốc gia.
Trong viễn ảnh
này, tôi muốn đưa ra một lời kêu gọi về ba phương diện : tránh đưa các dân
tộc khác vào các cuộc xung đột hay những cuộc chiến tranh vốn phá hủy không chỉ
những tài sản vật chất, văn hóa và xã hội của họ, nhưng còn – về lâu dài – sự
toàn vẹn đạo đức và tinh thần của họ ; xóa bỏ hay giải quyết nâng đỡ món nợ
quốc tế của các quốc gia nghèo nhất ; thông qua những chính sách hợp tác
mà, thay vì chịu theo sự độc tài của một số ý thức hệ, tôn trọng các giá trị của
các dân địa phương và, trong mỗi trường hợp, không làm tổn hại đến quyền sống
căn bản và bất khả tước đoạt của trẻ em sắp được sinh ra.
Tôi phó thác những
suy tư này, cũng như những lời cầu chúc tốt đẹp nhất cho năm mới, cho sự cầu
bàu của Đức Maria, Mẹ rất thánh, Mẹ quan tâm đến những nhu cầu của nhân loại, để
Mẹ nhận được từ Con của Mẹ là Chúa Giêsu, Hoàng Tử Hòa Bình, đón nhận những lời
cầu xin của chúng ta và chúc lành cho sự dấn thân thường ngày của chúng ta cho
một thế giới huynh đệ và liên đới.
Vatican, ngày 8 tháng 12 năm 2015
Kính trọng thể Đức Maria Vô Nhiễm
Nguyên Tội
Khai mạc Năm Thánh ngoại thường Lòng
Thương Xót
Giáo hoàng Phanxicô
Tý Linh chuyển
ngữ từ bản tiếng
Pháp (tham chiếu bản tiếng
Anh)
——————————————-
[2] Cf. Ibid. số 3.
[3] Tông chiếu Misericordiae Vultus, các số 14-15.
[4] Cf. Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas
in veritate, số
43.
[5] Cf. Ibid., số 16.
[6] Thông điệp Populorum progressio, số 42.
[7] « Xã hội ngày càng toàn cầu hóa hơn xích chúng ta lại gần nhau,
nhưng nó không làm cho chúng ta trở thành huynh đệ. Lý trí, tự nó, có khả năng
hiểu sự bình đẳng giữa con người và thiết lập một cộng đồng đời sống dân sự,
nhưng nó không đạt tới tạo nên tình huynh đệ » (Bênêđíctô XVI, Caritas in veritate, số 19).
[8] Tông huấn Evangelii gaudium, số 60.
[9] Cf. Ibid. số 54.
[10] Sứ điệp Mùa Chay 2015.
[11] Cf. Thông điệp Laudato si’, số 92.
[12] Cf. Ibid. số 51.
[13] Diễn văn nhân dịp cầu chúc cho Ngoại giao đoàn tại Tòa Thánh,
ngày 7/1/2012.
[14] Ibidem.
[15] Cf. Bênêđíctô XVI, Bài tham luận trong Ngày suy tư, đối thoại và
cầu nguyện cho hòa bình và công lý trên thế giới, Assidi, 27/10/2011.
[16] Cf. Tông huấn Evangelii gaudium, các số 217-237.
[17] “Bao lâu việc loại trừ và sự bất bình đẳng trong xã hội và giữa
các dân tộc còn chưa được loại bỏ, thì sẽ không thể triệt từ bạo lực được. Người
nghèo và các dân tộc nghèo bị cáo buộc sử dụng bạo lực, nhưng nếu không có các
cơ hội bình đẳng, thì các hình thức gây hấn và chiến tranh khác nhau sẽ tìm được
một mảnh đất màu mỡ mà sớm hay muộn sẽ gây ra sự bùng nổ. Khi xã hội – địa
phương, quốc gia, hay thế giới—muốn gạt ra bên lề một thành phần của chính
mình, thì không có chương trình chính trị lẫn lực lượng an ninh hay tình báo
nào có thể bảo đảm vĩnh viễn sự an bình. Điều đó không xảy đến chỉ vì sự bất bình
đẳng xã hội khơi lên phản ứng bạo lực của những người bị loại trừ khỏi hệ thống,
nhưng còn bởi vì hệ thống xã hội và kinh tế là bất công tận gốc rễ. Cũng như sự
thiện có sức lan toả, cũng thế sự dữ mà người ta đồng thuận, tức là sự bất
công, có khuynh hướng mở rộng sức mạnh độc hại của nó và âm thầm phá huỷ các cơ
sở của mọi hệ thống chính trị và xã hội, bất kể hệ thống ấy có vững chắc đến
đâu” (Tông huấn Evangelii gaudium, số 59).
[18] Cf. Thông điệp Laudato si’, các số 31.48.
[19] Sứ điệp Ngày Thế Giới Hòa Bình 2015, số 2.
[20] Tông chiếu Misericordiae Vultus, số 12.
[21] Cf. ibid. số 13.
[22] Jean-Paul II, Thông điệp Sollicitudo rei socialis, số 38.
[23] Ibid.
[24] Cf. Ibid.
[25] Cf. Bài Giáo lý buổi tiếp kiến chung ngày 7/1/2015.
[26] Sứ điệp Ngày Thế Giới Hòa Bình 2012, số 2.
[27] Ibid.
[28] Cf. Kinh Truyền Tin ngày 6/9/2015.
[29] Cf. Diễn văn
cho phái đoàn Liên hiệp quốc tế luật hình sự , 23/10/2014.