Chương hai

tẤt cẢ là nhỮng cành nho

cỦa mỘt cây nho duy nhẤt

Sự tham gia của giáo dân

vào đời sống Giáo Hội – Hiệp Thông

Mầu nhiệm Giáo Hội – Hiệp Thông

1.             Chúng ta hãy nghe lại câu nói của Đức Giêsu : "Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. ... Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em" (Ga 15,1-4).

        Những lời nói đơn giản này mạc khải cho chúng ta sự hiệp thông mầu nhiệm nối kết Chúa với các môn đệ của Người, nối kết Đức Kitô với những người đã lãnh nhận bí tích thánh tẩy trong một sự hiệp nhất hoàn hảo : một sự hiệp thông sống động và đem lại sức sống, nhờ đó các tín hữu không còn thuộc về mình, nhưng thuộc về Đức Kitô, như cành nho kết hợp với cây nho.

        Sự hiệp thông giữa Chúa Con với Chúa Cha trong ân huệ của Chúa Thánh Thần chính là kiểu mẫu, nguồn mạch và cùng đích của sự hiệp thông giữa các kitô-hữu với Đức Giêsu : nhờ được kết hiệp với Chúa Con trong sợi dây tình yêu của Chúa Thánh Thần, các kitô-hữu được kết hiệp với Chúa Cha.

        Đức Giêsu nói tiếp : “Thầy là cây nho, anh em là cành(Ga 15,5). Sự hiệp thông giữa các kitô-hữu với Đức Kitô làm phát sinh sự hiệp thông giữa các kitô-hữu với nhau ; tất cả đều là cành của một Cây Nho duy nhất là Đức Kitô. trong sự hiệp thông huynh đệ này, Chúa Giêsu cho thấy sự phản ánh kỳ diệu và sự tham dự cách mầu nhiệm vào đời sống tình yêu thâm sâu của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu cầu nguyện cho sự hiệp thông này : "Xin cho tất cả nên một, lạy Cha, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con" (Ga 17,21).

        Sự hiệp thông này là chính mầu nhiệm Giáo Hội, như Công Đồng Vatican II nhắc lại, qua từ ngữ nổi tiếng của thánh Cyprianô : “Giáo Hội phổ quát xuất hiện như một dân tộc được hiệp nhất nhờ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần”[1]. Mầu nhiệm Giáo Hội – Hiệp Thông được nhắc lại cho chúng ta trong phần mở đầu thánh lễ, khi vị linh mục đón tiếp cộng đoàn bằng lời chào của thánh Phaolô : “Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu-Kitô Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em” (2 Cr 13,13).

        Sau khi đã phác họa “khuôn mặt của người giáo dân qua việc terình bày phẩm giá của họ, giờ đây chúng ta cần suy tư về sứ mạng và trách nhiệm của họ trong Giáo Hội và trong thế giới : thế nhưng, suy tư ấy chỉ có giá trị khi được đặt trong bối cảnh sống động của Giáo Hội – Hiệp Thông.

Công Đồng và Giáo-hội-học hiệp thông

2.             Trên đây là ý tưởng trọng tâm đã được Giáo Hội trình bày lại trong Công Đồng Vatican II, để xác định chính mình ; Thượng-hội-đồng bất thường năm 1985, tức 20 năm sau Công Đồng, cũng nhắc lại : “Giáo-hội-học hiệp thông là ý tưởng trọng tâm và nền tảng trong các văn kiện của Công Đồng. Từ ngữ koinonia – sự hiệp thông –, có nền tảng Thánh Kinh, đã được trân trọng trong Giáo Hội thời đầu, và trong các Giáo Hội Đông phương cho đến ngày nay. chính vì thế, Công Đồng Vatican II đã tận lực làm việc để Giáo Hội được quan niệm một cách rõ ràng hơn như là một sự hiệp thông, và để khái niệm này được diễn tả cách cụ thể trong đời sống. Vậy “hiệp thông”, từ ngữ phức tạp này có nghĩa là gì ? Tự căn bản, đó là sự hiệp thông với Thiên Chúa, qua trung gian Đức Giêsu-Kitô, trong Chúa Thánh Thần. Con người đạt được sự hiệp thông này nhờ Lời Chúa và các bí tích. Bí tích Thánh Tẩy là cửa ngõ và là nền tảng của sự hiệp thông trong Giáo Hội. Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và là cao điểm của tòan bộ đời sống Kitô-giáo (x. GH 11). Sự hiệp thông với Thánh Thể Đức Kitô vừa biểu thị vừa làm phát sinh – nói khác đi là xây dựng – sự hiệp thông sâu xa của tất cả mọi tín hữu trong Thân Thể Đức Kitô là Giáo Hội (x. 1 Cr 19,16)[2].

        Sau khi bế mạc Công Đồng, Đức Phaolô VI ngỏ lời với các tín hữu như sau : “Giáo Hội là một sự hiệp thông. Từ ngữ hiệp thông ở đây có nghĩa là gì ? Tôi muốn nhắc lại với anh chị em đọan giáo lý nói về sự hiệp thông các Thánh. Giáo Hội có nghĩa là hiệp thông các Thánh. Và hiệp thông các Thánh biểu thị hai cách tham dự vào sự sống : tháp nhập các kitô-hữu vào đời sống của Đức Kitô, và lưu chuyển cùng một đức ái trong tòan thể cộng đồng tín hữu thuộc thế giới này cũng như thế giới bên kia. Hiệp nhất với Đức Kitô và trong Đức Kitô ; và hiệp nhất giữa các kitô-hữu trong Giáo Hội”[3].

        Các hình ảnh Thánh Kinh, được Công Đồng sử dụng nhằm giúp chúng ta chiêm ngắm mầu nhiệm Giáo Hội, đã làm nổi bật thực tại Giáo Hội – Hiệp Thông trong chiều kích không phân chia của Giáo Hội là hiệp thông của các kitô-hữu với Đức Kitô và hiệp thông giữa các kitô-hữu với nhau. Các hình ảnh đó là chuồng chiên, đàn chiên, cây nho, tòa nhà thiêng liêng, thành thánh.[4] Đặc biệt, nhiều đọan văn Công Đồng lấy hứng từ giáo lý luôn sống động và hấp dẫn của hình ảnh thân thể, đã được thánh Phaolô trình bày.[5] Dựa vào tòan bộ lịch sử cứu độ, Công Đồng cũng trình bày Giáo Hội như là Dân Thiên Chúa : “Thánh ý Thiên Chúa muốn lòai người được thánh hóa và cứu độ không phải cách riêng rẽ, thiếu sự liên kết ; ngược lại, Ngài muốn quy tụ họ lại thành một dân tộc để họ nhận biết Ngài trong chân lý và phụng sự Ngài trong thánh thiện”[6]. Ngay từ những dòng đầu tiên, Hiến chế Ánh sáng muôn dân đã tóm tắt giáo lý này một cách tuyệt vời : “Giáo Hội ở trong Chúa Kitô như bí tích hoặc dấu chỉ và khí cụ của sự kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa, và của sự hiệp nhất tòan thể nhân loại”[7].

        Từ đây, thực tại Giáo Hội – Hiệp Thông là thành phần toàn vẹn, hay nói đúng hơn, thực tại ấy diễn tả nội dung trọng tâm của “mầu nhiệm”, tức là của chương trình Thiên Chúa cứu độ nhân loại. Chính vì thế, sự hiệp thông Giáo Hội không được thể hiện cách trọn vẹn nếu người ta chỉ nhìn nhận sự hiệp thông này như một thực tại thuần túy xã hội học và tâm lý học. Giáo Hội – Hiệp Thông là dân “mới”, dân “thiên sai”, dân “có vị thủ lãnh là Đức Kitô ... Địa vị dân này là được vinh dự và tự do làm con cái Thiên Chúa ... Luật của họ là giới răn mới : phải yêu thương nhay như chính Chúa Kitô đã yêu thương chúng ta ... Sau cùng, vận mệnh của họ là Nước Thiên Chúa ... và dân tộc ấy được Chúa Kitô thiết lập để thông dự vào sự sống, bác ái và chân lý”[8]. Mối dây liên kết các thành phần trong Dân mới với nhau – trước tiên là với Đức Kitô – không phải là liên hệ theo “xác thịt” và “máu huyết”, nhưng là liên hệ theo tinh thần, đúng hơn là trong Chúa Thánh Thần, Đấng mà mọi người đã được rửa tội đều lãnh nhận (x. Ge 3,1).

        Thực vậy, từ thuở đời đời, Thánh Thần này là mối dây liên kết giữa Ba Ngôi duy nhất và bất khả phân chia, và là Đấng “khi thời gian tới hồi viên mãn” (Gl 4,4) đã liên kết bền chặt xác phàm với Con Thiên Chúa ; qua mọi thế hệ Kitô-giáo, cũng một Thánh Thần này là nguồn mạch liên tục và dồi dào của sự hiệp thông trong Giáo Hội và của Giáo Hội.

Một sự hiệp thông hữu cơ :

khác biệt và bổ túc       

3.             Nói chính xác hơn, sự hiệp thông Giáo Hội là một sự hiệp thông “hữu cơ”, tương tự như sự hiệp thông của một thân thể sống và hoạt động : thực vậy, sự hiệp thông này có đặc tính là cùng một lúc có sự khác biệtsự bổ túc giữa các ơn gọi và các hoàn cảnh sống, các tác vụ, các đặc sủng và trách nhiệm . nhờ sự khác biệt và bổ túc này, mỗi giáo dân có tương quan với toàn thân thể và, đóng góp phần riêng của mình vào thân thể đó.

        Tông Đồ Phaolô đã nhấn mạnh một cách rất đặc biệt sự hiệp thông hữu cơ của Huyền Thể Đức Kitô ; ở đây, một lần nữa, chúng ta cùng đọc lại giáo huấn rất phong phú của ngài, đã được Công Đồng tổng hợp trong Hiến chế Ánh sáng muôn dân như sau : Đức Giêsu-Kitô “đã tạo lập cách mầu nhiệm các em Người, tụ họp từ muôn nước, thành Thân Thể Người, bằng cách thông truyền Thánh Thần cho họ. Trong Thân Thể ấy, sự sống Chúa Kitô tràn lan trên các tín hữu ... Tất cả các chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ tạo thành một thân thể ; cũng thế, các tín hữu hợp thành một thân thể trong Chúa Kitô (x. 1 Cr 12,12). Trong việc xây dựng Thân Thể Chúa Kitô, cần có nhiều chi thể với phận vụ khác nhau. Chỉ có một Chúa Thánh Thần ban những ân huệ khác nhau để làm ích cho Giáo Hội theo sự sung mãn của Ngài và tùy nhu cầu của công việc (x. 1 Cr 12,1-11). Trong các ân huệ ấy, ơn ban cho các Tông Đồ đứng hàng đầu : chính Chúa Thánh Thần đặt dưới quyền các ngài những người lãnh nhận những đặc sủng (x. 1 Cr 14). Cũng chính Thánh Thần tự mình là nguyên lý hợp nhất trong thân thể, nơi thể hiện thần lực Ngài và là nơi Ngài liên kết tinh thần các chi thể lại với nhau, Thánh Thần ấy làm phát sinh và thúc bách đức ái giữa các tín hữu. Vì thế, nếu một chi thể nào đau đớn thì tất cả các chi thể khác đều bị đau đớn ; và nếu một chi thể nào được vinh dự, thì các chi thể khác cùng chung vui (x. 1 Cr 12,26)[9].

        Luôn luôn chính cũng một Thánh Thần duy nhất là nguyên lý năng động của sự khác biệt và hiệp nhất trong Giáo Hội và của Giáo Hội. Chúng ta cùng đọc lại Hiến chế Ánh sáng muôn dân : “Để chúng ta không ngừng canh tân trong Người (=Đức Kitô) (x. Ep 4,23), Người đã cho ta thông dự vào Thánh Thần Người, cũng một Đấng duy nhất hiện hữu trên đầu cũng như trong các chi thể, làm sống động, liên kết và thúc giục toàn thân, khiến các thánh Giáo Phụ đã ví nhiệm vụ của Chúa Thánh Thần với nguyên lý sự sống”[10]. Trong một đoạn văn khác, rất xúc tích và quý giá để hiểu được tính chất hữu cơ của sự hiệp thông Giáo Hội, ngay cả theo khía cạnh không ngừng tăng trưởng hướng tới sự hiệp thông trọn vẹn, Công Đồng viết : “Chúa Thánh Thần ngự trị trong Giáo Hội và trong tâm hồn các tín hữu như ngự giữa đền thờ (x. 1 Cr 3,16 ; 6,19), trong họ, Ngài cầu nguyện và chứng nhận họ là dưỡng tữ của Thiên Chúa (x. Gl 4,6 ; Rn 8,15-16.16). Ngài dẫn đưa Giáo Hội vào trong chân lý toàn vẹn (x. Ga 16,13) và bảo đảm cho Giáo Hội được hiệp nhất trong hiệp thông và phục vụ. Ngài huấn luyện và dẫn dắt Giáo Hội bằng muôn ơn theo phẩm chức và đoàn sủng, trang điểm Giáo Hội bằng hoa quả của Ngài (x. Ep 4,11-12 ; 1 Cr 12,4 : Gl 5,22). Nhờ sức mạnh Phúc Âm, Ngài làm tươi trẻ, không ngừng canh tân và dẫn đưa Giáo Hội đến kết hiệp hoàn toàn với Phu Quân mình. Thực vậy, Chúa Thánh Thần và Hiền Thê nói cùng Chúa Giêsu : Xin hãy đến ! (x. Kh 22,17)[11].

        Như thế, sự hiệp thông Giáo Hội là một ân huệ, một ân huệ lớn lao do Chúa Thánh Thần ban tặng ; các tín hữu được mời gọi lãnh nhận hồng ân đó với lòng tri ân, đồng thời sống hồng ân đó với đầy tinh thần trách nhiệm. Điều đó được thực hiện cụ thể qua việc họ tham dự đời sống và sứ vụ của Giáo Hội ; giáo dân dùng các tác vụ và các đòan sủng khác nhau và bổ túc của họ để phục vụ Giáo Hội.

        Người giáo dân “không có quyền tự khép kín, sống đời sống thiêng liêng đơn độc ngoài cộng đồng, trái lại họ phải sống một tinh thần không ngừng chia sẻ với người khác, với ý thức mãnh liệt về tình huynh đệ, trong niềm vui vì có cùng một phẩm giá như nhau và trong nỗ lực cộng tác với người khác để phát huy kho tàng vô tận đã thừa hưởng. Thần Khí Chúa ban cho giáo dân, cũng như các người khác, nhiều đặc sủng, Ngài kêu gọi họ tham gia nhiều tác vụ và trách vụ khác nhau. Thánh Thần nhắc nhở họ, cũng như nhắc nhở các thành phần khác có tương quan với họ, rằng nét đặc thù của giáo dân không phải là một sự bổ túc về phẩm giá, nhưng là được ban một năng cách đặc biệt và bổ túc để phục vụ ...  Vì vậy, các đoàn sủng, các tác vụ, trách vụ và dịch vụ của giáo dân được thể hiện trong sự hiệp thông. Đó là những ơn phong phú được ban thêm vì lợi ích của tất cả mọi người, dưới sự hướng dẫn khôn ngoan của các Chủ Chăn”[12].

Các tác vụ và đoàn sủng :

những ân huệ do Thánh Thần ban cho Giáo Hội

4.             Công Đồng Vatican II trình bày các tác vụ và đoàn sủng như là những ân huệ của Chúa Thánh Thần để xây dựng Thân Thể Đức Kitô và vì sứ vụ để cứu độ thế giới.[13] Thật vậy, Giáo Hội được điều khiển và hướng dẫn nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng ban phát các ân huệ khác nhau, thuộc phẩm trật và đoàn sủng, cho tất cả những người đã được rửa tội, bằng cách mời gọi họ, mỗi người theo cách thế của mình, hành động và đồng trách nhiệm.

        Giờ đây, chúng ta hãy nhìn đến các tác vụ và đòan sủng, xem xét những liên hệ của chúng với giáo dân và sự tham dự của họ vào đời sống Giáo Hội – Hiệp Thông.

        Các tác vụ, chức vụ và nhiệm vụ

        Mặc dầu có nhiều dạng thức khác nhau, nhưng tất cả các tác vụ hiện có và họat động trong Giáo Hội, đều là một sự tham dự vào tác vụ của Đức Giêsu-Kitô, người Mục Tử nhân lành hiến mạng sống mình cho đoàn chiên (x. Ga 10,11), người tôi tớ khiêm tốn và hoàn toàn hy sinh để cứu độ mọi người (x. Mc 10,45). Thánh Phaolô nói rất rõ về sự thiết lập tác vụ trong các Giáo Hội thời Tông Đồ. Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Corintô, ngài viết : “Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các tông đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy...” (1 Cr 12,28). Và trong thư gửi tín hữu Ephêsô, chúng ta đọc thấy : “Mỗi người chúng ta nhận được ân sủng tùy theo mức độ Đức Kitô ban cho ... Và chính Người đã cho kẻ này làm tông đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ. Nhờ đó, dân thánh được chuẩn bị để làm công việc phục vụ, là xây dựng Thân Thể Đức Kitô, cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô” (Ep 4,7.11-13 ; x. Rm 12,4-8). Từ các đoạn văn này và các đoạn khác trong Tân Ước, ta thấy các tác vụ cũng như các ân huệ và các trách vụ thuộc giáo hội thì rất nhiều và khác nhau.

Các tác vụ do bí tích Truyền Chức

5.             Trong Giáo Hội, chúng ta thấy đứng hàng đầu là các tác vụ được tấn phong, tức là các tác vụ phát xuất từ bí tích Truyền Chức Thánh. Thật vậy, Chúa Giêsu-Kitô đã tuyển chọn và thiết lập các Tông Đồ – là “Mầm mống của Israel Mới, đồng thời cũng là nguồn gốc của hàng giáo phẩm”[14] – truyền cho các ông làm cho các dân tộc nên môn đệ của Ngài (x. Mt 28,19), xây dựng và điều khiển dân tư tế. Sứ vụ của các Tông Đồ, mà Chúa Giêsu vẫn tiếp tục trao phó cho các vị mục tử của dân Ngài, là một công việc phục vụ thực sự, đã được Kinh Thánh diễn tả bằng một từ ngữ đầy ý nghĩa : “diakonia”, có nghĩa là phục vụ, tác vụ. Qua bí tích Truyền Chức Thánh, các thừa tác viên lãnh nhận từ Đức Kitô phục sinh ơn đòan sủng của Chúa Thánh Thần, trong sự tiếp nối liên tục với các Tông Đồ : như thế, họ lãnh nhận quyền bính và quyền thánh chức mà hành động “thay mặt Đức Kitô là Đầu” (in persona Christi Capitis)[15], để phục vụ Giáo Hội, và nhờ Phúc Âm và các bí tích mà quy tụ Giáo Hội trong Chúa Thánh Thần.

        Các tác vụ được tấn phong là một ân sủng lớn lao cho đời sống và sứ mệnh của toàn thể Giáo Hội, trước khi là ân sủng cho riêng người được tấn phong. Các tác vụ ấy thực hiện và bày tỏ sự tham dự vào chức Linh Mục của Đức Kitô, và tự bản tính chứ không phải trong mức độ, sự tham dự đó khác với sự tham dự do bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức được ban cho tất cả mọi tín hữu. Đàng khác, như Công Đồng Vatican II nhắc nhở, cùng đích chính yếu của chức tư tế thừa tác là chức tư tế vương giả của mọi tín hữu và hướng về chức tư tế này.[16]

        Vì thế, để bảo đảm và phát triển sự hiệp thông trong Giáo Hội, đặc biệt những gì liên quan đến các tác vụ khác nhau và bổ túc cho nhau, các vị chủ chăn phải xác tín hết sức vững chắc rằng tác vụ của các ngài hướng về việc phục vụ dân Thiên Chúa (x. Dt 5,1), và về phần mình, giáo dân phải hiểu rằng chức tư tế thừa tác hoàn toàn cần thiết cho đời sống của họ trong Giáo Hội và cho sự tham dự của họ vào sứ vụ của Giáo Hội.[17]

Các tác vụ, chức vụ và nhiệm vụ của giáo dân

6.             Sứ vụ cứu độ của Giáo Hội trong thế giới được thực hiện không những nhờ các thừa tác viên đã lãnh bí tích Truyền Chức Thánh, nhưng còn nhờ tất cả mọi giáo dân : thực vậy, nhờ đã được chịu phép thánh tẩy và nhờ ơn gọi chuyên biệt của mình, các giáo dân, mỗi người theo mức độ của mình, tham dự vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Đức Kitô.

        Vì thế, các vị chủ chăn có bổn phận phải nhìn nhận và cổ võ các tác vụ, chức vụ và nhiệm vụ của giáo dân, những chức vụ và nhiệm vụ này đặt nền tảng trên bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức, hơn nữa, đối với phần đông trong số họ, còn thêm bí tích Hôn Phối.

        Ngòai ra, khi nhu cầu và lợi ích của Giáo Hội đòi hỏi, các vị chủ chăn có thể, chiếu theo quy tắc của luật chung, mà trao phó cho giáo dân một số chức vụ và nhiệm vụ, dù vẫn gắn liền với tác vụ riêng của vị chủ chăn, nhưng không buộc có ấn tích của bí tích Truyền Chức Thánh. Giáo luật quy định : “Nơi nào nhu cầu Giáo Hội đòi hỏi, và thiếu thừa tác viên thánh, thì các giáo dân, dù không cóc tác vụ đọc sách và giúp lễ, cũng có thể thay thế họ làm một số công việc : tỉ như thi hành tác vụ Lời Chúa, chủ tọa buổi cầu nguyện, ban phép Thánh Tẩy, cho rước lễ, theo các quy tắc luật định”[18]. Tuy nhiên, việc thi hành một nhiệm vụ như thế không biến giáo dân thành một chủ chăn : thực ra, yếu tố cấu tạo tác vụ không phải do chính hoạt động nhưng là sự truyền chức thánh bí tích. Chỉ có bí tích Truyền Chức Thánh mới ban cho thừa tác viên được thụ phong được quyền tham dự đặc biệt vào chức vụ của Đức Kitô Thủ Lãnh và Mục Tử, cũng như vào chức tư tế vĩnh cửu của Ngài.[19] Nhiệm vụ được thi hành với tư cách thay thế có được sự hợp pháp cách chính danh và trực tiếp khi được vị chủ chăn ủy nhiệm chính thức và, khi thi hành nhiệm vụ này cách cụ thể, người thay thế phải tuân theo sự điều khiển của quyền bính Giáo Hội.[20]

        Thượng-hội-đồng vừa qua đã trình bày một toàn cảnh rộng lới và đầy ý nghĩa về tình hình Giáo Hội liên quan đến các tác vụ, chức vụ và nhiệm vụ của những người đã được thánh tẩy. Các Nghị Phụ đã nồng nhiệt biểu lộ lòng quý mến vì sự cộng tác quan trọng trong việc tông đồ của người giáo dân, nam cũng như nữ, trong đời sống Giáo Hội bằng các đoàn sủng và mọi họat động của họ để phục vụ chío việc Phúc-âm-hóa, và đem tinh thần Kitô-giáo vào các thực tại trần thế. Đồng thời, các ngài cũng đánh giá cao sự tận tụy thường xuyên của họ trong các cộng đồng giáo hội và sự quảng đại của họ sẵn sàng thay thế trong những trường hợp nghiêm trọng hay nhu cầu kéo dài.[21]

        Tiếp theo sau cuộc canh tân phụng vụ do Công Đồng cổ võ, chính giáo dân, vì đã ý thức rõ ràng hơn về các công việc thuộc về họ trong cộng đoàn phụng vụ hoặc trong việc chuẩn bị cộng đoàn này, nên , nên rất sẵn sàng cho cử hành của họ : quả thực, cử hành phụng vụ là một hành động thánh của toàn thể cộng đoàn, chứ không của riêng hàng giáo sĩ mà thôi. Vì thế, hoàn toàn hợp lý khi những họat động không thuộc riêng các thừa tác viên có chức thánh lại được các giáo dân thi hành.[22] Một khi có được sự tham dự hữu hiệu của giáo dân vào trong họat động phụng vụ, thì đương nhiên ta cũng chấp nhận sự tham gia của họ vào việc loan báo Lời Chúa và công tác mục vụ.[23]

        Tuy thế, cũng trong Thượng-hội-đồng vừa qua, bên cạnh những nhận định tích cực, cũng không thiếu những phê phán. Các phê phán này đề cập đến việc sử dụng không phân biệt từ ngữ “tác vụ”, sự lẫn lột và đôi khi san bằng giữa chức tư tế cộng đồng và cức tưthế, việc áp dụng không đúng đắn một số quy tắc và luật lệ của Giáo Hội, giải thích tùy tiện theo quan niệm “thay thế”, khuynh hướng “giáo sĩ hóa” giáo dân và nguy cơ tạo nên trong thực tế một cơ cấu phục vụ trong Giáo Hội song song với cơ cấu đặt nền tảng trên bí tích Truyền Chức Thánh.

        Hẳn nhiên, để tránh những nguy cơ ấy, các Nghị Phụ đã nhấn mạnh đến nhu cầu phải minh định, bằng thuật ngữ chính xác hơn,[24] sự duy nhất về sứ vụ của Giáo Hội, mà mọi người đã được thánh tẩy đều tham dự, và sự khác biệt chính yếu về tác vụ của các chỉ chăn, đặt nền tảng trên bí tích Truyền Chức Thánh, so với các tác vụ, chức vụ và nhiệm vụ khác trong Giáo Hội, đặt nền tảng trên bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức.

        Vì thế, khi nhìn nhận và trao phó cho giáo dân các tác vụ, chức vụ và nhiệm vụ, trước hết, các vị chủ chăn cần đặc biệt lưu ý dạy cho họ hiểu rằng các công việc ấy bắt nguồn từ bí tích thánh tẩy. Sau nữa các ngài cũng phải đề phòng đừng dễ dãi và lạm dụng nại tới “những tình huống” được phỏng đóan là “khẩn cấp” hay “sự thay thế cần thiết”, khi khách quan không có hoặc khi có thể tránh được bằng cách sắp xếp chương trình mục vụ hợp lý hơn.

        Các chức vụ và nhiệm vụ khác nhau mà người giáo dân có thể thi hành cách hợp pháp trong phụng vụ, trong việc chuyển đạt đức tin và trong những cơ cấu mục vụ của Giáo Hội, phải được thi hành phù hợp với ơn gọi giáo dân đặc biệt của họ, khác với ơn gọi của các thừa tác viên có chức thánh. Theo nghĩa này, tông huấn Loan báo Tin Mừng (Evangelii nuntiandi) đã mang lại những hệ quả rất lớn lao và tốt đẹp để gợi lên việc cộng tác đa dạng của giáo dân vào đời sống và sứ vụ  Tin Mừng của Giáo Hội. Tông huấn nhắc nhở rằng : “Cánh đồng dành cho họat động truyền giáo của giáo dân là cả một thế giới bao la và phức tạp của chính trị, xã hội, kinh tế, và của cả văn hóa, khoa học, nghệ thuật, đời sống quốc tế, những phương tiện truyền thông xã hội, cũng như một số thực tại khác đang đặc biệt chờ được Phúc-âm-hóa như tình yêu, gia đình, giáo dục thiếu nhi và thanh niên, nghề nghiệp, đau khổ. càng có nhiều giáo dân được thấm nhuần tinh thần Tin Mừng, có trách nhiệm về những thực tại này và minh nhiên dấn thân vào đó, có khả năng phát huy chúng và ý thức mình có bổn phận phát huy tất cả khả năng Kitô-giáo của mình cho tới lúc đó thường bị chôn vùi và bóp nghẹt, thì những thực tại này càng góp phần xây dựng Nước Thiên Chúa và Sự Cứu Rỗi trong Đức Kitô, mà không đánh mất hay hy sinh giá trị nhân loại của chúng, nhưng trái lại còn biểu lộ một chiều kích siêu việt thường ít được biết đến”[25].

        Trong thời gian Thượng-hội-đồng làm việc, các Nghị Phụ đã nghiên cứu rất kỹ về tác vụ Đọc Sách và Giúp Lễ. Xưa kia, trong Giáo Hội latinh, các tác vụ này chỉ là những giai đọan chuẩn bị tinh thần trên con đường tiến đến các chức thánh ; Tự Sắc “Một số tác vụ” (Ministeria quaedam) của Đức Phaolô VI (ngày 15/8/1972) đã xác định một mức độ tự trị và vững bền nào đó cho các tác vụ này và chúng có thể được trao ban cho giáo dân, nhưng chỉ cho nam giới mà thôi. Bản Giáo Luật mới cũng theo chiều hướng này.[26] Các Nghị Phụ cũng mong muốn duyệt lại “Tự Sắc” Ministeria quaedam, lưu ý đến tập tục các Giáo Hội địa phương và nhất là cần nêu ra những tiêu chuẩn quy định cách thức tuyển chọn những ứng viên cho mỗi tác vụ”[27].

        Vì vậy, một Ủy Ban đặc biệt được thành lập không những để đáp lại mong muốn rõ ràng của các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng, nhưng còn và nhất là để nghiên cứu cách sâu xa những vấn đề khác nhau về thần học, phục vụ, pháp lý và mục vụ được đặt ra do hiện nay có nhiều tác vụ được trao phó cho giáo dân.

        Trong khi chờ đợi Ủy Ban đưa ra kết luận, để việc thi hành trong Giáo Hội các tác vụ trao phó cho giáo dân được trật tự và mang lại hiệu quả, thì tất cả mọi Giáo Hội địa phương phải trung thành tôn trọng các nguyên tắc thần học được nhắc tới trên đây, đặc biệt là sự khác biệt chủ yếu giữa chức tư tế thừa tác và chức tư tế cộng đồng, và do đó, sự khác biệt giữa các tác vụ do bí tích Truyền Chức Thánh và các tác vụ do bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức.

Các đoàn sủng

7.             Khi trao phó cho Giáo Hội – Hiệp Thông những tác vụ khác nhau, Chúa Thánh Thần làm cho Giáo Hội thêm phong phú nhờ những ân huệ và những thôi thúc đặc biệt khác nữa, được gọi là các đoàn sủng. Các đoàn sủng có thể mặcc những hình thức rất khác nhau, hoặc như một cách cho thấy Thánh Thần là Đấng tự do tuyệt đối trong việc ban phát các đoàn sủng, hoặc như một cách đáp lại muôn vàn đòi hỏi trong lịch sử Giáo Hội. Bản mô tả và xếp loại các ân huệ này trong Tân Ước là một dấu chỉ về tính đa dạng của đặc sủng : "Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri ; kẻ thì được ơn phân định thần khí ; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ" (1 Cr 12,7-10 ; x. 1 Cr 12,4-6. 28-31 ; Rm 12,6-8 ; 1 Pr 4,10-11).

        Dù đặc biệt hay bình thường và khiêm tốn, các đoàn đều là những ân sủng của Thánh Thần, trực tiếp hay gián tiếp đem lại một lợi ích cho Giáo Hội, hướng về việc xây dựng Giáo Hội, thiện ích của con người và nhu cầu của thế giới.

        Cả trong thời đại này, chúng ta có thể thấy các đoàn sủng khác nhau triển nở nơi giáo dân, nam cũng như nữ. Các đoàn sủng được ban cho một người nhất định, nhưng những người khác cũng có thể chia sẻ cùng đoàn sủng đó, đến nỗi qua dòng thời gian, các đoàn sủng ấy tồn tại như một di sản sống động và quý giá, tạo nên một liên hệ thiêng liêng đặc biệt giữa các cá nhân. Công Đồng Vatican II đã trình bày về việc tông đồ giáo dân như sau : “Để thể hiện việc tông đồ này, Chúa Thánh Thần thánh hóa dân Thiên Chúa qua các bí tích và tác tác vụ. Ngài cũng ban cho các tín hữu những ơn đặc biệt (x. 1 Cr 12,7), “phân phát những ơn đó cho mọi người tùy ý Ngài” (x. 1 Cr 12,11), để tất cả và “mỗi người tùy theo ơn đã nhận mà giúp đỡ nhau, và chính họ trở nên như những người quản lý trung tín giữ mọi thứ ơn của Thiên Chúa” (1 Pr 4,10), hầu xây dựng toàn Thân trong đức ái (x. Ep 4,16)”[28].

        Các ân huệ của Thánh Thần, cứ theo lôgíc của sự năng động làm phát sinh ra chúng, đòi buộc những người đã lãnh nhận phải sử dụng chúng để làm cho toàn thể Giáo Hội được tăng trưởng, như Công Đồng nhắc nhở.[29]

        Các đoàn sủng cần được đón nhận với lòng tri ân không những nơi người lãnh nhận, mà cả nơi mọi phần tử trong Giáo Hội. Thực vậy, các đoàn sủng là kho tàng kỳ diệu về ân sủng đem lại sức sinh động tông đồ và sự thánh thiện cho toàn Thân Thể Đức Kitô ; tuy nhiên, với điều kiện là các ân huệ ấy thực sự xuất phát từ Thánh Thần và phải được thực thi sao cho hoàn toàn phù hợp với sự thúc đẩy đích thực của cùng một Thánh Thần. Chính trong ý nghĩa này mà luôn cần phải biện biệt các đoàn sủng. Trong thực tế, như các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng đã tuyên bố : “Không phải khi nào cũng dễ dàng biện biệt rạch ròi và đón nhận họat động của Chúa Thánh Thần, Đấng muốn thổi đâu thì thổi. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa hoạt động nơi mọi tín hữu của Chúa Kitô, chúng ta ý thức được những lợi ích do các đoàn sủng đem lại cho các nhân cũng như cho tất cả công đồng Kitô-giáo. tuy nhiên, chúng ta cũng ý thức được quyền lực của tội lỗi đang ra sức khuấy nhiễu, phá rối đời sống của các tín hữu và các cộng đoàn”[30].

        Chính vì thế, không có đoàn sủng nào mà không cần nại tới và tuân phục các Chủ Chăn trong Giáo Hội. Công Đồng đã nói rất rõ : “Các vị thủ lãnh trong Giáo Hội có quyền phán quyết về tính cách chân chính và sử dụng hợp lý các ơn lạ ấy. Các ngài có nhiệm vụ đặc biệt phải khảo sát tất cả, không phải để dập tắt Thánh Thần, nhưng để giữ lại những điều thiện hảo (x. 1 Tx 5,12. 19-21)[31], để mọi ân sủng đều góp phần vào lợi ích chung, trong sự khác biệt và bổ túc lẫn nhau.[32]

Sự tham dự của giáo dân vào đời sống Giáo Hội

8.             Giáo dân tham dự vào đời sống của Giáo Hội không những bằng việc thi hành các tác vụ và đoàn sủng của họ, nhưng còn bằng nhiều cách nữa.

        Sự tham dự này được thể hiện trước hết và cần thiết trong đời sống và sứ vụ của các Giáo Hội địa phương, trong các Giáo Phận, trong đó “Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền của Chúa Kitô hiện diện và hành động thực sự”[33].

        Các Giáo Hội địa phương và Giáo Hội phổ quát

        Để tham dự đúng đắn vào đời sống Giáo Hội, giáo dân cần phải có một cái nhìn sáng suốt và chính xác về Giáo Hội địa phương liên hệ với Giáo Hội phổ quát. Giáo Hội địa phương không phải là một mảnh nhỏ của Giáo Hội phổ quát, và Giáo Hội phổ quát cũng không phải chỉ là tổng số các Giáo Hội địa phương ; ngược lại, điều liên kết các Giáo Hội chính là sợi dây sống động, cốt yếu và trường cửu, theo nghĩa Giáo Hội phổ quát hiện hữu và tỏ lộ ra nơi các Giáo Hội địa phương. Chính vì vậy, Công Đồng quả quyết : các Giáo Hội địa phương “được thành lập theo hình ảnh Giáo Hội phổ quát : chính nhờ và trong Giáo Hội ấy mà có một Giáo Hội Công Giáo, duy nhất”[34].

        Công Đồng còn thôi thúc giáo dân tích cực tùy thuộc vào Giáo Hội địa phương, trong khi vẫn duy trì tinh thần “công giáo”. Sắc lệnh về Tông Đồ giáo dân viết : “Giáo dân phải luôn phát huy ý thức về giáo phận, vì giáo xứ là một tế bào của giáo phận. Họ phải luôn mau mắn đáp lại tiếng gọi của chủ chăn trong việc tham gia vào các công cuộc chung của giáo phận. Hơn nữa, để đáp ứng những nhu cầu nơi thành thị cũng như ở thôn quê, họ không chỉ hạn hẹp sự cộng tác của mình trong giới hạn giáo xứ hay giáo phận, nhưng cố gắng mở rộng phạm vi tới cả các lãnh vực liên xứ, liên giáo phận, quốc gia và quốc tế. Hơn nữa, việc di dân mỗi ngày một nhiều, những mối bang giao gia tăng, việc giao thông dễ dàng đã không để một thành phần xã hội nào sống đóng kín cho riêng mình. Vì thế, người giáo dân phải quan tâm đến những nhu cầu của Dân Thiên Chúa trên khắp địa cầu”[35].

        Cũng trong ý hướng đó, Thượng-hội-đồng vừa qua đã yêu cầu thiết lập các hội đồng mục vụ giáo phận, để tham khảo ý kiến khi có nhu cầu. Trong thực tế, trên bình diện giáo phận, đây là cách thức chính yếu để cộng tác và đối thoại, đồng thời để nhận định nữa. Sự tham gia của giáo dân vào các Hội Đồng này có thể mở rộng việc xin ý kiến, và như thế, nguyên tắc về cộng tác – mà trong một vài trường hợp, có thể đi đến chỗ lấy quyết định – sẽ được áp dụng rộng rãi và chắc chắn hơn.[36]

        Giáo Luật đã trù liệu sự tham gia của giáo dân vào các hội nghị giáo phận và các công đồng riêng thuộc giáo tỉnh hay toàn miền.[37] Sự tham gia này sẽ cổ võ cho sự hiệp thông và trợ giúp cho sứ vụ của Giáo Hội tại Giáo Hội địa phương, trong giới hạn riêng cũng như trong mối liên hệ với các Giáo Hội địa phương khác thuộc cùng giáo tỉnh hay cùng một Hội Đồng Giám Mục.

        Các Hội Đồng Giám Mục được mời gọi nghiên cứu một phương thức thực tiễn nhất để mở rộng, trên bình diện quốc gia hay miền, việc tham khảo ý kiến và cộng tác của giáo dân, nam cũng như nữ, để ý thức rõ hơn về những vấn đề chung và bày tỏ được sự hiệp thông giáo hội của mọi người.[38]

Giáo xứ

9.             Mặc dù có chiều kích phổ quát, sự hiệp thông giáo hội được diễn tả cách trực tiếp và hữu hình nhất nơi giáo xứ. Giáo xứ là cơ sở cuối cùng của Giáo Hội ; theo một nghĩa nào đó, chính Giáo Hội hiện diện giữa các ngôi nhà của con cái nam nữ của mình.[39]

        Tất cả chúng ta phải lấy lòng tin khám phá lại dung mạo đích thực của giáo xứ, tức là chính “mầu nhiệm” Giáo Hội đang hiện diện và hoạt động trong giáo xứ. Mặc dù đôi khi có những giáo xứ thiếu nhân sự và phương tiện, hoặc tản mác trong những khu vực mênh mông, hay hầu như mất hút trong những khu phố hiện đại đông đúc và hỗn độn, thì giáo xứ tiên vàn không phải là một cơ cấu, một lãnh địa, một tòa nhà ; nhưng trước hết, “giáo xứ là gia đình của Thiên Chúa, là cộng đoàn huynh đệ chỉ có một tâm hồn”[40]. Giáo xứ là “mái ấm gia đình, huynh đệ và niềm nở”[41], là “cộng đoàn các tín hữu”[42]. Tóm lại, giáo xứ được xây dựng trên một thực tại thần học, vì đó là một cộng đồng Thánh Thể.[43] Thánh Thể là nguồn gốc sống động cho sự thiết lập và phát triển của giáo xứ, và là mối dây bí tích để giáo xứ hiệp thông hoàn toàn với toàn thể Giáo Hội. Tư cách đó đặt nền tảng trên sự kiện giáo xứ là một cộng đồng đức tin và là một cộng đồng hữu cơ, nghĩa là được cấu thành do những thừa tác viên có chức thánh, cùng với các kitô-hữu khác, dưới quyền hữu trách của một cha xứ, vừa thay mặt Giám mục giáo phận,[44] vừa là mối dây phẩm trật để liên kết với toàn Giáo Hội địa phương.

        Chắc chắn công việc của Giáo Hội trong thời đại này thật bao la. Để làm công việc đó, chắc chắn giáo xứ không thể cáng đáng nổi. Vì thế Giáo Luật đã trù liệu những hình thức cộng tác giữa các giáo xứ trong cùng một hạt,[45] và chỉ thị cho Giám mục phải chăm sóc mọi thành phần tín hữu, kể cả những người không được hưởng những sinh họat mục vụ thông thường.[46] Thật vậy, nhiều địa điểm gặp gỡ cũng như những cách thức hiện diện và hoạt động khác nhau là cần thiết để mang Lời Chúa và hồng ân Tin Mừng đến tận những hoàn cảnh sống rất khác nhau của con người thời nay ; nhiều hình thức khác để chiếu rọi tinh thần đạo đức và hoạt động tông đồ môi trường, trong các lãnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục, nghề nghiệp, v.v... không thể lấy giáo xứ làm trung tâm hay khởi điểm. Tuy vậy, cũng ngày nay, giáo xứ đang sống trong một giai đoạn mới và đầy hứa hẹn. Đức Phaolô VI, khi bắt đầu sứ vụ Giáo Hoàng của ngài, đã ngỏ lời với hàng giáo sĩ Rôma nhu sau : “Chúng tôi tin tưởng một cách rất đơn giản rằng, cơ chế cổ truyền và đáng kính là giáo xứ có một sứ vụ cần thiết rất hiện đại. Chính giáo xứ phải tạo ra một cộng đồng đầu tiên của dân kitô-hữu ; chính giáo xứ phải dướng dẫn bước đầu cho Dân Chúa làm quen với cách diễn tả bình thường của đời sống phụng vụ và tập họp để cử hành phụng vụ ; chính giáo xứ phải duy trì và làm tươi trẻ niềm tin nơi con người ngày hôm nay ; chính giáo xứ còn phải dạy cho họ giáo lý của Đức Kitô ; chính giáo xứ cũng phải hăng say và tận tụy thực thi đức ái khiêm tốn trong các công cuộc từ thiện và huynh đệ”[47].

        Về phần mình, các Nghị Phụ rất lưu tâm nghiên cứu tình trạng hiện nay của nhiều giáo xứ, và đã yêu cầu các giáo xứ phải tự canh tân một cách dứt khoát hơn : “Có nhiều giáo xứ, ở đô thị cũng như ở các miền truyền giáo, hiện không thể hoạt động hữu hiệu vì phương tiện vật chất eo hẹp hay thiếu những thừa tác viên có chức thánh, hoặc vì lý do địa lý quá rộng lớn hay điều kiện sống đăïc thù của một số kitô-hữu (chẳng hạn những người phải sống lưu đày hay những di dân). Để các giáo xứ này trở thành những cộng đồng kitô-hữu thực sự, các vị lãnh đạo tại địa phương phải cổ võ : a/ việc thích nghi các cơ cấu trong giáo xứ một cách uyển chuyển và linh động như đã được Giáo Luật chấp thuận, nhất là bằng cách khuyến khích giáo dân tham gia vào các trách nhiệm mục vụ của giáo xứ ; b/ những cộng đồng cơ bản nhỏ, còn được gọi là cộng đồng sinh hoạt, ở đó các tín hữu có thể chia sẻ Lời Chúa và sống phục vụ yêu thương ; những cộng đồng này là hình thức diễn tả đích thực sự hiệp thông giáo hội và là trung tâm loan truyền Phúc Âm, trong sự hiệp thông với các vị Chủ Chăn”[48]. Để canh tân các giáo xứ và để hoạt động giáo xứ đạt được thành quả tốt đẹp hơn, phải khuyến khích các hình thức hợp tác giữa các giáo xứ khác nhau trong cùng một vùng, ngay cả những hình thức thuộc thể chế.

Dấn thân hoạt động tông đồ trong giáo xứ

10.         Giờ đây cần nhận định rõ hơn sự hiệp thông và tham gia của giáo dân vào sinh hoạt giáo xứ. Ở đây cần nhắc cho giáo dân lưu ý đến một lời rất đúng, đầy ý nghĩa và khích lệ của Công Đồng. Sắc lệnh về Tông Đồ giáo dân viết : “Trong những cộng đồng giáo hội, hoạt động của họ cần thiết đến nỗi nếu không có nó, chính hoạt động tông đồ của các chủ chăn thường không thể đạt được kết quả đầy đủ”[49]. Đó là một khẳng định nền tảng, và rõ ràng phải được hiểu dưới ánh sáng của khoa “Giáo-hội-học hiệp thông” : các thừa tác vụ và các đoàn sủng, vì khác biệt và bổ túc cho nhau, nên theo thể thức của mình, đều cần thiết cho sự tăng trưởng của Giáo Hội.

        Giáo dân ngày càng phải xác tín mạnh mẽ hơn về ý nghĩa của việc dấn thân hoạt động tông đồ trong giáo xứ của mình. Công Đồng cũng có lý khi nhấn mạnh điểm đó : “Giáo xứ là một hình thức tông đồ cộng đồng kiểu mẫu, vì đó là nơi quy tụ mọi hạng người thành một cộng đoàn và đem họ vào tinh thần đại đồng của Giáo Hội. Giáo Hội nên tập thói quen cộng tác chặt chẽ với các linh mục của mình trong các hoạt động của giáo xứ. Họ cũng nên tập quen trình bày với cộng đoàn giáo hội về những vấn đề riêng của cộng đoàn mình hay của cả thế giới, hoặc những vấn đề liên quan đến ơn cứu độ con người, để cùng nhau góp ý kiến, nghiên cứu và giải quyết. Họ cũng phải tùy khả năng mà trợ giúp những công cuộc tông đồ và truyền giáo của gia đình Giáo Hội địa phương”[50]. 

        Công Đồng ám chỉ đến việc xem xét và giải quyết các vấn đề mục vụ “với sự tham gia của mọi người”, điều ám chỉ này phải được triển khai một cách tương xứng và có hệ thống qua việc đề cao một cách chân thành nhất, rộng rãi nhất và chắc chắn nhất, những hội đồng mục vụ giáo xứ đã được các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng nhấn mạnh rõ ràng và chính đáng.[51]

        Trong tình hình hiện nay, giáo dân có thể và phải nỗ lực rất nhiều để làm cho sự hiệp thông đích thực trong Giáo Hội được tăng trưởng ngay trong lòng giáo xứ của mình và khơi dậy hứng khởi truyền giáo cho những người không tin và cho cả những tín hữu đã từ bỏ hay hời hợt với đời sống kitô-hữu.

        Nếu giáo xứ là Giáo Hội được ươm trồng giữa các ngôi nhà của con người, thì giáo xứ phải sống và sinh hoạt gắn bó mật thiết với xã hội con người và liên đới sâu xa với những khát vọng cũng như thảm trạng của họ. Rất nhiều khi bối cảnh xã hội, nhất là trong một số nước và một số môi trường, bị giao động mạnh do những thế lực làm tan rã và phi nhân hóa : con người trở nên lầm lạc và mất hướng, nhưng tự thâm tâm, họ vẫn luôn luôn ước vọng được cảm nghiệm và vun đắp những tương quan huynh đệ và nhân bản hơn. Giáo xứ có thể đáp ứng được ước vọng đó nếu, nhờ sự tham gia tích cực của giáo dân, giáo xứ trung thành với ơn gọi và sứ vụ nguyên thủy của mình : giữa thế gian, là “nơi” hiệp thông các tín hữu, đồng thời là “dấu chỉ” và “khí cụ” của lời mời gọi mọi người sống hiệp thông ; nói tóm lại, giáo xứ phải là ngôi nhà rộng mở để đón nhận mọi người và phục vụ mọi người, hay như kiểu nói ưng ý của Đức Gioan XXIII, giáo xứ là giếng nước đầu xóm, nơi mọi người đến giải khát.

Các hình thức tham gia trong sinh hoạt của Giáo Hội

11.         Giáo dân, hiệp nhất với các linh mục và tu sĩ nam nữ, làm nên một Dân duy nhất của Thiên Chúa, một Thân Thể duy nhất của Đức Kitô.

        Là “chi thể” của Giáo Hội, điều đó không cản trở mỗi người kitô-hữu vẫn là một “hữu thể độc nhất và không thể thay thế” ; ngược lại, điều đó làm cho tính độc nhất bất khả thay thế của mỗi người có được ý nghĩa sâu xa nhất, vì tính độc nhất này là nguồn gốc của sự đa dạng và phong phú cho tòan thể Giáo Hội. Chính theo nghĩa đó mà Thiên Chúa, qua Đức Giêsu-Kitô, kêu gọi đích danh từng người trong chúng ta, mà không thể lẫn lộn. Lời mời gọi của Chúa Giêsu : “Cả các anh nữa, vào làm vườn nho cho tôi đi” nói với từng cá nhân và có nghĩa là “cả anh nữa, cũng vào làm vườn nho cho tôi đi !”.

        Chính vì thế mà mỗi người chúng ta, với tính cách độc nhất không thể thay thế của mình, hiến thân làm cho sự hiệp thông giáo hội được tăng trưởng, bằng bản thân và hành động của mình, cũng như đón nhận và đồng hóa theo cách riêng mình, sự phong phú của Giáo Hội tòan cầu. Chính đó là sự “Hiệp thông các Thánh” mà chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính : thiện ích của mọi người trở thành thiện ích của mỗi người và thiện ích của mỗi người trở thành thiện ích của mọi người. Thánh Grêgôriô Cả đã viết : “Trong Hội Thánh, mỗi người nâng đỡ các người khác và các người khác nâng đỡ lại họ”[52].

        Các hình thức tham gia cá nhân

        Một điều tuyệt đối cần thiết là giáo dân phải luôn ý thức sống động mình là một “chi thể của Giáo Hội”, được trao phó một nhiệm vụ độc đáo, không thể thay thế và không thể ủy thác cho người khác, một nhiệm vụ phải hoàn thành vì lợi ích của mọi người. trong viễn ảnh đó, quả quyết của Công Đồng Vatican II về việc mỗi người nhất thiết phải làm việc tông đồ, đã nói lên tất cả ý nghĩa : “Việc tông đồ mà mỗi người phải thực hiện và là việc luôn luôn bắt nguồn từ mạch sống Kitô-giáo (x. Ga 4,14), việc ấy là nguyên lý và điều kiện của mọi hoạt động tông đồ giáo dân, kể cả việc tông đồ giáo dân tập thể, và không gì có thể thay thế được. Việc tông đồ cá nhân này rất hiệu quả ở bất cứ nơi nào và thời nào ; hơn nữa, trong một số hoàn cảnh, chỉ có nó mới thích hợp và mới có thể thực hiện được. Mọi người giáo dân, dù thuộc thành phần nào đi nữa, dù không có cơ hội hay khả năng cộng tác trong các phong trào, cũng đều được kêu gọi và đều có nhiệm vụ phải thực hành việc tông đồ cá nhân”[53].

        Việc tông đồ cá nhân chứa đựng kho tàng phong phú lớn lao cần được khám phá để gia tăng sức năng động truyền giáo của mỗi giáo dân. Nhờ hình thức tông đồ này, Tin Mừng có thể chiếu giãi như hiện tượng mạo dẫn, đi vào mọi khu vực và môi trường mà cuộc sống thường nhật và cụ thể của giáo dân đang tiếp xúc. Hơn nữa, đây là sự chiếu giãi trường kỳ, vì có liên hệ với sự gắn bó liên lỉ của đời sống cá nhân với đức tin, đồng thời đây cũng là sự chiếu giãi rất sắc bén, vì khi chia sẻ hoàn toàn các điều kiện sinh sống, lao động, những khó khăn và hy vọng của anh em mình, giáo dân có thể đánh động tâm hồn những người lân cận, bạn bè, đồng nghiệp, và mở rộng tâm hồn họ tới chân trời toàn diện, tới ý nghĩa đầy đủ của cuộc sống : tức là hiệp thông với Thiên Chúa và giữa con người với nhau.

Các hình thức tham gia tập thể

12.         Sự hiệp thông giáo hội, vốn đã có và hoạt động trong hành động của từng cá nhân, lại được diễn tả một cách đặc biệt qua hành động tập thể của giáo dân, tức là một hành động liên đới được thực hiện trong sự tham gia có trách nhiệm vào đời sống và sứ vụ của Giáo Hội.

        Trong thời gian gần đây, hiện tượng các hiệp hội giáo dân đã mặc những hình thức rất khác nhau và đầy sức sống. Nếu trong lịch sử Giáo Hội, các hiệp hội giáo dân đã tạo nên một đường hướng liên tục như chúng ta thấy rõ cho tới ngày nay nơi các hội đoàn, các hội-dòng-ba và những huynh đoàn khác nhau, thì ở thời đại hiện nay, hiện tượng này đã có sức vươn mạnh đặc biệt ; người ta thấy mọc lên và phát triển những hình thức nhóm hội khác nhau : hiệp hội, nhóm, cộng đoàn, phong trào. Người ta có thể nói tới một mùa Xuân của các hiệp hội giáo dân. Thật vậy, “bên cạnh những nhóm hội truyền thống, và đôi khi bắt nguồn từ những nhóm hội đó, đã nảy sinh những phong trào và nhóm hội mới, có diện mạo và mục đích chuyên biệt : sự phong phú và đa dạng của nguồn ơn Chúa Thánh Thần nơi Giáo Hội lớn lao thế nào thì khả năng sáng kiến và lòng quảng đại của giáo dân cũng lớn như thế”[54].

        Những nhóm hội giáo dân thường rất khác nhau về nhiều phương diện, chẳng hạn như hình thức bên ngoài, đường lối và cách thức huấn luyện, phạm vi hoạt động. Tuy nhiên có thể thấy trong các nhóm hội đó những đường nét của một sự hội tụ rộng lớn và sâu xa trong mục đích đã gợi hứng cho chúng : đó là tham gia có trách nhiệm vào sứ vụ của Giáo Hội, sứ vụ Tin Mừng Đức Kitô như nguồn hy vọng cho mọi người và như nguồn mạch canh tân cho xã hội.

        Sự kiện giáo dân quy tụ với nhau vì những động lực thiêng liêng và tông đồ, là do nhiều nguồn gốc khác nhau và đáp ứng những đòi hỏi khác nhau : thật vậy, đó là cách diễn tả xã hội tính nơi con người, và đáp lại một nhu cầu muốn có được hiệu quả lớn hơn và sắc bén bơn. Trên thực tế, hậu quả “văn hóa” là nguồn gốc và động lực, nhưng cũng là kết quả và dấu chỉ của mọi biến đổi khác về môi trường và xã hội, hậu quả đó chỉ có thể đạt được nhờ công trình của một “chủ thể xã hội” hơn là của những cá nhân riêng lẻ, nghĩa là công trình của một nhóm, một cộng đồng, một hiệp hội, một phong trào. Điều đó đặc biệt đúng trong bối cảnh một xã hội đa nguyên và cắt vụn – như hiện tình trong nhiều nước trên thế giới – cũng như trước những vấn đề đang trở nên cực kỳ phức tạp và khó khăn. Vả lại, nhất là trong một thế giới tục hóa, các hình thức quy tụ khác nhau có thể là sự trợ giúp quý báu cho nhiều người để có được một đời sống kitô-hữu trung thành với những đòi hỏi của Tin Mừng và để họ dấn thân truyền giáo và hoạt động tông đồ.

        Ngòai những động cơ thúc đẩy trên, lý do sâu xa nhất biện minh và đòi hỏi sự quy tụ giáo dân thành nhóm là thuộc lãnh vực thần học : đó là một lý do thuộc Giáo-hội-học, như Công Đồng Vatican II đã công khai nhìn nhận. Công Đồng nhận thấy việc tông đồ của các hiệp hội là một “dấu chỉ hiệp thông và hiệp nhất của Giáo Hội trong Đức Kitô[55].

        Đó là một “dấu chỉ” phải được biểu lộ trong những mối tương quan “hiệp thông” cả bên trong lẫn bên ngòai các hiệp hội khác nhau, trong bối cảnh rất rộng lớn của cả cộng đồng Kitô-giáo. chính lý do thuộc Giáo-hội-học chúng tôi vừa nhắc tới ở trên, một mặt, đã giải thích cho “quyền” có hiệp hội dành cho giáo dân, và mặt khác, cho thấy cần phải có những “tiêu chuẩn” biện biệt để nhận định xem những hình thức hiệp hội nào thực sự mang tính Giáo Hội.

        Trước tiên, phải nhìn nhận quyền của giáo dân trong Giáo Hội được tự do lập hiệp hội. Nói cho đúng, quyền tự do này là một quyền đích thực, không phải do một thứ “ban nhượng” của giáo quyền, nhưng phát xuất từ bí tích Thánh Tẩy. Là một bí tích, phép Thánh Tẩy mời gọi giáo dân tham gia tích cực vào sự hiệp thông và sứ vụ của Giáo Hội. Về điểm này, Công Đồng nói rõ : “Giáo dân có quyền lập hội đoàn, điều khiển hội đoàn, và ghi tên vào các hội đoàn đã có sẵn, miễn là phải giữ mối liên lạc cần thiết với giáo quyền”[56]. Bộ Giáo Luật mới cũng khẳng định : “Giáo dân được tự do thành lập hay điều hành các hội đòan có mục đích bác ái và đạo đức, hay nhằm cổ võ ơn gọi kitô-hữu trong thế giới ; họ cũng có quyền tụ họp để cùng nhau theo đuổi những mục đích trên”[57].

        Đây là một quyền tự do đã được giáo quyền nhìn nhận và bảo đảm, quyền này phải luôn luôn và chỉ được thực thi trong sự hiệp thông của Giáo Hội. Theo nghĩa này, quyền tụ họp của giáo dân thiết yếu gắn liền với đời sống hiệp thông và với sứ vụ của Giáo Hội.

Các tiêu chuẩn có tính Giáo Hội

đối với các hiệp hội giáo dân

13.         Sự cần thiết phải có những tiêu chuẩn rõ ràng và chính xác để biện biệt và nhìn nhận các hiệp hội giáo dân còn được gọi là những “tiêu chuẩn có tính Giáo Hội” luôn phải được hiểu trong viễn tượng về sự hiệp thông và sứ vụ của Giáo Hội, chứ không đi ngược với quyền tự do thành lập hiệp hội.

        Để biện biệt các hiệp hội giáo dân trong Giáo Hội, có thể lưu ý tòan bộ những tiêu chuẩn sau đây như tiêu chuẩn nền tảng :

Tiêu chuẩn trước tiên là ơn gọi nên thánh của mọi người kitô-hữu, được biểu lộ “qua những hoa trái ân sủng mà Thánh Thần đã kết sinh nơi các tín hữu”[58], như là sự tăng trưởng đến sự viên mãn của đời sống kitô-hữu và đến sự trọn lành của đức ái.[59]

        Theo nghĩa này, mọi hiệp hội giáo dân đều được mời gọi ngày càng trở nên phương tiện thánh hóa trong Giáo Hội, một phương tiện cổ võ và khuyến khích “sự phối hợp chặt chẽ giữa đời sống thực tế của hội viên và đức tin của họ”[60].

Dấn thân tuyên xưng đức tin công giáo qua việc chấp nhận và công bố chân lý về Đức Kitô, về Giáo Hội và về con người, theo đúng giáo huấn của Giáo Hội, vì Giáo Hội giải thích chân lý đó cách chính thức. Mọi hiệp hội giáo dân đều phải là môi trường loan báo và trình bày đức tin, cũng là nơi để giáo dục đức tin đó trong nội dung tòan vẹn của nó.

Bằng sự xác tín của mình, làm chứng về sự hiệp thông vững chắc và mãnh liệt, trong tình con thảo với đức Giáo hoàng là trung tâm hiệp nhất vĩnh cửu và hữu hình của Giáo Hội phổ quát,[61] và với đức Giám mục là “nguyên lý hữu hình và nền tảng của sự hiệp nhất”[62] trong Giáo Hội địa phương, và trong “sự tôn trọng lẫn nhau giữa các tổ chức tông đồ trong Giáo Hội”[63].

        Sự hiệp thông với đức Giáo hoàng và đức Giám mục phải được bày tỏ qua thái độ sẵn sàng thẳng thắn đón nhận những giáo huấn về giáo lý và những chỉ dẫn mục vụ của các ngài. hơn nữa, sự hiệp thông trong Giáo Hội còn đòi phải nhìn nhận sự đa nguyên hợp pháp của giáo dân trong Giáo Hội, và đồng thời, phải sẵn sàng cộng tác với nhau.

Hòa hợp và cộng tác vào mục đích tông đồ của Giáo Hội, là “loan truyền Phúc Âm và thánh hóa nhân loại, đào tạo cho họ một lương tâm Kitô-giáo, để họ có thể dần dần đem tinh thần Phúc Âm thấm nhập vào các cộng đoàn cũng như các môi trường khác nhau”[64].

        Theo hướng này, mọi hình thức hiệp hội giáo dân, cũng như từng hiệp hội phải có một hứng khởi truyền giáo biến các hiệp hội này trở thành những dụng cụ ngày càng tích cực hơn của một cuộc phúc-âm-hóa mới.

Dấn thân hiện diện trong xã hội nhân loại để phục vụ cho phẩm giá toàn vẹn của con người, phù hợp với học thuyết xã hội của Giáo Hội.

        Trong ý nghĩa này, các hiệp hội giáo dân phải trở thành những trào lưu đẩy mạnh sự tham gia và liên đới, để kiến tạo những điều kiện sống công bằng và huynh đệ hơn giữa lòng xã hội.

        Những tiêu chuẩn căn bản chúng tôi vừa nêu lên được chứng thực trong những hoa trái cụ thể đi kèm với đời sống và những công trình của các hình thức hiệp hội khác nhau, đặc biệt là sự ưa thích cầu nguyện, chiêm niệm, đời sống phụng vụ và bí tích ; giúp ý thức về ơn gọi hôn nhân Kitô-giáo, ơn gọi làm linh mục thừa tác hay đời sống thánh hiến ; sẵn sàng tham gia vào các chương trình và hoạt động trên bình diện quốc gia cũng như quốc tế ; dấn thân vào việc giảng dạy giáo lý và khả năng sư phạm trong việc huấn luyện các kitô-hữu ; thúc đẩy sự hiện diện của người kitô-hữu trong môi trường khác nhau của đời sống xã hội ; thành lập và linh hoạt các công tác từ thiện, văn hóa và thiêng liêng ; tinh thần siêu thoát và thanh bần phúc âm để thực hiện tình bác ái đại lượng hơn với mọi người ; hoán cải trở về với đời sống kitô-hữu hay đối với những người đã rửa tội nhưng “lìa xa” được hiệp thông trở lại với Giáo Hội.

Các Chủ Chăn phục vụ cho việc hiệp thông

14.         Cả trong trường hợp một số hình thức hiệp hội gặp những khó khăn có thể hiểu được hoặc trường hợp có những hình thức mới muốn xuất hiện, các vị Chủ Chăn trong Giáo Hội vẫn không được từ chối thi hành quyền bính của mình, không những vì lợi ích của Giáo Hội, mà còn vì lợi ích của chính các hiệp hội giáo dân. Các ngài phải cố gắng hơn trong sự biện biệt của mình để hướng dẫn và nhất là khích lệ sự tăng trưởng của các hiệp hội giáo dân trong sự hiệp thông và trong sứ vụ của Giáo Hội.

        Điều rất nên làm là một số hiệp hội và phong trào mới lập, khi đã phổ biến trên phạm vi quốc gia và cả trên thế giới, phải được chính thức công nhận, được thẩm quyền của Giáo Hội minh nhiên phê chuẩn. Công Đồng đã khẳng định theo hướng đó : “Có nhiều thể thức liên lạc giữa việc tông đồ giáo dân với hàng giáo phẩm, tùy theo hình thức và mục tiêu của mỗi hoạt động tông đồ... Một số hình thức tông đồ đã được giáo quyền minh nhiên chấp nhận, dưới hình thức này hay hình thức khác. Ngoài ra, vì nhu cầu ích chung của Giáo Hội, giáo quyền có thể lựa chọn và cổ võ cách đặc biệt một vài hiệp hội hay các tổ chức tông đồ, trực tiếp nhằm mục đích thiêng liêng, giáo quyền cũng có thể nhận một trách nhiệm đặc biệt đối vớ những tổ chức đó”[65].

        Trong số những hình thức tông đồ giáo dân khác nhau có quan hệ đặc biệt với Hàng Giáo Phẩm, các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng minh nhiên nhắc đến các phong trào và hiệp hội khác nhau của Công Giáo Tiến Hành, trong đó “người giáo dân, dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, tự nguyện liên kết với nhau một cách hữu cơ và bền vững, hiệp thông với Giám mục và các linh mục, để có thể hoạt động, theo ơn gọi của họ và bằng một phương pháp riêng biệt, cho việc mở rộng toàn bộ cộng đồng Kitô-giáo, cho các chương trình mục vụ và cho việc làm sinh động mọi môi trường sống bằng tinh thần phúc âm, một cách trung thành và hăng say”[66].

        Hội Đồng Giáo Hoàng về Giáo Dân có nhiệm vụ chuẩn bị một bản danh sách những hiệp hội được Tòa Thánh chính thức phê chuẩn và, cùng với Văn Phòng Hiệp Nhất Kitô-Hữu, quy định những điều kiện để có thể phê chuẩn một hiệp hội đại kết trong đó đa số là người công giáo và một thiểu số không công giáo. Hội Đồng cũng phải xác định những trường hợp nào không thể công nhận được.[67]

        Mọi người chúng ta, Chủ Chăn cũng như tín hữu, phải cổ võ và không ngừng giữ gìn những mối dây và những tương quan huynh đệ của sự kính trọng, thân ái, cộng tác giữa các hình thức hiệp hội giáo dân khác nhau. Chỉ như thế, nguồn ân huệ và đoàn sủng dồi dào mà Thiên Chúa ban cho ta mới có thể góp phần phong phú và có trật tự vào việc xây dựng ngôi nhà tập thể : “Để chung xây ngôi nhà tập thể, còn phải từ bỏ đầu óc kình chống và tranh chấp nhau, đúng hơn, cần đua tranh trong sự kính trọng lẫn nhau (x. Rm 12,10), trong sự quan tâm bày tỏ tình cảm cũng như thiện chí cộng tác, với sự kiên nhẫn, sáng suốt, sẵn sàng hy sinh có thể hàm chứa trong tất cả những việc đó”[68].

        Một lần nữa, chúng ta hãy trở lại với lời của Đức Giêsu : “Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15,5), để tạ ơn Thiên Chúa vì hồng ân lớn lao là sự hiệp thông giáo hội, phản ánh trong thời gian sự hiệp thông vĩnh cửu và khôn tả của Thiên Chúa Duy Nhất và Ba Ngôi. Ý thức về hồng ân đó phải đi đôi với ý thức cao về trách nhiệm : thật vậy, đó là một ân huệ như nén bạc trong Phúc Âm, phải được biến đổi thành một đời sống hiệp thông triển nở.

        Trách nhiệm với hồng ân hiệp thông trước hết có nghĩa là phải chiến thắng mọi cơn cám dỗ chia rẽ và chống đối đang đe dọa cuộc sống và sự dấn thân làm tông đồ của các kitô-hữu. Thánh Tông Đồ Phaolô đã phải thốt lên : "Tôi nghe trong anh em có những luận điệu như : ‘Tôi thuộc về ông Phaolô, tôi thuộc về ông Apôlô, tôi thuộc về ông Kêpha, tôi thuộc về Đức Kitô’. Thế ra Đức Kitô đã bị chia năm xẻ bảy rồi ư ?" (1 Cr 1,12-13). Tiếng kêu đau đón và thất vọng đó vẫn còn đang vang lên như một lời trách móc trước những hiện tượng “chia năm sẻ bảy Thân Thể Đức Kitô”. Ngược lại, chớ gì những lời sau đây của Thánh Tông Đồ vọng lại một lời mời gọi thuyết phục chúng ta : "Thưa anh em, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hòa thuận, một lòng một ý với nhau" (1 Cr 1,10).

        Được vậy, đời sống hiệp thông trong Giáo Hội trở thành một dấu chỉ cho thế giới và một sức mạnh lôi cuốn đưa người ta đến chỗ tin vào Đức Kitô : "Lạy Cha, như Cha ở trong con và con ở trong Cha, xin cho họ cũng được ở trong chúng ta, để thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con" (Ga 17,21). Bằng cách đó, sự hiệp thông hướng đến truyền giáo, chính nó trở thành truyền giáo.



[1]      CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, s. 4

[2]      THĐGM năm 1985, Khóa ngọai lệ lần II, Giáo Hội dưới quyền Ngôi Lời Thiên Chúa cử hành mầu nhiệm Đức Kitô để cứu độ thế giới, Bản phúc trình tổng kết, II, C, 1

[3]      Đức PHAOLÔ VI, Huấn từ ngày thứ tư (8/6/1966)

[4]      x. CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, s. 6

[5]      x. nt., s. 7 vv…

[6]      nt., s. 9

[7]      nt., s. 1

[8]      nt., s. 9

[9]      nt., s. 7

[10]    nt., s. 7

[11]    nt., s. 4

[12]    Đức Gioan-Phaolô II, Bài giảng trong lễ đồng tế Bế mạc Thượng-hội-đồng Giám Mục khóa VII, (30/10/1987)

[13]    x. CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, s. 4

[14]    x. CĐ Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Truyền Giáo của Giáo Hội, s. 5

[15]    x. CĐ Vatican II, Sắc lệnh về chức vụ và đời sống Linh Mục, s. 2 ; Hiến chế tín lý về Giáo Hội, s. 10

[16]    x. CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, s. 10

[17]    x. Đức GIOAN-PHAOLÔ II, Thư gửi các linh mục nhân ngày thứ Năm Tuần Thánh (9/4/1979), 3-4.

[18]    Giáo Luật, can. 230 §3

[19]    x. CĐ Vatican II, Sắc lệnh về chức vụ và đời sống Linh Mục, s. 2 và 5

[20]    x. CĐ Vatican II, Sắc lệnh về Tông Đồ giáo dân, s. 24

[21]    Giáo Luật liệt kê một số nhiệm vụ và hoạt động dành cho thừa tác viên có chức thánh, tuy nhiên trong một số trường hợp đặc biệt và nghiêm trọng, cụ thể khi không có linh mục và phó tế, các việc đó có thể do một giáo dân thi hành trong một thời gian nào đó, với sự chấp thuận hợp pháp trước đó và sự ủy nhiệm của thẩm quyền giáo hội : x. can. 230 §3 ; 517 §2 ; 776 ; 861 §2 ; 910 §2 ; 943 ; 1112 ; v.v…

[22]    x. CĐ Vatican II, Hiến chế về Phụng Vụ, s. 28 ; Giáo Luật, can. 230 §2 viết : “Các giáo dân có thể được chỉ định tạm thời thi hành chức vụ đọc sách trong các hoạt động phụng vụ. Cũng thế, tất cả các giáo dân có thể thi hành công tác của người dẫn giải, ca trưởng hoặc những chức năng khác theo luật định”

[23]    Giáo Luật trình bày các chức năng hay nhiệm vụ khác nhau mà giáo dân có thể thi hành trong cơ cấu tổ chức của Giáo Hội “ x. can, 228 ; 317 § 3 ; 436 § 1, 50 và §2 ; 483, 494 ; 537 ; 759 ; 776 ; 784 ; 785 ; 1228 § ; 1435 ; v.v…

[24]    x. Đề nghị 18

[25]    Đức PHAOLÔ VI, Tông Huấn Loan báo Tin Mừng, 70

[26]    Giáo Luật, can. 230 §1

[27]    Đề nghị 18

[28]    CĐ Vatican II, Sắc lệnh về Tông Đồ giáo dân, s. 3

[29]    “Do sự đón nhận những đoàn sủng này, dầu là những đoàn sủng thông thường, mỗi tín hữu có quyền lợi và bổn phận  sử dụng những ơn đó trong Giáo Hội cũng như giữa trần gian, để mưu ích cho mọi người và xây dựng Giáo Hội, trong sự tự do của Chúa Thánh Thần, Đấng “muốn thổi đâu thì thổi” (Ga 3,8), và đồng thời sử dụng trong sự hiệp thông với anh em trong Chúa Kitô, nhất là với các vị chủ chăn của mình” (nt.)

[30]    Đề nghị 9

[31]    CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, s. 12

[32]    x. nt., s. 30

[33]    CĐ Vatican II, Sắc lệnh về nhiệm vụ mục vụ của các Giám Mục trong Giáo Hội, s. 11

[34]    CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, s. 23

[35]    CĐ Vatican II, Sắc lệnh về Tông Đồ giáo dân, s. 10

[36]    x. Đề nghị 10

[37]    x. Giáo Luật, can. 443 §4 ; 463 §§1-2

[38]    x. Đề nghị 10

[39]    CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, s. 28

[40]    CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, s. 28

[41]    Đức GIOAN-PHAOLÔ II, Tông Huấn về việc Dạy Giáo Lý, Catechesi tradende (16/10/1979), s. 67

[42]    Giáo Luật, can. 515 §1

[43]    x. Đề nghị 10

[44]    x. CĐ Vatican II, Hiến chế về Phụng Vụ, s. 42

[45]    x. can. 555 §1, 1o

[46]    x. can. 383 §1

[47]    Đức PHAOLÔ VI, Diễn từ đọc trước hàng giáo sĩ Rôma (24/6/1963)

[48]    Đề nghị 11

[49]    CĐ Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Tông Đồ giáo dân, s. 10

[50]    nt.

[51]    x. Đề nghị 10

[52]    Thánh GRÊGÔRIÔ CẢ, Bài giảng về Ed II, I,5

[53]    CĐ Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Tông Đồ giáo dân, s. 16

[54]    Đức GIOAN-PHAOLÔ II, Kinh Truyền Tin (23/8/1987)

[55]    CĐ Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Tông Đồ giáo dân, s. 18

[56]    CĐ Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Tông Đồ giáo dân, s. 19 ; x. s. 15 ; Hiến chế tín lý về Giáo Hội, s. 37

[57]    Giáo Luật, can. 215

[58]    CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, s. 39

[59]    x. nt., s. 40

[60]    x. CĐ Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Tông Đồ giáo dân, s. 19

[61]    CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, s. 23

[62]    x. nt.

[63]    CĐ Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Tông Đồ giáo dân, s. 23

[64]    nt., s. 20

[65]    CĐ Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Tông Đồ giáo dân, s. 24

[66]    Đề nghị 13

[67]    Đề nghị  15

[68]    Đức GIOAN-PHAOLÔ II, Diễn văn đọc tại Hội nghị toàn quốc Giáo Hội Italia (10/4/1985)