THÔNG ĐIỆP LAUDATO SI’

CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ

VỀ SỰ CHĂM SÓC NGÔI NHÀ CHUNG

CỦA CHÚNG TA

 

1. “LAUDATO SI’, mi’ Signore” – “Chúc Tụng Chúa, lạy Thiên Chúa của con”. Trong những lời của bài ca tuyệt vời này, Thánh Phanxicô Assisi nhắc nhớ chúng ta rằng ngôi nhà chung của chúng ta giống như một người chị mà chúng ta đang chung phần sự sống và một người mẹ tuyệt vời là người mở cánh tay mình ra để ôm lấy chúng ta. “Chúc tụng Chúa, lạy Thiên Chúa của con, ngang qua người Chị của chúng con, Mẹ Trái Đất, là người duôi dưỡng và điều hành chúng con, và là người sản sinh ra nhiều hoa trái khác nhau với nhiều loại hoa muôn sắc và cỏ cây”.[1]

2. Người chị này giờ đây đang kêu khóc lên cùng chúng ta bởi vì mối nguy mà chúng ta đã tiêm nhiễm lên chị bằng cách sử dụng vô trách nhiệm và sự lạm dụng của chúng ta về những sự giàu có mà Thiên Chúa đã ban xuống ngang qua chị. Chúng ta đã đi đến chỗ tự nhìn nhận chúng ta là những người chủ và người thầy của chị, được phép bóc lột chị khi muốn. Tình trạng bạo lực hiện diện trong tâm hồn chúng ta, bị đả thương bởi tội lỗi, cũng được suy tư trong những triệu chứng của bệnh tật thấy rõ nơi đất đai, nơi nguồn nước, nơi không khí và nơi tất cả mọi dạng thức của sự sống. Đây là lý do vì sao mà chính trái đất, đã bị đè nặng và đặt để sự lãng phí, đang ở giữa sự bỏ rơi và đối xử tồi tệ của sự nghèo nàn của chúng ta; chị đang “rên siết và quằn quại” (Rm 8,22). Chúng ta đã quên rằng chính bản thân chúng ta là bụi đất (x. St 2,7); thân xác rất đáng quý của chúng ta được làm từ những yếu tố của chị, chúng ta thở bầu khí của chị và chúng ta lãnh nhận sự sống và sự trong lành từ nguồn nước của chị.

Không có gì trong thế giới này lại xa lạ với chúng ta

3. Hơn năm mươi năm trước, cùng với thế giới đang chao đảo trên bờ vực của cuộc khủng hoảng hạt nhân, Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII viết một tông thư không chỉ khước từ chiến tranh mà còn đưa ra một đề xuất cho nền hoà bình. Ngài nói trong thông điệp Pacem in Terris – Hoà Bình Trên Thế Giới của Ngài cho toàn thể “thế giới Công Giáo” và thực ra “cho hết mọi người nam nữ thiện chí”. Giờ đây, khi chúng ta đang đối diện với một sự suy đồi về môi trường mang tính toàn cầu, tôi muốn nói với mọi người đang sống trên hành tinh này. Trong Tông Huấn của tôi, Evangelii Gaudium – Niềm Vui Tin Mừngtôi đã viết cho tất cả các thành viên của Giáo Hội với mục đích khích lệ một sự canh tân về việc truyền giáo đang tiếp diễn. Trong Thông điệp này, tôi muốn đi vào một cuộc đối thoại với hết mọi dân tộc về ngôi nhà chung của chúng ta.

4. Vào năm 1971, tám năm sau thông điệp Pacem in Terris, Chân Phúc Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói đến mối bận tâm mang tính kinh tế sinh thái như là “một hậu quả bi đát” của hoạt động thiếu kiểm soát của con người: “Do một sự khai thác thiên nhiên thiếu suy xét kĩ lưỡng, mà nhân loại mang lấy mối nguy của việc huỷ diệt thiên nhiên và đang trở nên, thay vào đó, một nạn nhân của tình trạng xuống cấp này”.[2] Ngài đã nói cùng một ý với Tổ Chức Lương Thực và Nông Nghiệp của Liên Hiệp Quốc về khả năng tiềm tàng đối với một “thảm hoạ sinh thái dưới sự bùng nổ có hiệu quả của nền văn minh công nghiệp”, và nhấn mạnh “sự khẩn thiết một sự thay đổi triệt để trong hành xử của con người”, bởi vì “những tiến bộ khoa học ngoại thường nhất, những khả năng kĩ thuật đáng kinh ngạc nhất, sự phát triển kinh tế đáng kinh ngạc nhất, trừ khi chúng được đi kèm với một sự tiến bộ xã hội và đạo đức đúng đắn, sẽ nhất định chống lại con người”.[3]

5. Thánh Gioan Phaolô II đã trở nên ngày càng quan tâm hơn nữa về vấn đề này. Trong Thông điệp đầu tiên của mình, Ngài đã cảnh báo rằng con người có vẻ như thường “không thấy một ý nghĩa nào khác ở nơi môi trường thiên nhiên của mình ngoài điều phục vụ cho việc sử dụng và tiêu thụ ngay”.[4] Sau đó, Ngài kêu gọi một sự hoán cải sinh thái.[5] Đồng thời, Ngài nhấn mạnh rằng nỗ lực nhỏ đã được thực hiện để “bảo vệ những điều kiện đạo đức cho một nền sinh thái nhân loại đúng đắn”.[6] Sự phá huỷ của môi trường nhân loại là cực kỳ nghiêm trọng, không chỉ bởi vì Thiên Chúa đã uỷ thác thế giới cho chúng ta là những người nam và nữ, nhưng bởi vì sự sống con người chính nó là một quà tặng cần được bảo vệ khỏi mọi hình thức hạ giá khác nhau. Mọi nỗ lực để bảo về và thăng tiến thế giới của chúng ta sẽ đi kèm theo những thay đổi sâu sắc trong “các lối sống, các mô thức sản xuất và tiêu thụ, và những cấu trúc ổn định của quyền lực mà ngày nay đang điều hành các xã hội”.[7] Sự phát triển con người đúng đắn có một tính cách đạo đức. Nó mang lấy một sự tôn trọng trọn vẹn đối với con người nhân loại, nhưng nó cũng phải được quan tâm đến thế giới xung quanh chúng ta và “mang lấy bản chất của mỗi hữu thể và của sự kết nối của hữu thể ấy trong một hệ thống có trật tự”.[8] Theo đó, khả năng con người của chúng ta để biến đổi thực tại phải tiến hành cùng với quà tặng nguyên thuỷ của Thiên Chúa về tất cả mọi điều vốn là.[9]

6. Vị tiền nhiệm của tôi Đức Giáo Hoàng Benedict XVI cũng cho rằng “việc loại bỏ những nguyên nhân có tính cấu trúc của những rối loạn chức năng của nền kinh tế thế giới và chỉnh đốn lại những mô thức của sự phát triển vốn cho thấy không có khả năng đảm bảo sự tôn trọng dành cho môi trường”.[10] Ngài nhận thấy rằng thế giới không thể được phân tích bằng việc tách biệt chỉ một trong những khía cạnh của nó, bởi vì “cuốn sách của thiên nhiên là một và bất khả phân ly”, và bao gồm cả môi trường, sự sống, tính dục, gia đình, các mối quan hệ xã hội, và tương tự. Điều đó kéo theo việc “suy đồi của thiên nhiên có gắn liền với nền văn hoá vốn hình thành nên sự sống chung của con người”.[11] Đức Giáo Hoàng Benedict đã mời gọi chúng ta nhận biết rằng môi trường thiên nhiên cũng đang chịu đau khổ vì hư hoại. Cả hai cuối cùng đều do bởi cùng một sự dữ: quan niệm rằng không có những sự thật không thể bàn cãi hướng dẫn cuộc sống của chúng ta, và do đó sự tự do của con người là vô giới hạn. Chúng ta đã quên mất rằng “con người không chỉ là một sự tự do mà do chính con người tự tạo ra cho mình. Con người không tự tạo ra chính mình. Con người là thần trí và ý chí, nhưng cũng là tự nhiên”.[12] Với sự bận tâm phụ tử, Đức Benedict thôi thúc chúng ta nhận thức rằng công trình tạo dựng đang bị nguy hại “nơi mà chính bản thân chúng ta có tiếng nói chung cuộc, nơi mà mọi thứ đơn giản chỉ là tài sản của chúng ta và chúng ta sử dụng nó cho chính bản thân chúng ta mà thôi. Việc sử dụng lầm lạc công trình tạo dựng bắt đầu khi chúng ta không còn nhận biết bất kỳ một lề luật nào cao hơn chính bản thân chúng ta, khi chúng ta chẳng thấy gì khác ngoại trừ chính bản thân chúng ta”.[13]

Hiệp nhất bởi cùng một mối bận tâm

7. Những lời tuyên bố của các vị Giáo Hoàng vang vọng những suy tư của biết bao nhà khoa học, triết gia, thần học gia, và các nhóm nhân sự, tất cả những suy tư này làm phong phú suy tư của Giáo Hội về những vấn đề này. Bên ngoài Giáo Hội Công Giáo, thì các Giáo Hội khác và các cộng đồng Kitô Giáo khác – cũng như các tôn giáo khác – đã thể hiện sự bận tâm sâu xa và đưa ra những suy tư có giá trị về những vấn đề mà tất cả chúng ta đều cảm thấy phiền toái. Xin đơn cử ở đây một ví dụ điển hình, tôi muốn đề cập đến những tuyên bố được thực hiện bởi Đức Thượng Phụ Đại Kết Patriarch Bartholomew đáng kính, mà chúng ta đang chia sẻ niềm hy vọng về một sự hiệp thông trọn vẹn về giáo hội với Ngài.

8. Đức Thượng Phụ Bartholomew đã nói cách đặc biệt về sự cần thiết đối với mỗi người chúng ta để sám hối về những cách thế mà chúng ta đã làm tổn hại đến hành tinh, vì “cùng một cách thế mà tất cả chúng ta đều tạo ra một sự nguy hại về mặt sinh thái”, chúng ta được mời gọi để nhận biết “sự đóng góp của chúng ta, dù lớn hay nhỏ hơn, đối với việc làm mất đi vẻ đẹp và huỷ diệt công trình tạo dựng”.[14] Ngài đã nhắc đi nhắc lại điều này một cách dứt khoát và đầy thuyết phục, thách đố chúng ta biết nhận ra tội lỗi của chúng ta đối với công trình tạo dựng: “Vì con người... huỷ diệt sự đa dạng về sinh thái của công trình tạo dựng của Thiên Chúa; vì con người nhân loại làm suy giảm tính nhất quán của trái đất bằng việc tạo ra những biến đổi về khí hậu, bằng việc tước khỏi trái đất những khu rừng thiên nhiên hoặc huỷ diệt những vùng đất ngập nước; vì con người làm ô nhiễm nguồn nước của trái đất, đất đai, không khí, và sự sống – những điều này đều là tội lỗi”.[15] Vì “thực hiện một tội ác chống lại thế giới tự nhiên là một tội chống lại chính bản thân chúng ta và chống lại chính Thiên Chúa”.[16]

9. Đồng thời, Ngài Bartholomew đã cuốn hút sự chú ý đến những căn nguyên mang tính đạo đức và thiêng liêng của những vấn đề môi trường, là những điều đòi hỏi chúng ta tìm kiếm những giải pháp không chỉ về mặt công nghệ mà còn về một sự thay đổi của nhân loại; bằng không chúng ta đang giải quyết thuần tuý về mặt biểu hiện. Ngài mời gọi chúng ta thay thế sự tiêu thụ bằng sự hy sinh, lòng tham và sự đại lượng, sự lãng phí bằng một tinh thần chia sẻ, một sự nhiệm nhặt vốn “đi kèm với việc học biết cho đi, và không chỉ đơn giản là đầu hàng. Đó là một cách yêu, chuyển động từ từ khỏi điều mà tôi muốn đến điều mà thế giới của Thiên Chúa cần. Đó là một sự giải thoát khỏi sự sợ hãi, lòng tham và sức mạnh”.[17] Là các Kitô Hữu, chúng ta cũng được mời gọi “để đón nhận thế giới như là một bí tích của sự hiệp thông, như là một cách chia sẻ cùng với Thiên Chúa và với anh chị em đồng loại của chúng ta về phương diện toàn cầu. Chính niềm xác tín khiêm tốn của chúng ta mà sự thánh thiêng và nhân loại gặp nhau trong chi tiết tinh tế nhất trong cùng một tấm vải dệt liền mạch của công trình tạo dựng của Thiên Chúa, trong vết bụi sau cùng của hành tinh của chúng ta”.[18]

Thánh Phanxicô Assisi

10. Tôi không muốn viết Tông Thư này mà không hướng đến nhân vật có sức hút và mời gọi ấy, người mà tôi đã chọn tên của Ngài như là sự hướng dẫn và động lực khi tôi được chọn làm Giám Mục Thành Rôma. Tôi tin rằng Thánh Phanxicô là mẫu gương hoàn hảo của việc chăm sóc sự tổn thương và của một nền sinh thái hỗ tương cần được vui hưởng cách đúng đắn. Ngài là thánh bảo trợ của tất cả những ai đang nghiên cứu và hoạt động trong lãnh vực sinh thái, và Ngài cũng được rất nhiều người không phải là Kitô Hữu yêu mến. Ngài đặc biệt quan tâm đến công trình tạo dựng của Thiên Chúa và cho người nghèo và những người bị bỏ rơi. Ngài yêu mến, và đã được yêu mến cách sâu sắc vì niềm vui của Ngài, sự trao ban chính bản thân Ngài cách đại lượng, sự mở rộng tâm hồn của Ngài. Ngài là một nhà thần bí và là một người lữ khách sống trong sự đơn giản và trong sự hoà hợp tuyệt vời với Thiên Chúa, với người khác, với thiên nhiên và với chính bản thân Ngài. Ngài cho chúng ta thấy mối dây liên kết không thể tách rời thế nào giữa sự quan tâm dành cho thiên nhiên, công lý cho người nghèo, sự dấn thân xã hội, và sự bình an nội tâm.

11. Thánh Phanxicô sẽ giúp chúng ta thấy rằng một nền sinh thái hỗ tương mời gọi sự mở lòng ra cho các chủng loại vượt ra khỏi ngôn ngữ của toán học và sinh học, và đưa chúng ta đến với trọng tâm của điều vốn là con người. Cũng xảy ra như khi chúng ta yêu ai đó, thì bất cứ khi nào Ngài cũng có thể nhìn ngắm mặt trời, mặt trăng hoặc các loài động vật nhỏ bé nhất, Ngài đã phổ nhạc, đưa hết tất cả mọi loài thọ tạo khác vào trong bài ca tụng của Ngài. Ngài hiệp thông với hết toàn thể công trình tạo dựng, thậm chí là giảng cho những bông hoa, mời những bông hoa “ca tụng Thiên Chúa, như thể chúng đã được ban tặng bằng mùa màng”.[19] Sự đáp trả của Ngài với thế giới xung quanh Ngài thì hơn quá nhiều so với sự nhìn nhận mang tính tri thức hay những tính toán kinh tế, vì đối với Ngài thì mỗi và mọi loại thọ tạo đều là một người chị hiệp nhất với Ngài bằng những mối dây liên kết tình cảm. Đó là lý do vì sao mà Ngài cảm thấy được mời gọi để chăm sóc cho hế tất cả mọi loại đang tồn tại. Môn đệ của Ngài là Thánh Bonvaventure nói với chúng ta rằng, “từ một suy tư về nguồn chính yếu của tất cả mọi điều, được lấp đầy bằng lòng đạo đức thậm chí dồi dào hơn, Ngài có thể gọi các loài thọ tạo, bất kể nhỏ bé cỡ nào, bằng cái tên gọi là ‘anh’ hay ‘chị’”.[20] Niềm xác tín như thế không thể được viết ra như thể là một kiểu lãng mạn ngớ ngẩn, bởi vì nó ảnh hưởng đến những chọn lựa quyết định việc hành xử của chúng ta. Nếu chúng ta tiếp cận thiên nhiên và môi trường mà không có [một tinh thần] cởi mở đến sự kính sợ và kỳ diệu, nếu chúng ta không còn nói ngôn ngữ của tình huynh đệ và vẻ đẹp trong các mối quan hệ của chúng ta với thế giới nữa, thái độ của chúng ta sẽ là thái độ của những người chủ, những người tiêu thụ, những người khai thác không biết mỏi mệt, không thể đặt ra những giới hạn cho những nhu cầu tức thời của họ. Trái lại, nếu chúng ta cảm thấy hiệp nhất cách gần gũi với tất cả mọi sự đang hiện hữu, thì sự điều độ và sự chăm sóc sẽ phát triển đồng thời. Sự nghèo và sự không xa hoa của Thánh Phanxicô sẽ không chỉ thuần tuý là một nước sơn bóng bẩy của chủ thuyết khổ hạnh, nhưng là một điều gì đó dứt khoát hơn: một sự khước từ để biến thực tại thành một đối tượng chỉ đơn giản là để bị lợi dụng và kiểm soát.

12. Điều hơn nữa là, Thánh Phanxicô, trung thành với Kinh Thánh, mời gọi chúng ta nhìn thiên nhiên như là một cuốn sách tuyệt vời mà trong đó Thiên Chúa nói với chúng ta và ban cho chúng ta một cái nhìn thoáng qua về vẻ đẹp và sự thiện hảo vô biên của Ngài. “Vì các thọ tạo càng lớn lao đẹp đẽ thì càng giúp nhận ra Ðấng tạo thành” (Kn 13,5); thực ra, “quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ” (Rm 1,20). Vì lý do này, Thánh Phanxicô mời gọi rằng một phần của khu vườn thân tiên ấy phải luôn luôn ở trong tình trạng không được phép đụng đến, để những loại hoa và cây cỏ dại có thể phát triển ở đó, và những ai thấy chúng có thể hướng lòng trí của họ lên Thiên Chúa, Đấng Tạo Thành một vẻ đẹp như thế.[21] Hơn cả một vấn đề cần được giải quyết, thế giới là một mầu nhiệm đầy vui tươi cần được chiêm ngắm bằng niềm hoan hỷ và lời ca tụng.

Lời mời gọi của tôi

13. Thách đố khẩn thiết để bảo vệ ngôi nhà chung của chúng ta bao gồm một sự quan tâm để mang toàn thể gia đình nhân loại cùng nhau tìm kiếm một sự phát triển bền vững và hỗ tương, vì chúng ta biết rằng mọi thứ có thể thay đổi. Đấng Tạo Hoá không bỏ mặc chúng ta; Ngài không bao giờ bỏ mặc kế hoạch yêu thương của Ngài hoặc hối tiếc vì đã tạo dựng nên chúng ta. Nhân loại vẫn có khả khăng để hợp tác với nhau trong việc xây dựng ngôi nhà chung của chúng ta. Ở đây tôi muốn nhận biết, khích lệ và cám ơn tất cả những ai đang nỗ lực bằng muôn vàn cách thế để đảm bảo sự bảo vệ ngôi nhà chung mà chúng ta đang cùng chia sẻ. Một sự cảm kích đặc biệt của tôi dành cho những ai đang không mỏi mệt tìm kiếm để giải quyết những hậu quả bi đát của sự suy thoái môi trường về đời sống của những người nghèo nhất trên thế giới. Người trẻ đòi một sự thay đổi. Họ đang tự hỏi làm thế nào mà bất kỳ ai có thể tuyên bố là đang xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn mà lại không nghĩ đế sự khủng hoảng về môi trường và nỗi đau khổ của những người bị loại trừ.

14. Do đó, tôi khẩn thiết kêu gọi, một vài cuộc đối thoại về cách thế chúng ta hình thành nên tương lai của hành tinh chúng ta. Chúng ta cần một cuộc trao đổi có hết mọi người, bởi vì thách đố môi trường mà chúng ta đang trải qua, và những cội rễ, mối bận tâm và hiệu quả mang tính con người của nó. Phong trào sinh thái thế giới đã thực hiện được sự tiến bộ đáng kể và dẫn đến việc thiết lập nên rất nhiều các tổ chức dấn thân cho việc nâng cao sự nhận thức về những thách đố này. Thật đáng tiếc thay, nhiều nỗ lực nhằm tìm kiếm những giải pháp cụ thể trước cuộc khủng hoảng môi trường đã cho thấy không hiệu quả, không chỉ bởi vì sự chống báng quyền thế nhưng còn là bởi vì một sự thiếu hứng thú mang tính phổ quát hơn. Những thái độ bế tắc, ngay cả về phía những người có niềm tin, có thể chuyển đổi từ việc chối từ vấn đề sang sự thờ ơ, sự từ nhiệm lãnh đạm hay niềm tin mù quáng vào các giải pháp kĩ thuật. Chúng tôi đòi hỏi một sự đoàn kết mới và mang tính hoàn vũ. Như các Giám mục Nam Phi đã nói: “Tài năng và sự tham gia của mọi người là cần thiết để loại bỏ mối nguy hại được gây ra bởi sự lạm dụng của con người về công trình tạo dựng của Thiên Chúa”.[22] Tất cả chúng ta có thể hợp tác như là những khí cụ của Thiên Chúa vì sự chăm sóc công trình tạo dựng, mỗi người theo nền văn hoá, kinh nghiệm, sự tham gia và tài năng của mình.

15. Niềm hy vọng của tôi là Thông điệp này, giờ đây được tháp nhập vào trong Huấn quyền xã hội của Giáo Hội, có thể giúp chúng ta nhận biết được lời mời gọi, mức độ rộng lớn và sự khẩn thiết của thách đố mà chúng ta đang đối diện. Tôi sẽ bắt đầu bằng việc vắn tắt ôn lại một số khía cạnh của cuộc khủng hoảng sinh thái hiện tại, với mục đích đưa ra những kết quả của nghiên cứu khoa học tốt nhất đang có hiện nay, để cho chúng chạm vào chúng ta cách sâu sắc và mang lại một nền tảng vững vàng cho hành trình đạo đức và thiêng liêng cần theo. Rồi tôi sẽ suy xét một số nguyên tắc được lấy từ truyền thống Kitô Giáo – Do Thái là truyền thống có thể làm cho sự dấn thân của chúng ta đối với môi trường cách nhất quán hơn. Rồi tôi sẽ nỗ lực để đi đến các cội rễ của tình trạng hiện tại, vì thế suy xét không chỉ những triệu chứng của nó mà còn những căn nguyên sâu xa của nó. Điều này sẽ giúp mang lại một cách tiếp cận đối với sinh thái học là điều tôn trọng vị trí duy nhất của chúng ta trong tư cách là con người nhân loại trong thế giới và mối quan hệ của chúng ta với môi trường xung quanh. Dưới ánh sáng của suy tư này, tôi sẽ đưa ra một số đề xuất rộng hơn nữa cho công cuộc đối thoại và hành động là những điều sẽ có liên hệ đến mỗi người chúng ta trong tư cách cá nhân, và cũng ảnh hưởng đến chính sách quốc tế. Sau cùng, tôi tin rằng sự thay đổi là không khả thi nếu không có động lực và một tiến trình giáo dục, tôi sẽ đưa ra một số hướng dẫn có tính gợi hứng cho sự phát triển nhân loại được tìm thấy trong kho tàng kinh nghiệm thiêng liêng Kitô Giáo.

16. Mặc dù mỗi chương sẽ có chủ đề riêng và cách tiếp cận riêng, nhưng nó cũng sẽ giúp mang lấy và tái xem xét lại những vấn đề quan trọng đã được bàn trước đó. Đây là một trường hợp đặc biệt đối với nhiều chủ đề sẽ tái xuất hiện mà Tông Thư này cổ võ. Ví dụ, tôi sẽ nói đến mối quan hệ gần gũi giữa người nghèo và sự mỏng manh của hành tinh, niềm xác tín rằng mọi thứ trong thế giới có liên hệ với nhau, sự phê bình các khuôn mẫu và dạng thức quyền lực mới xuất phát từ công nghệ, lời mời gọi để tìm kiếm những cách thế hiểu khác về nền kinh tế và sự phát triển, giá trị đúng đắn cho mỗi tạo vật, ý nghĩa nhân bản về sinh thái học, sự cần thiết phải có cuộc tranh luận thẳng thắn và trung thực, trách nhiệm nghiêm trọng của chính sách quốc tế và địa phương, nền văn hoá bỏ đi và đề xuất một lối sống mới. Những vấn đề này sẽ không được giải quyết một lần và cho tất cả, nhưng là được tái định hình lại và làm phong phú liên tục.


CHƯƠNG MỘT

ĐIỀU ĐANG XẢY RA

CHO NGÔI NHÀ CHUNG CỦA CHÚNG TA

17. Các suy tư thần học và triết học về tình hình nhân loại và thế giới có thể có vẻ hơi nhàm chán và trừu tượng, trừ khi những suy tư này đặt nền tảng trên một sự phân tích tươi mới về tình hình hiện tại của chúng ta, là điều mà bằng nhiều cách vô tiền khoáng hậu trong lịch sử của nhân loại. Vì thế, trước khi suy xét về cách thế mà niềm tin mang lại những sáng kiến và những đòi hỏi trong mối tương quan với thế giới mà chúng ta là một thành phần, tôi sẽ nói đến một cách vắn tắt điều đang diễn ra đối với ngôi nhà chung của chúng ta.

18. Sự tăng tốc liên tục của những thay đổi đang ảnh hưởng lên nhân loại và hành tinh ngày nay đang được đi cùng với một nhịp sống và công việc có cường độ mạnh hơn là điều có thể được gọi là “sự nhanh hoá” (rapidación). Mặc dù sự thay đổi là một phần của các hệ thống phức tạp đang hoạt động, tốc độ mà hoạt động của con người đang phát triển cùng thì trái ngược với nhịp tiến hoá sinh học chậm tự nhiên. Hơn thế nữa, các mục tiêu của sự nhanh chóng và thay đổi liên tục này không hướng đến cách cần thiết cho thiện ích chung hay cho sự phát triển con người mang tính hỗ tương và dưỡng nuôi. Sự thay đổi là điều gì đáng có, tuy nhiên nó lại trở thành một mối lo khi nó gây hại cho thế giới và cho chất lượng cuộc sống của đa số nhân loại.

19. Theo sau một giai đoạn của sự tin tưởng không hợp lý vào sự tiến bộ và các khả năng con người, thì một số thành phần xã hội giờ đây đang áp dụng một cách tiếp cận nguy hại hơn. Chúng ta thấy sự nhạy bén đang gia tăng đối với môi trường và sự cần thiết phải bảo vệ thiên nhiên, cùng với sự bận tâm càng gia tăng, vừa đúng đắn lại vừa nguy hiểm, trước điều đang xảy ra cho hành tinh của chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta hãy điểm qua, thật nhanh, những vấn đề đang gây phiền toái cho chúng ta ngày nay và điều mà chúng ta không còn có thể che đậy nữa. Mục tiêu của chúng ta không phải là để thu thập thông tin hoặc để làm thoả mãn sự tò mò, mà hơn thế là để ý thức cách đớn đau, dám hướng đến điều đang diễn ra cho thế giới đi vào trong nỗi thống khổ cá nhân của riêng chúng ta và do đó khám phá điều mà mỗi người chúng ta có thể thực hiện.

I. Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Ô nhiễm, chất thải và nền văn hoá quẳng đi

20. Một số hình thức ô nhiễm là một phần của kinh nghiệm hằng ngày của con người. Sự phơi bày ra của những chất ô nhiễm khí quyển tạo ra một loạt các nguy hại về sức khoẻ, đặc biệt là đối với người nghèo, và tạo nên hàng triệu cái chết sớm. Chẳng hạn như, người ta bị bệnh từ việc hít thở một mức độ cao lượng khói từ các nhiên liệu dùng trong nấu nướng hay sưởi ấm. Cũng có sự ô nhiễm làm ảnh hưởng đến mọi người, được tạo ra bởi các loại khói của phương tiện giao thông và công nghiệp, những chất thải góp phần cho việc làm axít hoá đất đai và nguồn nước, các loại phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc diệt nấm, thuốc diệt thực vật và thuốc diệt cỏ nói chung. Công nghệ, một điều, có gắn liền với những lợi ích kinh doanh, được trình bày như là cách duy nhất để giải quyết những vấn đề này, thực ra cho thấy không thể thấy được mạng lưới bí ẩn các mối liên hệ giữa mọi thứ và vì thế đôi khi giải quyết một vấn đề chỉ để tạo ra nhiều vấn đề khác.

21. Điều cũng cần phải được đề cập về tình trạng ô nhiễm được tạo ra bởi chất cặn, bao gồm chất thải nguy hiểm có ở trong các lãnh vực khác nhau. Mỗi năm hàng trăm triệu tấn chất thải được tạo ra, đa số là không thể phân huỷ, có tính độc hại và phóng xạ cao từ các gia đình và các cơ sở kinh doanh, từ các mảnh đất xây dựng và phá huỷ, từ các nguồn y tế, điện tử và các nguồn công nghiệp. Trái đất, căn nhà của chúng ta, đang bắt đầu nhìn càng ngày càng giống như một cột bao la các thứ rác rến. Ở nhiều nơi trên hành tinh, người già than thở rằng bây giờ các phong cảnh đẹp đã bị bao phủ bởi rác rưởi. Chất thải công nghiệp và các sản phẩm hoá học được sử dụng ở các thành phố và các vùng nông nghiệp lớn có thể dẫn đến việc tích luỹ sinh học nơi các chất hữu cơ của dân số địa phương, thậm chí cả các mức độ độc hại ở những nơi này là thấp. Thường thì chưa có phương thế nào được đưa áp dụng cho đến sau khi sức khoẻ của người dân đã bị nhiễm cách không thể vãn hồi.

22. Những vấn đề này có liên hệ mật thiết với nền văn hoá bỏ đi là nền văn hoá đang ảnh hưởng đến người bị loại trừ khi nó nhanh chóng giảm thiểu mọi thứ thành rác rưởi. Đơn cử một ví dụ, hầu hết các loại giấy mà chúng ta sản xuất ra bị bỏ đi và không tái chế. Thật khó cho chúng ta chấp nhận rằng cách thế các hệ sinh thái tự nhiên hoạt động là một mẫu gương: các loại thực vật tổng hợp các chất dinh dưỡng nuôi các loại động vật ăn cỏ; những loại này đến lượt nó lại trở thành thực phẩm cho các loại động vật ăn thịt, là loại sản sinh ra các khối lượng mang ý nghĩa loại chất lại hữu cơ là thứ làm cho xuất hiện những thế hệ thực vật mới. Nhưng hệ thống công nghiệp của chúng ta, ở đoạn cuối của quy trình sản xuất và tiêu thụ của nó, không tạo ra khả năng để hấp thụ và tái sử dụng chất thải và các sản phẩm phụ. Chúng ta đã không quản lý để áp dụng một mô thức tuần hoàn của việc sản xuất có khả năng bảo tồn các nguồn lực cho hiện tại và cho các thế hệ tương lai, trong khi giới hạn càng nhiều càng có thể việc sử dụng các nguồn không làm mới lại được, điều độ việc tiêu thụ chúng, tối đa hoá việc sử dụng hiệu quả, và tái sử dụng và tái chế chúng. Một sự suy xét nghiêm túc việc sử dụng này có thể là một cách ngăn chặn nền văn hoá bỏ đi đang ảnh hưởng trên toàn tinh cầu, nhưng cũng cần phải nói rằng chỉ sự tiến bộ giới hạn được thực hiện khi trong sự suy xét này. 

Khí hậu là thiện ích chung

23. Khí hậu là một thiện ích chung, thuộc về tất cả mọi người và dành cho tất cả mọi người. Ở mức độ toàn cầu, đó là một hệ thống phức tạp có gắn liền với nhiều điều kiện thiết yếu đối với đời sống con người. Một sự đồng thuận có nền tảng khoa học rất vững vàng cho thấy rằng chúng ta hiện đang chứng kiến một sự nóng dần gây khó chịu của hệ thống khí hậu. Trong những thập kỷ gần đây sự cảnh báo này đi cùng với một sự gia tăng liên tục về mực nước biển và, dường như là, bởi mọt sự gia tăng của các biến cố thời tiết cực độ, ngay cả khi nguyên nhân có thể xác định được về mặt khoa học không thể xác định cho mỗi một hiện tượng cụ thể. Nhân loại được mời gọi để nhận biết sự cần thiết để thay đổi lối sống, việc sản xuất và tiêu thụ, để chống lại sự nóng lên này hoặc ít nhất là con người tạo nên điều sản sinh hay làm cho nó ra tồi tệ thêm. Đúng thật là có những yếu tố khác (như hoạt động núi lửa, những biến chuyển trong quỹ đạo và đường xích đạo trái đất và vòng mặt trời), tuy nhiên thật nhiều các nghiên cứu khoa học cho thấy rằng hầu hết việc nóng dần toàn cầu trong những thập kỷ gần đây là do sự tập trung lớn lao của các loại khí nhà kính (khí carbon dioxide, khí mêtan, các loại khí ôxít nitơ và các loại khác) được thải ra chủ yếu là do hoạt động của con người. Tập trung vào khí quyển, những loại khí này không cho phép sức ấm của những tia nắng mặt trời phản chiếu bởi trái đất để được phân tán ra trong không gian. Vấn đề được trở nên tồi tệ hơn bởi một khuôn mẫu phát triển dựa trên việc sử dụng mang tính tập trung các nhiên liệu hoá thạch, vốn là trung tâm của hệ thống năng lượng thế giới. Một nhân tố có tính quyết định nữa đã là một sự gia tăng trong những các sử dụng đã thay đổi đất, chủ yếu là sự sói mòn cho các mục đích nông nghiệp. 

24. Sức nóng có những tác động lên vòng tuần hoàn carbon. Nó tạo ra một vòng luẩn quển vốn làm tồi tệ tình hình thậm chí còn hơn nữa, ảnh hưởng đến mức độ sẵn sàng của các nguồn lực thiết yếu như nước uống, năng lượng và sản phẩm nông nghiệp ở những vùng nóng hơn, và dẫn đến sự tiêu diệt một phần của sự đa dạng sinh học của hành tinh. Sự tan chảy băng bắc cực và ở các vùng đồng bằng trên cao có thể dẫn đến việc thải ra rất nguy hiểm khí mêtan, trong khi sự phân huỷ các nguyên liệu hữu cơ đóng băng có thể làm gia tăng việc làm bốc hơi khí cácbon dioxít. Mọi thứ đang bị làm cho nên tồi tệ hơn bởi sự mất đi những khu rừng nhiệt đới là những nơi lẽ ra làm dịu đi sự biến đổi khí hậu. Tình trạng ô nhiễm khí cácbon điôxít làm gia tăng sự axít hoá các đại dương và gây nguy hại cho chuỗi thực phẩm biển. Nếu các xu hướng hiện tại vẫn tiếp tục, thế kỷ này sẽ rõ ràng chứng kiến một sự biến đội khí hậu bất thường và một sự phá huỷ các hệ sinh thái chưa từng có, với các hậu quả nghiêm trọng dành cho tất cả chúng ta. Một sự gia tăng mực nước biển, ví dụ, có thể tạo nên những tình huống cực kỳ nghiêm trọng, nếu chúng ta xem xét thấy rằng một phần tư dân số thế giới đang sống ở các bờ biển hoặc gần đó, và rằng đa số những đại thành phố đang được toạ lạc ở các vùng bờ biển.

25. Biến đổi khí hậu là một vấn đề mang tính toàn cầu với những hậu quả nghiêm trọng: môi trường, xã hội, kinh tế, chính trị và đối với việc phân phối các loại hàng hoá. Nó đại diện cho một trong những thách đố chính mà nhân loại ngày nay đang đối diện. Tác động tồi tệ nhất của nó rất có thể sẽ được các quốc gia đang phát triển cảm nghiệm trong những thập kỷ tới. Nhiều người nghèo đang sống ở những vùng đặc biệt chịu ảnh hưởng hiện tượng có liên quan đến việc nóng lên, và các phương tiện tồn tại của họ đa phần là dựa trên những bảo tồn thiên nhiên và những tiện ích của hệ sinh thái chẳng hạn như nông nghiệp, đánh bắt thuỷ hải sản và trồng rừng. Họ không có những hoạt động tài chính khác hoặc nguồn lực khác có thể giúp họ thích nghi với sự biến đổi khí hậu hoặc đối diện với các thảm hoạ thiên nhiên, và tiện ích của họ đối với các dịch vụ xã hội và bảo vệ thì rất giới hạn. Chẳng hạn, sự biến đổi khí hậu, ngay cả đến các loại động vật và thực vật còn không thể thích nghi, dẫn chúng đến chỗ phải di trú; điều này ngược lại sẽ ảnh hưởng đến đời sống của người nghèo, là những người sau đó bị buộc phải rời khỏi quê hương của họ, với mọt sự bấp bênh lớn lao cho tương lai và sự bấp bênh của con cái họ. Đã có một sự gia tăng mang tính bi kịch với một số lớn những người di dân đang tìm kiếm để thoái khỏi sự nghèo nàn ngày càng tăng được tạo nên bởi sự suy thoái môi trường. Họ đã không được các tổ chức quốc tế nhìn nhận là những người tỵ nạn; họ mang lấy sự mất mát cuộc sống mà họ đã phải bỏ lại phía sau, mà không được hưởng bất kỳ một sự bảo vệ pháp lý nào. Đáng buồn thay, có một sự thờ ơ lan rộng trước sự khổ đau này, là điều hiện đang diễn ra ở trên khắp thế giới của chúng ta. Sự thiếu đáp trả của chúng ta trước những thảm kịch này có liên hệ đến anh chị em của chúng ta đến mức mất luôn cảm thức về trách nhiệm đối với những người nam nữ đồng loại của chúng ta là những người mà lập nên nền tảng xã hội dân sự. 

26. Nhiều trong số những người đang sở hữu nhiều nguồn lực và thế lực kinh tế hay chính trị hơn dường như đa số có liên quan đến việc che đậy các vấn đề hay che giấu các biểu hiện, chỉ đưa ra những nỗ lực để làm giảm một số những tác động tiêu cực của sự biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, nhiều trong số triệu chứng này cho thấy rằng những nỗ lực như thế sẽ chỉ tiếp tục làm tồi tệ thêm nếu chúng ta cứ tiếp tuc với những mô thức hiện tại của việc sản xuất và tiêu thụ. Có một sự khẩn thiết để phát triển những chính sách để, trong những năm tiếp theo, sự bùng phát của khí cácbon điôxít và các loại khí ô nhiễm cao khác có thể được giảm thiểu đáng kể, chẳng hạn, thay thế các nguyên liệu hoá thạch và phát triển những nguồn năng lượng có thể làm mới lại được. Có một sự sử dụng tối thiểu đối với nguồn năng lượng sạch và làm mới lại trên toàn thế giới. Vẫn có một sự cần thiết để triển khai những công nghệ lưu trữ đủ. Một số đất nước đã thực hiện một sự tiến bộ đáng kể, mặc dù điều ấy vẫn còn xa khỏi việc tạo nên một mối tương quan có ý nghĩa. Các khoản đầu tư cũng đã được thực hiện ngangq ua những phương tiện sản xuất và giao thông là những điều tiêu thụ ít năng lượng và đòi hỏi ít nguyên liệu thô hơn, cũng như là trong các phương pháp xây dựng và trùng tu lại các toà nhà cũng chứng minh được tính hiệu quả về mặt năng lượng. Nhưng những việc thực thi tốt lành này vẫn còn xa công chúng. 

II. VẤN ĐỀ VỀ NƯỚC

27. Những chỉ số về tình trạng hiện tại có liên hệ đến sự cạn kiệt các nguồn nước. Tất cả chúng ta đều biết rằng thật không thể duy trì mức độ tiêu thụ hiện tại ở các nước phát triển và các thành phần lành mạnh hơn của xã hội, nơi mà thói quen lãng phí và loại bỏ đã đạt tới những mức độ không hề có trước đó. Việc khai thác hành tinh đã vượt ra quá các giới hạn chấp nhận được và chúng ta vẫn chưa giải quyết vấn đề nghèo nàn. 

28. Nước uống sạch là một vấn đề có tầm quan trọng thiết yếu, bởi vì nó là điều không thể thiếu cho sự sống con người và cho việc hỗ trợ các hệ thống sinh thái trên cạn và dưới nước. Các nguồn nước sạch thì cần thiết cho việc chăm sóc sức khoẻ, cho ngành nông nghiệp và công nghiệp. Các nguồn cung nước đã từng tương đối ổn định, thì nay ở nhiều nơi đang đòi hỏi quá mức nguồn cung ổn định, với những hậu quả nghiêm trọng cả trong ngắn hạn lẫn dài hạn. Các thành phố lớn lệ thuộc vào các nguồn cung nước chính đã trải qua những giai đoạn thiếu thốn, và ở những thời điểm chính yếu thì những hậu quả này không phải luôn luôn được quản trị bằng sự quan sát và sự công bằng. Tình trạng nghèo nàn nguồn nước đặc biệt ảnh hưởng đến Châu Phi nơi mà các thành phần dân số lớn lao hơn không được dùng nguồn nước an toàn hoặc trải qua nhiều kỳ hạn hán ngăn cản việc sản xuất nông nghiệp. Một số nước có những vùng phong phú về nguồn nước trong khi ở những nơi khác thì đang chịu đựng sự khan hiếm thê thảm.

29. Một vấn đề nghiêm trọng đặc biệt là chất lượng nguồn nước dành cho người nghèo. Mỗi ngày, nguồn nước không an toàn tạo nên quá nhiều cái chết và sự lan rộng của các căn bệnh có liên quan đến nguồn nước, bao gồm cả những bệnh tạo ra bởi các yếu tố vi hữu cơ và hoá học. Bệnh dịch tả và kiết lỵ, có liên hệ đến sự thiếu vệ sinh và nguồn nước, là căn nguyên chính của sự khổ đau và cái chết sơ sinh. Các nguồn nước dưới lòng đất ở nhiều nơi đang bị đe doạ bởi tình trạng ô nhiệm tạo ra từ các hoạt động khai thác mỏ, nông nghiệp và công nghiệp, đặc biệt là ở những nước thiếu quy định hay cách kiểm soát đầy đủ. Đó không chỉ là vấn đề về nước thải công nghiệp mà thôi. Các loại nước giặt tẩy và các sản phẩm hoá học, thường được sử dụng ở nhiều nơi trên thế giới, tiếp tục đổ ra các dòng sông, hồ, và biển.

30. Ngay cả khi chất lượng nước sẵn sàng đang liên tục thiếu thốn, thì ở một số nơi có một xu hướng đang gia tăng, bất chấp sự khan hiếm nước, tư hữu hoá nguồn này, biến nó thành một món hàng hoá chịu sự chi phối của các quy luật của thị trường. Mặc dù việc được sử dụng nguồn nước an toàn uống được là quyền con người căn bản và mang tính toàn cầu, bởi vì thật là thiết yếu để con người được tồn tại và, như thế, là một điều diện cho việc thi hành quyền con người khác. Thế giới của chúng ta đang mang một mối nợ xã hội nặng nề đối với người nghèo là những người đang thiếu nguồn nước uống, bởi vì họ bị khước từ quyền đối với một cuộc sống nhất quán với phẩm giá không thể nhượng lại được của họ. Mối nợ này có thể được trả hoàn toàn bằng việc gia tăng trong nguồn quỹ để cung cấp nước sạch và các dịch vụ vệ sinh ngay giữa những người nghèo. Nhưng nguồn nước vẫn tiếp tục bị lãng phí, không chỉ ở thế giới phát triển mà còn ở các quốc gia đang phát triển là những nước đang sở hữu nguồn nước này cách dồi dào. Điều này cho thấy rằng vấn đề về nguồn nước hoàn toàn là một vấn đề mang tính giáo dục và văn hoá, bởi vì có ít nhận thức về tính nghiêm trọng của cách hành xử như thế bên trong bối cảnh của một sự bất bình đẳng lớn lao. 

31. Sự khan hiếm lớn lao hơn nữa sẽ dẫn đến một sự gia tăng về chi phí lương thực và nhiều loại sản phẩm khác nhau là điều tuỳ thuộc vào việc sử dụng nước. Một số nghiên cứu cảnh báo rằng một sự thiếu nước sâu xa có thể xảy ra trong một vài thập kỷ tới trừ khi hành động khẩn cấp được thực hiện. Những hậu quả về môi trường có thể ảnh hưởng đến hàng tỷ người; điều đó cũng dễ hiểu rằng việc kiểm soát nguồn nước bởi các tập đoàn kinh doanh đa quốc gia sẽ trở thành một nguồn mâu thuẫn lớn trong thế kỷ này.[23]

III. SỰ MẤT SỰ ĐA DẠNG SINH HỌC

32. Các nguồn của trái đất cũng đang bị cướp đi bởi vì những cách tiếp cận thiển cận của nền kinh tế, thương mại và sản xuất. Việc mất đi các khu rừng và những vùng đất có cây cối kéo theo sự mất mát các chủng loại có thể tạo nên các nguồn cực kỳ quan trọng trong tương lai, không chỉ về thực phẩm mà còn về việc chữa bệnh và những cách dùng khác. Các chủng loại khác nhau chứa đựng các gen có thể trở thành những nguồn trong những năm kế tiếp để đáp ứng nhu cầu của con người và điều tiết các vấn đề về môi trường.

33. Tuy nhiên, thật không đủ để nghĩ về các chủng loại khác nhau cách thuần tuý như là “những nguồn” cần được khai thác, trong khi lại coi thường sự thật là chúng có giá trị ở nơi chính bản thân chúng. Mỗi năm đều thấy sự biến mất của hàng ngàn loại động và thực vật khác nhau là điều mà chúng ta chưa bao giờ biết, điều mà con cái của chúng ta chưa bao giờ thấy, bởi vì nó đã bị mất vĩnh viễn. Đại đa số trở thành tuyệt chủng vì những lý do có liên hệ đến hoạt động của con người. Bởi vì chúng ta, hàng ngàn chủng loại sẽ không còn làm vinh quang Thiên Chúa bởi sự hiện hữu rất quan trọng của chúng, cũng không mang lại thông điệp của chúng cho chúng ta nữa. Chúng ta không có được cái quyền như thế. 

34. Thật là phiền toái chúng ta khi biết về sự tuyệt chủng của các loại đồng vật có vú hay các loại chim, bởi vì chúng trở nên rõ ràng hơn. Nhưng chức năng tốt lành của các hệ sinh thái cũng đòi hỏi nấm, tảo, bọ, côn trùng, các loại bò sát và một loạt không thể thiếu các loại vi sinh. Một số ít các loại, mặc dù nhìn chung thì không thấy, nhưng lại đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì thế quân bình một nơi đặc biệt. Con người nhân loại phải can thiệp khi một hệ sinh thái địa lý đạt tới một tình trạng nghiêm trọng. Nhưng ngày nay, sự can thiệp như thế vào trong thiên nhiên đã trở nên ngày càng thường xuyên hơn. Kết quả là, những vấn đề nghiêm trọng gia tăng, dẫn đến những can thiệp khác; hoạt động của con người trở nên phổ biến, với tất cả mọi rủi ro đi kèm theo điều này. Thường thì một vòng luẩn quẩn sẽ có kết quả, khi hoạt động can thiệp của con người để giải quyết một vấn đề thì lại làm cho tình hình thêm trầm trọng hơn. Chẳng hạn, nhiều loại chim và côn trùng biến mất do những loại thuốc diệt thực vật tổng hợp thì hữu ích cho ngành nông nghiệp: sự biết mất của chúng sẽ được đền bù tuy nhiên bởi những kỹ thuật khác có thể cho thấy tính nguy hại rõ ràng hơn. Chúng ta phải biết ơn những nỗ lực đáng ca tụng đã được các nhà khoa học và kỹ sư thực hiện nhằm tìm các giải pháp cho những vấn đề do con người tạo nên. Nhưng một cái nhìn điềm đạm vào thế giới của chúng ta cho thấy rằng mức độ can thiệp của con người, thường là trong việc phục vụ cho những lợi ích kinh doanh hay chủ nghĩa tiêu thụ, thì thực sự đang làm cho trái đất của chúng ta kém đi sự phong phú và đẹp đẽ, giới hạn và thê lương hơn bao giờ hết, ngay cả khi những tiến bộ công nghệ và hàng hoá tiêu dùng tiếp tục làm ra nhiều cách vô giới hạn. Dường như chúng ta nghĩ rằng chúng ta có thể thay thế một vẻ đẹp không thể thay thế và không thể vãn hồi này bằng một điều gì đó mà chúng ta có thể tự tạo ra cho chính mình.

35. Trong khi đánh giá mức độ ảnh hưởng môi trường của bất kì một dự án nào, thì sự bận tâm thường được thể hiện về tính hiệu quả của nó trên đất, nước và không khí, nhưng một vài nghiên cứu cẩn trọng đã được thực hiện về sự tác động của nó trên sự đa dạng sinh học, như thể sự mất các chủng loại và các động vật và các nhóm thực vật đang có vẻ ít quan trọng hơn. Những con đường cao tốc, các đồn điền mới, những nơi nhất định có hàng rào, các đập nước, và những triển khai tương tự, loại trừ các loại cư trú tự nhiên và, đôi khi, phá vỡ chúng theo một cách thế mà các loại động vật không còn có thể di trú hay gầm rú cách tự do nữa. Kết quả là, một số loại đang đối diện với sự tuyệt chủng. Các biện pháp thay thế tồn tại là những biện pháp ít nhất là làm giảm thiểu sự tác động của những dự án này, giống như việc tạo nên những hành lang sinh học, nhưng một vài quốc gia cho thấy sự bận tâm và dự báo như thế. Thông thường, khi những chủng loại nhất định bị khai thác cho mục đích thương mại, thì người ta dành rất ít sự chú ý đến việc nghiên cứu khuôn mẫu sinh sản của chúng để tránh sự tàn phá và sự bất quân bình kéo theo của hệ sinh thái.

36. Chăm sóc cho các hệ sinh thái đòi hỏi một tầm nhìn xa, bởi vì không ai tìm kiếm lợi nhuận cách nhanh chóng và dễ dãi lại thực sự yêu thích việc bảo tồn các hệ thống này. Nhưng cái giá của sự phá huỷ được tạo ra bởi sự thiếu quan tâm cách ích kỷ thì lớn hơn cả các lợi ích kinh tế cần đạt được. Nơi mà các chủng loại nhất định đang bị huỷ diệt hoặc đang bị gây tổn hại nghiêm trọng, thì các giá trị có liên hệ là không thể lường được. Chúng ta có thể là những chứng nhân im lặng trước những bất công này nếu chúng ta nghĩ rằng chúng ta có thể đạt được những lợi ích có ý nghĩa bằng việc làm cho toàn thể nhân loại còn lại, hiện nay và tương lai, trả những cái giá cực cao cho sự làm suy đồi môi trường. 

37. Một số quốc gia đã thực hiện sự tiến bộ có ý nghĩa trong việc tạo nên những tính cách thánh thiêng trên đất và ở các đại dương nơi mà bất kỳ một sự can thiệp nào mang tính con người đều bị cấm là những việc làm sửa đổi các đặc tính của chúng hay làm thay đổi đi cấu trúc nguyên gốc của chúng. Trong việc bảo vệ sự đa dạng sinh học, các chuyên gia khẳng định nhu cầu cần chú ý đặc biệt phải được thể hiện đối với những khu vực phong phú hơn cả về số lượng các chủng loại và mang tính địa phương, các chủng loại hiếm hay ít được bảo vệ hơn. Một số nơi nhất định cần một sự bảo vệ nhiều hơn bởi vì tầm quan trọng lớn lao của chúng đối với hệ sinh thái toàn cầu, hoặc bởi vì chúng có lượng bảo tồn nước quan trọng và do đó bảo vệ các hình thức sống khác.

38. Chẳng hạn, chúng ta hãy đề cập đến những nơi có sự đa dạng sinh học phong phúc là lá phổi của hành tinh của chúng ta là những nơi như Amazon và các lưu vực Congo, hoặc các tầng ngậm nước và sông băng lớn. Chúng ta biết những nơi này thì quan trọng thế nào đối với toàn thể cõi đất và đối với tương lai của nhân loại. Các hệ sinh thái của các khu rừng nhiệt đới sở hữu một sự đa dạng sinh học phức hợp vô cùng lớn lao vốn là một điều mà hầu như không thể trân trọng một cách đầy đủ, nhưng khi những khu rừng này bị thiêu rụi hay bị hạ xuống mức độ cho các mục đích canh tác, bên trong không gian của một vài năm thì vô số chủng loại sẽ biến mất và những khu vực này thường trở thành những vùng đất bỏ hoang khô cằn. Một sự quân bình tinh tế cần phải được duy trì khi nói về những nơi này, bởi vì chúng ta không thể xem thường những lợi ích kinh tế mang tính toàn cầu là điều, ở dưới vẻ bề ngoài của việc bảo vệ chúng, có thể làm suy giảm quyền tối thượng của các quốc gia cá nhân. Thực ra, có “những đề xuất nhằm quốc tế hoá rừng Amazon, là những đề xuất chỉ phục vụ cho những lợi ích kinh tế của các tập đoàn xuyên quốc gia”.[24] Chúng ta không thể không ca ngợi sự dấn thân của các cơ quan quốc tế và các tổ chức xã hội dân sự là những tổ chức cuốn hút sự chú ý của công chúng đến với những vấn đề này và đưa ra sự hợp tác rất quan trọng, áp dụng các phương tiện gây áp lực hợp pháp, để đảm bảo rằng mỗi chính phủ cần thực thi trách nhiệm đúng đắn và bất khả xâm phạm để bảo tồn môi trường và các nguồn thiên nhiên của đất nước mình, mà không đầu hàng trước những lợi ích địa phương hay quốc tế nguỵ tạo.

39. Việc thay thế khu rừng nguyên vẹn bằng những đồn điền cây xanh, thường là dạng độc canh, thì hiếm được phân tích cách đầy đủ. Tuy nhiên điều này có thể lấn loát cách nghiêm trọng một sự đa dạng sinh học là sự đa dạng mà các chủng loại mới được giới thiệu không trợ giúp được gì. Tương tự, những vùng đất ngập được chuyển thành đất canh tác sẽ làm mất đi sự da dạng sinh học khổng lồ là một sự đa dạng mà những vùng này trước đây nắm giữ. Ở một số vùng đất biển thì sự biến mất các hệ sinh thái được nuôi dưỡng bằng những đầm lầy ngập mặn là một nguồn của sự bận tâm nghiêm túc.

40. Các đại dương không chỉ chứa đựng một lượng khổng lồ nguồn cung cấp nước cho hành tinh của chúng ta, nhưng còn có hầu như sự đa dạng vô cùng các sinh vật sống, nhiều trong số đó chúng ta vẫn chưa biết đến và đang bị đe doạ vì nhiều lý do khác nhau. Điều hơn nữa là, sự sống biển ở nơi các sông ngòi, các hồ, biển và đại dương, là sự sống đang nuôi phần lớn dân số thế giới, đang chịu ảnh hưởng bởi việc đánh bắt cá không kiểm soát, dẫn đến một sự huỷ diệt ghê gớm của một số loài nhất định. Đặc biệt bị đe doạ là các sinh vật biển mà chúng ta có khuynh hướng coi thường, sống như một số hình thức phiêu sinh vật; chúng đại diện cho một yếu tố quan trọng trong chuỗi thực phẩm ở đại dương, và nhiều loại đã sử dụng cho nguồn thực phẩm của chúng ta cũng lệ thuộc vào chúng hoàn toàn. 

41. Ở những vùng biển nhiệt đới và phụ cận nhiệt đới, chúng ta thấy các loại đá ngầm san hô có thể so sánh với những cánh rừng rộng lớn trên đất liền, bởi vì chúng là nơi trú ẩn của xấp xỉ một triệu chủng loại, bao gồm cá, cua, động vật thân mềm, bọt biển và tạo. Nhiều loại đá ngầm san hô đã thực sự bị bào mòn hoặc ở trong tình trạng suy thoái liên tục. “Ai đã làm cho thế giới kỳ diệu của các vùng biển trở thành những nghĩa trang dưới nước bị tước mất sắc mầu và sự sống?”.[25]Hiện tượng này là do phần lớn bởi ô nhiễm vốn đã chảy ra tới biển như là kết quả của nạn phá rừng, độc canh nông nghiệp, chất thải công nghiệp và các phương pháp đánh bắt cá mang tính huỷ diệt, đặc biệt là các phương pháp dùng chất cyanide và thuốc nổ. Nó bị làm cho nghiêm trọng hơn bởi sự gia tăng nhiệt độ của các đại dương. Tất cả điều này giúp chúng ta thấy rằng mọi sự can thiệp vào thiên nhiên có thể có những hậu quả vốn không tỏ tường ngay, và rằng một số cách khai thác các nguồn tài nguyên cho thấy phải trả giá xét về mặt làm suy giảm mà cuối cùng chạm tớichính chiếc giường đại dương (le fond des océans).

42. Sự đầu tư lớn lao hơn cần phải được thực hiện trong việc nghiên cứu nhằm hiểu cách đầy đủ hơn nữa về chức năng của các hệ sinh thái và sự phân tích đủ các biến khác nhau có liên hệ đế bất kì một sự thay đổi mang tính ý nghĩa nào của môi trường. Bởi vì tất cả các loại thọ tạo đều có liên hệ với nhau, mỗi loại phải được nuôi dưỡng bằng tình yêu và sự tôn trọng, vì tất cả chúng ta là những sinh vật sống đang lệ thuộc vào nhau. Mỗi vùng lại chịu trách nhiệm chăm sóc gia đình này. Điều này đòi hỏi việc thực hiện một sự khám phá cẩn trọng các chủng loại mà đất nước ấy có, bằng một quan điểm với những chương trình và chiến lược bảo vệ mang tính phát triển bằng sự chăm sóc đặc biệt cho việc bảo vệc các chủng loại đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng.

IV. SỰ SUY THOÁI CHẤT LƯỢNG

CUỘC SỐNG CON NGƯỜI VÀ SỰ SỤP ĐỔ CỦA XÃ HỘI

43. Con người nhân loại cũng là những tạo vật của thế giới này, vui hưởng quyền được sống và hạnh phúc, và được ban tặng bằng một phẩm giá độc nhất. Vì thế chúng ta không thể không nhìn nhận những tác động trên đời sống con người về sự xuống cấp môi trường, những khuôn mẫu hiện tại về sự phát triển và nền văn hoá quẳng đi.

44. Ngày nay, chẳng hạn, chúng ta đang ý thức về một sự phát triển không phù hợp và không thật của nhiều thành phố, là những nơi trở thành không lành mạnh để sinh sống, không chỉ bởi vì ô nhiễm được tạo ra bởi những chất thải độc hại mà còn là kết quả của những hỗn loạn thành thị, giao thông nghèo nàn, và sự ô nhiễm và tiếng hồn thấy rõ. Nhiều thành phố rất lớn, có những cấu trúc không hiệu quả, sự lãng phí quá đáng nguồn năng lượng và nước. Những vùng phụ cận, ngay cả những vùng mới xây dựng, cũng đã chật chội, hỗn loạn và thiếu không gian xanh đủ. Chúng ta không được sinh ra để bị bao trùm bởi bê tông, nhựa đường, thuỷ tinh và kim loại, và bị tước mất sự tương giao về mặt vật lý với thiên nhiên.

45. Ở một số nơi, cả thành thị lẫn thôn quê như nhau, việc tư nhân hoá một số không gian đã giới hạn việc được sử dụng của người dân trước những nơi có vẻ đẹp đặc biệt. Ở những nơi khác, những vùng phụ cận “sinh thái” đã được tạo nên là những vùng gần với những vùng ngoại biên để đảm bảo một sự thanh bình giả tạo. Thông thường, chúng ta thấy những không gian xanh được cắt tỉa cẩn thận ở những nơi gọi là những nơi “an toàn hơn” của các thành phố, chứ không phải ở những nơi kín đáo hơn nơi mà những thứ thải đi của xã hội sống.

46. Các chiều kích xã hội của sự biến đổi toàn cầu bao gồm cả những tác động của những phát minh công nghệ về việc làm, sự loại trừ xã hội, và sự phân phối và sự tiêu thụ bất bình đẳng về năng lượng và các dịch vụ khác, sự sụp đổ xã hội, việc sử dụng thuốc gây nghiện gia tăng bởi người trẻ, và sự đánh mất căn tính. Đây là những dấu chỉ mà sự phá triển của hai thế kỷ vừa qua đã không luôn luôn dẫn đến một sự phát triển hỗ tương và một sự phát triển trong chất lượng sống. Một số trong những dấu chỉ này cũng là triệu chứng của một sự suy thoái xã hội thực sự, sự đoạn tuyệt âm thầm của những mối dây liên kết của sự hỗ tương và sự nhất quán xã hội.

47. Hơn thế nữa, khi thế giới truyền thông và thế giới số trở nên có hiện hữu khắp nơi, thì sức ảnh hưởng của nó có thể làm cho con người không còn học cách sống khôn ngoan, cách nghĩ sâu sắc và cách yêu cách đại lượng nữa. Trong ngữ cảnh này, các bậc thầy vĩ đại của quá khứ có nguy cơ không được lắng nghe ngay giữa những ồn ào và những chia trí của một sự quá tải về thông tin. Những nỗ lực cần được thực hiện để giúp những phương tiện truyền thông này trở thành những nguồn lực của một sự tiến bộ văn hoá mới cho nhân loại chứ không phải là mối nguy cho những sự phong phú sâu sắc của chúng ta. Sự khôn ngoan đích thực, như là hoa trái của một sự tự xét mình, đối thoại và gặp gỡ đại lượng giữa con người với nhau, không đạt được nhờ mởi một sự tích luỹ thuần tuý về dữ liệu là điều sau cùng sẽ dẫn đến tình trạng quá tải và bối rối, một kiểu ô nhiễm về tâm thần. Những mối quan hệ thực sự với những người khác, với tất cả những thách đố đi kèm, giờ đây có khuynh hướng bị thay thế bởi một kiểu giao tiếp mạng lưới là điều làm cho chúng ta loại bỏ các mối quan hệ ngay lập tức, do đó tạo nên một sự xuất hiện của một kiểu tình cảm giả tạo là thứ tình cảm có nhiều điều cần thực hiện với các thiết bị và các màn hình hơn là với người khác và với thiên nhiên. Truyền thông ngày nay đang thực sự giúp chúng ta giao tiếp và chia sẻ kiến thức và những tình cảm của chúng ta. Nhưng đồng thời chúng cũng tách lìa chúng ta ra khỏi mối liên hệ trực tiếp với nỗi đau, những nỗi sợ và niềm vui của người khác và sự phức tạp của những kinh nghiệm của họ. Vì lý do này, chúng ta cần phải quan tâm rằng, bên cạnh những khả năng có thể đầy phấn khích do những kiểu truyền thông này mang lại, thì một sự bất mãn sâu sắc và đáng buồn với các mối quan hệ giữa người với người, hay một cảm thức nguy hại về sự cô lập, cũng có thể xuất hiện.

V. SỰ BẤT BÌNH ĐẲNG TOÀN CẦU

48. Môi trường con người và môi trường tự nhiên xuống cấp cùng nhau; chúng ta không thể chiến đấu đủ cho sự suy thoái môi trường trừ khi chúng ta đi vào những căn nguyên có liên hệ đến sự suy thoái con người và xã hội. Thực ra, sự suy thoái môi trường và xã hội tác động đến những người bị tổn thương nhất trên hành tinh này: “Cả kinh nghiệm hằng ngày và nghiên cứu khoa học cho thấy rằng những tác động nghiêm trọng nhất của tất cả mọi cuộc tấn công vào môi trường đều do người nghèo khổ nhất phải chịu khổ”.[26] Chẳng hạn, sự cạn kiệt trong việc đánh bắt thuỷ hải sản lưu giữ cách đặc biệt nỗi đau của các cộng đồng đánh bắt nhỏ không có phương tiện để thay thế những nguồn lực này; tình trạng ô nhiễm nước đặc biệt tác động đến người nghèo là những người không thể mua nước đóng chai; và sự gia tăng mực nước biễn tác động chủ yếu trên những người dân sống ở ven biển đã bị khánh kiệt là những người không còn nơi nào khác để đi. Ảnh hưởng của những bất quân bình hiện tại cũng được tìm thấy ở nơi cái chết trước trưởng thành của nhiều người nghèo, trong các mâu thuẫn nổ ra bởi sự thiếu các nguồn lực, và ở nơi bất kỳ một vấn đề khác nào là những vấn đề vốn đang hiện diện cách không hiệu quả trên các lịch trình toàn cầu.[27]

49. Cần phải nói rằng, nói một cách tổng quát, thì có rất ít trong cách thế của một sự nhận biết rõ ràng về các vấn đề đang đặc biệt ảnh hưởng đến người bị loại trừ. Tuy nhiên họ lại chiếm đa số dân số của hành tinh, hàng tỷ người. Ngày nay, họ được đề cập đến trong các thảo luận chính chị và kinh tế quốc tế, nhưng người ta thường có ấn tượng rằng các vấn đề của họ được nêu lên như là một tư tưởng có sau, một vấn đề được thêm vào trong hầu hết các nhiệm vụ hoặc theo một cách tiếp tuyến, nếu không phải là được nhìn đến thuần tuý như là sự nguy hại song phương. Thực ra, khi tất cả được nói đến và được thực hiện, thì họ thường vẫn cứ ở dưới đáy cột. Điều này phần lớn là do sự thật là nhiều giới chuyên môn, những người đưa ra ý kiến, các phương tiện truyền thông và các trung tâm quyền lực, được đặt hoàn toàn ở những vùng đô thị giàu có, lại tách lìa rất xa khỏi người nghèo, với một chút mối liên hệ trực tiếp đến các vấn đề của họ. Họ sống và lý luận từ một vị thế thoải mái của một sự phát triển cấp độ cao và một chất lượng sống quá tốt trổi vượt khỏi tầm với của đại đa số dân cư trên thế giới. Sự thiếu mối liên hệ và gặp gỡ thể lý này, đôi khi được khích lệ bởi sự thiếu tương tác giữa các thành phố của chúng ta, có thể dẫn đến một tình trạng tê liệt lương tâm và đến những phân tích có tính định hướng vốn phớt lờ đi các thành tố của thực tại. Đôi khi thái độ nay tồn tại cận kề với lối hùng biện “xanh”. Tuy nhiên, ngày nay, chúng ta cần phải nhận biết rằng một cách tiếp cận sinh thái thực sự luôn luôn trở thành một cách tiếp cận mang tính xã hội; nó phải đưa các vấn đề về công lý vào trong những tranh cãi về môi trường, để có thể nghe được cả tiếng kêu khóc của trái đất và tiếng kêu khóc của người nghèo.

50. Thay vì giải quyết các vấn đề của người nghèo và nghĩ đến cách thế mà thế giới có thể trở nên khác đi, thì một số người lại chỉ có thể đưa ra một sự giảm thiểu về tỷ lệ sinh sản. Đôi khi, ở các nước đang phát triển đang đối diện với các hình thức áp lực quốc tế vốn làm cho sự trợ giúp kinh tế chỉ có thể tồn tại dựa trên những chính sách cụ thể về “sức khoẻ sinh sản”. Tuy nhiên “mặc dù thật đúng là một sự phân phối bất bình đẳng về dân số và về những nguồn lực sẵn có sẽ tạo nên những trở ngại cho sự phát triển và việc sử dụng có tính duy trì về môi trường, thì thay vào đó điều đó cần phải nhìn nhận rằng sự phát triển dân số là hoàn toàn phù hợp với một sự phát triển mang tính hỗ tương và chia sẻ”.[28] Đổ thừa cho sự phát triển dân số thay vì là chủ nghĩa tiêu thụ cực độ và có tính chọn lọc xét trên một số bình diện, là một cách thế khước từ đối diện với các vấn đề. Đó là một nỗ lực để hợp thức hoá khuôn mẫu phân phối hiện tại, nơi mà một thiểu số tin rằng đó họ có quyền để tiêu thụ theo một cách thế không bao giờ có thể được hoàn vũ hoá, bởi vì hành tinh không thể thậm chí chứa đựng những sản phẩm thải ra của một lối tiêu thụ như thế. Bên cạnh đó, chúng ta biết rằng xấp xỉ một phần ba của tất cả lương thực sản xuất ra bị loại bỏ, và “bất cứ nơi nào thực phẩm bị quẳng đi thì điều đó như thể là nó đã bị đánh cắp khỏi bản ăn của người nghèo”.[29] Vẫn thế, cần phải đặt sự chú ý đến những tình trạng mất quân bình về sự phân phối dân số, cả trên cấp độ quốc gia và toàn cầu, bởi vì một sự gia tăng trong việc tiêu thụ sẽ dẫn đến những hoàn cảnh phức tạp mang tính khu vực, như là kết quả của sự giao thoa giữa các vấn đề có liên hệ đến tình trạng ô nhiễm môi trường, giao thông, chất thải, sự mất nguồn tài nguyên và chất lượng cuộc sống.

51. Sự bất bình đẳng không chỉ tác động đế các cá nhân mà còn trên toàn bộ các quốc gia; nó mời gọi chúng ta suy xét đến các giá trị đạo đức trong các mối quan hệ quốc tế. Một “món nợ sinh thái” thực sự đang tồn tại, đặc biệt là giữa bán cầu nam và bán cầu bắc, kết nối với những bất quân bình về thương mại với những tác động lên môi trường, và việc sử dụng không phù hợp các nguồn tài nguyên thiên nhiên bởi những quốc gia cụ thể trải qua thời gian lâu dài. Việc xuất khẩu các nguyên vật liệu thô để thoả mãn các thị trường phía bắc đã công nghiệp hoá đã gây nguy hại địa phương, như đã đơn cử là ô nhiễm phóng xạ ở mỏ vàng hay ô nhiễm lưu huỳnh ở mỏ đồng. Có một nhu cầu bức thiết để tính toán việc sử dụng không gian môi trường trên khắp thế giới vì việc thải ra các khí dư thừa đã tích luỹ qua hai thế kỷ qua và đã tạo ra một tình hình hiện tại đã ảnh hưởng đến các quốc gia trên toàn thế giới. Lời cảnh báo được tạo nên bởi một sự tiêu thụ lớn lao ở phía một số quốc gia giàu có đã mang lại những hậu quả trên những vùng nghèo nhất thế giới, đặc biệt là Châu Phi, nơi có sự gia tăng nhiệt độ, cùng với hạn hán, đã cho thấy đang tàn phá việc làm nông. Cũng có một sự nguy hại được tạo nên bởi việc xuất khẩu chất thải rắn và các thể rắn độc hại đến các nước đang phát triển, và bởi sự ô nhiễm được tạo ra bởi các công ty đang hoạt động ở các nước kém phát triển theo những cách thế mà họ chưa bao giờ thực hiện tại quê hương họ, ở những quốc gia mà nơi đó họ gia tăng nguồn tư bản của họ: “Chúng tôi lưu ý rằng thường là các công việc kinh doanh thoạt động theo cách này là các công ty đa quốc gia. Họ thực hiện ở đây điều mà họ chưa bao giờ thực hiện ở những nước đã phát triển hoặc nơi được gọi là thế giới thứ nhất. Nhìn chung, sau khi đưa ra hoạt động của họ và thoái lui, họ để lại phía sau những khoản nợ nhân loại và môi trường lớn lao như là thất nghiệp, các thị trấn bỏ hoang, sự cạn kiệt nguồn bảo dưỡng thiên nhiên, nạn phá rừng, sự nghèo nàn về nông nghiệp và chăn nuôi địa phương, những hố trống, những đồi trọc, những con sông ô nhiễm và thật nhiều công việc xã hội không còn duy trì được nữa”.[30]

52. Nợ nước ngoài của các nước nghèo đã trở thành một cách để kiểm soát họ, tuy rằng đây không phải là trường hợp là nơi mà món nợ sinh thái có liên quan. Bằng nhiều cách khác nhau, các nước đang phát triển, nơi mà đa số các nguồn lưu trữ sinh quyển được tìm thấy, tiếp tục lam lại sự phát triển cho những quốc gia giàu có hơn với cái giá của hiện tại và tương lai của họ. Đất đai của người nghèo khu vực phía nam thì dồi dào và đa số là chưa ô nhiễm, nhưng lại thuộc về quyền sở hữu hàng hoá và nguồn lực nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu thì đang bị ngăn chặn lại bởi một hệ thống các mối quan hệ thương mại và việc làm chủ đang được bảo toàn một cách có cấu trúc. Các nước đã phát triển cần phải trợ giúp trả khoảng nợ này bằng việc giới hạn lại một cách ý nghĩa việc tiêu thụ nguồn năng lượng không tái tạo lại và bằng việc trợ giúp những nước nghèo hơn cổ võ những chính sách và chương trình phát triển duy trì được. Các khu vực và các nước nghèo nhất đang thiếu trầm trọng nguồn tiền để phát triển những tiến bộ cần thiết và đảm bảo chi phí của họ. Chúng ta phải tiếp tục ý tức về điều đó, khi xem xét đến sự biến đổi khí hậu, có những trách nhiệm khác nhau. Như Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ đã nói, cần có một sự chú ý lớn lao hơn đến “những nhu cầu của người nghèo, người yếu thế và những người bị tổn thương, trong một cuộc tranh luận thường được thống trị bởi những lợi ích quyền lực hơn”.[31] Chúng ta cần phải củng cố niềm xác tín rằng chúng ta là một gia đình nhân loại. Không có trận tuyến hay biên giới, về chính trị hay xã hội, mà chúng ta có thể nấp phía sau, vẫn còn ít không gian cho sự toàn cầu hoá về sự thờ ơ.

VI. NHỮNG ĐÁP TRẢ YẾU ỚT

53. Những tình hình này đã làm cho chị trái đất, cùng với tất cả sự bỏ mặc của thế giới của chúng ta, than khóc lên, khẩn xin chúng ta hãy thực thi một hành động khác. Chưa bao giờ chúng ta lại quá làm tổn thương và đối xử tệ với ngôi nhà chung của chúng ta như chúng ta đang thực hiện trong suốt hai trăm năm qua. Tuy nhiên chúng ta được mời gọi để trở thành những khí cụ của Thiên Chúa là Cha chúng ta, để hành tinh của chúng ta có thể trở thành điều mà Ngài mong muốn khi Ngài tạo nên nó và đáp trả lại kế hoạch của Ngài bằng hoà bình, vẻ đẹp và sự toàn vẹn. Vấn đề là chúng ta vẫn thiếu nền văn hoá cần thiết để đối đầu với cơn khủng hoảng này. Chúng ta thiếu sự lãnh đạo có khả năng hoạch ra những con đường mới và đáp ứng những nhu cầu của tình hình hiện tại bằng sự bận tâm đến tất cả và không có một thành kiến nào đối với các thế hệ kế tiếp. Việc thiết lập lên một khung pháp lý có thể vạch ra các răn giới rõ ràng và đảm bảo việc bảo vệ các hệ sinh thái đã trở thành không thể thiếu; bằng không, các cấu trúc quyền lực mới dựa trên khuôn mẫu về kinh tế công nghệ có thể làm choáng ngợp không chỉ các thể chế chính trị của chúng ta mà còn cả sự tự do và công lý nữa.

54. Điều đáng chú ý là các đáp trả về mặt chính trị quốc tế đã yếu kém thế nào. Sự thất bại của các hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về môi trường cho thấy rõ rằng các thể chế chín trị của chúng ta bị chi phối bởi công nghệ và tài chính. Có quá nhiều lợi ích đặc biệ, và các lợi ích kinh tế kết cụ khi lừa dối thiện ích chung và làm méo mó thông tin để các kế hoạch của riêng họ sẽ không bị ảnh hưởng. Văn Kiện Aparecida kêu gọi rằng “các lợi ích của các nhóm kinh tế loại bỏ cách vô lý các nguồn sống phải không được thắng thế khi giải quyết các nguồn tài nguyên thiên nhiên”.[32] Sự đồng minh giữa kinh tế và công nghệ kết cục trong việc loại trừ bất cứ thứ gì không có liên quan đến các lợi ích tức thời của nó. Kết quả là điều quan trọng nhất mà người ta có thể mong đợi là một bài hùng biện giả tạo, các hành vi lẻ tẻ của tình thương và những thể hiện chiếu lệ của sự quan tâm đến môi trường, trong khi bất cứ một nỗ lực đúng đắn nào của các nhóm trong xã hội nói lên sự thay đổi thì bị xem như là một sự phiền toái dựa trên những ảo tưởng đẹp đẽ hay một trở ngại cần phải bị phá vỡ.

55. Một số quốc gia đang dần thực hiện sự tiến bộ có ý nghĩa, phát triển nhiều hơn nữa những điều khiển hiệu quả và làm việc để chống lại nạn tham nhũng. Người dân lẽ ra sẽ có một sự nhạy bén sinh thái tốt nhưng nó đã không thành công trong việc thay đổi những thói quen nguy hại của họ về sự tiêu thụ là điều, thay vì giảm bớt, lại có vẻ như đang gia tăng hơn bao giờ hết. Một đơn cử đơn giản là việc gia tăng sự dụng và sức mạnh của máy điều hoà. Các thị trường, vốn đang kiếm những lợi nhuận tức thời từ việc bán hàng, đang kích thích sự đòi hỏi ngày càng lớn lao hơn nữa. Một cái nhìn từ bên ngoài vào trong thế giới của chúng ta sẽ thật kinh ngạc về hành vi như thế, là điều đôi khi có vẻ như sự tự huỷ.

56. Trong khi đó, các thế lực kinh tế tiếp tục biện minh cho hệ thống toàn cầu lợi mà sự ưu tiên có khuynh hướng dành cho việc đầu cơ và việc theo đuổi thu lợi tài chính, là những việc không suy xét đến bối cảnh, để mặc cho những tác động lên phẩm giá con người và môi trường thiên nhiên. Ở đây chúng ta thấy được sự suy thoái môi trường và con người và sự suy thoái đạo đức gắn liền với nhau thế nào. Nhiều người sẽ từ chối thực hiện bất cứ điều gì sai trái bởi vì những phiền nhiễu liên tục làm lu mờ ý thức của chúng ta về thế giới của chúng ta đang thực sự giới hạn và vô hạn đến thế nào. Kết quả là, “bất cứ điều gì mỏng manh, giống như môi trường, không có khả năng bảo vệ trước những lợi ích của một thị trường phong thần, là điều đang trở thành kẻ thống trị duy nhất”.[33]

57. Thật hoàn toàn có thể thấy trước được rằng, một khi những nguồn lực nhất định đã bị cạn kiệt, thì cảnh tượng sẽ được đặt ra cho các cuộc chiến mới, mặc dù dưới dáng vẻ của những lời tuyên bố cao cả. Chiến tranh luôn luôn tạo nên sự nguy hại nghiêm trọng đối với môi trường và đối với sự phong phú về văn hoá của các dân tộc, những mối nguy sẽ được phóng đại khi người ta suy xét đến các loại vũ khí hạt nhân và các vũ khí sinh học. “Bất chấp những thoả thuận quốc tế đang ngăn cấm chiến tranh hoá học, vi sinh và sinh học, thì sự thật là việc nghiên cứu trong phòng thí nghiệm vẫn tiếp tục phát triển những loại vũ khí tấn công mới có khả năng làm suy giảm sự quân bình của thiên nhiên”.[34] Các nhà chính trị phải để ý hơn nữa đế việc dự báo những mâu thuẫn mới và nói lên những căn nguyên có thể dẫn đến các cuộc chiến này. Nhưng những lợi ích tài chính mạnh mẽ cho thấy sự chống lại mạnh nhất trước nỗ lực này, và việc hoạch định chính trị có khuynh hướng thiếu hơi thở của tầm nhìn này. Điều xúi bẩy bất cứ ai, ở giai đoạn này, nắm lấy quyền lực chỉ để được nhớ đến vì sự mất khả năng của họ trong việc hành động thì điều đó có thật sự khẩn cấp và cần thiết để làm thế không?

58. Ở một số quốc gia, có những điển hình tích cực về sự cải thiện môi trường: các con sông, đã bị ô nhiễm nhiều thập kỷ, đã được làm sạch; những cánh rừng bản địa đã được khôi phục; các phong cảnh đã được làm cho đẹp đẽ nhờ vào những dự án cải tạo môi trường; những toà nhà đẹp đẽ đã được xây dựng nên; những tiến bộ đã được thực hiện trong việc không tạo ra năng lượng gây ô nhiễm và trong việc cải tiến giao thông công cộng. Những thành tựu này không giải quyết những vấn đề toàn cầu, nhưng chúng cho thấy rằng những người nam nữ vẫn có thể can thiệp một cách tích cực. Vì tất cả những giới hạn của chúng ta, những nghĩa cử của sự đại lượng, tình liên đới và sự chăm sóc không thể nhưng lại trở nên tốt trong chúng ta, bởi vì chúng ta được tạo nên vì tình yêu.

59. Đồng thời chúng ta có thể nhấn mạnh đến sự xuất hiện của hệ sinh thái giả tạo hay nhân tạo là điều củng cố sự tự mãn và sự liều lĩnh vui vẻ. Và như thuờng xảy ra trong các giai đoạn khủng hoảng sâu là lúc cần đến những quyết định can đảm, thì chúng ta bị cám dỗ để nghĩ rằng điều đang xảy ra thì không hoàn toàn rõ ràng. Xét trên bề mặt, ngoài một vài dấu chỉ rõ ràng về sự ô nhiễm và suy thoái, thì mọi thứ trông không có vẻ gì là nghiêm trọng, và hành tinh có thể tiếp tục như nó là trước đây. Sự phớt lờ như thế đóng vai trò như một giấy thông hành để tiếp tục với lối sống hiện tại của chúng ta và các mô thức sản xuất và tiêu thụ của chúng ta. Đây là cách thế mà con người nhân loại đang lập mưu để nuôi dưỡng những tệ nạn mang tính tự phá huỷ của họ: nỗ lực để không nhìn thấy chúng, nỗ lực để không nhận biết chúng, trì hoãn những quyết định quan trọng và giả vờ rằng không có điều gì đang xảy ra cả.

VII. MỘT SỰ KHÁC NHAU VỀ Ý KIẾN

60. Sau cùng, chúng ta cần nhận biết rằng những cách tiếp cận khác khau và những dòng tư tưởng khác nhau đã xuất hiện khi suy xét tình hình này và những giải pháp khả thi của nó. Ở một cực, chúng ta thấy những người đang kiên trì ôm lấy câu chuyện thần thoại của sự tiến bộ và kể cho chúng ta rằng các vấn đề về sinh thái sẽ tự giải quyết chính nó cách đơn giản bằng việc áp dụng công nghệ mới và không có một sự cần thiết nào về những suy xét mang tính đạo đức hay sự thay đổi sâu sắc nào. Ở cực khác là những người đang nhìn những người nam nữ và tất cả mọi sự can thiệp của họ không gì khác hơn là một mối đe doạ, đang gây nguy hại cho hệ sinh thái toàn cầu, và kết quả là sự hiện diện của con người nhân loại trên hành tinh này cần phải được giảm thiểu đi và tất cả mọi hình thức can thiệp cần phải bị cấm đoán. Các viễn cảnh khả thi tương lai sẽ phải được tạo ra giữa hai cực này, bởi vì không có một con đường cho một giải pháp. Điều này làm cho những đề xuất khác nhau nên khả thi, tất cả đều có thể đi vào một cuộc đối thoại với một quan điểm đưa ra những giải pháp có thể hiểu được.

61. Về nhiều vấn đề cụ thể, Giáo Hội không có lý do để đưa ra một ý kiến xác định; Giáo Hội biết rằng cuộc tranh luận chân thực phải được khích lệ giữa các chuyên gia, trong khi tôn trọng những quan điểm khác nhau. Nhưng chúng ta chỉ cần có một cái nhìn thật thẳng thắn vào những sự thật để thấy rằng ngôi nhà chung của chúng ta đang rơi vào trong tình trạng hư hỏng nghiêm trọng. Hy vọng là chúng ta sẽ nhận ra rằng luôn luôn có một cách thoát ra, rằng chúng ta luôn luô nco1 thể đổi hướng đi của chúng ta, rằng chúng ta luôn luôn có thể làm một điều gì đó để giải quyết những vấn đề của chúng ta. Cũng thế, chúng ta có thể thấy được các dấu chỉ là mọi thứ giờ đây đang đi tới điểm phá vỡ, do bởi tốc độ thay đổi và sự suy thoái nhanh chóng; những dấu chỉ này rõ ràng ở nơi những thảm hoạ thiên nhiên ở quy mô lớn cũng như là những khủng hoảng về tài chính và xã hội, vì các vấn đề của thế giới không thể được phân tích hay giải thích một cách tách biệt. Có những khu vực giở đây đang ở trong nguy cơ cao và, gạt sang một bên tất cả những dự báo về ngày tận thế, thì hệ thống thế giới hiện tại chắc chắn là không thể duy trì được trên nhiều quan điểm, vì chúng ta đã dừng suy nghĩ về các mục tiêu của hoạt động con người. “Nếu chúng ta có thể quét toàn bộ các khu vực của hành tinh của chúng ta, thì chúng ta sẽ ngay lập tức thấy rằng nhân loại đang làm thất vọng những mong đợi của Thiên Chúa”.[35]


CHƯƠNG HAI

TIN MỪNG TẠO DỰNG

62. Tại sao văn kiện này, trong khi nói với hết tất cả mọi người thiện chí, lại bao gồm một chương có liên quan đến những niềm xác tín của những người tin? Tôi ý thức rất rõ rằng trong các lãnh vực chính trị và triết học có những người kiên quyết khước từ ý tưởng về Đấng Tạo Dựng, hoặc coi điều đó là không phù hợp, và kết quả là bác bỏ như là một sự không hợp lý sự đóng góp phong phú mà các tôn giáo có thể thực hiện đối với hệ sinh thái hỗ tương và sự phát triển toàn vẹn của nhân loại. Những người khác thì coi các tôn giáo chỉ như là một nền văn hoá phụ phải chịu đựng. Tuy nhiên, khoa học và tôn giáo, cùng với những cách tiếp nhất định của mình đối với sự hiểu biết về thực tại, có thể bước vào một cuộc đối thoại nghiêm túc sinh hoa trái cho cả hai.

I. ÁNH SÁNG MANG LẠI BỞI NIỀM TIN

63. Trước sự phức tạp của cuộc khủng hoảng sinh thái và đa nguyên nhân của nó, chúng ta cần nhận thức rằng các giải pháp sẽ không xuất hiện chỉ từ một cách giải thích và biến đổi thực tại. Sự tôn trọng cũng cần phải được thể hiện đối với những sự phong phú về văn hoá khác nhau của các dân tộc khác nhau, nghệ thuật và thi phú của chúng, đời sống nội tâm và linh đạo của các dân tộc này. Nếu chúng ta thực sự quan tâm đến việc phát triển một hệ sinh thái có khả năng khắc phục sự huỷ hoại mà chúng ta đã thực hiện, thì không một ngành khoa học nào và không một hình thức khôn ngoan nào có thể bị loại trừ, và điều đó bao gồm cả tôn giáo và ngôn ngữ đặc trưng của nó. Giáo Hội Công Giáo mở ra cho công cuộc đối thoại với tư tưởng triết học; điều này giúp cho Giáo Hội tạo ra những tổng hợp khác nhau giữa niềm tin và lý trí. Sự phát triển của học thuyết xã hội của Giáo Hội đại diện cho một sự tổng hợp như thế khi xét đến các vấn đề xã hội; giáo huấn này được mời gọi để trở nên phong phú bằng việc mang lấy những thách đố mới.

64. Hơn thế nữa, mặc dù Tông Thư này đón nhận việc đối thoại với mọi người để chúng ta cùng nhau tìm kiếm những con đường giải phóng, thì tôi muốn ngay từ khởi đầu cho thấy những xác tin niềm tin mà người Kitô Hữu có thể mang lại, và một số những người thuộc niềm tin khác nữa, động lực đầy đủ để chăm sóc thiên nhiên và những người yếu thế nhất của những anh chị em như thế nào. Nếu một sự thật đơn giản về việc là người thúc đẩy người ta chăm sóc môi trường mà họ là một thành phần trong đó, thì các Kitô Hữu đến lượt mình “nhận biết rằng trách nhiệm của họ trong công trình tạo dựng, và nghĩa vụ của họ đối với thiên nhiên và Đấng Tạo Dựng, là một phần thiết yếu của niềm tin của họ”.[36] Thật tốt cho nhân loại và thế giới đại đồng khi chúng ta là những người tin nhận biết tốt hơn về những dấn thân sinh thái là điều khởi đi từ những xác tín của chúng ta.

II. SỰ KHÔN NGOAN

CỦA NHỮNG TRÌNH THUẬT THÁNH KINH

65. Không nhắc lại toàn bộ nền thần học tạo dựng, chúng ta có thể đâu là những trình thuật thánh kinh nói về mối quan hệ giữa con người với thế giới. Trong trình thuật tạo dựng thứ nhất trong Sách Sáng Thế, kế hoạch của Thiên Chúa bao gồm việc tạo dựng nên con người. Sau khi tạo dựng nên người nam và người nữ, “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp” (St 1,31). Kinh Thánh dạy rằng mọi người nam và nữ được tạo nên vì tình yêu và được tạo nên theo giống hình ảnh của Thiên Chúa (x. St 1,26). Điều này cho chúng ta thấy phẩm giá lớn lao của mỗi con người, “vốn không chỉ là một điều gì đó, nhưng là một ai đó. Người ấy có khả năng tự hiểu biến, khả năng tự thụ đắc và khả năng tự trao ban chính bản thân mình và đi vào sự hiệp thông với những người khác”.[37] Thánh Gioan Phaolô II chỉ ra rằng tình yêu đặc biệt của Đấng Tạo Thành dành cho mỗi con người nhân loại “trao ban cho con người một phẩm giá vô biên”.[38] Những người đang dấn thân để bảo vệ phẩm giá con người có thể tìm thấy ở nơi niềm tin Kitô Giáo những lý do sâu xa nhất cho sự dấn thân này. Thật tuyệt vời biết bao là sự chắc chắn rằng mỗi sự sống con người đều không bị trôi dạt trong mớ hỗn mang vô vọng, trong một thế giới được điều khiển bởi cơ hội thuần tuý hay những vòng luẩn quẩn tái diễn bất tận! Đấng Tạo Dựng nói với mỗi người chúng ta: "Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi” (Gr 1,5). Chúng ta được tạo thành trong trái tim của Thiên Chúa, và vì lý do này mà “mỗi người chúng ta là một kết quả của một tư tưởng của Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta được mong đợi, mỗi người chúng ta được yêu, mỗi người chúng ta là cần thiết”.[39]

66. Các trình thuật tạo dựng trong Sách Sáng Thế chưa đựng, theo ngôn ngữ biểu tượng và tường thuật của nó, những giáo huấn sâu sắc về sự hiện hữu con người và thực tại lịch sử của nó. Những trình thuật này cho thấy rằng sự sống con người được bắt rễ trong ba mối tương quan nền tảng, gần gũi, và đan xen vào nhau: với Thiên Chúa, với người thân cận của chúng ta và với chính trái đất. Theo Kinh Thánh, ba mối quan hệ thiết yếu này đã bị phá vỡ, cả bên ngoài lẫn bên trong chúng ta. Sự tuyệt giao này là tội lỗi. Sự hoà hợp giữa Đấng Tạo Dựng, con người và toàn thể công trình tạo dựng đã bị đoạt tuyệt bởi lối giả định của chúng ta muốn chiếm lấy vị trí của Thiên Chúa và việc khước từ nhìn nhận những giới hạn thụ tạo của chúng ta. Điều này tiếp đến bóp méo nhiệm vụ của chúng ta “thống trị” toàn trái đất (x. St 1,28), để “canh tác và canh giữ trái đất” (St 2,15). Kết quả là, mối quan hệ hoà hợp nguyên thuỷ giữa con người nhân loại và thiên nhiên trở nên mâu thuẫn (x. St3,17-19). Thật ý nghĩa là sự hoà hợp mà Thánh Phanxicô Assisi kinh nghiệm được với tất cả mọi loài thụ tạo đã được thấy như là một sự chữa lành sự đoạt tuyệt ấy. Thánh Bônaventura cho rằng, thông qua sự hoà giải hoàn vũ với mọi loài thụ tạo, mà Thánh Phanxicô một cách nào đó đã trở lại tình trạng vô tội nguyên thuỷ.[40] Đây là một tiếng kêu khóc vang xa xuất phát từ hoàn cảnh của chúng ta ngày nay, nơi mà tội lỗi tỏ hiện ở nơi tất cả sức mạnh huỷ diệt của nó trong các cuộc chiến, những hình thức khác nhau cảu bạo lực và lạm dụng, sự bỏ rơi những người yếu thế nhất, và những tấn công vào thiên nhiên.

67. Chúng ta không phải là Thiên Chúa. Trái đất đang ở đây trước mắt chúng ta và nó đã được ban tặng cho chúng ta. Điều này giúp chúng ta đáp trả lại với sự thay đổi mà tư tưởng Do Thái – Kitô Giáo, trên nền tảng của trình thuật Sáng Thế ban cho con người “sự thống trị” trên toàn trái đất (x.St 1,28), đã khích lệ sự khai thác thiên nhiên không cưỡng lại được bằng việc vẽ nên mình như thể bị thiên nhiên thống trị và huỷ diệt. Đất không phải là một sự giải thích đúng về Kinh Thánh như Giáo Hội hiểu. Mặc dù thật đúng là chúng ta là những Kitô Hữu có đôi khi giải thích sai Thánh Kinh, ngày nay chúng ta phải mạnh mẽ khước từ khái niệm là hữu thể của chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và được trao quyền thống trị trên toàn cõi đất đồng hoá với sự thống trị tuyệt đối trên các loại thọ tạo khác. Các bản văn kinh thánh cần phải được đọc trong ngữ cảnh của nó, với một sự tường giải thích hợp, nhận biết rằng các bạn văn này nói cho chúng ta hãy “canh tác và canh giữ” khu vườn của thế giới (x. St 2,15). “Trồng trọt” có ý là “canh tác”, cày bừa hay làm việc, trong khi “canh giữ” có nghĩa là chăm sóc, bảo vệc, canh phòng và duy trì. Điều này hàm chứa một mối quan hệ có trách nhiệm dành cho nhau giữa con người nhân loại và thiên nhiên. Mỗi một cộng đồng có thể lấy từ sự rộng lượng của trái đất bất cứ điều gì cộng đồng ấy cần cho sự tồn tại của mình, nhưng cộng đồng ấy cũng có nghĩa vụ phải bảo vệ trái đất và đảm bảo sự sinh hoa trái dồi dào của trái đất cho các thế hệ kế tiếp. “Chúa làm chủ trái đất” (Tv 24,1); “cõi đất và muôn loài trong đó” (Đnl 10,4) đều thuộc về Ngài. Do đó Thiên Chúa khước từ hết mọi tuyên bố đối với quyền sở hữu tuyệt đối: “Đất thì không được bán đứt, vì đất là của Ta, còn các ngươi chỉ là ngoại kiều, là khách trọ nhà Ta” (Lv 25,23).

68. Trách nhiệm này trước trái đất của Thiên Chúa có nghĩa là con người nhân loại, được phú bẩm sự thông minh, phải tôn trọng các luật của tự nhiên và thế quân bình mỏng manh tồn tại giữa các loài thọ tạo của thế giới này, vì “Người ra lệnh, là hết thảy được tạo thành; Người định nơi cho tất cả đến muôn đời muôn thuở, ban truyền lề luật, luật đó chẳng hề qua” (Tv 148,5b-6). Các lề luật có trong Kinh Thánh đều đào sâu vào các mối quan hệ, không chỉ giữa các cá nhân mà còn với các thực thể sống khác. “Khi anh (em) thấy lừa hay bò của người anh em mình ngã trên đường, thì đừng bỏ mặc làm ngơ, nhưng phải giúp người anh em đỡ chúng dậy... Nếu trên đường đi, anh (em) gặp một tổ chim, ở trên bất cứ cây nào hay ở dưới đất, trong đó có chim con hoặc trứng, và chim mẹ đang ủ chim con hay ấp trứng, thì anh (em) không được bắt cả mẹ lẫn con” (Đnl 4,6). Cũng theo những dòng này, thì việc nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy không chỉ có ý dành cho con người, mà còn “để bò lừa của ngươi được nghỉ ngơi” (Xh 23,12). Rõ ràng, Kinh Thánh không có chỗ cho chủ nghĩa lấy con người làm trung tâm tàn bạo không quan tâm gì đến các loại thọ sinh khác.

69. Cùng với nghĩa vụ của chúng ta khi sử dụng các tài nguyên của trái đất một cách có trách nhiệm, thì chúng ta được mời gọi để nhận biết rằng những loại thọ sinh khác có một giá trị của chúng trong mắt Thiên Chúa: “bằng việc hiện hữu thuần tuý của chúng, chúng chúc tụng Ngài và làm vinh danh Ngài”,[41] và thực ra “Thiên Chúa hân hoan trong mọi việc của Ngài” (Tv 104,31). Ngang qua phương thế phẩm giá độc nhất của chúng ta và quà tặng sự thông minh của chúng ta, chúng ta được mời gọi để tôn trọng công trình tạo dựng và các luật vốn có của nó, vì “Ðức Chúa dùng khôn ngoan đặt nền cho trái đất” (Cn 3,19). Trong thời đại của chúng ta, Giáo Hội không đơn giản cho thấy rằng các loại thọ tạo khác hoàn toàn thuộc về thiện ích của con người nhân loại, như thể chúng không có giá trị gì ở nơi chính bản thân chúng và có thể bị đối xử như chúng ta muốn. Hội Đồng Giám Mục Đức đã dạy rằng, nơi các thọ tạo khác được quan tâm, thì “chúng ta có thể nói về sự ưu tiên của việc là vượt trên việc là hữu dụng”.[42] Giáo Lý rõ ràng và mạnh mẽ phê bình một chủ nghĩa lấy con người làm trung tâm đã bị bóp méo: “Mỗi loại thọ tạo mang lấy một sự tốt lành và hoàn hảo của riêng nó... Mỗi loại thọ tạo khác nhau, như đã được định trong hữu thể của nó, phản chiếu theo cách của nó một tia của sự khôn ngoan và tốt lành vô biên của Thiên Chúa. Do đó, con người phải tôn trọng sự tốt lành riêng biệt của mọi loại thọ tạo, tránh sự dụng cách vô trật tự mọi thứ”.[43]

70. Trong câu chuyện của Ca-in và A-ben, chúng ta thấy sự ghen tị dẫn Ca-in đến việc thực thi sự bất công chống lại em mình thế nào, là điều tiếp theo đó đoạn tuyệt mối quan hệ giữa Ca-in và Thiên Chúa, và giữa Ca-in và trái đất nơi mà Ca-in bị trục xuất ra. Điều này được thấy rõ trong sự trao đổi bi đát giữa Thiên Chúa và Ca-in. Thiên Chúa hỏi: “A-ben em ngươi đâu?” Ca-in trả lời rằng anh ta không biết, và Thiên Chúa tiếp tục: “Ngươi đã làm gì vậy? Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta! Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em ngươi, do tay ngươi đổ ra” (St 4,9-11). Sự không tôn trọng đối với nghĩa vụ phải canh tác và duy trì phát triển mối quan hệ đúng đắn với người thân cận của tôi, những người mà tôi phải canh giữ và chăm sóc, phá huỷ mối quan hệ của tôi với chính bản thân tôi, với người khác, với Thiên Chúa và với trái đất. Khi tất cả các mối quan hệ này bị phớt lờ, khi công lý không còn ngự trị trên mặt đất nữa, thì Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng sự sống tự nó bị đe doạ. Chúng ta thấy điều này trong câu chuyện ông Nô-ê, nơi đó Thiên Chúa đe doạ sẽ xoá bỏ nhân loại bởi vì sự thất bại liên lỉ của nhân loại trong việc chu toàn những đòi hỏi của công lý và hoà bình: "Ta đã quyết định giờ tận số của mọi xác phàm, vì tại chúng mà đất đầy bạo lực” (St 6,13). Những câu chuyện xưa này, đầy tính biểu tượng, làm chứng cho một sự xác tín là điều mà hôm nay chúng ta chia sẻ, rằng mọi sự có mối liên hệ qua lại, và rằng việc chăm sóc đời sống của chúng ta và các mối quan hệ của chúng ta với thiên nhiên là không thể tách lìa khỏi tình huynh đệ, công lý và sự trung tín với người khác.

71. Mặc dù “sự gian ác của con người quả là nhiều trên mặt đất” (St 6,5) và Thiên Chúa “hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất” (St 6,6), tuy nhiên, ngang qua ông Nô-ê, người vẫn vô tội và ngay chính, Thiên Chúa quyết định mở ra một con đường cứu độ. Bằng cách này Ngài đã cho nhân loại cơ hội một khởi đầu mới. Tất cả mọi điều cần là một người tốt lành để khôi phục niềm hy vọng! Truyền thống thánh kinh cho thấy rõ ràng rằng sự đổi mới này đi kèm với việc khôi phục và tôn trọng các nhịp điệu đã được khắc ghi trong thiên hiên bởi bàn tay của Đấng Tạo Dựng. Chúng ta thấy điều này, ví dụ, trong luật Sa-bát. Vào ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi không làm việc. Ngài đã truyền lệh cho dân Ít-ra-en hãy dành một ngày thứ bảy như là ngày nghỉ ngơi, ngày Sa-bát, (x. St 2,2-3; Xh 16,23; 20,10). Tương tự, cứ mỗi bảy năm, sẽ là một năm sa-bát được đặt ra cho người Ít-ra-en, một sự nghỉ ngơi hoàn toàn dành cho đất đai (x. Lv 25,1-4), khi mà việc gieo giống bị cấn và người ta gặt hái chỉ điều cần thiết để sống và để nuôi gia đình người ấy (x. Lv 25,4-6). Sau cùng, sau bảy tuần của các năm, có nghĩa là bốn mươi chín năm, Năm Thánh được cử hành như là một năm để tha thứ chung và “sự tự do trên toàn cõi đất cho hết mọi cư dân” (x. Lv 25:10). Luật này xuất hiện như một nỗ lực để đảm bảo sự quân bình và sự công bằng trong các mối quan hệ của họ với người khác và với đất đai mà trên đó họ sống và làm việc. Đồng thời, đó là một sự nhận biết rằng quà tặng của trái đất với các hoa trái của nó thuộc về mọi người. Những ai canh tác và canh giữ đất đai thì buộc phải chia sẻ hoa trái, đặc biệt là với người nghèo, với các bà goá, các cô nhi và người ngoại ở ngay giữa họ: “Khi các ngươi gặt lúa trong đất của các ngươi, (các) ngươi không được gặt cho tới sát bờ ruộng; lúa gặt sót, (các) ngươi không được mót. Vườn nho (các) ngươi, (các) ngươi không được hái lại, những trái rớt, (các) ngươi không được nhặt: (các) ngươi sẽ bỏ lại cho người nghèo và ngoại kiều” (Lv 19,9-10).

72. Các Thánh Vịnh thường xuyên dạy chúng ta biết chúc tụng Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng, “Đấng trải mặt đất này trên làn nước bao la, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 136,6). Các Thánh Vịnh cũng mời gọi các loài thọ tạo khác hoà cùng chúng ta trong việc ca tụng này: “Ca tụng Chúa đi, này vầng ô bóng nguyệt, ca tụng Người, muôn tinh tú rạng soi. Ca tụng Chúa đi, hỡi cửu trùng cao vút, cả khối nước phía trên bầu trời. Nào ca tụng thánh danh Đức Chúa, vì Người ra lệnh, là hết thảy được tạo thành” (Tv 148,3-5). Chúng ta không chỉ hiện diện bằng sự toàn năng của Thiên Chúa; chúng ta còn sống với Ngài và bên cạnh Ngài. Đây là lý do vì sao mà chúng ta tôn thờ Ngài.

73. Các sách của các vị tiên tri mời gọi chúng ta hãy tìm kiếm sức mạnh được biến đổi trong những lúc thử thách bằng việc chiêm ngắm Thiên Chúa toàn năng Đấng tạo dựng nên hoàn vũ. Nhưng quyền năng vô biên của Thiên Chúa không dẫn chúng ta đến chỗ ly khai khỏi sự dịu dàng phụ tử của Ngài, bởi vì ở nơi Ngài lòng trìu mến và sức mạnh đan xen vào nhau. Thực ra, tất cả mọi nền linh đạo có ý nghĩa đều đi kèm theo cả tình yêu thánh đón nhận và sự thờ phượng thánh, niềm tin vào Thiên Chúa vì năng quyền vô biên của Ngài. Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa là Đấng giải thoát và cứu chuộc là cùng một Thiên Chúa Đấng tạo nên vũ trụ, và hai đường lối hành động thánh này liên hệ gần gũi và không thể tách rời: "Lạy Đức Chúa, Chúa Thượng của con, này Ngài đã tạo thành trời đất bằng sức mạnh vĩ đại và cánh tay uy quyền của Ngài. Không có gì mà Ngài không làm được!... Ngài đã dùng dấu lạ điềm thiêng, đã giương bàn tay mạnh mẽ và cánh tay uy quyền mà đưa dân Ngài là Ít-ra-en ra khỏi đất Ai-cập” (Gr 32,17.21). “Đức Chúa là Thiên Chúa vĩnh cửu, là Đấng sáng tạo toàn cõi đất. Người không mệt mỏi, chẳng nhọc nhằn, trí thông minh của Người khôn dò thấu. Người ban sức mạnh cho ai mệt mỏi, kẻ kiệt lực, Người làm cho nên cường tráng” (Is40,28b-29).

74. Kinh nghiệm về cuộc lưu đày ở Babylon làm xuất hiện một cuộc khủng hoảng thiêng liêng là điều dẫn đến một niềm tin sâu đậm hơn vào Thiên Chúa. Giờ đây sự toàn năng sáng tạo của Ngài đã mang lại niềm tự hào về nơi ấy để giáo huấn người dân biết lấy lại niềm hy vọng ngay giữa tình trạng khó khăn tồi tệ của họ. Nhiều thế kỷ sau, trong một thời kỳ thử thách và bách hại khác, khi mà Đế Chế La Mã tìm cách áp đặt một sự thống trị tuyệt đối, thì người tín hữu lại một lần nữa tìm thấy sự an ủi và niềm hy vọng trong một niềm tin lớn mạnh vào Thiên Chúa toàn năng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa toàn năng, sự nghiệp Ngài thật lớn lao kỳ diệu! Lạy Ðức Vua trị vì muôn nước, đường lối Ngài quả chân thật công minh!” (Kh 15,3). Thiên Chúa Đấng tạo nên vũ trụ từ hư không cũng có thể can thiệp vào trong thế giới này và vượt thắng mọi hình thức sự dữ. Bất công không phải là bất khả chiến bại.

75. Một nền linh đạo mà lãng quên Thiên Chúa là Đấng toàn năng và là Đấng Tạo Dựng thì không thể chấp nhận được. Đó là cách mà chúng ta sẽ có kết cục trong việc thờ các thế lực trần tục, hay chính bản thân chúng ta khi chiếm đoạt lấy vị thế của Thiên Chúa, thậm chí đến mức công bố một quyền vô giới hạn để chà đạp công trình tạo dựng của Ngài dưới dân. Cách tốt nhất để khôi phục người nam và người nữ về đúng vị trí của họ, là đặt dấu chấm hết cho sự công bố của họ trước quyền thống trị tuyệt đối trên trái đất, là nói thêm một lần nữa về hình tượng của một Người Cha Đấng tạo thành và Đấng chỉ mình Ngài mà thôi làm chủ thế giới này. Bằng không, con người nhân loại sẽ luôn luôn nỗ lực để áp đặt luật lệ và lợi ích của họ trên thực tại.

III. MẦU NHIỆM VŨ TRỤ

76. Trong truyền thống Do Thái – Kitô Giáo, từ “công trình tạo dựng” có một nghĩa rộng hơn là “thiên nhiên”, bởi vì nó có liên hệ với kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa mà trong đó mọi thọ tạo đều có giá trị và ý nghĩa riêng của nó. Thiên nhiên thường được coi là một hệ thống vốn có thể nghiên cứu được, hiểu được và kiểm soát được, trong khi công trình tạo dựng thì chỉ có thể hiểu được như là một quà tặng từ cánh tay vươn ra của Chúa Cha của hết mọi loài, và như là một thực tại được soi sáng bởi tình yêu vốn mời gọi chúng ta cùng nhau đi vào sự hiệp thông hoàn vũ.

77. “Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời” (Tv 33,6). Điều này nói với chúng ta rằng thế giới xuất hiện như là kết quả của một quyết định, chứ không phải từ hỗn mang hay tình cờ, và việc này tán dương quyết định ấy hơn hết tất cả. Lời tạo thành diễn tả một sự chọn lựa tự do. Vũ trụ không xuất hiện như kết quả của một quyền năng độc đoán, một sự thể hiện sức mạnh hay một ý muốn khẳng định bản thân. Công trình tạo dựng là một trật tự của tình yêu. Tình yêu của Thiên Chúa là một sức mạnh chuyên động nền tảng trong tất cả mọi vật được tạo thành: “Quả thế, Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên” (Kn 11,24). Do đó, mọi loài thọ tạo là đối tượng của sự dịu dàng của Chúa Cha, Đấng đang trao cho nó một vị trí trong thế giới. Ngay cả sự sống thoáng qua của sinh vật nhỏ bé nhất cũng là đối tượng của tình yêu Ngài, và trong một vài giây hiện hữu, Thiên Chúa nâng niu nó bằng lòng trìu mến của Ngài. Thánh Basil Cả đã mô tả Đấng Tạo Thành là “sự thiện hảo không thể đo lường”,[44] trong khi nhà thơ Dante Alighieri nói về “tình yêu làm chuyển động mặt trời và các tinh tú”.[45] Do dó, chúng ta có thể đi lên từ những điều được tạo dựng “đến sự cao cả của Thiên Chúa và đến lòng thương xót yêu thương của Ngài”.[46]

78. Đồng thời, tư tưởng Gio Thái – Kitô Giáo làm suy giảm chiều kích thần bí của thiên nhiên. Mặc dù vẫn tiếp tục ngưỡng bộ sự cao cả và bao la của thiên nhiên, nhưng tư tưởng này không còn coi thiên nhiên là thánh thiêng nữa. Trong khi làm thế, nó nhấn mạnh trên hết tất cả là trách nhiệm của con người đối với thiên nhiên. Sự tái khám phá thiên nhiên này có thể không bao giờ phải trả giá cho sự tự do và trách nhiệm của con người nhân loại vốn là một thành phần của thế giới, có nghĩa vụ phải chăm sóc các khả năng của mình để bảo vệ thiên nhiên và phát triển hết tiềm năng của nó. Nếu chúng ta nhiền nhận giá trị và tính mỏng dòn của thiên nhiên và, đồng thời, những khả năng của chúng ta được Thiên Chúa ban tặng, thì sau cùng chúng ta có thể bỏ lại phía sau thần bí hiện đại về sự tiến bộ vật chất vô giới hạn. Một thế giới mỏng manh, được Thiên Chúa uỷ thác cho sự chăm sóc của con người, đang thách đố chúng ta phát minh ra những cách thế thông minh của việc định hướng, phát triển và giới hạn sức mạnh của chúng ta.

79. Trong vũ trụ này, được hình thành bởi những hệ thống mở và liên thông, chúng ta có thể biện phân vô số các hình thức của mối quan hệ và sự dự phần. Điều này dẫn chúng ta đến việc nghĩ về toàn thể như là một sự mở ra cho sự siêu việt của Thiên Chúa, mà qua đó vũ trụ này phát triển. Niềm tin giúp chúng ta giải thích ý nghĩa và vẻ đẹp nhiệm mầu của điều đang triển nở. Chúng ta có tự do để áp dụng sự thông hiểu của chúng ta trước mọi thứ đang tiến hoá cách tích cực, hoặc trước việc thêm vào những căn bệnh mới, những căn nguyên mới của sự đau khổ và những đổ vỡ thực sự. Đây là điều tạo nên cho sự phấn khởi hay bị kịch của lịch sử nhân loại, mà trong đó sự tự do, phát triển, ơn cứu độ, tình yêu có thể nở hoa, hoặc dẫn tới sự sa sút và huỷ diệt cả hai. Công việc của Giáo Hội tìm kiếm không chỉ nhắc nhớ mọi người về nghĩa vụ chăm sóc thiên nhiên, mà còn đồng thời “Giáo Hội phải trên hết tất cả bảo vệ nhân loại khỏi sự tự huỷ diệt”.[47]

80. Tuy nhiên Thiên Chúa, Đấng mong muốn làm việc với chúng ta và Đấng cần đến sự hợp tác của chúng ta, cũng có thể biến sự dữ mà chúng ta đã thực hiện thành sự lành. “Người ta có thể nói Thần Khí có quyền năng sáng tạo vô biên, phù hợp với tư tưởng thánh, là tư tưởng biết cách để tháo gỡ các nút thắt của các sự vụ của con người, bao gồm cả những sự vụ phức tạp và không thể hiểu được nhất”.[48] Tạo dựng nên một thế giời cần phát triển, Thiên Chúa bằng cách nào đó đã tìm cách giới hạn chính bản thân Ngài vào trong một cách thế như vậy đề nhiều thứ mà chúng ta nghĩ về như những sự dữ, những mối nguy hay những nguồn đau khổ, trong thực tế là một phần của những nỗi đau của việc sinh con mà Ngài sử dụng để cuốn hút chúng ta vào trong hành động hợp tác với Đấng Tạo Dựng.[49] Thiên Chúa đang hiện diện cách gần gũi với mỗi một hữu thể, mà không tác động đến cơ chế tự động của tạo vật của Ngài, và điều này tạo sự phát triển cho cơ chế tự động đúng đắn của các sự vụ thuộc trái đất.[50] Sự hiện diện thánh của Ngài, là điều đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mỗi hữu thể, “tiếp tục công cuộc tạo dựng”.[51] Thần Khí Thiên Chúa lấp đầy vũ trụ với các khả năng và do đó, từ nơi rất trọng tâm của mọi sự, một điều gì đó mới luôn luôn có thể xuất hiện: “Thiên nhiên không là gì hơn là một kiểu nghệ thuật nhất định, có tên là nghệ thuật của Thiên Chúa, tạo dấu ấn trên tất cả mọi sự, mà từ đó những sự này được chuyển động đến một đích điểm xác định. Điều đó như thể là một người thợ đóng thuyền có thể mang lại lượng gỗ đủ để tự dịch chuyển chúng đến chỗ mang lấy hình dáng của một chiếc thuyền”.[52]

81. Con người nhân loại, ngay cả khi chúng ta đưa ra giả định quá trình tiến hoá, cũng sở hữu một sự độc nhất vốn không thể được giải thích đầy đủ bởi sự tiến hoá của các hệ thống mở khác. Mỗi người chúng ta có căn tính của mình và có khả năng đi vào việc đối thoại với người khác và với chính Thiên Chúa. Khả năng lý luận của chúng ta, khả năng phát triển những lập luận của chúng ta, khả năng phát kiến, giải thích thực tại và sáng tạo nghệ thuật, cùng với những khả năng chưa khám phá ra, là những dấu chỉ của một sự độc nhất trổi vượt những tinh cầu của vật lý và sinh học. Sự mới mẻ độc đáo có liên hệ đến sự xuất hiện một con người nhân loại bên trong một vũ trụ vật chất cho thấy một hành độc trực tiếp của Thiên Chúa và một lời mời gọi đặc biệt đến với sự sống và với mối quan hệ về phía một “Ngài” là Đấng ngỏ lời với một “ngài” khác. Các trình thuật kinh thánh về tạo dựng mời gọi chúng ta nhìn mỗi con người nhân loại như là một chủ thể là người không bao giờ có thể bị giảm thiểu xuống tình trạng của một vật thể.

82. Tuy nhiên cũng thật là sai lầm khi nhìn các hữu thể sống khác như là thuần tuý các vật thể bị lệ thuộc vào sự thống trị tàn bạo của con người. Khi thiên nhiên bị coi chỉ đơn giản là một nguồn lợi nhuận và lợi ích, thì điều này có những hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. Tầm nhìn “sức mạnh luôn luôn đúng” này tạo ra sự bất bình đẳng, sự bất công và các hành vi bạo lực lớn lao chống lại đa số nhân loại, bởi vì các nguồn lực sẽ mang lấy kết cục ở trong tay của người tới đầu tiên hoặc người quyền thế nhất: người thắng sẽ nắm hết tất cả. Hoàn toàn trái ngược với mô thức này là các lý tưởng về sự hoà hợp, công lý, tình huynh đệ và hoà bình như Chúa Giêsu đề nghị. Khi Ngài nói về các thế lực của thời của Ngài: “Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em” (Mt 20,25-26).

83. Định mệnh sau cùng của vũ trụ là ở trong sự viên mãn của Thiên Chúa, là điều đã được Đức Kitô phục sinh đạt tới, thước đo của sự trưởng thành của tất cả mọi điều.[53] Tuy nhiên ở đây chúng ta có thể thêm vào một lập luận khác để khước từ hết mọi sự thống trị tàn bạo và vô trách nhiệm của con người nhân loại trên các loại thọ tạo khác. Mục đích tối hậu của các tạo vật khác không phải để được tìm thấy ở nơi chúng ta. Hơn thế, tất cả mọi loài thọ tạo đang dịch chuyển về phía trước cùng với chúng ta và ngang qua chúng ta hướng đến một đích điểm chung, chính là Thiên Chúa, trong sự viên mãn trổi vượt ấy là nơi mà Đức Kitô phục sinh ôm lấy và chiếu sáng hết mọi sự. Con người nhân loại, được phú ban cho sự thông minh và tình yêu, và được cuốn hút bởi sự viên mãn của Đức Kitô, được mời gọi để dẫn dắt hết mọi loại thọ tạo trở về với Đấng Tạo Dựng của chúng.



[1] François d’Assise, Cantique des créaturesSC 285, p. 343-345.

[2] Lett. apost. Octogesima adveniens (14 mai 1971), n. 21 : AAS 63 (1971), 416-417.

[3] Discours à l’occasion du 25ème anniversaire de la FAO (16 novembre 1970), n. 4 : AAS 62 (1970), 833.

[4] Lett. enc. Redemptor hominis (4 mars 1979), n. 15 : AAS 71 (1979), 287.

[5] Cf. Catéchèse (17 janvier 2001), n. 4 : Insegnamenti 24/1 (2001), 179 ; L´Os-servatore Romano, éd. française (par la suite ORf) (23 janvier 2001), n. 4, p. 12.

[6] Lett. enc. Centesimus annus (1er mai 1991), n. 38 : AAS 83 (1991), 841.

[7] Ibid., n. 58 : p. 863.

[8] Jean-Paul II, Lett. enc. Sollicitudo rei socialis (30 décembre 1987), n. 34 : AAS 80 (1988), 559.

[9] Cf. Id., Lett. enc. Centesimus annus (1er mai 1991), n. 37 : AAS 83 (1991), 840.

[10] Discours au Corps Diplomatique accrédité près le Saint-Siège, (8 janvier 2007) : AAS 99 (2007), n. 73.

[11] Lett. enc. Caritas in veritate (29 juin 2009), n. 51 : AAS 101 (2009), 687.

[12] Discours au Deutscher Bundestag, Berlin (22 septembre 2011) : AAS 103 (2011), 664.

[13] Discours au clergé du Diocèse de Bolzano-Bressanone (6 août 2008) : AAS 100 (2008), 634.

[14] Message pour la Journée de prière pour la sauvegarde de la création (1er septembre 2012).

[15] Discours à Santa Barbara, California (8 novembre 1997) ; cf. John Chryssavgis, On Earth as in Heaven: Ecological Vision and Iniciatives of Ecumenical Patriarch Bartholomew, Bronx, New York 2012.

[16] Ibid.

[17] Conférence au Monastère d’Utstein, Norvège (23 juin 2003).

[18] Discours au I er Sommet de Halki : “Global Responsibility and Ecological Sustainability: Closing Remarks”, Istanbul (20 juin 2012).

[19] Thomas de Celano, Vita prima de saint François, XXIX, 81 : FF 460.

[20] Legenda Maior, VIII, 6 : FF 1145.

[21] Cf. Thomas de Celano, Vita Secunda de saint François, CXXIV, 165 : FF 750.

[22] Conférence des évêques catholiques d'Afrique du Sud, Pastoral Statement on the Environmental Crisis (5 septembre 1999).

[23] Cf. Salut au personnel de la FAO (20 novembre 2014) : AAS 106 (2014), 985.

[24] Vème Conférence générale de l'épiscopat latino-américain et des Caraïbes, Document d’Aparecida (29 juin 2007), n. 86.

[25] Conférence des évêques catholiques des Philippines, Lettre pastorale What is Happening to our Beautiful Land? (29 janvier 1988).

[26] Conférence épiscopale bolivienne, Lettre pastorale sur l’environnement et le développement humain en Bolivie El universo, don de Dios para la vida (2012), 17.

[27] Cf. Conférence épiscopale allemande : Commission pour les affaires sociales, Der Klimawandel: Brennpunkt globaler, intergenerationeller und ökologischer Gerechtigkeit (septembre 2006), 28-30.

[28] Conseil Pontifical “Justice et Paix”, Compendium de la Doctrine Sociale de l’Église, n. 483.

[29] Catéchèse (5 juin 2013) : Insegnamenti 1/1 (2013), 280 ; OR(5 juin 2013), n. 23, p. 3.

[30] Évêques de la région de Patagonie-Comahue (Argentine), Mensaje de Navidad (décembre 2009), 2.

[31] Conférence des évêques catholiques des États-Unis d'Amérique, Global Climate Change: A Plea for Dialogue, Prudence and the Common Good (15 juin 2001).

[32] Vème Conférence générale de l'épiscopat latino-américain et des Caraïbes, Document d’Aparecida (29 juin 2007), 471.

[33] Exhort. apost. Evangelii gaudium (24 novembre 2013), n. 56 : AAS 105 (2013), 1043.

[34] Jean-Paul II, Message pour la Journée Mondiale de la Paix 1990, n. 12 : AAS 82 (1990), 154.

[35] Id., Catéchèse (17 janvier 2001), 3 : Insegnamenti 24/1 (2001) ; OR(23 janvier 2001) n. 4, p. 12.

[36] JEAN-PAUL II, Message pour la Journée Mondiale de la Paix 1990, n. 15 : AAS 82 (1990), 156.

[37] Catéchisme de l’Église Catholique, n. 357.

[38] Cf. Angelus à Osnabrück (Allemagne) avec des personnes vivant des situations de handicap (16 novembre 1980) : Insegnamenti 3/2 (1980), 1232 ; OR(18 novembre 1980), n. 47, p. 3.

[39] Benoît XVI, Homélie de la messe inaugurale du ministère pétrinien (24 avril 2005) : AAS 97 (2005), 711.

[40] Cf. Legenda Maior, VIII, 1 : FF 1134.

[41] Catéchisme de l’Église Catholique, n. 2416.

[42] Conférence épiscopale allemande, Zukunft der Schöpfung – Zukunft der Menschheit. Erklärung der Deutschen Bischofskonferen.Z .Zu Fragen der Umwelt und der Energieversorgung (1980), II, 2.

[43] Catéchisme de l’Église Catholique, n. 339.

[44] Hom. in Hexaemeron, 1, 2, 10 : PG 29, 9.

[45] La Divine Comédie. Paradis, Chant XXXIII, 145.

[46] Benoît XVI, Catéchèse (9 novembre 2005) : Insegnamenti 1 (2005) , 768.

[47] Id., Lett. enc. Caritas in veritate (29 juin 2009), n. 51 : AAS 101 (2009), 687.

[48] Jean-PauL II, Catéchèse (24 avril 1991), 6 : Insegnamenti 14/1 (1991), 856.

[49] Le Catéchisme explique que Dieu a voulu créer un monde en route vers sa perfection ultime, et que ceci implique la présence de l’imperfection et du mal physique : cf. Catéchisme de l’Eglise Catholique, n. 310.

[50] Cf. Conc. Œcum. Vat. II, Const. past. Gaudium et spes, sur l’Église dans le monde de ce temps, n. 36.

[51] Thomas d’Aquin, Somme théologique I, q. 104, art. 1, ad 4.

[52] Id., In octo libros Physicorum Aristotelis expositio, lib II, lectio 14.

[53] L’apport de P. Teilhard de Chardin se situe dans cette perspective ; cf. Paul VI, Discours dans un établissement de chimie pharmaceutique (24 février 1966) : Insegnamenti 4 (1966), 992-993 ; Jean-Paul II, Lettre au Révérend P. George V. Coyne (1er juin 1988) : Insegnamenti 11/2 (1988), 1715 ; Benoît XVI, Homélie pour la célébration des Vêpres à Aoste (24 juillet 2009) : Insegnamenti 5/2 (2009), 60.

 


Văn Kiện Giáo Hội