Sứ Điệp của ĐTC Bênêđictô XVI nhân ngày Khánh Nhật Truyền Giáo 2012

chuyển ngữ : Phaolô Phạm Xuân Khôi 27/01/2012

“Được gọi là để ban ánh sáng của Lời Chúa và chân lý” (Tông Thư Porta Fidei, 6)

 

Dưới đây là bản dịch Sứ Điệp của ĐTC Bênêđictô XVI cho Ngày Khánh Nhật Thế Giới Truyền Giáo, sẽ được cử hành vào ngày 21 tháng 10 năm 2012. Sứ Điệp này được ban hành ngày 25 tháng 1 năm 2012..

* * *

Anh chị em thân mến!

Việc cử hành ngày Khánh Nhật Thế Giới Truyền Giáo năm nay mang một ý nghĩa hoàn toàn đặc biệt. Việc mừng 50 năm kỷ niệm sắc lệnh Ad gentes của Công Đồng, việc khai mạc Năm Đức Tin và Thượng Hội Đồng Giám Mục với chủ đề Tân Truyền Giáo (Tân Phúc Âm Hóa) cùng xảy ra một lúc để tái khẳng định ước mong của Hội Thánh là tham gia với lòng can đảm và nhiệt thành hơn trong missio ad gentes (rao giảng cho muôn dân), ngõ hầu Tin Mừng có thể lan đến tận cùng trái đất.

Công Đồng Vaticanô II, với sự tham dự của các Giám mục Công giáo từ khắp nơi trên thế giới, là một dấu chỉ sáng ngời về tính phổ quát của Hội Thánh, đã tụ họp, lần đầu tiên, một số lớn các Nghị Phụ của Công Đồng đến từ Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ Latinh và Châu Đại Dương. Các Giám Mục truyền giáo và Giám Mục gốc bản xứ, Mục Tử của các cộng đồng nằm rải rác giữa những dân ngoài Kitô giáo, các ngài mang đến cho các buổi họp của Công Đồng hình ảnh của một Hội Thánh hiện diện trong tất cả các Châu Lục, và các ngài làm cho mình trở thành những người giải thích những thực tại phức tạp của cái gọi là “thế giới thứ ba”. Giàu kinh nghiệm được rút ra việc làm những Mục Tử của những Hội Thánh trẻ trung và đang được hình thành và được phấn khởi bởi lòng say mê truyền bá Triều Đại Thiên Chúa, các ngài đã góp phần đáng kể trong việc tái khẳng định sự cần thiết và cấp bách của việc truyền giáo cho muôn dân, và như thế đem vào trung tâm của khoa Giáo Hội Học bản chất truyền giáo của Hội Thánh.

Việc Truyền Giáo trong Khoa Giáo Hội Học

Viễn tượng này ngày nay không thu nhỏ lại, nhưng đã trải qua một suy tư thần học và mục vụ hữu hiệu, và đồng thời, nó được tái đề nghị với sự cấp bách mới vì số lượng những người vẫn còn chưa biết Đức Kitô đã gia tăng: “Những người đang chờ đợi Đức Kitô vẫn còn rất nhiều”, Chân Phước Gioan Phaolô II khẳng định trong Thông điệp Redemptoris Missio về tinh hợp lệ thường trực của mệnh lệnh truyền giáo, và ngài nói thêm: “Chúng ta không thể yên tâm khi nghĩ đến hàng triệu anh chị em của mình, cũng được cứu chuộc bằng Máu Đức Kitô như chúng ta, đang sống mà chẳng biết gì đến tình yêu của Thiên Chúa” (số 86). Khi công bố Năm Đức Tin, tôi cũng viết rằng Đức Kitô “ngày nay cũng như ngày xưa, sai chúng ta ra đi trên các nẻo đường thế gian để công bố Tin Mừng của Người cho mọi dân tộc trên mặt đất “ (Tông thư. Porta Fidei, số 7). Việc công bố ấy, như Bậc Tôi Tớ của Thiên Chúa Phaolô VI đã trình bày trong Tông Huấn Evangelii Nuntiandi của ngài, “(việc trình bày sứ điệp Tin Mừng) đối với Hội Thánh không phải là một đóng góp tùy ý: Nó là một nhiệm vụ của Hội Thánh do lệnh truyền của Chúa Giêsu, để nhờ đó người ta có thể tin mà được cứu độ. Vâng, Sứ điệp này thực sự là cấn thiết. Nó là điều duy nhất. Nó không thể thay thế được” (số 5). Vì vậy chúng ta cần phải hồi phục cùng một lòng nhiệt thành làm việc tông đồ của các cộng đồng Kitô hữu tiên khởi, khi ấy tuy bé nhỏ và yếu thế, đã có thể truyền bá Tin Mừng khắp thế giới mà người ta biết vào thời ấy, với việc rao giảng và làm nhân chứng của họ.

Như thế, chúng ta không thắc mắc rằng Công Đồng Vaticanô II và Huấn Quyền Hội Thánh sau này luôn nhấn mạnh đặc biệt đến mệnh lệnh truyền giáo mà Đức Kitô trao phó cho các môn đệ của Người, và nó phải là quyết tâm của toàn thể Dân Thiên Chúa, Giám Mục, linh mục, phó tế, tu sĩ và giáo dân. Sứ vụ công bố Tin Mừng khắp nơi trên thế giới tùy thuộc chính vào các Giám Mục, là những vị có trách nhiệm trực tiếp trong việc truyền giáo trên thế giới, hoặc như các thành viên của Giám Mục Đoàn, hoặc như những Mục Tử của các Hội Thánh địa phương. Thực ra, các ngài “đã được thánh hiến không chỉ cho một giáo phận, nhưng cho phần rỗi của toàn thế giới” (Gioan Phaolô II, TĐ. Redemptoris Missio, 63), “những sứ giả của đức tin, là những người dẫn các môn đệ mới đến cùng Đức Kitô” ( Ad gentes, 20) và làm cho “tinh thần và nhiệt tâm truyền giáo của Dân Chúa được thể hiện cách hữu hình, để toàn thể giáo phận trở thành truyền giáo” (ibid., 38).

Ưu Tiên của Việc Truyền Giáo

Cho nên đối với một Mục Tử, mệnh lệnh rao giảng Tin Mừng không bị giới hạn trong việc chăm lo cho phần Dân Thiên Chúa được ủy thác để chăm sóc mục vụ của các ngài, hay trong việc gửi đi một số linh mục triều và giáo dân nam nữ. Nó phải bao gồm tất cả các hoạt động của Hội Thánh địa phương và mọi lĩnh vực của nó, tóm tắt là toàn thể bản chất và công việc của nó. Công đồng Vaticanô II xác định rõ ràng và Huấn Quyền đã mạnh mẽ xác nhận. Điều này đòi hỏi phải điều chỉnh thường xuyên cách sống, các chương trình mục vụ và tổ chức giáo phận nhắm vào chiều kích cơ bản của việc là Hội Thánh ấy, đặc biệt trong thế giới không ngừng thay đổi của chúng ta. Và điều này cũng đúng cho các Dòng Tu và các Hiệp Hội Sống Đời Tông Đồ, cũng như các Phong Trào Hội Thánh: tất cả mọi thành phần của bức tranh ghép vĩ đại của Hội Thánh phải cảm thấy được lôi kéo cách mãnh liệt vào mệnh lệnh rao giảng Tin Mừng của Chúa, ngõ hầu Đức Kitô có thể được rao giảng khắp nơi. Chúng ta, các Mục Tử, các tu sĩ nam nữ và tất cả các tín hữu trong Đức Kitô, phải theo chân Thánh Tông Đồ Phaolô, người làm “tù nhân của Đức Kitô vì anh em, những Dân Ngoại” (Eph 3:1), đã làm việc, đã chịu đau khổ và chiến đấu để mang Tin Mừng đến giữa các Dân Ngoại (x. Eph 1:24-29), không tiếc năng lực, thời giờ và phương tiện để làm cho người ta biết đến sứ điệp của Đức Kitô.

Ngay cả ngày nay, sứ mệnh rao giảng cho muôn dân (ad gentes) phải là chân trời liên tục và mô hình của tất cả mọi hoạt động của Hội Thánh, vì chính căn tính của Hội Thánh được thiết lập bởi đức tin vào Mầu Nhiệm của Thiên Chúa, Đấng đã mặc khải chính Ngài trong Đức Kitô để đem ơn cứu độ đến cho chúng ta, và bởi sứ mệnh làm chứng và loan báo Người cho thế giới, cho đến khi Người trở lại. Giống như Thánh Phaolô, chúng ta phải chú ý đến những người chưa biết Đức Kitô và chưa cảm nghiệm được tình phụ tử của Thiên Chúa, trong ý thức rằng “sự hợp tác truyền giáo phải mở rộng ra cho những hình thức mới hiện nay bao gồm không những chỉ việc tài trợ kinh tế mà còn trực tiếp tham gia vào việc truyền giáo.” (Gioan Phaolô II, TĐ. Redemptoris Missio, 82). Việc cử hành Năm Đức Tin và Thượng Hội Đồng Giám Mục về Tân Truyền Giáo sẽ là dịp hoàn hảo cho việc tái phát động sự hợp tác truyền giáo, đặc biệt là trong chiều kích thứ hai này..

Đức tin và Việc Rao Giảng

Sự say mê rao giảng Đức Kitô cũng dẫn chúng ta đến việc đọc lịch sử để nhận ra những vấn đề, những nguyện vọng và hy vọng của nhân loại, mà Đức Kitô phải chữa lành, thanh lọc và bổ sung với sự hiện diện của Người. Thật ra, sứ điệp của Người luôn luôn hiện diện, được đặt vào chính trung tâm của lịch sử và có khả năng đáp ứng những ưu tư thầm kín nhất của mỗi người. Vì lý do này mà Hội Thánh, trong tất cả các thành phần, phải ý thức rằng “những chân trời rộng lớn của việc truyền giáo của Hội Thánh, và sự phức tạp của tình hình hiện nay đòi hỏi phải có những cách thức mới để thông truyền Lời Chúa cách hiệu quả” (ĐTC Bênêđictô XVI, Tông Huấn Verbum Domini, 97). Điều này trên hết đòi hỏi một sự gắn bó mới của đức tin, cá nhân và cộng đồng, với Tin Mừng của Đức Chúa Giêsu Kitô, “ở một thời điểm thay đổi sâu xa mà nhân loại đang sống” (Tông Thư Porta Fidei, số 8).

Thực ra, một trong những trở ngại cho việc hăng say Truyền Giáo là cuộc khủng hoảng đức tin, không những chỉ trong thế giới Tây Phương, mà còn trong hầu hết nhân loại, là những người đang đói khát Thiên Chúa và phải được mời vào cùng dẫn đến Bánh Hằng Sống và Nước Trường Sinh, như người phụ nữ Samaria, là người đến giếng Giacóp và đàm đạo với Đức Kitô. Như Thánh Ký Gioan kể lại, biến cố về người phụ nữ này là điều rất quan trọng (x. Ga 4:1-30): cô gặp Chúa Giêsu, là Đấng xin cô cho uống nước, nhưng sau đó nói với cô về nước mới, có khả năng làm thỏa mãn cơn khát mãi mãi. Lúc đầu người phụ nữ không hiểu vì vẫn còn suy nghĩ ở mức độ vật chất, nhưng dần dần được Chúa hướng dẫn để thực hiện một cuộc hành trình đức tin đưa cô đến việc nhận ra Người là Đấng Thiên Sai. Về điều này Thánh Augustinô nói: “Sau khi đón nhận Chúa Kitô trong lòng cô, thì [người phụ nữ này] còn có thể làm gì khác nếu không phải là bỏ lại cái bình và vội vã chạy đi công bố những Tin Mừng?” (Bài Giảng 15, 30). Cuộc gặp gỡ Đức Kitô như một Người sống làm thỏa mãn cơn khát của tâm hồn không thể không dẫn đến một ước muốn chia sẻ với những người khác niềm vui của sự hiện diện này, cùng làm cho tất cả mọi người biết đến và có thể cảm nghiệm nó.

Cần phải có một nhiệt tình mới để truyền đạt đức tin cũng như để cổ võ một Cuộc Tân Truyền Giáo của những cộng đồng và những quốc gia theo truyền thống Kitô giáo xưa kia, mà đang mất đi sự liên lạc với Thiên Chúa, để tái khám phá ra niềm vui của đức tin. Quan tâm truyền giáo không thể tiếp tục ở bên lề hoạt động của Hội Thánh và đời sống cá nhân của các Kitô hữu, nhưng phải được biểu thị một cách mạnh mẽ, qua ý thức về tình trạng đang là những người lãnh nhận, và đồng thời cũng là những nhà truyền giáo của Tin Mừng. Điểm chính của việc rao giảng vẫn luôn luôn là một: Việc công bố (kerygma) Cái Chết Và Phục Sinh của Đức Kitô để cứu độ thế gian, công bố tình yêu tuyệt đối và hoàn toàn mà Thiên Chúa dành cho mọi người, bất kể nam nữ, đạt đến cao điểm trong việc sai Con Một Hằng Hữu, là Chúa Giêsu, Người đã không ngần ngại mặc lấy sự nghèo hèn của bản tính loài người chúng ta, yêu thương và cứu nó khỏi tội lỗi và sự chết qua việc hiến mình trên Thánh Giá,.

Trong kế hoạch yêu thương được thực hiện bởi Đức Kitô, đức tin vào Thiên Chúa, trên hết, là một hồng ân và mầu nhiệm phải được đón nhận vào trung tâm và cuộc đời và vì nó chúng ta phải luôn luôn biết ơn Chúa. Tuy nhiên, đức tin là một hồng ân được ban cho chúng ta để chia sẻ; là một nén vàng nhận được ngõ hầu sinh hoa quả; là một ánh sáng không được tiếp tục che giấu, nhưng soi sáng cả nhà. Và đó là “món quà” quan trọng nhất được ban cho chúng ta trong cuộc đời mình và chúng ta không thể chỉ khăng khăng giữ cho mình.

Việc Rao Giảng Trở Thánh Đức Ái

Thánh Tông Đồ Phaolô nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng.” (1 Cor 9:16). Những lời này vang lên một cách mạnh mẽ cho mọi Kitô hữu và mọi cộng đoàn Kitô hữu trong tất cả các Châu Lục. Ngay cả những Hội Thánh trong những xứ Truyền Giáo, thường là những Hội Thánh trẻ trung, mới được thành lập, việc thực thi các hoạt động truyền giáo đã trở thành một chiều kích tự nhiên, dù chính chúng vẫn còn đang cần các nhà truyền giáo. Thực vậy, nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ, từ khắp nơi trên thế giới, nhiều giáo dân và ngay cả toàn thể gia đình rời bỏ quê hương của họ, những cộng đồng địa phương của họ, để đi đến các Hội Thánh khác để làm nhân chứng và rao giảng Danh Đức Kitô, mà trong Người nhân loại tìm thấy ơn cứu đô. Đây là một cách diễn tả sự hiệp thông sâu xa, sự chia sẻ và đức ái giữa các Hội Thánh, ngõ hầu mọi người có thể nghe thấy và nghe lại lời công bố có sức chữa lành và đến gần các bí tích, là nguồn mạch sự sống thật.

Cùng với dấu hiệu cao cả của đức tin được biến đồi thành đức ái, tôi xin nhắc đến và cám ơn những việc làm của các Hiệp Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo, một công cụ cho việc hợp tác trong sứ vụ phổ quát của Hội Thánh trong thế giới. Qua việc làm của họ, việc công bố Tin Mừng cũng trở thành một sự can thiệp vào việc giúp đỡ tha nhân, đem lại công lý cho người nghèo, cơ hội giáo dục cho những làng mạc xa xôi nhất, chăm sóc y tế ở những nơi hẻo lánh, giải thoát khỏi nạn nghèo đói, phục hồi chức năng của những ai đang bị thiệt thòi, hỗ trợ việc phát triển các dân tộc, khắc phục những chia rẽ về chủng tộc, tôn trọng sự sống trong tất cả các giai đoạn của nó.

Anh chị em thân mến, tôi cầu xin Chúa Thánh Thần tuôn đổ xuống trên công việc truyền giáo cho muôn dân, và đặc biệt những người đang truyền giáo, ngõ hầu ân sủng của Thiên Chúa tiến bước một cách vững chắc hơn trong lịch sử thế giới. Cùng với Chân Phước Gioan Henry Newman, tôi xin cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin đồng hành với các nhà truyền giáo của Chúa trong những xứ truyền giáo, xin đặt những lời đúng trên đôi môi của họ, làm cho cố gắng của họ có hiệu quả.” Nguyện xin Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh và Ngôi Sao của việc Truyền Giáo, cùng đi với tất cả các nhà truyền giáo của Tin Mừng.

Làm tại Vatican, ngày 6 tháng 1 năm 2012, Lễ Hiển Linh.

Benedictus PP. XVI