LUMEN FIDEI – ÁNH SÁNG ĐỨC TIN
CỦA
ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICÔ
GỬI
CÁC GIÁM MỤC,
LINH
MỤC VÀ PHÓ TẾ,
CÁC TU SĨ
VÀ
TOÀN THỂ ANH CHỊ EM GIÁO DÂN
VỀ ĐỨC TIN
1. Ánh sáng đức tin (Lumen
Fidei): với từ ngữ này, truyền thống của Giáo hội đã ám chỉ ơn sủng lớn lao
do Chúa Giêsu đem đến, ơn sủng đó được trình bày trong Tin mừng thánh Gioan: “Tôi
là ánh sáng thế gian, để tất cả những ai tin vào tôi, thì không ở lại trong
bóng tối” (Ga 12,46). Thánh Phaolô
cũng diễn đạt những từ ngữ này như sau : “Thiên Chúa đã phán : “Ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối tăm”, ánh sáng chiếu soi lòng trí
chúng tôi” (2 Cr 4,6). Trong thế giới
dân ngoại, bị đói khát ánh sáng, tín ngưỡng thờ thần Mặt trời đã được phát triển,
Sol invictus, được khẩn cầu khi mặt
trời mọc. Dẫu cho mặt trời có mọc lại mỗi ngày, người ta hiểu rất rõ rằng nó
không có khả năng phát ra ánh sáng của nó trên toàn bộ cuộc sống con người.
Thực vậy, mặt trời không chiếu sáng toàn bộ thực tại, tia sáng của nó không thể
đạt đến tận bóng đêm của sự chết, là nơi con mắt nhân loại bị đóng lại đối với
ánh sáng của mình. Thánh Justinô tử đạo khẳng định : “Người ta đã không bao giờ
nhìn thấy một ai sẵn sàng chết cho niềm tin của mình vào mặt trời”.[1]
Nhận thức được chân trời rộng lớn mà đức tin đã mở ra cho họ, những người kitô hữu
đã cầu xin Đức Kitô mặt trời đích thực “những tia sáng đem lại sự sống”.[2]
Chúa Giêsu nói với Matta, người đang khóc vì cái chết của em mình là Lazarô : “Nào
Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của
Thiên Chúa sao? (Ga 11,40). Ai tin,
sẽ thấy; họ sẽ thấy với ánh sáng chiếu soi tất cả mọi nẽo đường, bởi vì ánh
sáng cho chúng ta đến từ Chúa Giêsu Phục sinh, ngôi sao mai không bao giờ lặn.
Một Ánh sáng hão huyền?
2. Khi nói về ánh sáng đức tin này, chúng ta có thể thấy sự
phản đối của nhiều người trong thời đại chúng ta. Trong kỷ nguyên hiện đại người
ta đã suy nghĩ rằng ánh sáng ấy có tác dụng đủ cho các xã hội cổ đại, nhưng
không giúp ích gì cho các thời đại mới, cho người đã trở thành người lớn, cho
niềm tự hào về lý trí của mình, cho ước muốn khám phá cách thế mới trong tương
lai. Theo nghĩa này, đức tin đã xuất hiện như là ánh sáng hão huyền, đã ngăn
cản con người vun trồng sự liều lĩnh về tri thức. Thời trẻ Zietzsche đã đề nghị
chị Elisabeth của ông chấp nhận rủi ro để bước đi trên “những con đường mới
[…], trong sự không chắc chắn của một người phải tìm tính độc lập cho mình”.
Ông nói thêm : “từ điểm này người ta sẽ nhận thấy những nẻo đường của nhân loại
: Nếu anh muốn đạt tới sự bình an trong tâm hồn và hạnh phúc, thì hãy tin,
nhưng nếu anh muốn là đồ đệ của chân lý, thì hãy tìm kiếm”.[3]
Tin đối lại với tìm kiếm. Khởi đi từ đây, Nietzsche sẽ khai triển phê bình của ông
về kitô giáo vì đã làm giảm giá trị mang đến cho cuộc sống nhân loại, lấy khỏi
cuộc sống tính mới lạ và mạo hiểm. Đức tin giống như ảo ảnh của ánh sáng làm
cản trở bước đường của những người tự do hướng đến ngày mai.
3. Trong quá trình này, đức tin đã kết thúc vì đã bị can dự
vào bóng tối. Người ta đã nghĩ đến việc có thể bảo tồn đức tin, có thể tìm cho
nó một không gian để nó sống chung với ánh sáng của lý trí. Không gian cho đức
tin đã được mở ra ở nơi lý trí không thể chiếu soi, ở nơi con người không thể
có sự chắc chắn nữa. Vì thế, đức tin đã được hiểu như là một bước nhảy vọt qua
khoảng trống mà chúng ta thực hiện vì thiếu ánh sáng, được thúc đẩy từ cảm thức
mù quáng; hoặc đức tin được hiểu giống như ánh sáng chủ quan, có khả năng sưởi
ấm con tim, có khả năng đem đến niềm an ủi riêng tư, nhưng nó lại không thể
được trình bày cho người khác như là ánh sáng khách quan và chung chung để soi
sáng lộ trình. Tuy nhiên, dần dần người ta đã thấy rằng ánh sáng của lý trí độc
lập không có khả năng chiếu sáng đủ cho tương lai; cuối cùng, nó ở lại trong sự
tối tăm của nó và bỏ lại con người trong sợ hãi vô tri. Và như vậy con người đã
chối từ việc tìm kiếm ánh sáng bao la, chân lý rộng lớn, vì tự bằng lòng với
chút ánh sáng nhỏ nhoi sáng lên trong phút chốc, nhưng không có khả năng mở
đường. Khi thiếu vắng ánh sáng, tất cả trở nên lộn xộn, không thể phân biệt
điều tốt và xấu, con đường dẫn đến mục đích mà từ đó làm cho chúng ta đi vào
trong những vòng tròn vô tận, vô phương hướng.
Ánh sáng từ việc tái khám phá.
4. Vì thế, đây là việc cấp bách để phục hồi lại chính đặc
tính ánh sáng đức tin, bởi vì một khi ngọn lửa đức tin được thắp lên tất cả những
ánh sáng khác cũng kết thúc vì làm mất đi sức mạnh của nó. Thực vậy, ánh sáng
đức tin sở hữu một đặc tính độc đáo, có khả năng soi chiếu toàn
thể cuộc sống con
người. Vì một ánh sáng mạnh mẽ như vậy, không thể bắt đầu từ chính chúng ta, nó
phải đến từ nguồn gốc nguyên thủy, tóm lại nó phải đến từ Thiên Chúa. Đức tin
nảy sinh trong cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống, Đấng kêu mời chúng ta và
tỏ cho chúng tình yêu của mình, một tình yêu đi trước chúng ta và nhờ tình yêu
này chúng ta có thể cậy dựa để được gắn bó và xây dựng cuộc sống. Được biến đổi
từ tình yêu này chúng ta nhận được những đôi mắt tươi mới, cảm nghiệm được nơi
đó có một lời hứa sung mãn lớn lao và mở ra cho chúng ta cái nhìn hướng về
tương lai. Đức tin chúng ta đón nhận từ Thiên Chúa như là ơn siêu nhiên, xuất
hiện như ánh sáng trên đường, nó định hướng cho lộ trình của chúng ta trong
thời gian. Một mặt, ánh sáng đến từ quá khứ là ánh sáng của một ký ức nền tảng,
là ánh sáng của cuộc sống Chúa Giêsu, nơi đó Người đã bày tỏ tình yêu đáng tin
cậy của mình cách trọn vẹn, có khả năng chiến thắng sự chết. Tuy nhiên, vì Chúa
Kitô đã sống lại và lôi kéo chúng ta khỏi sự chết, đức tin là ánh sáng đến từ
tương lai, hé mở trước mắt chúng ta những chân trời rộng lớn, và đưa chúng ta
vượt qua khỏi cái “tôi” tách biệt của mình hướng đến sự hiệp thông rộng lớn. Vì
thế, chúng ta hiểu rằng đức tin không ở trong bóng đêm; đức tin là ánh sáng đối
với bóng tối của chúng ta. Trong cuốn Divina
Comedia, sau khi đã tuyên xưng đức tin
của mình trước mặt thánh Phêrô, Dante mô tả ánh sáng như một “tia lửa, sau đó
trở thành ngọn lửa và cháy rực, nó cũng như ngôi sao trong bầu trời lấp lánh
trong tôi”.[4]
Tôi muốn nói về chính ánh sáng đức tin này vì nó lớn lên để chiếu vào hiện tại cho
đến khi trở thành vì sao chiếu soi những chân trời của lộ trình chúng ta, vào
thời điểm mà con người đặc biệt cần đến ánh sáng.
5. Trước cuộc khổ nạn, Chúa Kitô đã cam đoan với Phêrô : “Thầy
đã cầu nguyện cho con, để con khỏi mất lòng tin” (Lc 22,32). Người đã nói với Phêrô để “củng cố các anh chị em” của ông
trong cùng một đức tin. Ý thức được trách nhiệm đã được trao phó cho người Kế
vị thánh Phêrô, Đức thánh cha Bênêđictô XVI đã công bố Năm Đức Tin này, là thời gian của ơn sủng đang nâng đỡ chúng ta để cảm
nghiệm niềm vui lớn lao của việc tin, làm sống lại nhận biết về sự bao la của
những chân trời làm hé mở đức tin, để tuyên xưng đức tin trong sự hiệp nhất và
trọn vẹn, trung thành với ký ức về Thiên Chúa, được nâng đỡ do sự hiện diện của
Người và do hành động của Chúa Thánh Thần. Xác tín về đức tin làm cho cuộc sống
tràn đầy, đặt trọng tâm vào Chúa Kitô và vào sức mạnh của ơn sủng Người, đã
khích lệ sứ mạng của các kitô hữu đầu tiên. Theo sử liệu về các vị tử đạo chúng
ta đọc thấy cuộc đối thoại giữa viên đội trưởng Rusticô người Rôma và tín hữu
Giêrace : “Cha mẹ anh ở đâu?”, ông đã đưa ra lời thẩm vấn vị tử đạo, và đây là
câu trả lời : “Người cha đích thực của chúng tôi là Đức Kitô, và mẹ của chúng
tôi là niềm tin nơi Người”.[5]
Đối với các kitô hữu, đức tin là cuộc gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống được tỏ bày nơi
Đức Kitô, Người là người “mẹ”, bởi vì Người đã làm cho họ đến với ánh sáng, đã
sinh ra họ trong cuộc sống thần linh, một kinh nghiệm mới, một cái nhìn rạng rỡ
của cuộc sống nhờ đó họ đã sẵn sàng hiến tặng chứng tá công khai cho đến cùng.
6. Năm Đức Tin đã
khởi sự vào ngày kỷ niệm 50 năm khai mở Công đồng Vatican II. Sự trùng hợp này
cho chúng ta thấy rằng Công Đồng Vatican II là Công đồng của đức tin,[6]
vì Công đồng đã kêu mời chúng ta hãy trả lại cho trung tâm cuộc sống chúng ta, của
Giáo hội và từng cá nhân tính ưu việt của Thiên Chúa nơi Đức Kitô. Thực vậy,
Giáo hội không bao giờ cho rằng đức tin như một sự kiện được thủ đắc, nhưng
Giáo hội biết rằng ân sủng này của Thiên Chúa phải được nuôi dưỡng và củng cố,
để nó có thể tiếp tục hướng dẫn lộ trình của mình. Công đồng Vatican II đã thực
sự tỏa chiếu đức tin vào bên trong kinh nghiệm nhân loại, cùng bước đi trên mọi
nẻo đường của nhân loại hôm nay. Theo cách này đức tin được xuất hiện làm phong
phú cuộc sống nhân loại trong tất cả mọi chiều kích của nó.
7. Những nhận xét này về đức tin – liên tục với tất cả những
gì mà Huấn quyền của Giáo hội đã nói về các nhân đức đối thần [7]
– có ý bổ sung vào tất cả những gì Đức Thánh Cha Benêđictô XVI đã viết trong thông
điệp về Bác ái và Hy vọng. Ngài gần như đã hoàn tất bản thảo đầu tiên thông
điệp về Đức tin. Tôi vô cùng biết ơn ngài, trong tình huynh đệ của Đức Kitô,
tôi đảm nhận công việc quý giá của ngài, bổ sung thêm vài văn bản để đóng góp
thêm nữa. Thật vậy, đấng Kế vị Thánh Phêrô, hôm qua, hôm nay và ngày mai, luôn
được mời gọi để “củng cố các anh chị em” trong kho tàng vô giá của đức tin mà
Thiên Chúa ban cho như là ánh sáng trên đường đời của mỗi người.
Trong đức tin, ơn sủng của Thiên Chúa, nhân đức siêu nhiên
do Thiên Chúa tặng ban, làm cho chúng ta nhận ra Tình yêu vĩ đại đã được hiến
tặng cho chúng ta, Lời tốt đẹp được gửi đến cho chúng ta là Đức Giêsu Kitô, Lời
đã nhập thể. Chúa Thánh Thần biến đổi chúng ta, soi sáng lộ trình tương lai, và
làm lớn lên trong chúng ta đôi cánh của niềm hy vọng để chúng ta bước đi với
niềm vui. Đức tin, hy vọng và bác ái hợp thành, trong sự đan kết tuyệt diệu,
tính năng động của cuộc sống kitô hữu hướng đến sự hiệp thông trọn vẹn với
Thiên Chúa. Làm sao để con đường đức tin này hé mở trước mắt chúng ta? Đâu là
nguồn gốc của ánh sáng quyền năng chiếu soi lộ trình của một cuộc sống thành công
và phong phú, đầy tràn hoa trái?
CHƯƠNG MỘT
CHÚNG TA ĐÃ TIN VÀO TÌNH YÊU
(x. 1 Ga 4,16)
Abraham, cha của chúng ta trong đức tin
8.
Đức tin mở ra chúng ta con đường và cùng đi với những bước đường của chúng ta trong
lịch sử. Do đó, nếu muốn hiểu đức tin là gì, chúng ta cần phải đi theo những
con đường của nó, con đường của những người có đức tin, như đã được làm chứng
trước hết trong Cựu Ước. Có một nơi đặc biệt thuộc về ông Abraham, cha của
chúng ta trong đức tin. Trong cuộc đời của ông có một sự kiện làm đảo lộn tất
cả: Thiên Chúa dùng Lời mà nói với ông, Ngài tự mặc khải như một Thiên Chúa duy
nhất Đấng nói và gọi tên ông. Đức tin liên quan đến việc nghe. Ông Abraham không
nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng nghe giọng nói của Ngài. Bằng cách này, đức tin có
một tính cách cá nhân. Như vậy, Thiên Chúa rõ rằng không phải là Thiên Chúa của
một nơi nào đó, hoặc một Thiên Chúa liên hệ với một thời điểm thiêng liêng nào
đó, nhưng Thiên Chúa của một người, Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Giacóp, có
khả năng tiếp xúc với con người và thiết lập một giao ước với họ. Đức tin là sự
đáp trả của chúng ta với một Lời, là Lời chất vấn chúng ta một cách cá nhân, về
một “Chúa”, Đấng gọi tên chúng ta.
9.
Lời nói với ông Abraham này là một lời mời gọi và một lời hứa. Trước hết nó là một
lời mời gọi ông rời bỏ mảnh đất của mình, một lời mời gọi mở lòng ra cho một
cuộc sống mới, khởi đầu của một cuộc xuất hành dẫn ông về phía một tương lai
không thể lường trước được. Viễn tượng mà đức tin cung cấp cho ông Abraham sẽ
luôn luôn được nồi kết với sự cần thiết phải thực hiện bước tiến này: đức tin
“nhìn thấy” ông đi đến đâu, chỗ ông bước vào vùng trời được mở ra bởi Lời Thiên
Chúa. Lời này cũng chứa đựng một lời hứa: miêu duệ ngươi sẽ rất đông đúc, ngươi
sẽ là cha của một dân vĩ đại (x. St 13,16;
15,5; 22,17). Thật đúng là một đáp trả với một Lời trước đó, đức tin của ông
Abraham sẽ luôn luôn là một hành động tưởng nhớ. Tuy nhiên, sự tưởng nhớ này
không đóng chặt trong quá khứ, nhưng vì là một tưởng nhớ về một lời hứa, nó trở
nên có khả năng mở ra cho tương lai, soi sáng những bước đi dọc đường. Như vậy
chúng ta thấy làm sao đức tin, như một sự tưởng nhớ đến tương lai, memoria futuri, lại liên hệ chặt chẽ với
niềm hy vọng.
10.
Thiên Chúa đòi ông Abraham phải tin tưởng vào Lời này. Đức tin hiểu rằng Lời – một
thực thể rõ ràng là phù du và thoáng qua, khi được Thiên Chúa trung tín công bố
– lại trở nên hoàn toàn chắc chắn và không thể lay chuyển được, đảm bảo tính
liên tục của cuộc hành trình của chúng ta trong thời gian. Đức tin đón nhận Lời
này như đá tảng vững chắc, những nền tảng vững vàng mà trên đó chúng ta có thể
xây dựng. Đó là lý do tại sao trong Thánh Kinh, đức tin được diễn tả bằng các
từ Do Thái 'emûnāh, bắt nguồn từ động
từ ‘amàn mà căn ngữ của nó có nghĩa
là “nâng đỡ”. Thuật ngữ ‘emûnāh có
thể có nghĩa là sự trung tín của Thiên Chúa mà còn có nghĩa là đức tin của con
người. Con người có đức tin nhận được sức mạnh bằng cách phó thác mình trong
bàn tay Thiên Chúa trung tín. Việc chơi chữ dựa trên ý nghĩa đôi của từ này –
cũng được tìm thấy trong các từ ngữ tương tự trong tiếng Hy Lạp (pistos) và Latin (fidelis) –, Thánh Cyrilô thành Giêrusalem ca tụng phẩm giá của Kitô
hữu là người đón nhận chính danh của Thiên Chúa: cả hai đều được gọi là “trung
tín”.[8]
Như Thánh Augustinô giải thích: “Con người trung thành khi tin vào lời mà Thiên
Chúa đã hứa, Thiên Chúa trung tín khi ban cho con người những gì mà Ngài đã hứa”.[9]
11.
Một suy nghĩ cuối cùng về lịch sử ông Abraham là điều quan trọng để hiểu đức tin
của ông. Lời Thiên Chúa, trong tuy mang đến với nó sự mới mẻ và bất ngờ, nhưng
không xa lạ gì với kinh nghiệm của Tổ Phụ. Trong giọng của Đấng nói với ông,
ông Abraham nhận ra một lời mời gọi sâu xa, đã vĩnh viễn được khắc ghi trong
tâm điểm của cuộc đời ông. Thiên Chúa liên kế lời hứa của Ngài với “nơi” mà cuộc
sống con người đã luôn luôn tỏ ra đầy hứa hẹn: việc làm cha mẹ, việc sinh ra sự
sống mới: “Sarah vợ ngươi sẽ sinh một con trai, và ngươi sẽ đặt tên nó là
Isaac” (St 17,19). Thiên Chúa này,
Đấng đòi ông Abraham phải hoàn toàn tin tưởng tỏ mình ra là nguồn gốc của toàn
thể đời sống. Bằng cách này, đức tin liên hệ đến Phụ Tính của Thiên Chúa, mà từ
đó phát sinh ra tạo vật: Thiên Chúa, Đấng gọi ông Abraham là Đấng Tạo Hóa, là
Đấng “làm cho những điều không có thành có” (Rm 4,17), Đấng “đã chọn chúng ta trước khi tạo thành thế gian ... và
tiền định cho chúng ta làm nghĩa tử đối với Ngài” (Ep 1,4-5). Với ông Abraham, đức tin vào Thiên Chúa soi sáng những nguồn
gốc sâu thẳm nhất của con người ông, cho phép ông nhận ra nguồn mạch của sự tốt
lành, là nguồn gốc của tất cả mọi sự, và xác nhận rằng cuộc đời của ông không
phát sinh từ nhưng không hoặc tình cờ, nhưng từ một ơn gọi và một tình yêu cá
nhân. Thiên Chúa huyền nhiệm, Đấng đã gọi ông không phải là một Thiên Chúa xa
lạ, nhưng là nguồn gốc của mọi sự và nâng đỡ tất cả. Cuộc thử thách lớn lao về
đức tin của ông Abraham, việc hiến tế con trai ông là Isaac, cho thấy mức độ mà
tình yêu nguyên thủy này có thể đảm bảo sự sống thậm chí vượt trên sự chết. Lời
có thể làm sống lại một người con cho một thân xác là “như chết” và trong “lòng
như đã chết” của bà Sarah son sẻ (x. Rm
4,19), Lời cũng có thể thực hiện lời hứa của Ngài về một tương lai vượt trên
tất cả những đe dọa hoặc nguy hiểm (x. Dt
11,19; Rm 4,21).
Đức tin của dân
12.
Lịch sử của dân
13.
Lịch sử của dân
14.
Trong đức tin của dân
Sự viên mãn của đức tin Kitô giáo
15.
“Abraham […] hớn hở vui mừng vì sẽ thấy Ngày của tôi, ông đã thấy nó và đã vui mừng”
(Ga 8,56). Theo những lời này của Chúa
Giêsu, đức tin của ông Abraham chỉ về Người, theo một nghĩa nào đó, nó đã là
một thị kiến cho biết trước mầu nhiệm của Người. Thánh Augustinô cũng hiểu như
vậy khi ngài quả quyết rằng các Tổ Phụ đã được cứu bởi đức tin, không phải đức
tin vào Đức Kitô đã đến, nhưng vào Đức Kitô sẽ đến, một đức tin hướng về biến
cố tương lai của Chúa Giêsu.[13]
Đức tin Kitô giáo đặt trọng tâm vào Đức Kitô, đức tin ấy tuyên xưng rằng Chúa Giêsu
là Chúa và rằng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết (x. Rm 10,9). Tất cả các nhân vật của Cựu Ước
đều hội tụ vào Đức Kitô, Người trở thành câu trả lời “Có” dứt khoát cho tất cả
những lời hứa, nền tảng của lời thưa “Amen” cuối cùng của chúng ta với Thiên
Chúa (x. 2 Cr 1,20). Lịch sử của Chúa
Giêsu là sự tỏ lộ hoàn toàn mức độ đáng tin cậy của Thiên Chúa. Nếu dân Israel tiếp
tục nhắc lại những hành vi cao cả của tình yêu Thiên Chúa, là những điều tạo
thành cốt lõi của lời tuyên xưng đức tin của họ và mở rộng cái nhìn của họ về
đức tin, thì từ đó cuộc đời của Chúa Giêsu xuất hiện như một địa điểm của sự can
thiệp dứt khoát của Thiên Chúa, sự biểu lộ cao nhất của tình yêu của Ngài dành
cho chúng ta. Lời mà Thiên Chúa nói với chúng ta trong Chúa Giêsu không chỉ đơn
thuần là một lời bổ túc trong số rất nhiều lời, nhưng là Lời vĩnh cửu của Ngài
(x. Dt 1,1-2). Thiên Chúa không thể
ban cho chúng ta một đảm bảo nào lớn hơn tình yêu của Ngài, như Thánh Phaolô
nhắc nhở chúng ta (x. Rm 8,31-39).
Như vậy, đức tin Kitô giáo là đức tin vào một tình yêu trọn vẹn, trong quyền
năng hiệu quả của nó, trong khả năng của nó để biến đổi thế gian và soi sáng
thời gian. “Chúng ta đã biết và tin vào tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng
ta” (1 Ga 4,16). Trong tình yêu của
Thiên Chúa được tỏ lộ nơi Chúa Giêsu, đức tin nhận ra nền tảng mà trên đó toàn
thể thực tại và số phận cuối cùng của nó dựa vào.
16.
Bằng chứng lớn lao nhất về mức độ đáng tin cậy của tình yêu Đức Kitô được tìm thấy
trong chết của Người vì nhân loại. Nếu việc hy sinh mạng sống của mình cho bạn
hữu là bằng chứng lớn nhất của tình yêu (x. Ga
15,13), thì Chúa Giêsu đã hiến mạng sống Người cho mọi người, ngay cả những kẻ
thù của Người, để biến đổi tâm hồn họ. Đó là lý do tại sao theo các thánh sử,
thì cái nhìn về đức tin đạt đến tột đỉnh vào giờ của Thánh Giá, giờ mà trong đó
sự cao cả và tràn đầy của tình yêu Thiên Chúa được tỏa sáng. Thánh Gioan đặt ở
đây lời chứng long trọng của ngài, khi cùng với Mẹ Chúa Giêsu, ngài chiêm ngắm
Đấng bị đâm thâu qua (x. Ga 19,37).
“Có người xem thấy việc ấy đã làm chứng, và lời chứng của người ấy thì chân
thật; và người ấy biết mình nói thật để anh em tin” (Ga 19,35). F.M. Dostoevsky, trong tác phẩm Thằng Ngốc (L’idiot), làm cho nhân vật chính, Hoàng
tử Mychkine, khi nhìn thấy một bức tranh về Đức Kitô chết trong mồ của Hans
Holbein Trẻ, nói: “Khi nhìn vào bức tranh này một tín hữu có thể mất đức tin
của mình”.[14]
Thật vậy, bức tranh trình bày một cách khủng khiếp những hậu quả tàn khốc của cái
chết trên thân thể Đức Kitô. Tuy nhiên, chính trong việc chiêm ngắm cái chết
của Chúa Giêsu mà đức tin được củng cố và nhận được một ánh sáng huy hoàng, khi
nó được biểu lộ như đức tin vào tình yêu không thể lay chuyển được của Đức Kitô
dành cho chúng ta, một tình yêu có khả năng bước vào cái chết để cứu chúng ta.
Tôi có thể tin vào Tình Yêu này, một Tình Yêu không lùi bước trước cái chết để
chứng tỏ Người yêu tôi thế nào; việc hoàn toàn tự hiến của Người thắng vượt mọi
nghi ngờ và cho phép chúng ta phó thác hoàn toàn vào Đức Kitô.
17.
Trên hết, trong ánh sáng việc Phục Sinh, cái chết của Đức Kitô cho thấy rõ mức độ
hoàn toàn đáng tin cậy của tình yêu Thiên Chúa. Như Đấng Phục Sinh, Đức Kitô là
nhân chứng đáng tin cậy, xứng đáng với đức tin (x. Kh 1,5; Dt 2,17), là sự nâng
đỡ vững chắc cho đức tin của chúng ta. Thánh Phaolô quả quyết: “Nếu Đức Kitô đã
không sống lại, thì đức tin của anh em là đức tin vô ích” (1 Cr 15,17). Nếu tình yêu của Chúa Cha đã không cho Chúa Giêsu sống
lại từ cõi chết, nếu Ngài đã không có thể ban sự sống lại cho thân xác của
Người, thì sẽ không phải là một tình yêu hoàn toàn đáng tin cậy, cũng có khả
năng chiếu soi những bóng tối của sự chết. Khi Thánh Phaolô nói về đời sống mới
của ngài trong Đức Kitô, ngài nói về “đức tin vào Con Thiên Chúa, là Ðấng đã
yêu thương tôi và đã hiến mạng sống Mình vì tôi” (Gl 2,20). “Đức tin vào Con Thiên Chúa” này chắc chắn là đức tin của
Vị Tông Đồ Dân Ngoại vào Chúa Giêsu, nhưng nó cũng nói lên rằng Chúa Giêsu đáng
tin cậy, không chỉ dựa trên tình yêu cho đến chết của Người mà còn trên việc
Người là con Thiên Chúa. Chính bởi vì Chúa Giêsu là Chúa Con, bởi vì Người hoàn
toàn ở trong Chúa Cha, Người đã có thể chiến thắng sự chết và làm cho sự viên
mãn của sự sống được sáng tỏa. Nền văn hóa của chúng ta đã đánh mất khái niệm
về sự hiện diện hữu hình của Thiên Chúa, về hoạt động của Ngài trong thế gian.
Chúng ta nghĩ rằng chỉ tìm thấy Thiên Chúa ở bên ngoài, trên một mức độ khác
của thực tại, tách biệt khỏi các mối liên hệ hàng ngày của chúng ta. Nhưng nếu
điều này đúng, nếu Thiên Chúa không thể hoạt động trong thế gian, thì tình yêu
của Ngài sẽ không thực sự mạnh mẽ, thực sự có thật, và như thế, Ngài cũng không
phải là một tình yêu thật, một tình yêu có khả năng mang lại hạnh phúc mà Ngài
đã hứa. Như thế tin hay không tin vào Ngài tất cả sẽ chẳng khác gì. Trái lại,
các Kitô hữu tuyên xưng đức tin của họ vào tình yêu cụ thể và mạnh mẽ của Thiên
Chúa, Đấng thực sự hoạt động trong lịch sử và quyết định vận mệnh cuối cùng của
nó, một tình yêu mà con người có thể gặp gỡ, một tình yêu hoàn toàn được mặc
khải trong cuộc Khổ Nạn, Cái Chết và Phục Sinh của Đức Kitô.
18.
Sự viên mãn mà Chúa Giêsu mang đến cho đức tin có một khía cạnh quyết định khác.
Trong đức tin, Đức Kitô không chỉ đơn thuần là Đấng mà chúng ta tin, là biểu
hiện cao cả nhất của tình yêu Thiên Chúa, Người cũng là Đấng mà chúng ta kết hợp
với để có thể tin. Đức tin không chỉ đơn thuần là ngắm nhìn Chúa Giêsu, nhưng
nhìn mọi sự theo quan điểm của Chúa Giêsu, với đôi mắt của Người: đó là một sự
tham gia vào cách nhìn của Người. Trong nhiều lĩnh vực của cuộc đời chúng ta,
chúng ta tin tưởng vào những người khác, là những người biết nhiều hơn chúng
ta. Chúng ta tin tưởng vào các kiến trúc sư là những người xây nhà chúng ta,
vào dược sĩ là những người cho chúng ta thuốc để chữa bệnh, vào các luật sư là
những người bảo vệ chúng ta tại tòa án. Chúng ta cũng cần một ai đó đáng tin
cậy và chuyên môn về những việc có liên quan đến Thiên Chúa. Chúa Giêsu, Con
của Ngài, là Đấng tự giới thiệu như Đấng giải thích cho chúng ta về Thiên Chúa
(x. Ga 1,18). Cuộc đời Đức Kitô, cách
Người biết Chúa Cha và sống hoàn toàn trong mối liên hệ với Ngài, mở ra một
không gian mới cho kinh nghiệm của con người mà chúng ta có thể vào được. Thánh
Gioan đã đưa ra tầm quan trọng của một mối liên hệ cá nhân với Chúa Giêsu đối
với đức tin của chúng ta bằng cách sử dụng các cách dùng khác nhau của động từ tin. Ngoài việc “tin rằng” những gì Chúa
Giêsu nói với chúng ta là sự thật, Thánh Gioan cũng dùng thuật ngữ “tin” Chúa
Giêsu và “tin vào” Chúa Giêsu. Chúng ta “tin” Chúa Giêsu khi chúng ta chấp nhận
Lời Người, chứng từ của Người, bởi vì Người trung thực (x. Ga 6,30). Chúng ta “tin vào” Chúa Giêsu khi chúng ta đích thân đón
Người vào cuộc đời và cuộc hành trình của chúng ta về phía Người, gắn bó với
Người trong tình yêu và bước theo Người trên đường đời (x. Ga 2,11 ; 6,47 ; 12,44).
Để
giúp chúng ta biết Người, đón nhận Người và theo Người, Con Thiên Chúa mặc lấy xác
thịt của chúng ta. Bằng cách này, Người cũng nhìn Chúa Cha một cách nhân loại,
trong khung cảnh của một cuộc hành trình diễn ra trong thời gian. Đức tin Kitô
giáo là đức tin vào sự nhập thể của Ngôi Lời và sự Sống Lại của Người trong
thân xác, đức tin vào một Thiên Chúa rất gần gũi chúng ta và đã đi vào lịch sử
nhân loại của chúng ta. Đức tin vào Con Thiên Chúa làm người trong Chúa Giêsu
thành Nagiareth không tách chúng ta ra khỏi thực tại, nhưng cho phép chúng ta
chấp nhận ý nghĩa sâu xa nhất của nó, để tìm hiểu xem Thiên Chúa yêu thương thế
giới này bao nhiêu và không ngừng hướng nó về phía Ngài. Điều này thúc đẩy các
Kitô hữu dấn thân, để sống một cách mãnh liệt hơn trong cuộc hành trình trần
thế.
Ơn cứu độ bởi đức tin
19.
Từ việc chia sẻ cách nhìn của Chúa Giêsu này, Thánh Phaolô đã để lại cho chúng ta
trong các bài viết của ngài một mô tả về đời sống đức tin. Qua việc chấp nhận
hồng ân đức tin, các tín hữu được biến đổi thành một tạo vật mới. Họ nhận được
một con người mới, là con cái [Thiên Chúa]; họ trở nên con cái trong Chúa Con.
Cụm từ “Abba, Lạy Cha”, là lời rất đặc trưng của kinh nghiệm của Chúa Giêsu,
trở thành trung tâm của kinh nghiệm Kitô giáo (x. Rm 8,15). Đời sống trong đức tin, như một đời con thảo, là một sự nhìn
nhận hồng ân nguyên thủy và triệt để, là nền tảng của cuộc đời con người, và có
thể được tóm tắt trong câu của Thánh Phaolô gửi tín hữu Côrinthô: “Có gì mà anh
em đã không nhận được?” (1 Cr 4,7).
Đây chính là trung tâm của cuộc tranh luận của Thánh Phaolô với những người
Biệt Phái, cuộc thảo luận về ơn cứu độ bằng đức tin hoặc bằng việc làm của Lề
Luật. Điều mà Thánh Phaolô bác bỏ là thái độ của những người tự coi mình là
công chính trước mặt Thiên Chúa qua trung gian của hành động đúng của mình. Những
người như thế, ngay cả khi họ tuân giữ các điều răn và làm những việc lành, tự
đặt mình ở trung tâm, mà không nhận ra rằng nguồn gốc của sự tốt lành là Thiên
Chúa. Những người làm như thế, muốn thành nguồn gốc của sự công chính riêng của
họ, họ nhanh chóng thấy rằng sự công chính này trở nên khô cằn và họ không thể
thậm chí giữ được lòng trung thành với Lề Luật. Họ tự khép kín mình và tự cô
lập đối với Chúa và với tha nhân, kết quả là cuộc đời của họ trở nên trống rỗng
và những công việc của họ trở nên cằn cỗi như một cây sống xa nước. Thánh Augustinô
cũng đưa ra bằng ngôn từ ngắn gọn và hiệu quả của ngài: “Ab eo qui fecit te, noli deficere nec ad te”, “Đừng quay lưng lại
với Đấng đã dựng nên bạn, ngay cả quay về phía chính mình”.[15]
Khi một người nghĩ rằng bằng cách quay lưng lại với Thiên Chúa họ sẽ tìm thấy chinh
bản thân họ, cuộc đời người ấy bắt đầu sụp đổ (x. Lc 15,11-24). Khởi đầu của ơn cứu độ là mở lòng ra với một cái gì có
trước, với một món quà nguyên thủy là món quà đảm bảo cho cuộc sống và duy trì
nó trong đời. Chỉ bằng cách mở lòng của chúng ta ra cho nguồn gốc này và qua
việc nhìn nhận nó, con người mới có thể được biến đổi, nhờ để cho ơn cứu độ hoạt
động trong mình và làm cho cuộc đời mình sinh hoa trái, đầy những hoa trái tốt.
Ơn cứu độ nhờ đức tin có nghĩa là công nhận tính ưu việt của hồng ân của Thiên
Chúa. Như Thánh Phaolô đã tóm lược: “Nhờ ân sủng mà anh em được cứu độ qua đức
tin; và đó không phải bởi anh em, mà là bởi ân huệ của Thiên Chúa” (Ep 2,8).
20.
Luận lý mới của đức tin đặt trọng tâm vào Đức Kitô. Đức tin vào Đức Kitô cứu chúng
ta bởi vì chính trong Người mà cuộc sống mở ra cách triệt để cho một Tình Yêu
đi trước chúng ta và biến đổi chúng ta từ bên trong, một Tình Yêu hoạt động trong
chúng ta và với chúng ta. Điều này được thấy rõ trong chú giải một đoạn văn từ
Sách Đệ Nhị Luật của Vị Tông Đồ Dân Ngoại, một chú giải phù hợp với động năng
rất sâu sắc của Cựu Ước. Ông Môsê nói với dân chúng rằng giới luật của Thiên
Chúa không quá cao mà cũng không quá xa với con người. Người ta không cần phải
nói: “Ai sẽ lên trời mà đem nó xuống cho chúng tôi” hoặc “Ai sẽ đi qua bên kia
biển, đem nó về cho chúng tôi?” (Đnl 30,11-14).
Sự gần gũi này của lời Chúa được Thánh Phaolô giải thích như phản ảnh sự hiện
diện của Đức Kitô trong các Kitô hữu. “Đừng tự nhủ rằng, ‘Ai sẽ lên trời?’
(nghĩa là, để đem Đức Kitô xuống), hoặc “Ai sẽ xuống âm phủ? (nghĩa là, để đem
Đức Kitô lên từ cõi chết)” ( Rm 10,6-7).
Đức Kitô đã xuống trần và đã sống lại từ cõi chết; qua việc Nhập Thể và Phục
Sinh của Người, Con Thiên Chúa chấp nhận toàn thể cuộc hành trình của con người
và ở trong tâm hồn chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần. Đức tin biết rằng Thiên Chúa
đã rất gần gũi chúng ta, rằng Đức Kitô đã trở nên một hồng ân cao cả cho chúng
ta, hồng ân biến đổi chúng ta từ bên trong, ở trong chúng ta, và do đó ban cho
chúng ta ánh sáng chiếu soi nguyên thủy và cứu cánh của cuộc đời, toàn thể tiến
trình của cuộc hành trình của con người.
21.
Do đó, chúng ta có thể hiểu sự mới mẻ mà đức tin dẫn chúng ta đến. Người tín hữu
được biến đổi bởi Tình Yêu mà họ đã mở lòng ra đón nhận trong đức tin, và qua
việc mở lòng ra đón nhận Tình Yêu mà đức tin ban cho họ, cuộc đời của họ rộng
mở vượt ra ngoài chính mình. Thánh Phaolô có thể quả quyết: “Tôi sống nhưng
không còn là tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20), và khuyên nhủ: “Chớ gì Đức Kitô ngự trong tâm hồn anh em
nhờ đức tin” (Ep 3:17). Trong đức
tin, “cái tôi” của người tín hữu mở rộng để có chỗ cho Người Khác cư ngụ, để
sống trong Người Khác, và cuộc sống của người ấy cũng mở rộng ra trong Tình
Yêu. Ở đây có hoạt động của Chúa Thánh Thần. Người Kitô hữu có thể có đôi mắt
của Chúa Giêsu, những tình cảm của Người, và tâm tình con thảo của Người, bởi
vì người đó được thông phần vào Yình Yêu của Người, Tình Yêu ấy chính là Chúa
Thánh Thần. Chính trong Tình Yêu này mà chúng ta một cách nào đó nhận được cái
nhìn riêng của Chúa Giêsu. Nếu không có việc nên đồng hình đồng dạng này trong
Tình Yêu, nếu không có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần là Đấng được đổ vào
lòng chúng ta (x. Rm 5,5), thì chúng
ta không thể nào tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa (x. 1 Cr 12,3).
Hình thức Hội Thánh của đức tin
22.
Bằng cách này, đời sống của người tín hữu trở thành đời sống của Hội Thánh. Khi
Thánh Phaolô nói với các Kitô hữu Rôma về một thân thể duy nhất mà tất cả những
ai tin vào Đức Kitô tạo thành, ngài khuyên nhủ họ đừng tự hào về điều này, trái
lại, mỗi người phải nghĩ về mình “theo mức độ đức tin mà Thiên Chúa đã ban phát
cho mình” (Rm 12,3). Các tín hữu học cách
nhìn chính mình theo đức tin mà họ tuyên xưng: Hình ảnh của Đức Kitô là tấm
kính (gương) mà ở đó họ tìm thấy hình ảnh riêng của họ được thể hiện. Và như
Đức Kitô ôm ấp trong Mình tất cả mọi tín hữu, là những kẻ tạo thành thân thể
của Người, người Kitô hữu hiểu rằng mình được bao gồm trong thân thể này, trong
mối liên hệ nguyên thủy với Đức Kitô và tất cả các tín hữu khác trong đức tin.
Hình ảnh của một thân thể không có ý hạ các tín hữu xuống thành một phần tử đơn
giản của một tổng thể vô danh, một thành phần thô sơ trong một bộ máy vĩ đại,
nhưng đúng hơn là muốn nhấn mạnh đến sự kết hợp sống còn của Đức Kitô với các
tín hữu, và các tín hữu với nhau (x. Rm
12,4-5). Các Kitô hữu là “một” (x. Gl
3,28), mà không mất đi cá tính của mình,
và trong việc phục vụ người khác, nội tâm của chính mỗi người lại được lợi
nhất. Điều này giải thích lý do tại sao, ngoài thân thể này, ngoài sự hiệp nhất
này của Hội Thánh trong Đức Kitô, ngoài Hội Thánh này mà – theo lời của Romano
Guardini – “là người mang trong lịch sử cái nhìn toàn diện của Đức Kitô về thế
gian”,[16]
– thì đức tin mất đi “tiêu chuẩn” của nó, mất sự cân bằng của nó, không còn tìm
thấy nơi thiết yếu để [dựa vào mà] tự mình đứng vững. Đức tin là một hình thức nhất
thiết phải thuộc về Hội Thánh, nó được tuyên xưng từ bên trong thân thể Đức
Kitô, như sự hiệp thông cụ thể của các tín hữu. Chính từ chỗ thuôc về Hội Thánh
này mà đức tin mở lòng mọi Kitô hữu ra với tất cả mọi người. Lời của Đức Kitô,
một lần được nghe, nhờ chính động năng của nó biến đổi thành một lời đáp trả
trong các Kitô hữu, và tự trở thành một lời được công bố, một tuyên xưng đức
tin. Như Thánh Phaolô đã nói: “ai tin bằng tấm lòng [...] và tuyên xưng ra miệng
thì được cứu độ” (Rm 10,10). Đức tin
không phải là một vấn đề riêng tư, một khái niệm theo cá nhân chủ nghĩa hoặc
một ý kiến chủ quan, nhưng phát sinh từ việc được nghe, và nó có ý tìm cách để
được nói ra và trở thành lời công bố. “Làm sao họ sẽ tin vào Ðấng mà họ chưa
được nghe? Và làm sao mà họ sẽ được nghe, nếu không có người rao giảng?” (Rm 10,14). Như thế, đức tin trở nên có hiệu
quả trong các Kitô hữu nhờ hồng ân nhận được, nhờ Tình Yêu đó thu hút tâm hồn
chúng ta về với Đức Kitô (x. Gl 5,6),
và làm cho chúng ta trở nên một phần tử của cuộc hành trình của Hội Thánh, cuộc
hành hương qua lịch sử hướng về sự viên mãn của nó. Đối với những người đã được
biến đổi đổi theo cách này, một cách nhìn mới được mở ra, đức tin trở thành ánh
sáng cho đôi mắt của họ.
CHƯƠNG
HAI
NẾU
ANH EM KHÔNG TIN,
ANH EM SẼ KHÔNG HIỂU
(x. Is 7,9)
Đức tin và chân lý
23. Nếu ngài không
tin, thì ngài không hiểu (x. Is 7,9). Bản Hy Lạp của Thánh Kinh Do Thái,
bản LXX phát hành ở Alexandria Ai Cập, dịch những lời của ngôn sứ Isaia nói
cùng vua Achaz. Bằng cách này vấn đề hiểu biết về chân lý chiếm vị thế trung
tâm của đức tin. Tuy nhiên, trong văn bản tiếng Do Thái, chúng ta đọc khác. Ở
đó, ngôn sứ nói với nhà vua: “Nếu ngài không
tin, ngài không thể đứng vững”. Ở đây có một cách chơi chữ, dựa trên hai hình
thức của động từ ‘amàn:
“ngài tin” (ta’aminu), và “ngài
có thể đứng vững” (ta’amenu). Sợ hãi vì sức mạnh của quân thù, nhà vua tìm
an toàn mà việc liên minh với đại đế quốc
24.
Khi đọc dưới ánh sáng này, đoạn văn của ngôn sứ Isaia đưa đến một kết luận: con người cần sự hiểu biết, cần chân
lý, bởi vì không có nó, con người không thể đứng vững được. Đức tin, nếu không có chân lý,
thì không cứu độ được, không đảm bảo được bước đi của chúng ta. Nó vẫn còn là
một câu chuyện đẹp, phóng chiếu những ao ước hạnh phúc của chúng ta, một cái gì
đó mà chỉ thỏa mãn chúng ta vì chúng ta muốn lừa dối chính mình. Hoặc nó bị giảm
xuống thành một cảm giác tốt đẹp, có thể an ủi và sưởi ấm, nhưng vẫn còn liên quan
đến tâm trạng của chúng ta, theo sự thay đổi của thời gian, không có khả năng
nâng đỡ một cuộc hành trình liên tục trong đời sống chúng ta. Nếu đức tin là
như thế, thì vua Achaz đã làm đúng vì đã không đánh cá cuộc sống và sự an toàn
của vương quốc của ông trên một cảm giác. Bằng sự nối kết nội tại của nó với
chân lý, đức tin có thể cung cấp một ánh sáng mới trên các tính toán của nhà
vua, bởi vì nó thấy xa hơn, bởi vì nó bao gồm các hoạt động của Thiên Chúa, trung
thành với Giao Ước và những lời hứa của Ngài.
25.
Ngày nay, chính vì cuộc khủng hoảng chân
lý mà trong đó chúng ta đang sống, nên hơn bao giờ hết, chúng ta cần phải nhắc lại mối liên hệ giữa đức tin và chân lý. Trong văn hóa đương thời, người ta thường có
khuynh hướng chấp nhận như chân lý chỉ những sự thật của kỹ thuật: chân lý là
những gì con người có thể xây dựng và đo lường dựa vào kiến thức của họ. Một điều là
chân lý vì nó làm việc, do đó làm cho cuộc sống được thoải mái và dễ dàng hơn.
Ngày nay chân lý ấy dường như là chân lý chắc chắn duy nhất, duy nhất mà chúng
ta có thể chia sẻ với những người khác, duy nhất mà chúng ta có thể thảo luận
và trong đó người ta có thể cùng nhau tham gia. Hơn nữa còn có những chân lý
của mỗi người, bao gồm tình trạng đích thực mà mọi người đều cảm thấy trong
lòng, những chân lý chỉ có giá trị cho cá nhân và không có thể đề nghị cho
những người khác với ý định phục vụ công ích. Chân lý cao cả, chân lý giải
thích tất cả mọi sự của cuộc sống cá nhân và xã hội, bị người ta nhìn với đôi
mắt nghi ngờ. Người ta tự hỏi rằng chẳng lẽ nó không phải chân lý mà những chế
độ chuyên chế lớn của những thế kỷ trước mong muốn, một chân lý áp đặt vũ trụ
quan của nó để nghiền nát lịch sử cụ thể của từng cá nhân sao? Chung cuộc, chỉ
còn lại một thuyết tương đối, trong đó câu hỏi về chân lý phổ quát, mà cơ bản
cũng là một câu hỏi về Thiên Chúa, không còn được quan tâm nữa. Trong bối cảnh
này, việc người ta muốn loại bỏ sự kết nối giữa tôn giáo với chân lý là điều
hợp lý, bởi vì sự kết nối ấy sẽ là căn nguyên của của cuồng tín, tìm cách để
đàn áp những người không chia sẻ cùng một niềm tin. Chúng ta có thể nói, về đề
tài này, về một sự mất trí nhớ lớn trong thế giới hiện đại của chúng ta. Thực
ra, câu hỏi về chân lý là một vấn đề của ký ức, của ký ức sâu xa, bởi vì nó đề
cập đến những người đi trước chúng ta, và bằng cách này, nó có thể kết hợp
chúng ta vượt trên “cái tôi” nhỏ bé và giới hạn của mình. Đây là một câu hỏi về
nguồn gốc của tất cả, trong ánh sáng của nó người ta có thể nhìn thấy mục đích
và cũng là ý nghĩa của con đường chung của chúng ta.
Sự hiểu biết về chân lý và tình yêu
26. Trong trường hợp này, đức tin Kitô giáo
có thể cung cấp một phục vụ cho công ích về một cách thế đúng đắn để
hiểu chân lý không? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần phải suy
nghĩ về loại kiến thức
phù hợp với đức tin. Một cách diễn tả của Thánh Phaolô có thể giúp cho điều
này, khi ngài nói, “tin trong trái tim” (x. Rm 10,10). Theo Thánh Kinh thì
trái tim là trung tâm của con người, nơi giao nhau của tất cả các chiều kích
khác nhau của nó: thân thể và tinh thần; nội tâm của con người và sự cởi mở của
người ấy với thế giới và với những người khác; trí tuệ , ý chí và tình cảm. Vâng,
nếu trái tim có khả năng kết hợp các chiều kích này, vì nó là nơi mà chúng ta
mở lòng ra cho chân lý và tình yêu, và là nơi chúng ta để cho mình được chạm
đến và biến đổi sâu xa bởi chúng. Đức tin biến đổi toàn thể con người, theo mức
độ mà nó mở ra cho tình yêu. Chính ở nơi gặp gỡ giữa đức tin với tình yêu này
mà chúng ta biết được loại hiểu biết thích hợp với đức tin, sức thuyết phục và
khả năng soi sáng những bước đi của chúng ta của nó. Đức tin biết theo mức độ
mà nó gắn liền với tình yêu, theo mức độ mà tình yêu tự nó mang một ánh sáng.
Sự hiểu biết về đức tin là điều phát sinh khi chúng ta nhận được tình yêu cao
cả của Thiên Chúa là Đấng biến đổi chúng ta từ bên trong và cho chúng ta đôi
mắt mới để nhìn thực tại.
27.
Cách thế mà triết gia Ludwig Wittgenstein giải thích về mối liên hệ giữa đức tin
và sự chắc chắn được rất nhiều người biết đến. Theo ông thì tin tương tự như
kinh nghiệm về yêu đương, một kinh nghiệm được hiểu như chủ quan, mà người ta
không thể đề nghị như một chân lý thích hợp cho tất cả mọi người.[19]
Thực ra, đối với con người hiện đại câu hỏi về tình yêu dường như không có liên
quan gì đến chân lý. Tình yêu ngày nay được hiểu như một kinh nghiệm liên quan đến
thế giới cảm xúc hay thay đổi, chứ không còn là chân lý.
Đây có thực sự là một mô tả đầy đủ về tình
yêu không? Thực ra, tình yêu không thể
bị thu gọn thành một cảm xúc nay đến mai đi. Đương nhiên nó ảnh hưởng đến yếu
tố tình cảm của chúng ta, nhưng để mở ra cho người mình yêu và để bắt đầu một
cuộc hành trình, thì phải từ bỏ việc đóng cái “tôi” riêng lại để đi về phía người
khác, để xây dựng một mối liên hệ lâu dài; tình yêu là sự hiệp thông với người mình
yêu. Do đó, rõ ràng theo một nghĩa nào đó, tình yêu cần chân lý. Chỉ khi nào
tình yêu dựa trên chân lý thì nó mới có thể đứng vững với thời gian, vượt trên
những giây phút thoáng qua và vững vàng để nâng đỡ một cuộc hành trình chung.
Nếu tình yêu không liên kết với chân lý, nó lệ thuộc vào sự bất ổn của tình cảm
và không thể vượt qua được sự thử thách của thời gian. Tuy nhiên, tình yêu đích
thực, kết hợp tất cả các yếu tố của con người chúng ta, và trở thành một ánh
sáng mới hướng đến một cuộc sống cao cả và sung mãn. Nếu không có chân lý thì
tình yêu không thể cung cấp mối dây liên hệ vững chắc, nó không thành công
trong việc đem cái “tôi” ra khỏi sự cô lập, cũng không giải phóng nó khỏi những
giây phút thoáng qua để xây dựng đời sống và sinh hoa kết quả.
Nếu tình yêu cần chân lý, thì chân
lý cũng cần tình yêu. Tình yêu và chân lý không thể
tách rời nhau được. Nếu không có tình yêu, chân lý trở nên lạnh lẽo, trở thành
vô cảm và đàn áp cuộc sống cụ thể của con người. Chân lý mà chúng ta tìm kiếm
đem lại ý nghĩa cho bước đường của chúng ta, soi sáng chúng ta khi chúng ta
được tình yêu chạm đến. Ai yêu thì hiểu rằng tình yêu là một kinh nghiệm về chân
lý, chính nó mở mắt chúng ta để thấy toàn thể thực tại một cách mới mẻ, trong
sự kết hợp với người mình yêu. Theo nghĩa này, Thánh Grêgôriô Cả đã viết rằng “amor ipse notitia est” –tình yêu tự nó là kiến thức, mang
trong nó một luận lý mới.[20]
Nó là một cách nhìn về thế giới với sự liên hệ, trở thành sự hiểu biết được chia
sẻ, một cái nhìn theo nhãn quan của người khác và cái nhìn chung về tất cả mọi
sự. Guillaume de Saint Thierry, thời Trung cổ, theo truyền thống này khi ông
chú giải về một câu Nhã Ca mà ở đó tình quân nói với tình lang: Đôi
mắt của em là mắt bồ câu (x. Dc 1,15).[21]
Guillaume giải thích rằng đôi mắt của người yêu là lý trí có đức tin và tình yêu,
sẽ trở thành một mắt duy nhất để chiêm ngắm Thiên Chúa, khi trí tuệ là “một trí
tuệ của tình yêu giác ngộ”.[22]
28.
Việc khám phá này về tình yêu, như nguồn mạch của sự hiểu biết, là một phần của
kinh nghiệm ban đầu của mọi người, được diễn tả bằng một quan niệm về đức tin trong
Thánh Kinh. Nhờ nếm thử tình yêu mà qua đó Thiên Chúa đã chọn họ và thiết lập
họ thành một dân tộc, dân Israel cảm nhận được sự thống nhất của kế hoạch của
Thiên Chúa, từ khởi thủy của nó đến hoàn thành. Sự hiểu biết về đức tin, vì được
phát sinh từ tình yêu của Thiên Chúa, là Đấng thực hiện Giao Ước, nên là sự
hiểu biết soi sáng cuộc hành trình trong lịch sử. Đây cũng là lý do tại sao trong
Thánh Kinh, chân lý và lòng trung thành đi đôi với nhau, và Thiên Chúa thật là
Thiên Chúa trung tín, Đấng giữ những lời hứa của Ngài, và cho phép người ta
hiểu được kế hoạch của Ngài trong thời gian. Qua kinh nghiệm của các ngôn sứ,
trong đau khổ của cuộc lưu đầy và hy vọng về việc dứt khoát trở lại thành
thánh, dân Israel có cảm giác rằng chân lý này của Thiên Chúa trải ra ngoài
lịch sử họ của nó để ôm lấy lịch sử của toàn thế giới, kể từ lúc tạo dựng. Sự
hiểu biết về đức tin soi sáng không những chỉ cuộc hành trình đặc biệt của một
dân tộc, nhưng toàn thể cuộc hành trình của thế giới tạo vật, từ nguyên thủy
của nó để ngày viên mãn.
Đức tin như thính
giác và thị giác
29.
Bởi vì sự nhiểu biết về đức tin nối liền với Giao Ước của một Thiên Chúa thành tín,
Đấng thiết lập một liên hệ tình yêu với con người và nói với họ bằng Lời, được
trình bày trong Thánh Kinh như một sự lắng nghe và liên hệ với thính giác. Thánh
Phaolô sử dụng một công thức đã trở thành cổ điển: fides exauditu, “đức
tin đến bởi nghe” (Rm 10,17).
Liên hệ với lời nói, sự hiểu biết luôn luôn là sự hiểu biết cá nhân, một sự hiểu
biết nhận ra giọng nói, tự nguyện mở ra cho giọng nói ấy và làm theo nó trong
sự vâng phục. Đây là lý do tại sao Thánh Phaolô đã nói về “sự vâng phục của đức tin” (x. Rm 1,5.16.26).[23]
Hơn nữa, đức tin là sự hiểu biết liên quan đến quá trình thời gian, mà lời cần phải
có để nói: đó là một kiến thức chỉ có thể học được bằng cách đi theo [Thầy]
trong cuộc hành trình (sequela). Việc nghe giúp ta trình bày lại cách rõ
ràng hơn mối liên hệ giữa kiến thức
và tình yêu.
Đối
với kiến thức về chân lý, đôi khi thính giác lại trái ngược với thị giác, đó là
sự đặc thù của văn hóa Hy Lạp. Nếu, một đàng, ánh sáng giúp chúng ta chiêm ngắm
toàn diện những gì mà con người vẫn luôn luôn mơ ước, thì đàng khác, dường như nó
không còn dành một chỗ nào cho tự do, vì nó xuống từ trời và đi thẳng vào mắt
mà không đòi mắt trả lời. Ngoài ra, nó có vẻ mời một chiêm niệm tĩnh, tách biệt
khỏi điều kiện cụ thể trong đó con người vui mừng và đau khổ. Theo quan niệm
này, tiếp cận Thánh Kinh về hiểu biết trái ngược với tiếp cận của Hy Lạp, vì
người Hy Lạp nối kết kiến thức với thị giác trong khi theo đuổi sự hiểu biết toàn
diện về thực tại.
Tuy nhiên, rõ ràng là sự đối chọi giả tạo này không phù hợp với tường thuật trong Thánh Kinh. Cựu Ước, đã dung hòa hai loại
hiểu biết này, bởi vì việc lắng nghe Lời Thiên Chúa gắn liền với ước muốn được
nhìn thấy Thánh Nhan Ngài. Bằng cách này, có thể khai triển một cuộc đối thoại
với nền văn hóa Hy Lạp, đối thoại là trung tâm của Thánh Kinh. Việc nghe minh
chứng cho ơn gọi cá nhân và sự vâng phục, cùng sự thật là chân lý được mặc khải
trong thời gian; việc nhìn cung cấp một viễn tượng đầy đủ về toàn thể cuộc hành
trình và cho phép nó nằm trong kế hoạch vĩ đại của Thiên Chúa; không có cái
nhìn này, chúng ta sẽ chỉ có những mảnh vụn riêng rẽ của một tổng thể hoàn toàn
không ai biết đến.
30. Sự
kết nối giữa thị giác nhìn và thính
giác, như các cơ quan của sự hiểu
biết về đức tin, hiển hiện
rõ ràng hơn trong Tin Mừng Thánh Gioan. Theo Tin Mừng thứ tư thì tin chính là lắng nghe
và đồng thời nhìn thấy. Sự lắng nghe của đức tin xảy ra trong hình thức hiểu
biết đặc trưng cho tình yêu: đó là một sự lắng nghe cá nhân, phân biệt được và
nhận ra giọng của Chúa Chiên Lành (x. Ga 10,3-5); một sự lắng nghe đòi hỏi nơi các
môn đệ, như đã xảy ra với các môn đệ đầu tiên, những người “nghe những lời ấy và đi theo Chúa Giêsu” (Ga 1,37). Đàng khác, đức tin cũng liên quan
đến thị giác. Đôi khi việc nhìn thấy những dấu chỉ của Chúa Giêsu đi trước đức
tin, như với người những Do Thái, sau khi ông Ladarô sống lại, “nhìn
thấy những gì Người đã làm và tin
vào Người” (Ga 11,45). Lần khác, chính đức tin dẫn đến
một cái nhìn sâu xa hơn: “Nếu con tin, con sẽ nhìn thấy vinh quang của Thiên
Chúa” (Ga 11,40). Cuối cùng, tin và nhìn thấy gắn
bó với nhau: “Ai tin Tôi
(…) là tin Đấng đã sai tôi; và ai thấy Tôi là thấy
Đấng đã sai Tôi” (Ga 12,44-45). Nhờ sự liên kết với việc nghe
này, cái nhìn trở thành một quyết tâm đi theo Đức Kitô, và đức tin xuất hiện
như một tiến trình chăm chú nhìn, trong đó đôi mắt học được thói quen nhìn theo
chiều sâu. Và như thế, vào buổi sáng Phục Sinh, chúng ta chuyển từ Gioan, người
vẫn còn trong bóng tối trước ngôi mộ trống, “đã thấy
và đã tin” (Ga 20,8) sang Maria Magdalena là người
từ khi “nhìn thấy Chúa Giêsu” (x.
Ga 20,14) và muốn ôm chặt lấy Người,
nhưng được mời chiêm ngắm việc Người lên cùng Chúa Cha; cho đến lời thú nhận
trọn vẹn của cũng Maria Magdalena này với các môn đệ: “Tôi
đã thấy Chúa!” (Ga 20,18).
Làm thế nào chúng ta đạt được sự tổng hợp này giữa việc nghe
và việc nhìn thấy? Điều này có thể được qua chính
con người Chúa Giêsu, là Đấng chúng ta có thể thấy và nghe. Người là Ngôi Lời
nhập thể, mà chúng ta đã chiêm ngắm vinh quang của Người (x. Ga 1,14). Ánh sáng đức tin là ánh sáng của
một Dung Nhan mà trên đó chúng ta thấy Chúa Cha. Thật vậy, trong Tin Mừng thứ
tư, chân lý mả đức tin cảm nhận được là việc tỏ lộ Chúa Cha trong Chúa Con, trong
thân xác của Người và trong các việc làm của Người khi còn tại thế, chúng ta có
thể định nghĩa chân lý là “cuộc đời đầy ánh sáng” của Chúa Giêsu.[24]
Điều này có nghĩa là sự hiểu biết về đức tin không mời gọi chúng ta nhìn vào một
chân lý hoàn toàn nội tâm. Chân lý mà đức tin mở ra cho chúng ta là một chân lý
đặt trọng tâm vào cuộc gặp gỡ Đức Kitô, vào việc chiêm ngắm cuộc đời của Người,
vào ý thức về sự hiện diện của Người. Theo ý nghĩa này, Thánh Thôma Aquinô nói
về oculata fides của các Tông Đồ – một đức tin nhìn thấy! – trước việc nhìn thấy thân thể của Đấng
Phục Sinh.[25]
Các ông đã nhìn thấy Chúa Giêsu Phục Sinh với đôi mắt của các ông và các ông đã
tin, nghĩa là các ông đã có thể thấu suốt chiều sâu của những gì các ông thấy để
tuyên xưng Con Thiên Chúa, Đấng đang ngự bên hữu Chúa Cha.
31. Chỉ
bằng cách này, qua việc Nhập Thể, qua việc chia sẻ bản tính của nhân loại chúng ta, mà sự hiểu biết đúng về tình yêu có thể hoàn toàn thể hiện. Thực ra, ánh sáng tình yêu nảy sinh khi con
tim chúng ta được chạm đến, và chúng ta đón nhận sự hiện diện nội tâm của Đấng mình
yêu, là Đấng cho phép chúng ta nhận ra mầu nhiệm của Người. Như vậy, chúng ta
hiểu lý do tại sao, với thính giác và thị giác, đức tin, theo Thánh Gioan, là
một “sự chạm đến”, như ngài nói trong thư thứ nhất: “(…) điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt (…) điều tay chúng tôi đã chạm đến là Lời ban sự sống” (1 Ga 1,1). Qua việc Nhập Thể của Người, qua
việc đến giữa chúng ta, Chúa Giêsu đã chạm vào chúng ta, và qua các Bí Tích Người
cũng chạm vào chúng ta hôm nay; bằng cách này, qua việc biến đổi tâm hồn chúng
ta, Người đã và đang cho phép chúng ta nhận ra và tuyên xưng Người là Con Thiên
Chúa. Nhờ đức tin, chúng ta có thể chạm đến Người và nhận được sức mạnh của ân
sủng Người. Thánh Augustinô, khi chú giải về đoạn nói về người phụ nữ bị băng huyết chạm
vào Chúa Giêsu để được chữa lành (Lc 8,45-46)
xác quyết: “Chạm vào bằng
con tim, đó chính là tin”.[26]
Đám đông vây quanh Người, nhưng họ không đến được với Người bằng việc chạm đến cách
cá nhân của đức tin, là điều nhận ra mầu nhiệm của Người, bản chất Chúa Con của
Người là Đấng mặc khải Chúa Cha. Chỉ khi nào chúng ta trở nên đồng hình đồng
dạng với Đức Kitô, thì chúng ta nhận được đôi mắt đầy đủ để nhìn thấy.
Cuộc đối thoại giữa đức tin và lý trí
32.
Vì rao giảng chân lý về tình yêu trọn vẹn của Thiên Chúa và mở lòng ra với quyền
năng của tình yêu này, mà đức tin Kitô giáo đi thật sâu vào trung tâm của kinh
nghiệm của mỗi người, là những kẻ đến cùng ánh sáng nhờ tình yêu và được mời
gọi yêu thương để ở lại trong ánh sáng. Được thúc đẩy bởi ước ao soi sáng tất
cả thực tại bằng tình yêu của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu và tìm cách yêu thương
với tình yêu này, các Kitô hữu tiên khởi tìm thấy trong thế giới Hy Lạp, trong
sự đói khát chân lý của nó, một đối tác thích hợp cho cuộc đối thoại. Cuộc gặp
gỡ giữa sứ điệp Tin Mừng và các tư tưởng triết học của thế giới cổ đại là một
bước quyết định để Tin Mửng đến với mọi dân tộc. Nó thuận lợi cho một sự tương
tác hiệu quả giữa đức tin và lý trí, một tương tác luôn luôn phát triển qua nhiều
kỷ nguyên cho đến thời đại chúng ta. Chân Phước Gioan Phaolô II, trong Thông
Điệp Fides et Ration (Đức tin và Lý trí), đã cho thấy đức tin và lý củng cố lẫn nhau thế
nào.[27]
Khi chúng ta tìm thấy ánh sáng trọn vẹn của tình yêu của Chúa Giêsu, chúng ta nhận
ra rằng, trong tất cả tình yêu của chúng ta, đã có một tia của ánh sáng ấy và
chúng ta hiểu được mục tiêu cuối cùng của nó gì. Và, đồng thời, sự thể là tình
yêu của chúng ta chứa đựng một ánh sáng, giúp chúng ta nhìn thấy con đường của
tình yêu hướng đến sự viên mãn của món quà tự hiến hoàn toàn của Con Thiên Chúa
dành cho chúng ta. Trong chuyển động vòng tròn này, ánh sáng đức tin soi sáng
tất cả các mối liên hệ nhân loại chúng ta, để chúng ta có thể sống trong sự
hiệp thông với tình yêu và sự ân cần của Đức Kitô.
33.
Trong cuộc đời của Thánh Augustinô, chúng ta thấy một ví dụ quan trọng về cuộc hành
trình này, trong đó việc tìm kiếm của lý trí, với ước ao của ngài về chân lý và
sự rõ ràng, đã được hòa nhập vào chân trời đức tin, từ đó nó đã nhận được một
sự hiểu biết mới. Một mặt, Thánh Augustinô chấp nhận triết lý Hy Lạp về ánh sáng
với việc nhấn mạnh đến thị giác. Cuộc gặp gỡ với chủ nghĩa Tân Platon giới thiệu
ngài với mô thức của ánh sáng, là ánh sáng chiếu từ trên xuống để soi sáng mọi
sự, và do đó cũng là một biểu tượng của Thiên Chúa. Bằng cách này, Thánh
Augustinô đã hiểu sự siêu việt của Thiên Chúa và đã khám phá ra rằng tất cả mọi
sự đều có trong chính mình một sự trong sáng nào đó, và có thể nói rằng chúng
có thể phản ảnh sự tốt lành của Thiên Chúa, là Đấng Nhân Lành. Ngài được giải
thoát khỏi học thuyết của Mani giáo mà ngài sống trước đó, là thuyết làm cho
ngài tin rằng lành và dữ liên tục đối chọi nhau, pha trộn và kết hợp với nhau,
mà có không đường nét rõ ràng. Việc hiểu rằng Thiên Chúa là ánh sáng cho ngài
một hướng đi mới trong cuộc đời, cho ngài khả năng nhận ra sự dữ và tình trạng tội
lỗi của ngài, và trở về với điều lành.
Tuy
nhiên, mặt khác, trong kinh nghiệm thực tế của Thánh Augustinô, như ngài kể
trong Tự Thú của ngài, giây phút quyết định trong cuộc
hành trình đức tin của ngài không phải là một thị kiến về Thiên Chúa ở trên cao
và vượt ra ngoài thế gian này, mà là giây phút lắng nghe, trong vườn khi ngài
nghe có tiếng nói với mình: “Hãy cầm
lấy và đọc”; và ngài cầm quyển
sách có các Thư của Thánh Phaolô lên và ngừng lại ở chương thứ mười ba của Thư gửi tín hữu Rôma.[28]
Bằng cách này Thiên Chúa cá nhân của Thánh Kinh tỏ mình ra với ngài, có thể nói
chuyện với con người, xuống để sống với họ và đồng hành với họ trong hành trình
qua lịch sử, qua việc xuất hiện trong giây phút lắng nghe và đáp trả.
Tuy
nhiên, cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa của Lời đã không đưa Thánh Augustinô đến việc
từ chối ánh sáng và cái nhìn. Luôn được hướng dẫn bởi sự mặc khải của tình yêu Thiên
Chúa trong Chúa Giêsu, ngài dung hợp hai quan điểm. Và do đó ngài đã khai triển
một triết lý về ánh sáng có thể đón nhận vào mình sự hỗ tương thích hợp với lời
và mở ra một không gian tự do nhìn về phía ánh sáng. Cũng như lời là một đáp
trả tự do, thì ánh sáng cũng tìm thấy như một đáp trả là một hình ảnh phản
chiếu nó. Như thế, Thánh Augustinô có thể nói về “lời chiếu sáng trong con người”
nhờ kết hợp thính giác và và thị giác.[29]
Bằng cách này, chúng ta có thể nói rằng, ánh sáng trở thành ánh sáng của một lời,
bởi vì nó là ánh sáng của một Dung Nhan cá nhân, một ánh sáng, chiếu soi trong
chúng ta, mời gọi chúng ta và muốn phản ảnh trên khuôn mặt chúng ta ngõ hầu
cũng tỏa sáng từ bên trong chính chúng ta. Hơn nữa, ao ước được nhìn thấy toàn
thể, chứ không chỉ mảnh vụn của lịch sử, vẫn còn đó và sẽ được thỏa mãn ở chung
cuộc, khi con người, như Giám Mục thành Hippone nói, sẽ
thấy và sẽ yêu.[30]
Và điều này, không phải vì nó sẽ có tất cả ánh sáng, là điều không bao giờ thiếu,
nhưng bởi vì nó sẽ hoàn toàn bước vào trong ánh sáng.
34.
Ánh sáng của tình yêu, thích hợp với đức tin, có thể soi sáng những câu hỏi của
thời đại chúng ta về chân lý. Ngày nay chân lý thường bị giảm xuống thành sự xác
thực chủ quan của mỗi người, chỉ có giá trị cho cuộc sống cá nhân. Một chân lý chung
làm cho chúng ta sợ hãi bởi vì chúng ta đồng hóa nó với việc áp đật không
nhượng bộ của chủ nghĩa chuyên chế. Nhưng nếu chân lý là chân lý của tình yêu,
nếu nó là chân lý được tìm thấy trong việc gặp gỡ Người Khác và những người
khác, như thế nó được giải phóng khỏi việc bị đóng kín trong cá nhân và có thể
trở thành một phần của công ích. Bởi vì chân lý của tình yêu không phải là một
chân lý cần phải được áp đặt bằng bạo lực, không phải là một chân lý đè bẹp cá
nhân. Vì được sinh ra từ tình yêu, nó có thể đến tận con tim, đến trung tâm của
mỗi người. Như thế rõ ràng là đức tin không cố chấp, nhưng lớn lên trong sự
chung sống và tôn trọng người khác. Các tín hữu không kiêu căng, trái lại, chân
lý làm cho họ khiêm tốn, vì biết rằng mình không phải là người sở hữu nó, nhưng
chính chân lý ôm ấp và sở hữu mình. Thay vì làm cho họ thành cứng ngắt, sự an
toàn của đức tin đặt họ trên một cuộc hành trình, làm cho họ có thể thành chứng
nhân và có thể đối thoại
với mọi người.
Mặt
khác, ánh sáng đức tin, trong việc kết hợp với chân lý của tình yêu, không xa lạ
gì với thế giới vật chất, bởi vì tình yêu luôn luôn sống trong thân xác và linh
hồn; ánh sáng Đức tin là một ánh sáng nhập thể tỏa ra từ cuộc đời đầy ánh sáng
của Chúa Giêsu. Nó cũng chiếu sáng vật chất, tùy thuộc vào trật tự của có, biết
rằng tự nó sẽ mở ra một con đường hòa hợp và hiểu biết rộng lớn hơn bao giờ
hết. Cái nhìn về khoa học như thế có lợi cho đức tin: điều này mời gọi các nhà
nghiên cứu tiếp tục đón nhận thực tại, trong tất cả sự phong phú vô tận của nó.
Đức tin đánh thức tinh thần phê phán bằng cách tránh cho việc nghiên cứu hài
lòng với những công thức của mình và giúp nó hiểu rằng thiên nhiên luôn luôn rộng
lớn hơn. Bằng cách mời gọi nó kinh ngạc trước mầu nhiệm của việc tạo dựng, đức
tin mở rộng chân trời của lý trí để làm sáng tỏ hơn về thế giới là điều tự mở
ra cho nghiên cứu khoa học.
Đức tin và việc tìm
kiếm Thiên Chúa
35.
Ánh sáng của đức tin vào Chúa Giêsu cũng là con đường của tất cả những ai tìm kiếm
Thiên Chúa, và cung cấp sự đóng góp cụ thể của Kitô giáo trong cuộc đối thoại
với những người theo các tôn giáo khác nhau. Thư gửi tín hữu Do Thái nói cho chúng ta về chứng từ của những
người công chính, là những người đã tìm kiếm Thiên Chúa bằng đức tin, trước khi
có Giao Ước với ông Abraham. Về ông Enoch, Thư nói rằng “ông
đã được chứng giám là đẹp lòng Thiên Chúa” (Dt 11,5), là điều không thể được nếu không
có đức tin, bởi vì “ai đến gần Thiên Chúa thì phải tin là Ngài hiện
hữu và Ngài thưởng công những ai tìm kiếm Ngài” (Dt 11,6). Chúng ta cũng có thể hiểu rằng con
đường của con người tôn giáo đi qua lời tuyên xưng về một Thiên Chúa, là Đấng
chăm sóc họ và là Đấng họ có thể tìm thấy được. Còn phần thưởng nào khác mà Thiên
Chúa có thể ban cho những kẻ tìm
kiếm Ngài, nếu không phải là để cho họ gặp Ngài? Trước nữa, chúng ta tìm thấy nhân vật Abel,
mà người ta cũng ca ngợi đức tin vì Thiên Chúa chấp nhận những của lễ của ông dâng
lên Ngài, những con chiên đầu lòng của đàn chiên của ông (x. Dt 11,4). Con người tôn giáo tìm
cách nhận ra các dấu chỉ của Thiên Chúa trong những kinh nghiệm hàng ngày của
cuộc đời họ, trong chu kỳ các mùa, trong hoa mầu ruộng đất và tất cả chuyển động
của vũ trụ. Thiên Chúa là ánh sáng, và Ngài cũng có thể được tìm thấy bởi những
kẻ tìm kiếm Ngài với một tấm lòng thành.
Hình
ảnh của cuộc tìm kiếm này có thể được tìm thấy nơi các nhà đạo sĩ, được hướng dẫn
bởi ngôi sao đến tận
Vì
đức tin được hình thành như một con đường, nó cũng liên quan đến cuộc sống của con
người, ngay cả trong những kẻ không tin, ước muốn tin và không ngừng tìm kiếm.
Theo mức độ mở lòng ra với tình yêu từ một con tim chân thành và bắt đầu lên
đường với ánh sáng này mà họ có thể nắm bắt được, họ đã sống trên đường hướng
về đức tin mà không biết. Họ cố gắng hành động như thể Thiên Chúa hiện hữu, đôi
khi vì họ nhận ra tầm quan trọng của Ngài trong việc tìm hướng đi vững chắc
trong cuộc sống bình thường hay vì họ cảm nghiệm một ao ước ánh sáng giữa bóng
tối, nhưng cũng vì nhận thức được rằng cuộc sống cao quý và đẹp đẽ như thế nào,
họ thấy trước rằng sự hiện diện của Thiên Chúa sẽ làm cho nó thậm chí cao cả
hơn. Thánh Irênê kể lại rằng ông Abraham, trước khi lắng nghe tiếng nói của Thiên
Chúa, đã tìm Ngài bằng “một ao ước mãnh liệt của linh hồn” và “ông chạy khắp
trái đất tìm xem Thiên Chúa ở đâu” cho đến khi “Thiên Chúa thương xót ông, là
người một mình đã tìm Ngài trong thinh lặng”.[32]
Bất cứ ai bắt đầu con đường làm việc lành cho tha nhân thì đã được gần Thiên Chúa
rồi, đã được nâng đỡ bởi sự giúp đỡ của Ngài, bởi vì nó là đặc trưng của sự
năng động của ánh sáng thần linh để thắp sáng đôi mắt của chúng ta khi chúng ta
bước đi về phía sự viên mãn của tình yêu.
Đức tin và thần học
36.
Vì đức tin là một ánh sáng, nó thúc đẩy chúng ta bước vào chính nó, để khám phá
rộng rãi hơn nữa chân trời mà nó soi sáng, để hiểu rõ hơn những gì mà chúng ta yêu
thích. Thần học Kitô giáo được sinh ra từ ước muốn này. Như vậy rõ ràng là thần
học không thể không có đức tin, và nó là thành phần của chính tiến trình đức
tin, tìm kiếm sự hiểu biết sâu xa hơn nữa của việc tự mặc khải của Thiên Chúa,
đạt đến tột đỉnh trong Mầu Nhiệm Đức Kitô. Kết quả đầu tiên là thần học không
chỉ cung cấp, như trong các ngành khoa học thực nghiệm, một nỗ lực của lý trí
để nghiên cứu kỹ lưỡng và hiểu biết. Không thể thu gọn Thiên Chúa thành một đối
tượng. Ngài là một chủ thể, Đấng mặc khải chính mình và tỏ mình ra trong mối
liên hệ giữa người với người. Đức tin đúng hướng dẫn lý trí để mở ra cho ánh
sáng đến từ Thiên Chúa, do đó, được hướng dẫn bởi tình yêu của chân lý, nó có
thể nhận biết Thiên Chúa cách sâu xa hơn. Các tiến sĩ Hội Thánh và các thần học
gia vĩ đại thời Trung Cổ đã quả quyết rằng thần học, như một khoa học của đức
tin, là một việc thông phần vào sự hiểu biết của chính Thiên Chúa. Do đó, thần
học không chỉ là một lời về Thiên Chúa, nhưng trước hết là chấp nhận và tìm
kiếm một sự hiểu biết sâu xa hơn về những lời mà Thiên Chúa nói với chúng ta,
lời mà Thiên Chúa nói về chính Ngài, bởi vì Ngài là một cuộc đối thoại vĩnh cửu
về sự hiệp thông, và Ngài đón nhận con người vào cuộc cuộc đối thoại này.[33]
Như thế, sự khiêm nhường tham dự vào thần học bằng cách cho phép nó được Thiên Chúa
“chạm đến”, nhìn nhận những giới hạn của nó trước những Mầu nhiệm và cố gắng
tìm hiểu, với kỷ luật lý thích hợp cho lý trí, sự phong phú khôn lường của Mầu
Nhiệm này.
Thần
học cũng chia sẻ hình thức Hội Thánh của đức tin; ánh sáng của nó là ánh sáng về
chủ đề đức tin là Hội Thánh. Một mặt, điều này có nghĩa là thần học được dùng
để phục vụ đức tin Kitô giáo, nó phải khiêm tốn gìn giữ và đào sâu niềm tin của
mọi người, đặc biệt là những người đơn sơ nhất. Mặt khác, thần học, vì sống nhờ
đức tin, không được coi Huấn Quyền của Giáo Hoàng và các giám mục hiệp thông
với ngài như một điều gì bên ngoài, một điều giới hạn sự tự do của mình, nhưng
trái lại, phải như một trong những yếu tố nội tại và cấu thành của nó, bởi vì
Huấn Quyền tiếp xúc với suối nguồn nguyên thủy, do đó cung cấp sự chắc chắn cho
điều được rút ra từ Lời của Đức Kitô trong sự toàn vẹn của nó.
CHƯƠNG
BA
TÔI
TRUYỀN LẠI CHO ANH EM
ĐIỀU MÀ TÔI ĐÃ LÃNH NHẬN
(x. 1 Cr
15,3)
Hội Thánh, mẹ của đức tin của chúng ta
37. Những ai đã mở cửa tâm hồn mình cho tình yêu của Thiên Chúa, đã nghe
thấy giọng nói của Ngài và nhận được ánh sáng của Ngài, thì không
thể giữ món quà này cho riêng
mình. Vì khi đức tin được nghe và
thấy, nó cũng được truyền lại như lời nói và ánh sáng. Khi nói với tín hữu Côrinthô,
Thánh Phaolô chỉ sử dụng hai hình ảnh này. Một đàng ngài nói: “Vì có được cùng một tinh thần đức tin, như
đã chép trong Thánh Kinh: ‘Tôi đã tin, nên tôi mới nói’, thì chúng tôi cũng
tin, nên chúng tôi mới nói” (2
Cr 4,13). Lời, một khi được đón
nhận, sẽ trở thành một đáp trả, một tuyên xưng đức tin, và bằng cách này được
truyền sang người khác và mời họ tin. Ở phần khác, Thánh Phaolô cũng nhắc đến
ánh sáng: “Tất cả chúng ta, với mặt không màn che, phản chiếu vinh quang của Chúa
như một tấm gương, được biến đổi nên giống như cũng hình ảnh đó” (2 Cr 3,18). Đó là một ánh sáng phản chiếu
từ khuôn mặt này sang khuôn mặt khác, mà ngay cả ông Môsê cũng đã mang trên
mình một phản ảnh của vinh quang Thiên Chúa sau khi đàm đạo với Ngài: “Thiên
Chúa đã chiếu sáng tâm hồn chúng tôi, để làm sáng tỏ sự hiểu biết về vinh quang
của Thiên Chúa trên Dung Nhan Ðức Kitô” (2
Cr 4,6). Ánh sáng Đức Kitô
chiếu tỏa, như trên một tấm gương, trên gương mặt các Kitô hữu, vì nó tỏa ra,
cho nên nó đến với chúng ta, để chúng ta cũng có thể chia sẻ cái nhìn ấy và
phản chiếu ánh sáng ấy cho những người khác, trong cùng một cách như trong
phụng vụ lễ Phục Sinh, ánh sáng của cây nến Phục Sinh thắp sáng vô số các cây
nến khác. Chúng ta có thể nói, đức tin được truyền từ người này sang người khác
qua việc tiếp xúc, như một ngọn lửa được thắp sáng từ một ngọn lửa khác. Các
Kitô hữu, trong sự nghèo nàn của mình, trồng một hạt giống quá phong phú đến
nỗi nó trở thành một cây lớn, có khả năng làm đầy thế giới với trái của nó.
38. Việc
truyền bá đức tin, là đức tin soi sáng tất
cả mọi người ở mọi nơi, cũng đi
qua trục lộ thời gian, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Vì đức tin được sinh ra từ một cuộc gặp gỡ diễn
ra trong lịch sử và soi sáng cuộc hành trình của chúng ta qua thời gian, nó
phải được truyền lại trong mọi thời đại. Chính qua một chuỗi không đứt đoạn các
nhân chứng mà Dung Nhan của Chúa Giêsu được truyền đến tận chúng ta. Điều này làm sao mà có thể được? Làm sao chúng ta có thể chắc chắn rằng chúng
ta gặp “Chúa Giêsu thật” sau tất cả
những thế kỷ ấy? Nếu con người từng là một cá nhân tách biệt,
nếu chúng ta muốn khởi đầu đơn thuần từ “cái tôi” cá nhân, muốn tìm trong chính
mình sự chắc chắn của kiến thức,
thì một sự chắc chắn như thế là điều không thể có được. Tôi không nhìn thấy qua
mình những gì đã xảy ra quá lâu rồi. Nhưng đây không phải là cách duy nhất con người
học hỏi. Con người luôn luôn sống trong sự liên hệ. Chúng ta đến từ những người
khác, chúng ta thuộc về những người khác, và cuộc đời chúng ta được mở rộng nhờ
gặp gỡ những người khác. Ngay cả kiến thức
của chúng ta và việc tự hiểu mình, biết chính mình, cũng đến từ một loại liên hệ,
và liên kết với những người khác là những người đã đi trước chúng ta: trước tiên
là cha mẹ, là những người đã cho chúng ta sự sống và cho chúng ta tên gọi. Ngay
cả ngôn ngữ, những từ ngữ mà chúng ta dùng để cắt nghĩa cuộc đời và thế giới
chung quanh chúng ta, cũng đến với chúng ta từ những người khác, được giữ gìn
trong ký ức sống động của những người khác. Việc tự biết mình chỉ khả thi khi
chúng ta thông phần vào một ký ức lớn hơn. Điều đó cũng đúng đối với đức tin,
là điều làm cho sự hiểu biết của con người nên hoàn hảo. Việc truyền lại đức
tin, hành động này của tình yêu của Chúa Giêsu đã ban sự sống mới cho thế gian,
đến với chúng ta qua ký ức của những người khác, những nhân chứng, và được giữ
cho sống mãi trong một chủ thể duy nhất của ký ức là Hội Thánh. Hội Thánh là
một người Mẹ dạy chúng ta nói ngôn ngữ đức tin. Thánh Gioan nói lên điều này trong
Tin Mừng của ngài bằng cách liên kết đức tin với ký ức, và liên kết tất cả với
hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đấng, như Chúa Giêsu đã nói, “sẽ
nhắc nhở các con mọi sự” (Ga 14,26). Tình Yêu là Chúa Thánh Thần và
Ngài đang sống trong Hội Thánh, duy trì sự liên kết giữa mọi thời đại với nhau,
và làm cho chúng ta thành những người đương thời của Chúa Giêsu, như thế hướng dẫn
chúng ta trên cuộc hành trình đức tin của chúng ta.
39. Không
thể tin vào chính mình. Đức tin
không chỉ đơn thuần là một chọn lựa cá nhân mà người tín hữu làm trong thâm tâm
của mình, nó cũng không phải một mối liên hệ hoàn toàn riêng tư giữa cái “tôi” của
người tín hữu và Thiên Chúa là “Ngài”, giữa một chủ đề tự trị và Thiên Chúa. Tự
bản chất, đức tin được mở ra cho cái “chúng ta” của Hội Thánh, nó luôn luôn xảy
ra trong sự hiệp thông của Hội Thánh. Hình thức đối thoại của Kinh Tin Kính được sử dụng trong phụng vụ Rửa Tội
nhắc nhở chúng ta về điều này. Việc tin được diễn tả như đáp lại một lời mời,
một lời phải được lắng nghe và không phải là của riêng tôi, nhưng nằm trong một
cuộc đối thoại, và nó không thể đơn thuần chỉ là một lời tuyên xưng phát xuất
từ một cá nhân. Chúng ta có thể trả lời trong số ít – “Tôi tin” – chỉ vì chúng
ta là một phần của một sự hiệp thông lớn hơn, chỉ vì chúng ta cũng nói: “Chúng
tôi tin”. Sự mở ra này cho cái “Chúng tôi” của Hội Thánh xảy ra theo chính sự
mở ra của tình yêu Thiên Chúa, mà không chỉ là mối liên hệ giữa Chúa Cha và
Chúa Con, giữa “tôi” và “Chúa”, nhưng còn một “chúng ta”, trong Chúa Thánh
Thần, một sự hiệp thông của các ngôi vị. Ở đây chúng ta thấy lý do tại sao
người tin không bao giờ một mình, và lý do tại sao đức tin có khuynh hướng lan
ra, mời gọi những người khác đến niềm vui của mình. Người lãnh nhận đức tin
khám phá ra rằng chân trời của “cái tôi” của họ mở rộng, và các mối liên hệ mới
làm phong phú đời sống được chồng chất. Tertullian đã diễn tả điều này cách
hiệu quả khi ông mô tả những người tân tòng, “sau khi tắm để tái sinh”, được
đón nhận vào nhà của Mẹ để giơ tay và cầu nguyện Kinh Lạy Cha cùng với anh chị em của họ.[34]
Các bí tích và việc truyền đạt đức tin
40. Hội
Thánh, như tất cả các gia đình, truyền lại cho con cái của mình tất cả nội dung ký ức của mình. Nhưng làm sao để
không mất một điều gì, mà trái lại, tất cả mọi sự trong gia sản đức tin lại được
hiểu sâu sắc hơn? Chính nhờ việc Tông Truyền được duy trì trong Hội Thánh với
sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, mà chúng ta được tiếp xúc một cách sống động
với ký ức nền tảng. Những điều đã được lưu truyền bởi các Tông Đồ, như Công
Đồng Vaticanô II khẳng định, “bao gồm tất cả những gì đóng góp vào việc làm cho đời sống dân Chúa được thánh
thiện và gia tăng đức tin của họ. Bằng
cách này, Hội Thánh, trong giáo lý,
cuộc sống và việc phụng tự của
mình, làm sống mãi và truyền cho mọi thế hệ tất cả những
gì mình là và tất cả những gì mình tin”.[35]
Thực
ra, đức tin cần có một môi trường mà trong đó nó có thể được làm chứng và truyền
đạt, một phương tiện phù hợp và tương xứng với những gì được truyền đạt. Để
truyền đạt nội dung hoàn toàn tín lý, một ý tưởng hoặc một cuốn sách có lẽ đủ,
hoặc lặp đi lặp lại một sứ điệp được truyền khẩu. Nhưng những gì được truyền
lại trong Hội Thánh, những gì được truyền lại trong Truyền Thống sống động của
Hội Thánh, là ánh sáng mới phát sinh từ một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa hằng
sống, một ánh sáng chạm đến con người một cách sâu thẳm, đến tâm hồn, bao gồm
cả tâm trí, ý chí và tình cảm của họ, mở ra cho những mối liên hệ sống động trong
sự hiệp thông với Thiên Chúa và với tha nhân. Để truyền thông sự sung mãn này,
có một công cụ đặc biệt bao gồm toàn thể con người, thân xác và tinh thần, đời
sống nội tâm và những liên hệ. Công cụ ấy là các Bí Tích, được cử hành trong
phụng vụ của Hội Thánh. Trong đó thông truyền ký ức nhập thể, được liên kết với
không gian và thời gian của cuộc sống, và liên hệ mật thiết với tất cả các giác
quan; trong đó toàn thể con người được tham gia như một phần tử của một chủ thể
sống động, và một phần của một mạng lưới các mối liên hệ cộng đoàn. Trong khi
các bí tích thực sự là bí tích của đức tin,[36]
chúng ta cũng có thể nói rằng đức tin có một cấu trúc bí tích. Sự thức tỉnh của
đức tin đi qua sự thức tỉnh của một cảm thức bí tích mới về đời sống con người và
đời sống Kitô hữu, trong đó cho thấy làm sao các thực tại hữu hình và vật chất
tự mở ra cho những Mầu Nhiệm vĩnh cửu.
41. Nơi đầu tiên xảy ra việc truyền lại đức
tin là qua bí tích Rửa Tội. Một số người có
thể nghĩ rằng bí tích Rửa Tội chỉ đơn thuần là một biểu tượng cho việc tuyên xưng
đức tin, một hành vi sư phạm cho những người cần hình ảnh và cử chỉ, mà chung
cuộc có thể bỏ qua. Một lời xác quyết của Thánh Phaolô về bí tích Rửa Tội nhắc
cho chúng ta rằng không phải như thế. Thánh Phaolô nói rằng “chúng
ta đã cùng được mai táng với Người bằng phép rửa trong cái chết của Người, để cũng
như Ðức Kitô đã sống lại từ cõi chết nhờ vinh quang của Chúa Cha thế nào, thì
chúng ta cũng sống một đời sống mới như vậy” (Rm
6,4). Trong bí tích Rửa Tội, chúng ta trở nên một tạo vật mới và dưỡng tử
của Thiên Chúa. Thánh Tông Đồ quả quyết rằng các Kitô hữu đã được trao phó cho
một “hình thức giáo huấn” (týpos didachés), mà bây giờ họ
tuân phục bằng cả tâm hồn (x. Rm 6,17). Trong bí tích Rửa Tội, con người
nhận được cả giáo lý để tuyên xưng và một cách sống cụ thể đòi hỏi sự tham gia
của toàn thể con người và đặt họ trên con đường dẫn đến sự tốt lành. Họ được
chuyển sang một quỹ đạo mới, được trao vào một môi trường mới, một cách mới để
làm việc với nhau, trong Hội Thánh. Như thế, bí tích Rửa Tội nhắc cho chúng ta
rằng đức tin không phải là công việc của một cá nhân bị cô lập, không phải là
một hành động mà một người có thể thực hiện bằng sức riêng của mình, mà là điều
phải được nhận qua việc đi vào sự hiệp thông của Hội Thánh, là nơi truyền món
quà của Thiên Chúa cho họ: không ai tự rửa tội cho mình, cũng như không ai tự
sinh ra chính mình. Chúng ta được rửa tội.
42. Các
yếu tố của bí tích Rửa Tội giới thiệu chúng ta vào “hình thức giáo
huấn” mới này là gì? Trước hết là Thánh Danh của Thiên
Chúa Ba Ngôi – Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần – được cầu khẩn trên người
dự tòng. Vì vậy, ngay từ đầu, một tổng hợp của hành trình đức tin được cung
cấp. Thiên Chúa, Đấng đã gọi ông Abraham và muốn được gọi là Thiên Chúa của
ông; Thiên Chúa, Đấng đã mặc khải Danh của mình cho ông Môisen. Thiên Chúa, Đấng
khi trao ban Con của Ngài cho chúng ta, đã mặc khải trọn vẹn mầu nhiệm của Thánh
Danh Ngài, ban cho người được rửa tội một căn tính con thảo mới. Điều này được
thấy rõ trong chính hành động rửa tội: việc dìm vào nước. Nước vừa là một biểu
tượng của sự chết, mời gọi chúng ta đi qua tự việc hoán cải của “cái tôi” sang
một “Cái Tôi” lớn hơn, và một biểu tượng của sự sống, một đời sống trong đó
chúng ta được tái sinh bằng cách đi theo Đức Kitô trong đời sống mới của Người.
Bằng cách này, qua việc dìm vào nước, bí tích Rửa Tội nói cho chúng ta về cấu
trúc nhập thể của đức tin. Hành động của Đức Kitô chạm đến chúng ta trong thực
tại cá nhân của chúng ta và biến đổi chúng ta tận gốc, làm cho chúng ta thành
nghĩa tử của Thiên Chúa và người thông phần vào bản tính Thiên Chúa. Như vậy,
nó sửa đổi tất cả các mối liên hệ của chúng ta, hoàn cảnh cụ thể của chúng ta
trong thế giới này và trong vũ trụ, và mở chúng ra cho đời sống hiệp thông của
Ngài. Động năng biến đổi, đặc thù của bí tích Rửa Tội giúp chúng ta hiểu tầm
quan trọng của thời gian dự tòng, là thời gian mà ngày nay, ngay cả trong các
xã hội có nguồn gốc Kitô giáo xưa kia – trong đó số của người lớn tiếp cận bí
tích Rửa Tội càng ngày càng gia tăng – tái khám phá ra tầm quan trọng đặc biệt
của việc việc Tân Phúc Âm hóa. Đó là con đường chuẩn bị cho bí tích Rửa Tội,
cho việc hoán cải toàn thể cuộc đời của chúng ta trong Đức Kitô.
Để
hiểu mối liên hệ giữa bí tích Rửa Tội và đức tin, chúng ta có thể nhắc lại một đoạn
của ngôn sứ Isaia, được liên kết với bí tích Rửa Tội trong văn chương Kitô giáo
thời xưa: “có pháo đài trên núi đá làm
nơi trú ẩn (…) nước uống chẳng lo thiếu bao giờ” (Is 33,16).[37]
Người được rửa tội, được giải thoát từ nước sự chết, đã có thể được đặt trong một “pháo
đài trên núi đá” vì người ấy đã tìm thấy một điểm tựa vững
chắc. Như thế, nước của sự chết được biến đổi thành nước của sự sống. Văn bản
Hy Lạp nói về nó như nước pistos,
nước “trung thành”. Nước Rửa Tội là nước trung thành bởi vì chúng ta có thể tin
tưởng vào nó, vì dòng của nó chảy vào sức mạnh của tình yêu Đức Kitô, nguồn gốc
sự đảm bảo cho cuộc hành trình của chúng ta trong đời.
43. Cấu
trúc của bí tích Rửa Tội, hình thức
của nó như một việc tái sinh, trong đó chúng ta nhận được một tên mới và một cuộc
sống mới, giúp chúng ta hiểu rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của bí tích
Rửa Tội trẻ em. Trẻ em không có khả năng chấp nhận đức tin bằng
một hành động tự do, cũng chưa thể tuyên xưng đức tin của mình; cho nên đức tin
được cha mẹ và cha mẹ đỡ đầu nhân danh các em mà tuyên xưng. Vì đức tin là một
thực thể sống trong cộng đồng Hội Thánh, một phần của cái “Chúng tôi” chung,
trẻ em có thể được nâng đỡ bởi những người khác, cha mẹ và những người đỡ đầu
của các em, và có thể được đón nhận vào đức tin của mình, đó là đức tin của Hội
Thánh, điều này được tượng trưng bằng ánh sáng mà cha đứa trẻ thắp lên từ cây
nến Phục Sinh. Cấu trúc này của bí tích Rửa Tội cho thấy tầm quan trọng của sự
hợp tác giữa Hội Thánh và gia đình trong việc truyền thụ đức tin. Cha mẹ được
gọi, như lời Thánh Augustinô, không những chỉ để sinh sản con cái mà còn để dẫn
các em lại với Thiên Chúa, ngõ hầu nhờ bí tích Rửa Tội các em có thể được tái
sinh làm con cái Thiên Chúa và đón nhận hồng ân đức tin.[38]
Như vậy, cùng với sự sống, trẻ em được định hướng cơ bản và đảm bảo một tương lai
tốt đẹp, định hướng này sẽ được củng cố hơn nữa trong bí tích Thêm Sức với ấn
tín của Chúa Thánh Thần.
44.
Bản tính bí tích của đức tin tìm được cách diễn tả cao nhất trong bí tích Thánh Thể. Thánh Thể là lương thực quý báu cho đức tin:
một cuộc gặp gỡ với Đức Kitô thực sự hiện diện trong hành động tối cao của tình
yêu, món quà ban sự sống của chính mình. Trong Bí Tích Thánh Thể, chúng ta có
hai trục lộ mà trên đó đức tin hành trình. Một đàng là trục lộ lich sử: Thánh
Thể là một hành động tưởng nhớ, một sự hiện tại hóa mầu nhiệm, trong đó quá
khứ, như biến cố chết và sự sống lại, chứng tỏ khả năng mở ra một tương lai,
báo trước sự viên mãn chung cuộc. Phụng vụ nhắc nhở chúng ta điều này bằng cách
lặp đi lặp lại từ hodie,“ngày hôm nay”, của các Mầu Nhiệm cứu độ. Đàng khác, chúng
ta cũng tìm thấy một trục lộ dẫn từ thế giới hữu hình đến vô hình. Trong bí
tích Thánh Thể chúng ta học để hiểu biết chiều sâu của thực tại. Bánh và rượu
biến đổi thành Mình và Máu Đức Kitô, Đấng trở nên hiện diện trong cuộc hành
trình Vượt Qua của Người về phía Chúa Cha: sự chuyển động này đưa chúng ta,
thân xác và linh hồn, vào sự chuyển động của tất cả tạo vật hướng tới sự viên
mãn của Người trong Thiên Chúa.
45. Trong
việc cử hành các bí tích, Hội Thánh truyền
lại ký ức của mình đặc biệt qua việc
tuyên xưng đức tin. Tuyên xưng
này không chỉ liên quan đến việc đồng ý với một tập hợp những chân lý trừu tượng.
Trái lại, trong việc tuyên xưng đức tin toàn thể đời sống được thu hút vào một
cuộc hành trình hướng về sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa hằng sống. Chúng
ta có thể nói rằng trong Kinh Tin Kính,
người tín hữu được mời bước vào mầu nhiệm mà họ tuyên xưng và để cho mình được
biến đổi bởi điều mà mình tuyên xưng. Để hiểu ý nghĩa của xác quyết này, trước
hết chúng ta hãy xét đến nội dung của Kinh
Tin Kính. Nó có một cấu trúc Ba Ngôi: Chúa Cha và Chúa Con kết hợp trong
Thần Khí Tình Yêu. Như thế, người tín hữu xác quyết rằng trung tâm của toàn thể
cuộc sống con người, bí mật sâu xa nhất của mọi sự, là sự hiệp thông của Thiên
Chúa. Kinh Tin Kính cũng chứa đựng
một lời tuyên xưng Kitô học: nó đưa chúng ta qua các Mầu Nhiệm của cuộc đời Đức
Kitô cho đến cái Chết, sự Sống Lại và Lên Trời của Người, trong khi chờ đợi
cuộc trở lại sau hết của Người trong vinh quang. Nó cho chúng ta biết rằng
Thiên Chúa của sự hiệp thông này, tình yêu hỗ tương giữa Chúa Cha và Chúa Con
trong Chúa Thánh Thần, có khả năng bao trùm toàn thể lịch sử nhân loại và thu
hút nó vào động năng của sự hiệp thông của Ngài, là điều có nguồn gốc và cứu
cánh tối hậu trong Chúa Cha. Ai tuyên xưng đức tin của mình được liên kết với
chân lý mà mình tuyên xưng. Người ấy không thể thực sự tuyên xưng những lời của
Kinh Tin Kính mà không chính mình
được biến đổi, mà không được đưa vào một lịch sử của tình yêu bao trùm họ, và
mở rộng con người họ bằng cách làm cho họ thành phần tử của một sự hiệp thông
lớn lao, của chủ thể cuối cùng mà Kinh
Tin Kính tuyên xưng và đó là Hội
Thánh. Tất cả những chân lý để tin nói về mầu nhiệm sự sống mới của đức tin như
một cuộc hành trình hiệp thông với Thiên Chúa hằng sống.
Đức tin, cầu nguyện và Mười Điều Răn
46. Có
hai yếu tố khác rất cần thiết trong việc trung thành truyền lại ký ức của Hội Thánh. Trước hết là Kinh Nguyện của Chúa, kinh “Lạy Cha”. Trong kinh này các Kitô hữu
học cách thông phần vào cảm nghiệm tâm linh của Đức Kitô và nhìn mọi sự bằng
cặp mắt của Người. Từ Người, Đấng là Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Con Một Đức Chúa
Cha, chúng ta biết Thiên Chúa và do đó có thể làm dấy lên trong những người
khác ao ước đến gần Người.
Cũng
quan trọng tương tự như vậy là sự liên hệ giữa đức tin và Mười Điều Răn. Đức tin,
như chúng ta đã nói, được coi như một cuộc hành trình, một con đường để đi theo,
mở ra cho cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống. Đó là lý do tại sao trong ánh
sáng đức tin và sự tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, Đấng cứu độ, Mười Điều
Răn nhận được chân lý sâu xa nhất của chúng, như đã thấy trong lời giới thiệu
của những giới răn này: “Ta là Đức
Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Đấng đã đem các ngươi ra khỏi đất Ai-cập” (Xh 20,2). Mười Điều Răn không phải là một
tâp các mệnh lệnh tiêu cực, nhưng là những hướng dẫn cụ thể để ra khỏi hoang địa
của “cái tôi” tự kỷ, tự đóng kín, và tham gia vào cuộc đối thoại với Thiên Chúa,
để cho mình được chấp nhận bởi lòng thương xót của Ngài hầu mang lòng thương
xót của mình đến cho tha nhân. Như thế, đức tin tuyên xưng tình yêu của Thiên
Chúa, nguồn gốc và sự nâng đỡ của tất cả mọi sự, và để cho mình được hướng dẫn
bởi tình yêu này mà hành trình tiến đến hoàn toàn hiệp thông với Thiên Chúa.
Mười Điều Răn xuất hiện như con đường biết ơn, sự đáp trả của tình yêu, có thể
được vì trong đức tin chúng ta mở ra cho kinh nghiệm về tình yêu có sức biến
đổi mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Và con đường này nhận được ánh sáng mới từ
giáo huấn của Chúa Giêsu trong Bài Giảng Trên Núi (x. Mt 5–7).
Như
thế, tôi đã nhắc đến bốn yếu tố tóm tắt kho tàng ký ức mà Hội Thánh truyền lại:
việc Tuyên Xưng Đức Tin, việc Cử Hành Các Bí Tích, con đường Mười Điều Răn, và Cầu
Nguyện. Giáo lý của Hội Thánh có truyền thống được cấu trúc quanh bốn yếu tố
này, điều này gồm cả Sách Giáo
Lý của Hội Thánh Công Giáo, công cụ cơ bản mà qua đó, bằng một cách thống
nhất, Hội Thánh truyền đạt toàn thể nội dung đức tin của mình: “tất
cả những gì mình là, và tất cả những gì mình tin”.[39]
Sự thống nhất và toàn vẹn của đức tin
47. Sự
hợp nhất của Hội Thánh trong thời gian và không gian được liên kết với sự hợp nhất
của đức tin:“chỉ có một thân thể,
một Thần Khí… một đức tin duy nhất” (Ep 4,4-5). Cũng như ngày nay, việc một nhóm người
kết hiệp với nhau vì một nguyên nhân chung, vì có tình cảm với nhau, hay vì chia
sẻ cùng một vận mệnh và mục đích duy nhất là điều khả thi. Nhưng khó mà tưởng
tượng được một sự hợp nhất trong cùng một chân lý. Có vẻ như một sự hợp nhất
kiểu này không phù hợp với tự do tư tưởng và tự quyết cá nhân. Tuy nhiên, kinh
nghiệm về tình yêu cho chúng ta thấy rằng một cái nhìn chung là điều có thể, vì
nhờ yêu cho chúng ta học nhìn thực tại qua đôi mắt người khác, không phải như
một điều làm cho cái nhìn của mình bị nghèo nàn đi mà phong phú hóa nó. Tình
yêu chân chính, theo cách thức của tình yêu Thiên Chúa, đòi hỏi chân lý, và
nhãn quan chung về chân lý, đó là Chúa Giêsu Kitô, giúp cho nó trở nên vững
chắc và sâu sắc. Đây cũng là niềm vui lớn lao của đức tin: một sự hợp nhất về
nhãn quan trong một thân thể và một Thánh Thần duy nhất. Thánh Lêô Cả có thể
nói: “Nếu đức tin không phải là một, thì nó không phải là đức tin”.[40]
Bí
mật của sự hợp nhất này là gì? Đức tin là “một [đức tin duy nhất]”, trước hết, vì
sự hợp nhất của Thiên Chúa, Đấng được biết đến và tuyên xưng. Tất cả những tín
điều của đức tin nói về Ngài, là những con đường để biết sự hiện hữu của Ngài
và việc làm của Ngài. Do đó, chúng là một sự hợp nhất cao hơn nhiều so với bất
kỳ sự hợp nhất nào mà lý trí con người có thể xây dựng. Chúng có một sự hợp nhất
phong phú hóa chúng, bởi vì được thông truyền cho chúng ta và làm cho chúng ta
nên “một”.
Ngoài
ra, đức tin cũng là một bởi vì nó quy hướng trực tiếp về một Chúa duy nhất, về cuộc
đời Chúa Giêsu, về lịch sử cụ thể mà Người chia sẻ với chúng ta. Thánh Irênê
thành Lyons đã xác định rõ ràng khi chống lại lạc giáo Ngộ Đạo. Họ lập luận
rằng có hai loại đức tin, một đức tin thô sơ, đức tin đơn giản, không hoàn hảo,
được duy trì ở mức của xác thịt của Đức Kitô và chiêm niệm các Mầu Nhiệm của
Người; và một loại đức tin khác sâu sắc hơn và hoàn hảo hơn, đức tin thật, giới
hạn trong vòng nhóm nhỏ của những người gia nhập [Ngộ Đạo], là những người có
khả năng trí tuệ cao, vượt lên trên xác thịt của Chúa Giêsu hướng về những Mầu
Nhiệm thần linh mà chưa từng ai biết đến. Đương đầu với xác quyết này, là điều
tiếp tục hấp dẫn và có những người theo nó, ngay cả trong thời đại chúng ta,
Thánh Irênê khẳng định rằng chỉ có một đức tin duy nhất, vì đức tin này luôn luôn
đi qua điểm cụ thể của Mầu Nhiệm Nhập Thể, mà không bao giờ siêu vượt xác thịt
và lịch sử của Đức Kitô, vì Thiên Chúa đã muốn tỏ mình hoàn toàn trong đó. Vì
lý do này, ngài nói, không có sự khác biệt trong đức tin của “những người có
khả năng bàn luận nhiều” và “những người nói ít”, giữa những người làm lớn và
những người nhỏ: người trước không thể làm gia tăng đức tin, người sau cũng
không làm giảm nó.[41]
Cuối
cùng, đức tin là một bởi vì nó được chia sẻ bởi toàn thể Hội Thánh, là một thân
thể duy nhất, một Thánh Thần duy nhất. Trong sự hiệp thông của một chủ thể duy nhất
là Hội Thánh, chúng ta nhận được một cái nhìn chung. Nhờ tuyên xưng cùng một
đức tin, chúng ta đứng vững trên cùng một đá tảng, chúng ta được biến đổi bởi
cùng một Thánh Thần của tình yêu, chúng ta tỏa ra một ánh sáng duy nhất và chúng
ta có cùng một cái nhìn duy nhất vào thực tại.
48. Vì
đức tin là một, nên nó phải được tuyên xưng trong tất cả sự thanh khiết và toàn vẹn của nó. Chính vì tất cả các tín điều đức tin được nối
kết chặt chẽ với nhau, nên khi từ chối một điều trong chúng, dù là điều có vẻ
không mấy quan trọng, thì tương tự như bóp méo toàn thể đức tin. Trong mỗi thời
đại người tatìm thấy một số điểm nào
đó của đức tin có thể dễ dàng hoặc khó được chấp
nhận hơn: đó là lý do tại sao điều
quan trọng là phải tỉnh thức, bởi vì kho tàng đức tin được truyền lại trong sự trọn vẹn của nó (x. 1 Tm 6,20), và bởi vì tất cả mọi khía cạnh
của lời tuyên xưng đức tin đều thích hợp và được nhấn mạnh. Thật vậy, vì sự hợp
nhất của đức tin là sự hợp nhất của Hội Thánh, bỏ đi một điều gì đó từ đức tin là
bỏ đi một điều gì đó từ chân lý của sự hiệp thông. Các Giáo Phụ đã mô tả đức tin
như một thân thể, thân thể của chân lý với nhiều chi thể khác nhau, tương tự
như thân thể của Đức Kitô và kéo dài trong Hội Thánh.[42]
Tính toàn vẹn của đức tin cũng gắn liền với hình ảnh của Hội Thánh như một trinh
nữ và lòng chung thủy của Hội Thánh trong tình yêu phối ngẫu dành cho Đức Kitô:
làm tổn thương đến đức tin có nghĩa là làm tổn thương đến sự hiệp thông với
Thiên Chúa.[43]
Như thế, sự hợp nhất của đức tin là sự hợp nhất của một cơ thể sống động, như nhận
xét tuyệt diệu mà Chân Phước Gioan Henry Newman đã đưa ra khi ngài liệt kê đặc
tính được ghi nhận để phân biệt sự liên tục của giáo lý theo thời gian, là khả
năng đồng hóa tất cả mọi sự mà nó tìm thấy trong các môi trường khác nhau mà
trong đó nó hiện diện, và trong các nền văn hóa đa dạng mà nó gặp phải,[44]
qua việc thanh lọc tất cả mọi sự và đưa chúng đến biểu hiện hoàn hảo nhất của chúng.
Như thế, đức tin rõ ràng là phổ quát và công giáo, bởi vì ánh sáng của nó tỏa
rộng để soi sáng tất cả vũ trụ và toàn thể lịch sử.
49.
Để phục vụ cho sự hợp nhất của đức tin và thông truyền sự trọn vẹn của nó, Chúa
đã ban cho Hội Thánh hồng ân Tông Truyền. Nhờ phương tiện này, tính liên tục của
ký ức Hội Thánh được đảm bảo, và người ta có thể chắc chắn đến được với suối
nguồn tinh khiết mà từ đó đức tin chảy ra. Như vậy, sự đảm bảo tính liên tục
với nguồn gốc được thực thi bởi những con người sống động, điều này tương xứng
với đức tin sống động mà Hội Thánh truyền lại. Hội Thánh tùy thuộc vào lòng
trung thành của các nhân chứng được Chúa lựa chọn để thi hành nhiệm vụ này. Vì
lý do này mà Huấn Quyền luôn luôn nói trong sự vâng phục Lời trước đó mà trên đó
đức tin dựa vào; Huấn Quyền đáng tin cậy bởi vì Huấn Quyền tin tưởng vào Lời mà
mình nghe, gìn giữ và giải thích.[45]
Trong bài giảng chia tay của Thánh Phaolô dành cho các trưởng lão Êphêsô ở Milêtô,
mà Thánh Luca thuật lại cho chúng ta trong sách Công Vụ Tông Đồ, ngài đã chứng
minh rằng ngài đã thi hành nhiệm vụ mà Chúa đã trao phó cho ngài để “công bố toàn thể ý định của Thiên Chúa” (Cv 20,27). Nhờ Huấn Quyền của Hội Thánh, ý
định này có thể đến với chúng ta trong tính toàn vẹn của nó, và cùng với nó là niềm
vui của việc có thể theo nó một cách hoàn toàn.
CHƯƠNG
BỐN
THIÊN CHÚA CHUẨN BỊ CHO HỌ MỘT THÀNH
(x. Dt 11,16)
Đức tin và công ích
50. Trong
việc trình bày lịch sử của các tổ phụ và những người công chính của Cựu
Ước, Thư gửi tín hữu Do Thái làm
nổi bật một khía cạnh thiết yếu của
đức tin của các ngài. Thư không những chỉ trình bày đức tin như một
cuộc hành trình, mà còn như một tiến trình xây dựng, việc chuẩn bị một nơi mà
trong đó con người có thể chung sống. Người xây dựng đầu tiên là ông Noe đã cứu
gia đình ông trong tàu (Dt 11,7). Sau đó đến ông Abraham, mà người ta
nói về ông rằng bởi đức tin mà ông đã ở trong lều, trong khi chờ đợi thành có
nền tảng vững chắc (x. Dt 11,9-10). Từ đức tin phát sinh một sự đáng
tin cậy mới, một sự vững chắc mới, mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban
cho. Nếu người có đức tin nương tựa vào Thiên-Chúa-Amen, vào Thiên Chúa thành
tín (x. Is 65,16), và nhờ thế chính họ trở nên vững
chắc, thì chúng ta có thể nói thêm rằng sự chắc chắn của đức tin này cũng ám
chỉ thành mà Thiên Chúa đang chuẩn bị cho nhân loại. Đức tin cho thấy mối dây
liên kết giữa con người có thể trở nên vững chắc như thế nào khi Thiên Chúa hiện
diện giữa họ. Nó không chỉ đơn thuần là độ cứng rắn bên trong, một quyết tâm
kiên định của người tín hữu; đức tin cũng soi sáng những liên hệ giữa con người
bởi vì nó được sinh ra từ tình yêu và đi theo động năng của tình yêu của Thiên
Chúa. Thiên Chúa là Đấng đáng tin cậy ban cho con người một thành đáng tin cậy.
51. Chính
vì mối liên hệ
của nó với tình yêu (x. Gl 5,6), mà ánh sáng đức tin được dùng để phục vụ công lý, lề luật và hòa bình một cách cụ thể. Đức tin phát sinh từ một cuộc gặp gỡ với tình
yêu nguyên thủy của Thiên Chúa, trong đó ý nghĩa và sự tốt lành của cuộc đời
chúng ta trở nên rõ ràng; cuộc đời chúng ta được sáng tỏ theo mức độ mà nó đi
vào động năng được mở ra bởi tình yêu này, đến mức nó trở thành một con đường
và sự thực hành dẫn đến sự viên mãn của tình yêu. Ánh sáng đức tin có khả năng
tăng cường sự phong phú của các mối liên hệ con người, khả năng chịu đựng, khả
năng trở nên đáng tin cậy, khả năng làm phong phú đời sống cộng đồng của họ.
Đức tin không kéo chúng ta ra khỏi thế gian hoặc tỏ ra xa lạ với những quan tâm
cụ thể của con người thời đại. Nếu không có một tình yêu đáng tin cậy, không có
gì thực sự có thể làm cho con người thực lòng hợp nhất với nhau. Sự hợp nhất
của họ có thể hiểu được là chỉ dựa trên tiện ích, trên toan tính về những lợi
ích hoặc sợ hãi trái ngược nhau, nhưng không dựa trên sự tốt lành của việc cùng
nhau chung sống, cũng không dựa trên niềm vui mà sự hiện diện đơn thuần của tha
nhân có thể mang lại. Đức tin làm cho chúng ta hiểu cấu trúc của các mối liên hệ con người, vì nó biết rằng nền tảng
cuối cùng và số phận dứt khoát là ở nơi Thiên Chúa, trong tình yêu của Ngài, và
do đó làm sáng tỏ nghệ thuật xây dựng, trở thành một phục vụ cho công ích.
Phải, đức tin thực sự là sự tốt lành cho tất cả mọi người, nó là một lợi ích
chung. Ánh sáng của nó không chỉ đơn thuần soi sáng phía trong của Hội Thánh,
cũng không được xử dụng chỉ để xây một thành vĩnh cửu ở đời sau; nó cũng giúp
chúng ta xây dựng các xã hội của chúng ta, để chúng ta có thể hành trình hướng
về một tương lai đầy hy vọng. Thư gửi tín hữu Do Thái cho chúng ta một thí dụ về việc này khi,
trong số những người có đức tin, thư kể tên ông Samuel và Vua Đavid, những vị
mà đức tin cho phép “thực thi công lý” (Dt 11,33). Cách diễn tả này đề cập đến công
lý trong việc cai trị của các vị ấy, đến sự khôn ngoan mang lại hòa bình cho dân
chúng (x. 1 Sm 12,3-5; 2 Sm 8,15). Những bàn tay của đức tin giơ lên
trời, nhưng họ làm thế trong khi xây dựng một thành trong đức ái, dựa trên mối
liên hệ mà trong đó tình yêu của Thiên Chúa là nền tảng.
Đức tin và gia đình
52. Trong
cuộc hành trình của ông Abraham hướng về thành tương lai, Thư gửi tín hữu Do Thái đề cập đến các phúc
lành được truyền từ cha người sang các người con (x. Dt 11,20-21). Môi trường đầu tiên trong đó
đức tin soi sáng thành của con người là gia đình. Trước hết tôi nghĩ đến sự kết
hợp bền vững giữa người nam và ngưởi nữ trong hôn nhân. Sự kết hợp này phát sinh
từ tình yêu của họ, như một dấu chỉ và sự hiện diện của tình yêu Thiên Chúa, và
việc nhìn nhận và chấp nhận sự tốt lành của sự khác biệt giữa giới tính, nhờ đó
vợ chồng có thể trở nên một xương một thịt (x. St 2,24) và có thể sinh ra sự sống mới, một
biểu hiện của lòng nhân lành, sự khôn ngoan và kế hoạch yêu thương của Đấng Tạo
Hóa. Căn cứ vào tình yêu này, một người nam và một người nữ có thể hứa với nhau
một tình yêu hỗ tương trong một cử chỉ lên hệ đến toàn thể cuộc sống của họ và
phản ảnh nhiều bình diện của đức tin. Chúng ta có thể thề hứa một tình yêu vĩnh
viễn khi cảm nhận được một kế hoạch lớn hơn những kế hoạch của mình, một kế
hoạch nâng đỡ chúng ta và cho phép chúng ta hiến trọn tương lai cho người mình
yêu. Đức tin cũng giúp chúng ta hiểu tất cả chiều sâu và sự phong phú của việc
sinh sản con cái, như một dấu chỉ của tình yêu của Đấng Tạo Hóa là Đấng đã trao
phó cho chúng ta mầu nhiệm của một con người mới. Vì vậy, chính bà Sarah, nhờ
đức tin mà trở thành một người mẹ, vì bà tin cậy vào sự trung tín của Thiên
Chúa với lời hứa của Ngài (x. Dt 11,11).
53. Trong
gia đình, đức tin đi cùng với mọi lứa tuổi của cuộc đời, bắt đầu với tuổi ấu thơ: trẻ em học cách tin tưởng vào tình yêu
của cha mẹ. Đó là lý do tại sao điều rất quan trọng trong gia đình là cha mẹ khuyến
khích chia sẻ đức tin để có thể giúp trẻ em từ từ trưởng thành trong đức tin
của chúng. Đặc biệt là người trẻ, đang trải qua một giai đoạn trong cuộc sống
rất phức tạp, phong phú và quan trọng đối với đức tin của các em. Các em cần
phải cảm thấy sự gần gũi và nâng đỡ thường xuyên của gia đình và Hội Thánh trong
cuộc hành trình đức tin của các em. Tất cả chúng ta đều thấy, trong Ngày Giới
Trẻ Thế giới, những người trẻ bày tỏ niềm vui đức tin của các em, và sự dấn
thân của các em trong một đời sống đức tin vững chắc hơn và quảng đại hơn như
thế nào. Những người trẻ muốn một đời sống cao quý. Cuộc gặp gỡ Đức Kitô, việc
để cho mình được lôi cuốn và hướng dẫn bởi tình yêu của Người, mở rộng chân
trời cuộc đời, cung cấp cho đời sống một niềm hy vọng vững chắc là điều không
làm cho nó thất vọng. Đức tin không phải là nơi trú ẩn của những kẻ nhát đảm,
nhưng là điều thăng tiến cuộc đời chúng ta. Nó làm cho chúng ta nhận ra một lời
mời gọi cao cả, ơn gọi yêu thương. Nó đảm bảo cho chúng ta rằng tình yêu này
đáng tin cậy và đáng giá để theo đuổi, vì nó đặt nền tảng trên sự trung tín của
Thiên Chúa, mạnh mẽ hơn sự mỏng dòn của chúng ta rất nhiều.
Một ánh sáng cho đời sống xã hội
54. Được
hấp thụ và đào sâu trong gia đình, đức tin trở thành ánh sáng có khả năng soi sáng tất cả mọimối liên hệ của chúng ta trong xã hội. Như kinh nghiệm về tình phụ tử và lòng thương
xót của Thiên Chúa, nó mở rộng ra trên con đường của tình huynh đệ. Trong “thởi
hiện đại”, người ta tìm cách xây dựng tình huynh đệ phổ quát dựa trên sự bình
đẳng, nhưng chúng ta dần dần nhận ra rằng tình huynh đệ này không thể bền vững
vì không quy chiếu về một Cha chung như nền tảng tối hậu của nó. Như vậy, chúng
ta cần phải quay trở lại với cội rễ thực sự của tình huynh đệ. Lịch sử đức tin,
ngay từ ban đầu, là một lịch sử của tình huynh đệ, mặc dù không phải là không
có tranh chấp. Thiên Chúa gọi ông Abraham rời bỏ xứ sở của ông và hứa sẽ làm
cho con cháu ông thành một quốc gia vĩ đại, một dân tộc vĩ đại mà trên dân này
phúc lành của Thiên Chúa ở lại (x. St 12,1-3). Như lịch sử cứu độ tiến triển,
người ta thấy rõ ràng là Thiên Chúa muốn cho tất cả mọi người được tham gia,
như anh chị em, vào phúc lành đặc biệt này, là điều đạt đến viên mãn trong Chúa
Giêsu, ngõ hầu tất cả nên một. Tình yêu vô biên của Chúa Cha cũng được thông
truyền cho chúng ta, trong Chúa Giêsu, thậm chí qua sự hiện diện của anh chị em
chúng ta. Đức tin dạy chúng ta nhìn thấy rằng trong mỗi người có phúc lành dành
cho tôi, rằng ánh sáng của Dung Nhan Thiên Chúa chiếu rọi trên tôi qua khuôn
mặt của anh chị em tôi.
Cái
nhìn của đức tin Kitô giáo đã mang đến thành của con người không biết bao nhiêu
lợi ích cho cuộc sống chung của họ! Nhờ đức tin, chúng ta đã hiểu được giá trị độc
đáo của mỗi người, là điều mà người ta không thấy rõ trong thời cổ đại. Trong thế
kỷ thứ hai, Celsus, một người ngoại giáo, trách cứ các Kitô hữu về một ý tưởng
mà ông cho là điên rồ và ảo tưởng: nghĩ rằng Thiên Chúa đã dựng nên thế giới
cho con người, đã đặt con người ở tột đỉnh của toàn thể vũ trụ. “Tại sao lại
cho rằng [cỏ] mọc lên vì lợi ích của con người, chứ không phải vì loài dã thú
man rợ nhất trong tất cả loài vật mà không có lý do gì hết?”.[46]
“Nếu chúng ta từ trời nhìn xuống đất, chúng
ta có thực sự thấy bất kỳ sự khác biệt nào giữa các hoạt động của chúng ta và
của những con kiến hay con ong không?”.[47]
Ở trung tâm của đức tin theo Thánh Kinh là tình yêu của Thiên Chúa, là quan tâm
cụ thể của Ngài dành cho tất cả mọi người, và kế hoạch cứu độ của Ngài là kế hoạch
bao trùm toàn thể nhân loại và mọi tạo vật, là điều đạt đến tột đỉnh trong việc
Nhập Thể, Cái Chết và việc Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô. Khi thực tại này bị
che khuất, người ta không có tiêu chuẩn để phân biệt điều gì làm cho cuộc sống
con người nên quý báu và độc đáo. Con người bị mất chỗ đứng trong vũ trụ, và
lạc lõng trong thiên nhiên vì chối bỏ trách nhiệm luân lý của mình, hoặc giả bộ
làm trọng tài tuyệt đối, tự cho là mình có một quyền năng vô hạn để thao túng.
55. Mặt
khác, đức tin, qua việc tỏ cho
chúng ta thấy tình yêu của Thiên
Chúa là Đấng Tạo Hóa, làm chochúng ta tôn trọng thiên nhiên hơn nữa, và
phân biệt trong đó trong một ngữ pháp được viết bởi bàn tay của Ngài và một nơi
cư ngụ được trao cho chúng ta để bảo vệ và chăm sóc. Đức tin cũng giúp chúng ta
tìm thấy những mô hình phát triển không chỉ đơn thuần dựa trên tiện ích và lợi
nhuận, nhưng coi tạo vật như một hồng ân mà tất cả chúng ta đều phải mang ơn;
nó dạy chúng ta khám phá ra những hình thức cai trị công chính, nhìn nhận rằng
quyền hành đến từ Thiên Chúa và được dùng để phục vụ công ích. Đức tin cũng xác
nhận khả năng tha thứ, là điều thường đòi hỏi thì giờ và nỗ lực, kiên nhẫn và
dấn thân. Tha thứ là điều có thể khi người ta khám phá rằng sự tốt lành luôn
luôn có trước và mạnh hơn sự dữ, và rằng lời mà Thiên Chúa dùng để nâng đỡ cuộc
đời chúng ta thì sâu sắc hơn mọi khước từ của chúng ta. Ngoài ra, ngay từ một
quan điểm hoàn toàn nhân chủng, sự hợp nhất vẫn cao hơn sự tranh chấp; chúng ta
cũng có trách nhiệm phải đối phó với tranh chấp trong khi tìm cách giải quyết
nó, để đánh bại nó, biến nó thành một mắt xích trong một chuỗi, trong một tiến
trình hướng về sự hiệp nhất.
Khi
đức tin bị suy yếu, thì ngay cả những nền tảng của cuộc sống cũng có nguy cơ bị
thu hẹp lại, như thi sỹ T. S. Eliot cảnh báo: “Bạn có cần người ta phải bảo
bạn rằng ngay cả những thành tựu khiêm
tốn này / là những điều cho phép bạn tự hào theo kiểu xã
hội thượng lưu / sẽ
khó mà tồn tại được nếu không cóđức tin, là điều mà nhờ đó chúng trở thành quan trọng không?”.[48]
Nếu chúng ta loại bỏ đức tin vào Thiên Chúa ra khỏi các thành của chúng ta, sự tin
tưởng lẫn nhau sẽ bị suy yếu, chúng ta sẽ chỉ còn giữ được sự hợp nhất vì sợ
hãi mà thôi, và sự ổn định của chúng ta sẽ bị đe dọa. Thư gửi tín hữu Do
Tháixác quyết rằng “Thiên Chúa đã không hổ thẹn để cho các ngài
gọi mình là Thiên Chúa của các ngài, vì đã chuẩn bị một thành cho các ngài” (Dt 11,16). Ở đây, từ ngữ “không hổ thẹn” liên hệ với việc thừa nhận công khai.
Người ta muốn nói rằng Thiên Chúa thú nhận một cách công khai rằng, bằng hành
động cụ thể của Ngài, Ngài hiện diện giữa chúng ta, và Ngài muốn củng cố mọi
mối liên hệ giữa loài người. Chẵng lẽ chúng ta lại là những kẻ cảm thấy xấu hổ
khi gọi Thiên Chúa là Thiên Chúa của mình sao? Chẳng lẽ chúng ta lại là những
kẻ không dám tuyên xưng Ngài như thế trong đời sống công cộng của mình, là
những người không dám nói lên sự cao cả của cuộc sống chung mà Ngài làm cho khả
dĩ sao? Đức tin soi sáng cuộc sống trong xã hội. Nó có một ánh sáng sáng tạo
dành cho mỗi giai đoạn mới của lịch sử, bởi vì nó đặt tất cả mọi biến cố trong
sự liên hệ với nguyên thủy và cứu cánh của mọi sự trong Chúa Cha, là Đấng yêu
thương chúng ta.
Một sức mạnh an ủi trong đau khổ
56. Khi
viết cho các tín hữu Côrintô về những
gian nan và đau khổ của mình, Thánh
Phaolô liên kết đức tin của ngài với
việc rao giảng Tin Mừng. Thực ra, ngài nói rằng trong ngài lời Thánh
Kinh: “Tôi đã tin, nên tôi mới nói” (2 Cr 4,13) đã được thực hiện. Thánh Tông Đồ
nhắc đến một câu của Thánh vịnh 116, trong
đó tác giả Thánh vịnh thốt lên: “Tôi giữ đức tin của tôi, ngay cả khi tôi
nói: ‘Tôi rất khốn khổ’” (câu 10). Nói về đức tin cũng liên quan
đến việc nói về những thử thách đau đớn, nhưng thực ra, Thánh Phaolô thấy trong
chúng lời rao giảng có sức thuyết phục nhất của Tin Mừng, vì chính trong sự yếu
đuối và đau khổ mà chúng ta khám phá ra rằng quyền năng của Thiên Chúa thắng
vượt sự yếu đuối và đau khổ của chúng ta. Chính Thánh Tông Đồ thấy mình ở trong
một tình trạng bị chết, là tình trạng sẽ trở nên sự sống cho các Kitô hữu (x. 2 Cr 4,7-12). Trong giờ thử thách, đức tin soi
sáng chúng ta; trong đau khổ và yếu đuối, chúng ta thấy rõ rằng “[…] chúng tôi không rao giảng chính mình, mà rao
giảng Chúa Giêsu Kitô là Chúa” (2 Cr 4,5). Chương mười một của Thư gửi tín hữu Do Thái kết thúc bằng việc nhắc đến những người
chịu đau khổ vì đức tin (x. Dt 11,35-38); trong số đó có một chỗ đặc biệt
dành cho ông Môisen, người đã mang trên mình sự sỉ nhục của Đức Kitô (xem câu
26). Người Kitô hữu biết rằng mình không thể loại bỏ đau khổ, nhưng chúng có
thể có ý nghĩa và trở thành một hành động yêu thương, tín thác vào vào bàn tay
Thiên Chúa là Đấng không bỏ rơi chúng ta, bằng cách này, nó là một giai đoạn
tăng trưởng trong đức tin và tình yêu. Qua việc chiêm niệm sự kết hợp của Đức
Kitô với Chúa Cha, cả trong giờ phút đau khổ tột đỉnh của Người trên Thánh Giá
(x. Mc 15,34), người Kitô hữu học chia sẻ cùng
một cái nhìn của Chúa Giêsu. Vì thế ngay cả cái chết cũng được sáng tỏ và có
thể được cảm nghiệm như lời mời gọi cuối cùng với đức tin, lời mời gọi sau cùng “Hãy rời bỏ vùng đất của ngươi” (St 12,1), lời mời gọi“Hãy đến!” cuối cùng mà Đức Chúa Cha nói, mà với Ngài
chúng ta phó thác trong sự tự tin rằng Ngài cũng sẽ củng cố chúng ta ngay cả
trong bước cuối cùng của chúng ta.
57. Ánh
sáng đức tin và cũng không làm cho chúng ta quên đi những đau khổ của thế giới
này. Những người đang chịu đau khổ
đã là những trung gian của ánh sáng cho biết bao nhiêu người nam nữ có đức tin!
Với Thánh Phanxicô thành Assisi và người bị bệnh phong cùi, hoặc với Mẹ Chân
Phước Têrêsa thành Calcutta và những người nghèo của mẹ cũng thế. Các ngài đã
hiểu mầu nhiệm hoạt động trong đó. Khi đến gần những người đau khổ, các ngài chắc
chắn không thể loại bỏ tất cả các nỗi đau của họ, hoặc giải thích đuợc mọi sự
dữ. Đức tin không phải là một ánh sáng xua đuổi tất cả mọi bóng tối của chúng
ta, nhưng là một ngọn đèn hướng dẫn các bước đi của chúng ta trong đêm tối và
đủ cho cuộc hành trình. Đối với những người đau khổ, Thiên Chúa không ban cho
những lý lẽ để giải thích mọi sự, đúng hơn, nhưng Ngài ban câu trả lời của Ngài
dưới hình thức một sự hiện diện đi cùng, một lịch sử của sự tốt lành kết hợp
với mỗi câu chuyện về đau khổ để mở ra cho nó một tia sáng. Trong Đức Kitô, Thiên
Chúa muốn chia sẻ con đường này với chúng ta và ban cho chúng ta cái nhìn của
Người để chúng ta có thể nhìn thấy ánh sáng bên trong nó. Đức Kitô, khi đã chịu
đau khổ, là “Ðấng khai mở và kiên toàn
đức tin” (Dt 12,2).
Đau
khổ nhắc nhở chúng ta rằng việc phục vụ của đức tin cho công ích luôn luôn là việc
phục vụ của hy vọng, một niềm hy vọng nhìn về phía trước, trong khi biết rằng
chỉ từ Thiên Chúa, từ tương lai đến từ Chúa Giêsu Phục Sinh, xã hội chúng ta
mới có thể tìm thấy nền tảng vững chắc và lâu dài của nó. Theo nghĩa này, đức
tin liên kết với hy vọng, cho dù nơi ở của chúng ta ở dưới đất có thể bị phá
hủy, chúng ta có một nơi ở vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã chuẩn bị trong Đức Kitô,
trong thân thể của Người (x. 2
Cr 4,16 – 5,5). Như thế, động năng của đức tin, đức cậy (hy vọng) và đức mến
(bác ái) (x. 1 Ts 1,3; 1
Cr 13,13) dẫn chúng ta đến ôm ấp những quan tâm của tất cả mọi người trong cuộc
hành trình của chúng ta hướng về thành này “là thành mà
Thiên Chúa là kiến trúc sư và người xây dựng” (Dt 11,10), bởi vì “hy
vọng không làm chúng ta thất vọng” (Rm 5,5).
Trong
sự hợp nhất với đức tin và đức mến, đức cậy đẩy chúng ta về một tương lai vững chắc,
nằm trong một viễn cảnh khác với những đề nghị hão huyền của các thần tượng của
thế gian, cung cấp một động lực mới và sức mạnh cho cuộc sống hàng ngày của
chúng ta. Đừng để cho ai cướp mất niềm hy vọng của mình, hoặc để cho nó trở nên
vô ích vì những giải pháp và những đề nghị tức thời là những điều ngăn chặn
cuộc hành trình của chúng ta, là những điều bẻ thời gian ra “thành từng mảnh
vụn” và biến đổi nó thành không gian. Thời gian luôn luôn lớn hơn nhiều so với
không gian. Không gian làm cho tiến trình bị cứng lại, trong khi thời gian đẩy
tới tương lai và khuyến khích chúng ta tiến bước trong hy vọng.
Phúc cho Bà, vì đã tin (Lc 1,45)
58. Trong
dụ ngôn người gieo giống, Thánh Luca tường
thuật những lời này mà Chúa Giêsu đã dùng để giải thích ý nghĩa của “đất tốt”: “Đó là những kẻ khi nghe Lời Chúa thì nghe
Lời Chúa với một tâm hồn cao thượng và đại lượng, mà sinh hoa kết quả nhờ kiên tâm
bền chí” (Lc 8,15). Trong bối cảnh của Tin Mừng Thánh
Luca, đề cập đến một tâm hồn cao thượng và đại lượng, nói về những người nghe
và giữ lời, bao gồm một chân dung tiềm ẩn của đức tin của Đức Trinh Nữ Maria.
Chính thánh sử nói về ký ức của Đức Mẹ Maria, làm sao Mẹ giữ trong lòng mình
tất cả những gì Mẹ đã nghe và đã thấy, để từ đó có thể sinh hoa kết quả trong
đời sống của Mẹ. Mẹ của Chúa là biểu tượng hoàn hảo của đức tin, như Thánh
Elidabeth nói: “Phúc cho em vì đã tin” (Lc 1,45).
Trong
Đức Mẹ Maria, thiếu nữ Sion, lịch sử lâu dài của đức tin của Cựu Ước đã được thể
hiện, với tường thuật về đời sống của rất nhiều phụ nữ trung thành, bắt đầu với
bà Sarah, là những phụ nữ, cùng với các Tổ Phụ, là nơi mà lời hứa của Thiên Chúa
đã được hoàn thành và cuộc sống mới nở hoa. Trong thời viên mãn, Lời Chúa đã
nói cùng Mẹ Maria và Mẹ đã đón nhận với tất cả con người, trong tâm hồn Mẹ, để
Lời ấy có thể thành nhục thể trong lòng Mẹ và được sinh ra như ánh sáng cho nhân
loại. Thánh Gustinô Tử Đạo, trong cuộc đối thoại với Tryphô, sử dụng một cách
diễn tả tuyệt vời mà qua đó ngài nói rằng Đức Maria, khi chấp nhận sứ điệp của
thiên sứ, đã thụ thai “đức tin và niềm vui”.[49]
Thực ra, trong Mẹ Chúa Giêsu, đức tin thể hiện trọn vẹn hoa trái của nó, và khi
đời sống tinh thần của chúng ta sinh hoa trái làm cho chúng ta trở nên tràn đầy
niềm vui, đó là dấu chỉ rõ ràng nhất về sự cao cả của đức tin. Trong cuộc sống của
mình, Đức Mẹ hoàn thành cuộc hành hương đức tin, theo bước chân của Con Mẹ.[50]
Như vậy, trong Đức Mẹ, cuộc hành trình đức tin của Cựu Ước được tiếp tục bằng việc
đi theo Đức Kitô, để cho Người biến đổi, và đi vào trong nhãn quan của Con Thiên
Chúa Nhập Thể.
59.
Chúng ta có thể nói rằng nơi Đức Trinh Nữ Maria, chúng ta thấy thể hiện điều mà
tôi đã đề cập trước đây, nghĩa là người tín hữu được hoàn toàn thu hút vào lời tuyên
xưng đức tin của mình. Vì Đức Mẹ liên kết chặt chẽ với Chúa Giêsu, Mẹ cũng liên
kết chặt chẽ với những gì mà chúng ta tin. Trong việc thụ thai mà vẫn còn đồng
tring của Mẹ, chúng ta có một dấu chỉ rõ ràng về việc làm Con Thiên Chúa của
Đức Kitô. Nguồn gốc vĩnh cửu của Đức Kitô trong Chúa Cha. Người là Con theo một
ý nghĩa tổng thể và độc nhất, và vì vậy Người được sinh ra trong thời gian mà
không cần sự can thiệp của một người nam. Như Chúa Con, Chúa Giêsu mang đến cho
thế giới một khởi đầu mới và một ánh sáng mới, sự viên mãn của tình yêu trung
tín của Thiên Chúa, Đấng tự hiến mình cho nhân loại. Ngoài ra, tình mẫu tử thật
sự của Đức Mẹ Maria cũng đảm bảo cho Con Thiên Chúa một lịch sử nhân loại đích
thực, một xác thịt thực sự, trong đó Người sẽ chết trên Thánh Giá và sống lại
từ cõi chết. Đức Mẹ Maria sẽ đi theo Chúa Giêsu cho đến tận Thánh Giá (x. Ga 19,25), từ đó tình mẫu tử của Mẹ sẽ mở
rộng cho tất cả các môn đệ của Người (x. Ga 19,26-27). Mẹ cũng sẽ có mặt trong căn
phòng trên lầu, sau khi Chúa Giêsu Phục Sinh và Lên Trời, cùng các Tông Đồ cầu xin
ơn Chúa Thánh Thần (x. Cv 1,14). Chuyển động của tình yêu giữa Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần chạy qua lịch sử của chúng ta, và Đức Kitô lôi
kéo chúng ta về với chính Người để cứu chúng ta (x. Ga 12,32). Ở trung tâm đức tin của chúng ta
là lời tuyên xưng về Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, sinh bởi một người nữ, là Đấng
đem chúng ta đến việc làm nghĩa tử, nhờ hồng ân của Chúa Thánh Thần (x. Gl 4,4).
60.
Chúng ta hãy hướng về Đức Mẹ Maria, Mẹ Hội Thánh và Mẹ của đức tin của chúng ta
trong cầu nguyện.
Lạy
Mẹ, xin giúp đỡ đức tin của chúng con!
Xin
mở tai chúng con để lắng nghe lời Chúa và nhận ra giọng của Thiên Chúa cùng lời
mời gọi của Người.
Xin
đánh thức trong chúng con ước muốn đi theo bước chân Người, ra đi từ vùng đất của
chúng con và nhận được lời hứa của Người.
Xin
giúp chúng con để chúng con được tình yêu của Người chạm đến, và để chúng con có
thể chạm vào Người trong đức tin.
Xin
giúp chúng con phó thác hoàn toàn cho Người và tin vào tình yêu của Người, đặc biệt
là trong những lúc bị thử thách và của thập giá, khi đức tin của chúng con được
mời gọi đến trưởng thành.
Xin
gieo trong đức tin của chúng con niềm vui của Đấng Phục Sinh.
Xin
nhắc nhở chúng con rằng những người tin không bao giờ một mình.
Xin
dạy cho con nhìn tất cả mọi sự với cặp mắt của Chúa Giêsu, để Người có thể là ánh
sáng cho cuộc hành trình của chúng con. Và xin cho ánh sáng đức tin này luôn
luôn lớn lên trong chúng con, cho đến một ngày không có hoàng hôn, chính là Đức
Kitô, Con Mẹ và Chúa chúng con!
Ban
hành tại Rôma, tại Thánh Đền Phêrô,
ngày 29 tháng 6, lễ hai Thánh Tông
Đồ Phêrô và Phaolô, năm 2013, năm thứ nhất của triều đại giáo hoàng của tôi.
PHANXICÔ
Phaolô
Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ theo bản Latinh, Tiếng Anh và Tiếng Pháp của Tòa
Thánh
[1] Dialogus cum Tryphone Iudaeo, 121, 2 : PG 6, 758.
[2] Clément d’Alexandrie, Protrepticus, IX : PG 8, 195.
[3] Brief an Elisabeth Nietzsche (11 juin 1865), in : Werke in drei Bänden, München 1954, p. 953s.
[4] Paradis XXIV, 145-147.
[5] Acta Sanctorum, Iunii, I, 21.
[6] “Mặc dù Công đồng không nói rõ là bàn về đức tin, nhưng nói về đức tin trên mỗi trang, nó nhìn nhận việc sống đức tin, tính chất siêu nhiên của nó, giả định rằng nó đầy đủ và mạnh mẽ, và đặt giáo huấn của mình trên đó. Thật là đủ để nhắc lại những tuyê bố của Công đồng ... để thấy tầm quan trọng thiết yếu mà Công Đồng, theo truyền thống tín lý của Hội Thánh, được gán cho đức tin, đức tin chân chính, có nguồn trong Đức Kitô , và huấn quyền của Hội Thánh là những máng chuyển của nó “ (Phaolô VI, buổi Triều yết chung [ngày 08 tháng ba năm 1967]: Insegnamenti V [1967], 705).
[7] x. Thí dụ, Công Đồng Vaticanô I, Hiến Chế Tín Lý về Đức Tin Công Giáo Dei Filius, Ch. 3: DS 3008-3020; Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý về Mặc Khải của Thiên Chúa Dei Verbum, 5: Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, Số 153-165..
[8] x. Giáo lý V, 1: PG 33, 505A.
[9] In Psal. 32, II, s. I, 9: PL 36, 284.
[10] M. Buber, Die
Erzählungen der Chassidim,
[11] Émile, Paris, 1966, 387.
[12] Lettre à
Monseigneur de Beaumont, L’Âge
d’Homme,
[13] x. In Ioh. Evang, 45, 9:. PL 35, 1722-1723.
[14] Phần II, IV.
[15] De Continentia, 4, 11: PL 40, 356.
[16] “Vom Wesen katholischer Weltanschauung” (1923), trong
Unterscheidung des Christlichen. Gesammelte Studien 1923-1963,
[17] XI, 30, 40: PL 32, 825.
[18] x. như trên., 825-826.
[19] x. Vermischte
Bemerkungen / Văn hóa và Giá trị,
ed. G.H. von Wright,
[20] Homiliae in Evangelia, II, 27, 4: PL 76, 1207.
[21] x. Expositio sur Cantica Canticorum, XVIII, 88: CCL, Continuatio Mediaevalis 87, 67.
[22] Như trên, XIX, 90:. CCL, Continuatio Mediaevalis 87, 69.
[23] “Sự vâng phục của đức tin (Rm 16,26; so với Rm 1,5; 2Cr 10,5-6) phải là sự đáp trả của chúng ta với Thiên Chúa là Đấng mạc khải. Nhờ đức tin mà một người tự nguyện dâng hiến toàn tâm trí và ý chí cho Thiên Chúa là Đấng mạc khải, và sẵn sàng chấp nhận sự mặc khải mà Thiên Chúa ban. Để có đức tin này, chúng ta cần ân sủng của Thiên Chúa tiền liệu và giúp đỡ, cũng như sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần, Đấng chạm đến tâm hồn và hoán cải nó đễ trở về với Thiên Chúa, cùng mở đôi mắt của tâm trí và làm cho ‘mọi người dễ dàng đón nhận và tin vào chân lý’. Cùng một Chúa Thánh Thần liên tục hoàn thiện đức tin bằng những hồng ân của Ngài, ngõ hầu mặc khải càng ngày càng được hiểu biết sâu xa hơn” (Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý về Mặc Khải của Thiên Chúa, Dei Verbum, 5).
[24] X. H. Schlier, Meditationen
über den Johanneischen Begriff der Wahrheit, in: Besinnung auf das Neue
Testament. Exegetische Aufsätze und Vorträge 2, Freiburg,
[25] X. S. Th. III, q. 55, a. 2, ad 1.
[26] Sermo 229/L, 2 : PLS 2, 576 : “Tangere autem corde, hoc est credere”.
[27] x. Thông Điệp Fides et Ratio (14 tháng 9 năm 1998), 73: AAS (1999), 61-62.
[28] X. Confessiones, VIII, 12, 29: PL 32, 762.
[29] De Trinitate, XV, 11, 20: PL 42, 1071: “verbum quod intus lucet”.
[30] X. De Civitate Dei, XXII, 30, 5: PL 41, 804.
[31] x. Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Tuyên ngôn Dominus Iesus (6 tháng 8 năm 2000), 15: AAS 92 (2000), 756.
[32] Demonstratio Apostolicae Predicationis, 24: SC 406, 117.
[33] x. S. Bonaventura, Breviloquium, Prol.: Opera omnia, V, Quaracchi 1891, 201; In I Sent., prooem., q. 1, resp.: Opera Omnia, I, Quaracchi 1891, 7; S. Thomas Aquinas, S. Th. I, q. 1.
[34] x. De Baptismo, 20, 5: CCL 1, 295.
[35] Hiến Chế Tín Lý về Mạc Khải Thiên Chúa Dei Verbum, 8.
[36] x. Công Đồng Vaticanô II, Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh Sacrosanctum Concilium, 59.
[37] x. Epistula Barnabae, 11, 5: SC 172, 162.
[38] x. De nuptiis et concupiscentia, I, 4, 5: PL 44, 413: “Habent quippe intentionem generandi regenerandos, ut qui ex eis saeculi filii nascuntur in Dei filios renascantur”.
[39] Công Đồng Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý về Mạc Khải Thiên Chúa Dei Verbum, 8.
[40] In Nativitate Domini Sermo, 4, 6: SC 22, 110.
[41] x. Irenaeus, Adversus Haereses, I, 10, 2: SC 264, 160.
[42] x. như trên, II, 27, 1: SC 294, 264.
[43] x. Augustine, De Sancta Virginitate, 48, 48: PL 40, 424-425: “Servatur et in fide inviolata quaedam castitas virginalis, qua Ecclesia uni viro virgo casta cooptatur”.
[44] x. An
Essay on the Development of Christian Doctrine [Một Tiểu Luận về sự Phát Triển của Học Thuyết Kitô Giáo] (Uniform Edition: Longmans, Green and
Company,
[45] x. Công Đồng Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý về Mạc Khải Thiên Chúa Dei Verbum, 10.
[46] Origen, Contra Celsum, IV, 75: SC 136, 372.
[47] Như trên, 85:. SC 136, 394.
[48] “Choruses from The Rock” in: The Collected Poems and Plays 1909-1950,
[49] x. Dialogus cum Tryphone Iudaeo, 100, 5: PG 6, 710.
[50] x. Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý về Hội Thánh Lumen Gentium, 58.