Chương ba

thẦy đã cẮt cỬ anh em

đỂ anh em ra đi, sinh đưỢc hoa trái

Tinh thần đồng trách nhiệm

trong Giáo Hội –  Truyền Giáo

Sự hiệp thông truyền giáo

1.             Chúng ta lấy lại hình ảnh cây nho và cành nho trong Kinh Thánh. Một cách trực tiếp và tự nhiên, hình ảnh này giúp ta nhận định về khả năng sinh sản và về sự sống. Được tháp nhập vào cây nho, nhận sức sống từ cây nho, các cành nho được kêu gọi trổ sinh hoa trái : "Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái" (Ga 15,5). Đơm hoa kết trái là một đòi hỏi cốt yếu trong đời sống kitô-hữu cũng như trong đời sống Giáo Hội. Ai không sinh hoa trái là không ở trong sự hiệp thông : "Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người (Cha tôi) chặt đi" (Ga 15,2).

        Sự hiệp thông với Đức Kitô, và từ đó phát sinh sự hiệp thông giữa các tín hữu với nhau, là điều kiện không thể thiếu để sinh hoa trái : "Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được" (Ga 15,5). Và sự hiệp thông với những người khác là hoa trái tốt đẹp nhất mà cành cây có thể trổ sinh được : thật vậy, đó là ân huệ của Đức Kitô và của Thần Khí Ngài.

        Sự hiệp thông làm phát sinh sự hiệp thông và được coi chủ yếu như một sự hiệp thông truyền giáo. Thật thế, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ : "Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại" (Ga 15,16).

        Hiệp thông và truyền giáo liên kết mật thiết với nhau, cả hai thâm nhập và bao hàm nhau, đến độ sự hiệp thông vừa là nguồn mạch vừa là kết quả của việc truyền giáo : hiệp thông mang tính truyền giáo và truyền giáo nhằm mục đích hiệp thông. Luôn luôn cùng một Thánh Thần duy nhất kêu gọi và hiệp nhất Giáo Hội, sai Giáo Hội đi rao giảng Tin Mừng “cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Về phần mình, Giáo Hội ý thức rằng sự hiệp thông mà Giáo Hội đã đón nhận như một hồng ân, là được ban cho hết thảy mọi người. Như thế, Giáo Hội cảm thấy mình mắc nợ hết mọi người và với từng người, về hồng ân đã lãnh nhận từ Chúa Thánh Thần, Đấng gieo rắc nơi trái tim người tín hữu tình mến của Chúa Giêsu-Kitô, là sức mạnh nối kết bên trong và cũng là sức mạnh bành trước bên ngòai. Việc truyền giáo của Giáo Hội phát xuất từ chính bản tính của Giáo Hội, như ý định của Đức Kitô : đó là trở thành “dấu chỉ và khí cụ... của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại”[1]. Sứ vụ này nhằm giúp mọi người biết và sống sự hiệp thông “mới”, sự hiệp thông đẽ đến trong lịch sử nhân loại qua Con Thiên Chúa làm người. Chính theo nghĩa đó, chứng từ của thánh Gioan Tông Đồ đã xác định một cách dứt khoát đích điểm “hồng phúc” mà tất cả sứ vụ của Giáo Hội hướng tới : "Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người" (1 Ga 1,3).

        Trong bối cảnh sứ vụ của Giáo Hội, Chúa trao phó một phần lớn trách nhiệm cho giáo dân, hiệp thông với các thành phần khác của Dân Thiên Chúa. Các Nghị Phụ Công Đồng Vatican II  đã ý thức rất rõ về điều đó : “Các chủ chăn nhận thấy rõ sự đóng góp lớn lao của giáo dân cho lợi ích Giáo Hội. Các ngài biết rằng Đức Kitô đã không đặt các ngài lên để một mình lãnh lấy tất cả sứ vụ cứu độ của Giáo Hội đối với thế giới ; nhưng nhiệm vụ cao cả của các ngài là chăn dắt các tín hữu và nhận biết các phận sự và đoàn sủng nơi họ, để mọi người cùng góp phần vào công cuộc chung, tùy theo cách thức của mình”[2]. Xác tín này còn được lặp lại một cách minh bạch và mạnh mẽ, trong suốt Thượng-hội-đồng.

Loan báo Tin Mừng

2.             Chính vì là thánh phần của Giáo Hội, nên giáo dân có ơn gọi và sứ mạng loan báo Tin Mừng : họ có tư năng và dấn thân vào hoạt động này nhờ các bí tích khai tâm Kitô-giáo và các ân huệ Chúa Thánh Thần.

        Trong một đoạn văn rõ ràng và súc tích của Công Đồng Vatican II, chúng ta đọc thấy : “Giáo dân góp phần tích cực vào đời sống và hoạt động của Giáo Hội, nhờ được tham dự vào chức vụ của Chúa Kitô là tư tế, tiên tri và vua ... Vì được nuôi dưỡng nhờ tham dự cách tích cực vào đời sống phụng vụ của cộng đoàn, chính họ nhiệt thành góp phần vào những công cuộc tông đồ của chính cộng đoàn đó ; họ đem những người có lẽ đang xa lạc trở về với Giáo Hội ; họ cộng tác đắc lực vào việc rao truyền Lời Chúa, nhất là bằng việc dạy giáo lý ; họ đem khả năng của mình làm cho việc coi sóc các linh hồn và cả việc quản trị tài sản của Giáo Hội sinh hiệu quả hơn”[3].

        Thế mà toàn bộ sứ vụ của Giáo Hội tập trung và trải ra trong việc Phúc-ân-hóa ; con đườnng lịch sử của sứ vụ này được mở ra với ân sủng và lệnh truyền của Đức Giêsu-Kitô : "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo" (Mc 16,15). "Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20). Đức giáo hoàng Phaolô VI đã nói : “Loan báo Tin Mừng là hồng ân và là ơn gọi riêng của Giáo Hội, là căn tính sâu xa nhất của Giáo Hội”[4].

        Nhờ loan báo Tin Mừng, Giáo Hội tự kiến thiết và hình thành như một cộng đồng đức tin, chính xác hơn, như cộng đồng của một đức tin được tuyên xưng qua việc gắn bó với Lời Chúa, được cử hành trong các bí tích, và được sống trong đức ái là linh hồn của đời sống luân lý Kitô-giáo. Thực vậy, “Tin Mừng” nhằm thức tỉnh nơi tâm hồn và đời sống con người sự hoán cải và gắn bó cá nhân với Đức Giêsu-Kitô, Đấng Cứu Độ và là Chúa ; Tin Mừng chuẩn bị cho người ta đón nhận bí tích Thánh Tẩy và Thánh Thể, và được củng cố trong quyết tâm và thực hiện đời sống mới theo Thần Khí.

        Chắc chắn rằng mệnh lệnh của Đức Giêsu “Hãy đi rao giảng Tin Mừng” vẫn luôn mang giá trị trường tồn và buộc phải thi hành cấp bách. Tuy nhiên, tình hình hiện nay không những trên thế giới mà cả trong nhiều lãnh vực của Giáo Hội đang tuyệt đối đòi hỏi lời của Đức Kitô phải được tuân theo một cách mau lẹ và quảng đại hơn. Mỗi người môn đệ được gọi đích danh, không ai có thể từ chối lời đáp trả của riêng mình : “Khốn thân tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng” (1 Cr 9,16).

Đã đến lúc phải thực hiện một cuộc Phúc-âm-hóa mới

3.             Có những nước và quốc gia mà trước đây Kitô-giáo cũng như đời sống kitô-hữu rất phồn thịnh và có khả năng làm phát sinh những cộng đồng sống đức tin một cách sống động và tích cực, thì nay đang gặp những thử thách nặng nề và đôi khi biến đổi thậm chí tận gốc rễ, do sự dửng dưng tôn giáo, sự tục hóa và chủ nghĩa vô thần không ngừng được phổ biến. Đặc biệt đây là những nước hay những quốc gia được gọi là Thế-giới-thứ-nhất, nơi mà sự sung túc kinh tế và cuộc chạy đua tiêu thụ, mặc dù bên cạnh là tình trạng nghèo đói và khốn khổ ghê gớm, vẫn hà hơi tiếp sức cho một đời sống “như thể không có Thiên Chúa”. Hiện nay, trước những vấn đề trầm trọng của cuộc sống, sự dửng dưng tôn giáo, sự vắng bóng hoàn toàn ý nghĩa được gán cho Thiên Chúa, cũng nguy hại và đáng lo ngại không kém so với chủ nghĩa vô thần công khai. Niềm tin Kitô-giáo, mặc dù vẫn còn sót lại nơi một vài cách biểu lộ cổ truyền và có tính nghi thức, đang có nghuy cơ bị loại ra khỏi những giây phút trọng đại nhất của cuộc đời, như lúc chào đời, lúc đau khổ và lúc ly trần. Từ đó mà có những vấn nạn và những bí ẩn ghê gớm nhất thiết được đặt ra. Chúng không có lời giải đáp, nên con người ngày nay cảm thấy chán nản tuyệt vọng hoặc bị cám dỗ hủy diệt chính sự sống con người, vì sự sống đặt ra những vấn đề như thế.

        Ngược lại, tại những nước hay những quốc gia khác, người ta vẫn bảo tồn được nhiều truyền thống rất sống động về lòng đạo đức và về tình cảm Kitô-giáo ; nhưng gia sản tinh thần và thiêng liêng này cũng đang có nguy cơ biến mất dưới sức ép của nhiều ảnh hưởng, nhất là ảnh hưởng của sự tục hóa và sự lan tràn các giáo phái. Chỉ có một công cuộc Phúc-âm-hóa mới mới có thể bảo đảm sự tăng trưởng của một đức tin trong sáng và sâu xa, đủ sức biến các truyền thống kia thành một sức mạnh của sự tự do thực sự.

        Chắc chắn tổ chức lại cơ cấu Kitô-giáo trong xã hội con người là việc cấp bách ở mọi nơi, với điều kiện là phải tổ chức lại cơ cấu Kitô-giáo trong chính các cộng đồng giáo hội tại các nước hay các quốc gia này.

        Thế nên, giáo dân hôm nay, do được tham gia vào nhiệm vụ tiên tri của Đức Kitô, phải hoàn toàn dấn thân vào công tác này của Giáo Hội. Đặc biệt họ phải làm chứng rằng niềm tin là câu trả lời duy nhất và hoàn toàn, mà với ít nhiều ý thức, họ thoáng nhận ra và viện dẫn, để giải đáp cho những vấn đề và những niềm hy vọng do cuộc sống của mỗi người cũng như của cả xã hội đang gợi lên. Có thể thực hiện được điều đó một khi người giáo dân biết vượt thắng nơi chính mình sự phân cách giữa Tin Mừng và cuộc sống, bằng cách biết tạo nên trong sinh hoạt thường nhật, trong gia đình, khi làm việc, trong xã hội, sự thống nhất của một đời sống được Tin Mừng gợi hứng và giúp sức thể hiện đầy đủ.

        Với nhân loại ngày nay, một lần nữa tôi lặp lại tiếng kêu tha thiết khi bắt đầu công tác mục vụ của tôi : “Đừng sợ, hãy mở ra, hãy mở rộng cửa cho Đức Kitô ! Hãy mở các biên giới Quốc Gia, các hệ thống kinh tế cũng như chính trị, những lãnh vực rộng lớn của văn hóa, văn minh, của sự phát triển, cho quyền năng cứu độ của Ngài. Đừng sợ ! Đức Kitô biết “điều gì đang có nơi con người”. Duy mình Ngài biết điều ấy. Ngày nay, rất nhiều khi con người không biết những gì họ đang mang nơi mình, nơi đáy lòng mình, nơi thâm sâu tâm hồn mình. Do đó người ta thường không nắm được ý nghĩa cuộc sống trên trần thế. Họ bị nghi ngờ ám ảnh rồi đâm ra thất vọng. Tôi xin anh chị em, hết lòng khiêm tốn và tin tưởng nài xin anh chị em, hãy để cho Đức Kitô nói với nhân loại. Chỉ mình Ngài mới có những lời ban sự sống, vâng, sự sống đời đời”[5].

        Mở rộng cửa cho Đức Kitô, đón nhận Ngài vào trong cuộc sống riêng của mình, điều này không đe dọa con người chút nào ; trái lại, đó là lối đi duy nhất phải theo nếu người ta muốn nhận ra con người trong sự thật toàn vẹn của nó, và đề cao con người trong những giá trị của nó.

        Một tổng hợp cốt tử mà người giáo dân có thể thực hiện, giữa Tin Mừng và các bổn phận thường nhật của cuộc sống, sẽ là chứng từ tốt đẹp nhất và có sức thuyết phục nhất để cho thấy rằng chính sự tìm kiếm Đức Kitô và gắn bó với bản thân Ngài, chứ không phải sự sợ hãi, mới là yếu tố quyết định đễ con người sống và lớn lên, và để phát sinh những mẫu sống mới phù hợp hơn với phẩm giá con người.

        Con người được Thiên Chúa yêu thương ! Đó là lời loan báo thật giản dị mà cũng thật xúc động mà Giáo Hội phải nói cho con người. ngôn từ và cuộc sống của mỗi người kitô-hữu có thể và phải làm vang lên sứ điệp này : Thiên Chúa yêu thương anh, chị. Đức Kitô đã đến vì anh, chị. Ngài là “Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6) cho anh, chị.

        Công cuộc Phúc-âm-hóa mới này không những nhắm tới từng cá nhân, nhưng còn nhắm tới toàn bộ các dân tộc trong sự khác biệt về những hoàn cảnh, môi trường, văn hóa của họ, công cuộc ấy nhằm đào tạo những sự hiệp thông trưởng thành trong Giáo Hội, nghĩa là ở đó đức tin gieo rắc và thực hiện hết ý nghĩa nguyên thủy của nó là gắn bó với bản thân Đức Kitô và với Tin Mừng của Ngài, là gặp gỡ và hiệp thông với Ngài qua Bí Tích, là sống trong tình bác ái và phục vụ.

        Giáo dân có vai trò của mình trong việc hình thành những cộng đồng giáo hội, không những bằng việc tham gia tích cực và có trách nhiệm vào đời sống cộng đồng, và như vậy, bằng chứng từ không thể thay thế của họ, nhưng còn bằng sự nhiệt tình và hoạt động truyền giáo cho tất cả những ai chưa tin hay không sống đức tin đã lãnh nhận khi chịu phép Thánh Tẩy.

        Đối với những thế hệ mới, giáo d6n phải góp một phần quý giá, cần thiết hơn bao giờ hết, bằng một nỗ lực triệt để dạy giáo lý. Các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng đã bày tỏ lòng biết ơn đối với công việc của các giáo lý viên, công nhận họ có “một công tác rất quan trọng trong việc làm sinh động các cộng đồng giáo hội”[6]. Hiển nhiên các kitô-hữu làm cha mẹ là những giáo lý viên đầu tiên cho con cái mình, không ai thay thế được ; nhờ bí tích Hôn Phối mà họ có tư năng để làm công tác đó. Nhưng đồng thời, tất cả chúng ta phải xác tín rằng mọi người đã lãnh nhận bí tích thánh tẩy đều có “quyền” được hướng dẫn, giáo dục và được theo dõi trong đức tin cũng như trong cuộc sống kitô-hữu.

Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ

4.             Giáo Hội nhận thấy và đang sống tình trạng cấp bách hiện nay là phải có một công cuộc Phúc-âm-hóa mới, nên không thể tránh né sứ vụ trường kỳ là mang Tin Mừng đến cho hàng triệu triệu người, nam cũng như nữ, chưa nhận biết Đức Kitô là Đấng Cứu Chuộc con người. Đây là công tác truyền giáo đặc trưng nhất mà Đức Giêsu đã và đang mỗi ngày trao phó cho Giáo Hội của Ngài.

        Công việc của giáo dân, vả lại đã không bao giờ thiếu trong lãnh vực này, hiện nay luôn được coi là cần thiết và quý giá hơn cả. Thực vậy, lệnh truyền của Đức Kitô : “Hãy đi khắp tứ phương thiên hẹ” vẫn được rất nhiều giáo dân quảng đại hưởng ứng, sẵn sàng từ giã môi trường sống, công việc, quê hương xứ sở của mình, để đi đến những xứ truyền giáo, ít là trong một thời gian nhất định. Có những đôi vợ chồng kitô-hữu, noi gương Aquila và Priscilla (x. Cv 18 ; Rm 16,3 tt.), đang cống hiến một chứng từ đầy an ủi về tình yêu tha thiết đối với Đức Kitô và Giáo Hội bằng sự hiện diện tích cực của họ tại các xứ truyền giáo. Còn có một sự hiện diện truyền giáo đích thực khác của những người kitô-hữu, do những động lực khác nhau đang sống trong những nước hay những nơi mà Giáo Hội chưa được thiết lập, làm chứng niềm tin riêng của mình.

        Nhưng ngày nay, Giáo Hội nhận thấy vấn đề truyền giáo có một tầm vóc lớn lao và nghiêm trọng đến nỗi chỉ có sự đảm nhận trách nhiệm thực sự liên đới giữa các thành phần trong Giáo Hội, cá nhân cũng như từng nhóm, mới hy vọng có được một giải đáp hiệu quả hơn.

        Lời mời gọi của Công Đồng Vatican II gửi tới các Giáo Hội địa phương vẫn giữ nguyên giá trị của nó ; ngay cả hiện nay, lời mời gọi đó vẫn cần được đón nhận một cách rộng rãi và dứt khoát hơn : “Vì Giáo Hội địa phương có nhiệm vụ phản ánh Giáo Hội toàn cầu một cách hết sức hoàn hảo, nên cũng phải thành thực nhận định rằng mình cũng được sai tới những kẻ chưa tin Chúa Kitô”[7].

        Ngày nay, Giáo Hội phải tiến một bước dài trong công cuộc Phúc-âm-hóa, phải đi vào một giai đoạn lịch sử mới của sự năng động truyền giáo của mình. Trong một thế giới không còn khoảng cách và đang trở nên nhỏ bé hơn, các cộng đồng giáo hội phải đoàn kết với nhau, trao đổi các năng lực và phương tiện, cùng nhau dấn thân vào sứ vụ chung độc nhất là loan báo và sống Tin Mừng. Các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng đã tuyên bố : “Các Giáo Hội được gọi là Giáo Hội trẻ cần sức mạnh của các Giáo Hội kỳ cựu, đồng thời các Giáo Hội này lại cần những chứng từ và sự thúc đẩy nơi các Giáo Hội trẻ, đến nỗi mỗi Giáo Hội hưởng nhờ kho tàng phong phú của các Giáo Hội khác”[8].

        Trong giai đoạn mới này, việc huấn luyện không những hàng giáo sĩ địa phương mà cả bậc giáo dân trưởng thành và có trách nhiệm, trong các Giáo Hội trẻ, được coi như một yếu tố cốt yếu và cần thiết cho việc thiết lập Giáo Hội.[9] Như thế, chính các cộng đồng đã được Phúc-âm-hóa lại lao mình vào những miền đất mới để, đến lượt họ, đáp lại sứ vụ loan báo Tin Mừng Đức Kitô và làm chứng cho Tin Mừng đó.

        Nhờ gương sống và hoạt động của mình, giáo dân có thể cải thiện những mối liên hệ giữa các tín đồ thuộc các tôn giáo khác nhau, nhu các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng đã ghi nhận thật đúng lúc : “Ngày nay Giáo Hội đang sống giữa những người theo các tôn giáo khác nhau ... Mọi người tín hữu, đặc biệt là những giáo dân sống giữa những người thuộc các tôn giáo khác, dù ở trong nước mình hay tại một nước mình di cư đến, đều phải trở thành dấu chỉ về Chúa và Giáo Hội của Ngài cho người dân các nước ấy, theo một cách thích nghi với hoàn cảnh sống của mỗi nước. Đối thoại giữa các tôn giáo là điểm quan trọng hàng đầu, vì giúp người ta biết yêu thương và kính trọng lẫn nhau, xóa tan hay ít ra làm giảm bớt những thành kiến giữa tín đồ thuộc các tôn giáo khác, cổ võ sự hiệp nhất và tinh thần bằng hữu giữa các dân tộc”[10].

        Muốn Phúc-âm-hóa các dân tộc, trước tiên cần có các tông đồ. Để được như vậy, mọi người chúng ta, bắt đầu từ những gia đình Kitô-giáo, phải nhận ra trách nhiệm của mình là cổ võ sự phát triển và trưởng thành của các ơn gọi linh mục, tu sĩ hay giáo dân, đặc biệt hướng tới việc truyền giáo, sử dụng mọi phương tiện, nhưng không bao giờ được quên phương tiện ưu đãi là cầu nguyện, như lời Chúa đã phán : “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin Chủ ruộng sai thợ ra gặt lúa về” (Mt 9,37-38).

Sống Tin Mừng qua việc phục vụ con người và xã hội

5.             Khi đón nhận và loan báo Tin Mừng trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội trở thành một cộng đồng được Phúc-âm-hóa và ra đi Phúc-âm-hóa, do đó Giáo Hội trở thành đầy tớ của mọi người. Trong lòng Giáo Hội, người giáo dân tham gia vào sứ vụ phục vụ con người và xã hội. Chắc chắn mục đích cuối cùng của Giáo Hội là Nước Thiên Chúa, “Giáo Hội là mầm mống và khai nguyên Nước ấy trên trần gian”[11], vì thế Giáo Hội hoàn toàn được dành để làm vinh danh Chúa Cha. Nhưng Nước Thiên Chúa là nguồn mạch của sự giải phóng hoàn toàn và ơn cứu độ trọn vẹn cho con người : Giáo Hội tiến bước với con người, liên đới toàn diện và mật thiết với lịch sử của con người.

        Giáo Hội đã lãnh nhận trọng trách bày tỏ cho thế giới mầu nhiệm Thiên Chúa được chiếu tỏa nơi Đức Giêsu-Kitô, thì đồng thời cũng bày tỏ con người cho chính con người ; Giáo Hội dạy cho con người biết ý nghĩa cuộc đời của họ, cho họ biết sự thật toàn diện về chính họ cũng như về định mệnh của ho.[12] Trong viễn tượng đó, Giáo Hội được mời gọi phục vụ con người, ngay cả do sứ vụ Phúc-âm-hóa của mình. Sự  phục vụ này bén rễ tiên vàn trong biến cố kỳ diệu và chấn động là : “Con Thiên Chúa, khi Nhập Thể, một cách nào đó đã kết hiệp chính mình với tất cả con người”[13].

        Vì thế con người “là con đường đầu tiên Giáo Hội phải theo để hoàn tất sứ vụ của mình. Con người là con đường căn bản đầu tiên của Giáo Hội, con người đã được Đức Kitô vạch ra, con đường đi qua mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc”[14].

        Chính trong ý nghĩa này mà Công Đồng Vatican II đã nhiều lần nói về Giáo Hội cách rất rõ ràng và mạnh mẽ trong nhiều văn kiện khác nhau. Chúng ta hãy đọc lại bản văn có tính cách soi sáng đặc biệt trong Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng : “Trong khi theo đuổi mục đích cứu rỗi cá biệt của mình, Giáo Hội không phải chỉ truyền thông sự sống Thiên Chúa cho con người, nhưng còn chiếu giãi ánh sáng của đời sống ấy cách nào đó trên toàn thế giới. Giáo Hội làm công việc này, trước hết bằng cách chữa trị và nâng cao phẩm giá nhân vị, củng cố cơ cấu của xã hội nhân lọai và thấm nhuần cho hoạt động thường nhật của con người một chiều hướng và một ý nghĩa sâu xa hơn. Như thế, nhờ từng phần tử và tất cả cộng đoàn, Giáo Hội tin tưởng có thể đóng góp nhiều vào việc biến đổi gia đình và lịch sử loài người trở nên nhân đạo hơn”[15].

        Trong việc góp phần này cho gia đình nhân loại mà Giáo Hội có trách nhiệm, người giáo dân có một chỗ đứng đặc biệt, do “đặc tính trần thế” của họ, là đặc tính đòi họ dấn thân “đem đạo vào đời”, theo những thể thức riêng và không thể thay thế.

Cổ võ phẩm giá con người

6.             Khám phá và giúp khám phá phẩm giá bất khả xâm phạm của mọi nhân vị là nhiệm vụ chủ yếu và thậm chí, theo một nghĩa nào đó, là nhiệm vụ trung tâm và liên kết của sự phục vụ mà Giáo Hội và giáo dân trong Giáo Hội được mời gọi đem đến cho gia đình nhân loại.

        Trong các thụ tạo trần thế, chỉ có con người là một “nhân vị, là chủ thể có ý thức và tự do”, và do đó, là “trung tâm và tột đỉnh” của mọi thụ tạo trên trái đất.[16]

        Phẩm giá nhân vị của con người là tài sản quý giá nhất mà con người có được, nhờ đó con người có một giá trị vượt trên tất cả thế giới vật chất. Câu nói của Đức Giêsu – “Được cả thế giới mà phải thiệt thân, thì người ta nào có lợi gì ?” (Mc 8,36) – bao hàm một khẳng định rõ ràng và đầy khích lệ về con người : con người có giá trị không phải do những gì họ “có” – ngay cả khi họ chiếm được cả thế giới ! – nhưng do những gì họ “là”. Tài sản của thế gian không đáng giá bằng tài sản của nhân vị, là chính nhân vị.

        Nếu ta nhìn phẩm giá con người từ nguồn gốc và vận mệnh của nó, ta mới thấy được nét rực rỡ của nó : được Thiên Chúa tạo dựng theo hình ảnh và giống tcm và được cứu chuộc bằng Máu châu báu của Đức Kitô, con người được kêu gọi làm “con trong người Con” và là đền thờ sống động của Chúa Thánh Thần, để được hưởng đời sống vĩnh cửu hiệp thông hồng phúc với Thiên Chúa. Do đó, mọi xúc phạm đến nhân phẩm của mỗi người đều bị trừng phạt trước mặt Thiên Chúa, và là sự xúc phạm đến Đấng Sáng Tạo con người.

        Nhờ có nhân phẩm, con người luôn luôn là một giá trị nơi chính mình và cho mình, và con người phải được nhìn nhận và đối xử đúng với giá trị đó ; không được nhìn nhận hay đối xử với con người như một đồ vật để sử dụng, như một dụng cụ, một món đồ.

        Nhân phẩm là nền tảng của sự bình đẳng giữa mọi người với nhau. Do đó tuyệt đối phải loại bỏ mọi hình thức kỳ thị khác nhau. Thật đáng buồn là sự kỳ thị này vẫn đang chia rẽ và làm sỉ nhục cho gia đình nhân loại : đó là sự kỳ thị chủng tộc, kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị, địa lý, v.v... Mọi hình thức kỳ thị đều là một sự bất công tuyêt đối không thể chấp nhận được, lý do không phải ở những căng thẳng và tranh chấp do sự kỳ thị gây ra trong cuộc sống xã hội, cho bằng sự hạ giá nhân phẩm ; và không chỉ nhân phẩm của nạn nhân chịu sự bất công, nhưng, hơn thế nữa, nhân phẩm của người gây nên bất công đó.

        Là nền tảng của sự bình đẳng giữa mọi người, nhân phẩm còn là nền tảng của sự tham gia và liên đới giữa con người với nhau. Cuối cùng thì sự đối thoại và hiệp thông bám rễ nơi những gì con người “là”, hơn là nơi những gì con người “có”.

        Nhân phẩm là một sở hữu không thể hủy diệt của mọi người. Căn bản là phải ghi nhận sức mạnh bùng nổ của khẳng định dựa trên tính độc nhất không thể thay thế của mọi nhân vị. Do đó mỗi cá nhân chống lại một cách tuyệt đối không khoan nhượng mọi mưu toan đè bẹp hay hủy diệt muốn biến họ trở thành những người vô danh trong tập thể, định chế, cơ cấu hay hệ thống. Nhân vị, trong tính cá thể của mình, không phải là một con số, không phải là một mắt xích, cũng không phải là một bánh xe trong một hệ thống. Quả quyết triệt để nhất và cao quý nhất về giá trị của mọi người đã được Con Thiên Chúa tuyên bố, khi Ngài nhập thể trong cung lòng một người nữ. Lễ Giáng Sinh Kitô-giáo vẫn hằng nhắc nhở chúng ta về lời quả quyết đó.[17]

Tôn trọng quyền sống, một quyền bất khả xâm phạm

7.             Việc nhìn nhận thực sự nhân phẩm của tất cả mọi người đòi phải tôn trọng, bảo vệ và cổ võ những quyền của con người. Đây là những quyền tự nhiên, phổ quát và bất khả xâm phạm : bất kỳ ai, dù là cá nhân hay tập thể, dù quyền bính hay Nhà Nước, cũng không thể sửa đổi các quyền đó, càng không thể hủy bỏ chúng, vì những quyền này bắt nguồn từ chính Thiên Chúa.

        Tính bất khả xâm phạm của ngôi vị phản ánh tính tuyệt đối bất khả xâm phạm của chính Thiên Chúa, được biểu lộ trước tiên và căn bản nơi tính bất khả xâm phạm của sự sống con người. Chắc chắn nói đến những quyền của con người, chẳng hạn quyền có sức khỏe, có chỗ ở, có việc làm, quyền lập gia đình, học hành ... là điều chính đáng ; nhưng nói đến những quyền đó, như người ta thường làm, mà lại không cương quyết bảo vệ quyền được sống như là quyền đầu tiên, là nguồn gốc và điều kiện của mọi quyền khác của con người, thì chính là gieo rắc sự sai lầm và ảo tưởng.

        Giáo Hội đã không bao giờ thú nhận mình thua cuộc trước mọi hình thức vi phạm mà quyền được sống, quyền của mọi người, đã và đang phải chịu do tư nhân hay chính quyền. Chủ thể của quyền này là con người, trong suốt quá trình phát triển của nó, từ khi hình thành trong bào thai cho đến khi chết theo tự nhiên, và trong mọi tình trạng, dù mạnh khỏe hay đau yếu, lành lặn hay thương tật, giầu có hay nghèo khổ. công Đồng Vatican II đã nhấn mạnh : “Tất cả những gì đi ngược với chính sự sống, như giết người dưới bất cứ hình thức nào, diệt chủng, phá thai, giết chết cách êm dịu hoặc tự tử cố ý ; tất cả những gì xâm phạm sự toàn vẹn của con người, như cắt bỏ một phần thân xác, hành hạ thân xác hoặc tâm trí, làm áp lực tâm lý ; tất cả những gì xúc phạm đến nhân phẩm, như những cảnh sống thấp kém dưới mức độ phải có của con người, giam cầm vô cớ, lưu đày, nô lệ, mãi dâm, buôn bán phụ nữ và trẻ con ; kể cả những tình trạng làm việc nhục nhã khiến cho công nhân hoàn toàn trở thành dụng cụ cho lợi lộc, chứ không được coi như con người tự do và có trách nhiệm : tất cả những điều nói trên và những điều tương tự đều thực sự ô nhục. Và trong khi làm thối nát nền văn minh nhân loại, thì tất cả những điều trên lại càng bôi nhọ chính những kẻ chủ động hơn là bôi nhọ những kẻ phải chịu sự nhục nhã, đồng thời cũng xúc phạm nặng nề đến danh dự của Đấng Tạo Hóa”[18].

        Nếu mỗi người đều có sứ vụ và trách nhiệm nhìn nhận nhân phẩm của mọi người và bảo vệ quyền được sống của họ, thì một số giáo dân lại được mời gọi thực hiện điều đó với một danh nghĩa đặc biệt : những bậc cha mẹ, những nhà giáo dục, nhân viên y tế và y tá, và tất cả những qi đang nắm quyền kinh tế và chính trị.

        Khi ưu ái và quảng đại đón nhận sự sống con người, nhất là khi sự sống đó yếu ớt và bệnh tật, Giáo Hội hôm nay đang sống một thời điểm trọng đại trong sứ vụ của mình, một sứ vụ càng cần thiết khi nền “văn hóa sự chết” đang càng được khẳng định. Thật vậy, “Giáo Hội tin tưởng mạnh mẽ raà¨người sự sống con người, dù có yếu ớt và đầy đau khổ, vẫn luôn luôn là một hồng ân tuyệt vời của Thiên Chúa tốt lành. Chống lại sự bi quan và ích kỷ đang làm lu mờ thế giới, Giáo Hội đứng về phía sự sống, và trong mỗi sự sống con người, Giáo Hội biết khám phá lại nét cao đẹp của tiếng ‘Thưa Vâng’, của tiếng ‘Amen’ là Đức Kitô (x. 2 Cr 1,19 ; Kh 3,14). Đối ngược với tiếng ‘không’ đang tràn ngập và làm cho thế giới ảm đạm, Giáo Hội đưa ra tiếng ‘thưa vâng’ sống động, bênh vực con người và thế giới chống lại những ke đang đe dọa sự sống và làm tổn thương nó”[19]. Người giáo dân, do ơn gọi hoặc do nghề nghiệp có trách nhiệm trực tiếp hơn phải đón nhận sự sống, phải cụ thể hóa và hữu hiệu hóa lời “Thưa Vâng” của Giáo Hội đối với cuộc sống con người.

        Những khả năng và trách nhiệm mới đã mở ra nơi biên cương cuộc sống con người, nhờ sự phát triển vượt bậc của khoa sinh học và y học, song song với những tiến bộ lạ lùng của công nghiệp học : con người ngày nay có đủ khả năng để không những “quan sát” mà còn “thao tác” được sự sống con người ngay từ giây phút đầu tiên của nó và trong những giai đoạn phát triển đầu tiên của nó.

        Lương tâm của nhân loại không thể xa lạ hoặc dửng dưng trước những bước tiến khổng lồ được thực hiện do một khả năng công nghệ học có một ảnh hưởng càng ngày càng lớn lao và sâu đậm trên những năng động làm chủ sự sinh sản và những giai đọan phát triển đầu tiên của con người. có lẽ chưa bao giờ như ngày nay và trong lãnh vực này, sự Khôn Ngoan là chiếc neo cứu thóat duy nhất, để khi nghiên cứu khoa học và tìm cách ứng dụng, con người có thể luôn hành động theo lý trí và tình yêu, nghĩa là biết tôn trọng, hoặc hơn nữa, biết kính trọng nhân phẩm bất khả xâm phạm của mọi người, ngay từ giây phút đầu tiên của cuộc sống con người. Muốn được như vậy thì khoa học và kỹ thuật, bằng những phương tiện hợp pháp, phải dấn thân bảo vệ sự sống và chữa chạy tật bệnh ngay từ đầu, và, nhân danh chính phẩm giá của sự nghiên cứu, từ chối những can thiệp có thể hủy hoại gia sản truyền sinh của một cá nhân và của một giống nòi.[20]

        Giáo dân dấn thân trong ngành khoa học và kỹ thuật, với những danh nghĩa và trên những bình diện khác nhau, cũng như những ai có trách nhiệm trong ngành y học, xã hội, luật pháp hay kinh tế, phải can đảm chấp nhận “những thách đố” do những vấn đề mới của đạo đức sinh học gây ra. Các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng đã khẳng định : “Các kitô-hữu phải thi hành trách nhiệm như những chủ nhân của khoa học và công nghệ học chứ không được làm nô lệ cho chúng ... Trước viễn tượng về những “thách đố” gây hiểm họa, không những cho các quyền căn bản của con người, nhưng còn cho cả yếu tính sinh học của nhân lọai, trước viễn tượng đó, điều hết sức quan trọng là người giáo dân, với sự trợ giúp của toàn thể Giáo Hội, phải đảm nhận trọng trách nhắc cho văn hóa những nguyên tắc của một nền nhân bản đích thực để công việc cổ võ và bảo vệ các quyền của con người có thể tìm thấy nền tảng năng động và cững chắc trong chính yếu tính của nó, yếu tính đã được lời rao giảng Tin Mừng mạc khải cho con người”[21].

        Ngày nay, mọi người phải cảnh giác cao độ trước hiện tượng tập trung quyền lực, mà trước hết là quyền lực của công nghệ học. Thật vậy, sự tập trung này hướng tới chỗ thao tác không những vào yếu tính sinh học, mà còn vào chính bên trong ý thức và cách sống của con người, và như vậy, làm tăng thêm sự kỳ thị và làm cho toàn thể nhiều dân tộc phải sống bên lề.

Tự do kêu cầu Danh Chúa

8.             Sự tôn trọng phẩm giá con người, gồm cả việc bảo vệ và cổ võ các quyền của con người, đòi phải nhìn nhận chiều kích tôn giáo của con người. Đây không phải là một đòi hỏi đơn thuần “tuyên tín”, nhưng là một đòi hỏi có căn rễ không thể hủy diệt trong thực tại con người. Thật vậy, tương quan với Thiên Chúa là một yếu tố cấu thành “hữu thể” và “hiện hữu” của con người : chính do Thiên Chúa mà “chúng ta sống, chúng ta cử động và chúng ta có” (Cv 17,28). Nếu không phải mọi người đều chấp nhận chân lý này, thì những ai thấm nhuần chân lý này đều có quyền được người khác tôn trọng niềm tin của họ và tôn trọng sự lựa chọn cách sống theo niềm tin đó, từng cá nhân hay cả cộng đồng. Chính đó là quyền tự do lương tâm và tự do tôn giáo. Nhìn nhận thực sự những quyền này chính là một trong những thiện ích cao quý nhất và là một trong những bổn phận gắt gao nhất của mỗi dân tộc, nếu muốn thực sự bảo đảm thiện ích của con người và xã hội : “Tự do tôn giáo, một đòi hỏi không thể bị hủy diệt của phẩm giá mọi người, là viên đá góc trong tòa nhà các quyền của con người, và do đó, la yếu tố không thể thay thế của thiện ích con người và toàn thể xã hội, cũng như của sự triển nở cá nhân mỗi người. bởi đó sự tự do xưng đạo và hành đạo của cá nhân hay tập thể là yếu tố chính yếu để con người sống chung hòa bình... Luật dân sự và xã hội về quyền tự do tôn giáo, vì đụng chạm tới phần sâu kín nhất của tinh thần, nên là điểm tham chiếu, và, theo một nghĩa nào đó, trở nên thước đo của những quyền căn bản khác”[22].

        Thượng-hội-đồng đã không quên nhiều anh chị em chưa được hưởng quyền đó, là những người đang phải đương đầu với biết bao khó khăn, bị gạt bên lề, khổ đau, bách hại và có khi cả cái chết, vì tuyên xưng đức tin của mình. Một số đông trong những người đó là anh chị em giáo dân. Việc loan báo Tin Mừng và làm chứng một đời sống kitô-hữu trong những khổ đau và tử đạo chính là đỉnh cao trong tông đồ vụ của người môn đệ Đức Kitô, như tình yêu của Chúa Giêsu đạt tới chỗ trao hiến chính mạng sống Ngài tạo thành một nguồn mạch phong phú lạ thường để xây dựng Giáo Hội. Như thế, cây nho huyền nhiệm đã chứng tỏ được sức mạnh của nó, như thánh Augustinô đã ghi nhận : “Cây nho này, như các Tiên Tri và chính Chúa đã báo trước, đã tỏa ra trên khắp thế giới những cành đầy hoa trái, và càng sống mạnh khi càng được tưới bằng rất nhiều máu của các thánh tử đạo”[23].

        Toàn thể Giáo Hội biết ơn sâu xa tấm gương và hồng ân này : nơi những kitô-hữu quảng đại này, Giáo Hội tìm thấy một động lực để canh tân sự vươn lên của mình trong đời sống thánh thiện và tông đồ. Trong chiều hướng đó, các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng đã nghĩ mình có bổn phận phải “cảm ơn những giáo dân đã làm chứng không mỏi mệt cho đức, trung thành hiệp nhất với Tòa Thánh, cho dù có những hạn chế áp đặt trên sự tự do của họ, cho dù thiếu thừa tác viên có chức thánh nơi họ ở. Họ liều bỏ mọi sự, ngay cả tính mạng. Như vậy, giáo dân minh chứng cho một đặc tính chủ yếu của Giáo Hội, đó là : Giáo Hội của Thiên Chúa sinh ra do ân sủng Thiên Chúa. Chúng ta thấy điều này được diễn tả một cách tuyệt vời nhất trong sự tử đạo”[24].

        Cho tới đây, tất cả những gì chúng tôi nói về việc tôn trọng phẩm giá con người và nhìn nhận các quyền của con người chắc chắn có liên hệ đến trách nhiệm của mỗi kitô-hữu và của mỗi người. Nhưng chúng tôi phải ghi nhận ngay rằng vấn đề này có một chiều kích toàn cầu : thực vậy, đây là một vấn đề ảnh hưởng tới toàn thể những nhóm người, thậm chí toàn thể những dân tộc đang bị xúc phạm nặng nề trong những quyền căn bản. Các hình thức bất bình đẳng này trong sự phát triển giữa các Thế-giới khác nhau đã bị tố giác rất rõ trong Thông điệp Quan tâm đến vấn đề xã hội mới được ban hành.

        Sự tôn trọng nhân vị vượt trên đòi hỏi của một nền luân lý cá nhân và được coi như một tiêu chuẩn nền tảng, có thể nói, như cột trụ cho việc cấu trúc chính xã hội, vì cùng đích của toàn thể xã hội là con người.

        Như vậy, trách nhiệm phục vụ xã hội liên hệ chặt chẽ với trách nhiệm phục vụ con người. Bằng cách này, người ta cũng có thể định nghĩa cách tổng quát sứ vụ đem đạo vào đời, mà người tín hữu được mời gọi chu toàn theo những thể thức riêng biệt và đặc thù của mình.

Gia đình, không gian đầu tiên để dấn thân vào xã hội

9.             Trong cơ cấu tự nhiên của mình, con người có một chiều kích xã hội, vì tự thâm tâm, con người được mời gọi để sống hiệp thông với tha nhân, và để hiến thân cho người khác : “Thiên Chúa, vời lòng từ phụ hằng chăm sóc mọi người, đã muốn rằng mọi người họp thành một gia đình và đối xử với nhau như anh chị em”[25]. Như thế, xã hội, là kết quả và dấu chỉ của tính hợp quần của con người, biểu lộ thực tại đầy đủ nhất của mình khi nó là một cộng đồng các nhân vị.

        Có sự tương thuộc và hỗ tương giữa con người và xã hội : tất cả những gì giúp ích cho con người cũng là để phục vụ xã hội, và tất cả những gì làm cho xã hội cũng là để giúp ích cho con người. Vì thế, sự dấn thân hoạt động tông đồ của giáo dân trong lãnh vực trần thế luôn luôn gắn liền với ý nghĩa phục vụ từng cá nhân, trong tính độc nhất không thể thay thế của cá nhân đó, và với ý nghĩa phục vụ tất cả mọi người.

        Cách diễn tả đầu tiên và nguyên thủy của chiều kích xã hội nơi con người, chính là đôi vợ chồng và gia đình : “Nhưng Thiên Chúa đã không dựng nên người đàn ông một mình : ngay từ đầu, ‘Ngài đã sáng tạo nên con người có nam có nữ’ (St 1,27). Xã hội gồm người nam và người nữ này là sự diễn tả đầu tiên của sự hiệp thông giữa các con người”[26]. Đức Giêsu đã quan tâm phục hồi tất cả phẩm giá cho đôi vợ chồng và sự vững chắc cho gia đình (x. Mt 19,3-9). Thánh Phaolô đã cho thấy tương quan sâu xa của hôn nhân với mầu nhiệm Đức Kitô và Giáo Hội (x. Ep 5,22 ; 6,4 ; Cl 3,18-21 ; 1 Pr 3,1-7).

        Vợ chồng và gia đình là không gian đầu tiên để giáo dân dấn thân vào xã hội. Sự dấn thân này chỉ có thể thực hiện hữu hiệu khi xác tín về giá trị duy nhất và không thể thay thế của gia đình trong việc phát triển xã hội và chính Giáo Hội.

        Gia đình là chiếc nôi của sự sống và tình yêu, trong đó con người “sinh ra” và “lớn lên”, nên là tế bào nền tảng của xã hội. Cần phải quan tâm đặc biệt đến cộng đồng này, nhất là khi tính íchkỷ của con người, các chiến dịch chống lại việc sinh sản, và cả những tình trạng nghèo khổ và khốn cùng về thể lý, văn hóa và luân lý, rồi não trạng tìm kiếm khoái lạc, việc chạy đua tiêu thụ đang làm cạn đi các nguồn mạch sự sống, trong khi đó, các ý thức hệ và hệ thống khác nhau cũng như những hình thức vô tâm và thiếu tình thương đang tấn công chức năng giáo dục dành riêng cho gia đình.

        Trong những điều kiện như thế, cần phải cấp bách mở ra một hoạt động rộng lớn, sâu xa và có hệ thống, được nâng đỡ không những nhờ văn hóa nhưng còn nhờ những phương tiện kinh tế và các định chế luật pháp, nhằm mục đích bảo đảm cho gia đình địa vị là nơi đầu tiên “nhân bản hóa” con người và xã hội.

        Việc người giáo dân dấn thân hoạt động tông đồ trong gia đình trước hết là làm cho gia đình ý thức về căn tính của mình, là hạt nhân nền tảng đầu tiên của xã hội, cũng như về vai trò độc đáo của mình trong xã hội, để rồi chính gia đình ngày càng trở thành người chủ chốt tích cực và có trách nhiệm về sự tiến triển của riêng mình và sự tham gia của mình vào đời sống xã hội. Theo cách này, gia đình sẽ có thể và phải đòi hỏi tất cả mọi người, trước tiên là chính quyền, phải tôn trọng các quyền của gia đình, vì những quyền này, khi bảo vệ gia đình, thì cũng bảo vệ chính xã hội.

        Điều mà tất cả mọi người có thể đọc được trong Tông huấn về Gia Đình khi bàn về sự đóng góp của gia đình vào việc phát triển xã hội,[27] và điều mà Tòa Thánh, dựa theo lời kêu gọi của Thượng-hội-đồng Giám-mục năm 1980, đã thảo ra trong “Hiến Chương các Quyền của Gia Đình”, những điều ấy tạo nên một chương trình hoạt động hoàn chỉnh và hữu cơ cho tất cả mọi giáo dân, là những người, với nhiều danh nghĩa khác nhau, quan tâm đến việc thăng tiến các giá trị và các đòi hỏi của gia đình : một chương trình cần được thực hiện thật mau mắn và dứt khoát, vì những đe dọa càng lúc càng quyết liệt nhằm đả phá tính bền vững và phong phú của gia đình, cũng như vì khuynh hướng ngày càng mạnh mẽ và có hệ thống nhằm gạt gia đình sang bên lề và triệt tiêu tầm quan trọng của gia đình trong xã hội.

        Kinh nghiệm cho thấy rằng nền văn minh và sự vững bền của các dân tộc tùy thuộc trước tiên vào phẩm chất con người trong các gia đình. Như thế, việc dấn thân hoạt động tông đồ trong môi trường gia đình có một giá trị xã hội không gì so sánh được. Giáo Hội xác tín sâu xa vào điều đó ; Giáo Hội biết rõ “tương lai của nhân loại phải đi qua gia đình”[28].

Đức ái, linh hồn và sự nâng đỡ của tình liên đới

10.         Việc phục vụ xã hội được diễn tả và thể hiện theo nhiều cách thế rất khác nhau : từ những hình thức tự do và không chính thức đến những hình thức có tính cách cơ chế, từ sự trợ giúp cách riêng các cá nhân đến sự trợ giúp những nhóm khác nhau và các cộng đồng.

        Toàn thể Giáo Hội được trực tiếp mời gọi phục vụ đức ái : “Giáo Hội đặt bữa ‘agapè’ đi liền với bữa Tiệc Thánh Thể để biệu lộ sự hiệp nhất hoàn toàn trong tình yêu thương chung quanh Chúa Kitô ; như vậy, bất cứ thời đại nào, người ta cũng nhận ra Giáo Hội nhờ dấu chỉ tình yêu này, và Giáo Hội đã tự đảm nhận những công cuộc bác ái như là nhiệm vụ và quyền lợi bất khả di nhượng của mình. Vì thế Giáo Hội đặc biệt đề cao lòng thương xót đối với người nghèo đói, bệnh tật, cũng như những công cuộc mệnh danh là từ thiện và tương trợ để xoa dịu mọi nỗi thống khổ của nhân lọai”[29]. Đức ái đối với người thân cận, dưới hình thức cổ xưa và luôn mới mẻ của các công việc từ thiện nhằm giúp đỡ thể xác lẫn tinh thần, đức ái ấy luôn bày tỏ nội dung trực tiếp nhất, phổ biến và thông thường nhất của việc đem đạo vào đời, là hoạt động tạo nên sự dấn thân chuyên biệt của giáo dân.

        Khi bác ái với người thân cận, giáo dân sống và bày tỏ sự quan tâm của mình vào vương quyền của Đức Giêsu-Kitô, tức là vào quyền năng của Con Người, Đấng “đã đến không phải để được kẻ hầu người hạ, nhưng là để hầu hạ” (Mc 10,45) : họ sống và bày tỏ vương quyền này theo cách thức đơn giản nhất, trong tầm tay của mọi người cũng như của mọi thời đại, đồng thời cũng theo cách thức đáng biểu dương nhất, bởi vì đức ái là ân huệ cao trọng nhất do Thánh Thần ban để xây dựng Giáo Hội (x. 1 Cr 13,13) và vì thiện ích của nhân loại : Đức ái làm sinh động và nâng đỡ một mối liên đới tích cực, đầy qyan tâm tới mọi nhu cầu của con người.

        Một đức ái như thế, được thi hành không những do riêng tư một số người, nhưng cả trong sự liên đới giữa các nhóm và cộng đồng, đang và sẽ mãi mãi cần thiết : không điều gì và không một ai có thể thay thế đức ái đó, kể cả nhiều định chế và những sáng kiến của tập thể, tuy rằng những hình thức này nỗ lực đáp ứng những nhu cầu của một dân cư – những nhu cầu thường cần thiết và lớn lao hiện nay –. Một cách nghịch lý, đức ái này lại càng cần thiết hơn, vì những cơ chế trở nên cồng kềnh trong tổ chức và có tham vọng điều hành mọi lãnh vực có sẵn, cuối cùng lại không kiến hiệu do chế độ công chức không người chịu trách nhiệm, do hệ thống bàn giấy thái quá, do lợi lộc riêng tư quá đáng, và do một sự thờ ơ dễ dãi và phổ biến.

        Chính trong bối cảnh này mà nhiều hình thức thiện nguyện khác nhau, với vô số dịch vụ và công tác, không ngừng xuất hiện và lan rộng, đặc biệt trong những xã hội có tổ chức. Nếu việc thiện nguyện này được thực hiện đúng với bản chất của nó là phục vụ con người cách vô vị lợi, đặc biệt những người thiếu thốn nhất và những người bị quên lãng nhất trong chính các dịch vụ xã hội, thì nó phải được coi như một cách biểu lộ quan trọng của hoạt động tông đồ, trong đó, các giáo dân, nam cũng như nữ, có một vai trò hàng đầu.

Những người tham gia vào đời sống chính trị

và những người được hưởng lợi ích của đời sống đó

11.         Đức ái yêu mến và phục vụ con người, không được tách rời khỏi đức công bình : cả hai, mỗi bên theo cách của mình, đều đòi hỏi sự nhìn nhận toàn diện và hữu hiệu các quyền của con người, đối tượng mà xã hội với tất cả những cơ cấu và định chế của nó hướng tới.[30] Để đem đạo vào đời, theo ý nghĩa chúng ta vẫn nói, là phục vụ con người và xã hội, giáo dân tuyệt đối không thể từ chối tham gia vào “chính trị”, tức là những hoạt động đa dạng về kinh tế, xã hội, luật pháp, hành chánh, văn hóa, một chính trị có mục đích cổ võ công ích một cách có tổ chức và qua các định chế. Các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng đã nhiều lần khẳng định điều đó : tất cả và từng người đều có quyền và bổn phận tham gia vào chính trị ; sự tham gia này có thể rất khác nhau và bổ túc cho nhau về hình thức, về mức độ, về công tác và trách nhiệm. Những lời tố cáo về óc địa vị, tệ sùng bái quyền hành, tính ích kỷ và sự tham nhũng thường được đưa ra để chống lại các người của chính quyền, của quốc hội, của giai cấp thống trị, của các đảng phái chính trị, cũng như ý kiến khá phổ biến cho rằng chính trị nhất thiết là lãnh vực nguy hiểm về luân lý, tất cả những điều ấy không biện minh tý nào cho thái độ hoài nghi cũng như chủ trương không tham gia của người kitô-hữu đối với vấn đề chính trị.

        Ngược lại, Công Đồng Vatican II đã đưa ra những lời đầy ý nghĩa : “ Giáo Hội ca ngợi và quý trọng việc làm của những người vì lợi ích quốc gia mà dấn thân phục vụ con người cùng nhận lãnh gánh nặng của trách nhiệm này”[31].

        Một chính trị vì con người và vì xã hội đặt tiêu chuẩn nền tảng trên chủ trương theo đuổi công ích, tức là lợi ích của tất cả mọi người cũng như của con người toàn diện, lợi ích được trao tặng và bảo đảm để con người, cá nhân cũng như tập thể, có thể đón nhận cách tự do và có trách nhiệm : “Cộng đồng chính trị chỉ hiện hữu là vì công ích ; chính công ích là lý do tồn tại, là ý nghĩa và là căn bản pháp lý cho cộng đồng chính trị. Công ích nói đây bao gồm tất cả những điều kiện của đời sống xã hội ; nhờ những điều kiện này, cá nhân, gia đình và đoàn thể có thể triển nở cách trọn vẹn và dễ dàng hơn”[32].

        Hơn nữa, một chính trị vì con người và vì xã hội phải có định hướng trường kỳbảo vệcổ võ sự công bình, hiểu như là một “đức tính” cần được huấn luyện cho mọi người, và như một “sức mạnh” luân lý nâng đỡ những ai nỗ lực ủng hộ các quyền và bổn phận của tất cả và từng người, dựa trên nền tảng là nhân phẩm của con người.

        Việc thi hành quyền bính chính trị phải đặt nền trên tinh thần phục vụ ; tinh thần này, cùng với khả năng chuyên môn và hiệu năng cần có, là điều kiện thiết yếu để làm cho hoạt động của các chính trị gia được “trong sáng” và “liêm khiết”, hơn nữa đây cũng là đòi hỏi rất chính đáng của dân chúng. Muốn vậy, cần có sự đấu tranh công khai và cần chiến thắng một số cám dỗ, chẳng hạn như sử dụng những cách xoay xở bất chính, gian dối, biển thủ công quỹ nhằm lợi ích của một số người hay vì những mục đích của các “thân chủ”, sử dụng những phương thế mờ ám và bất hợp pháp để, bằng mọi giá, chiếm đọat, duy trì và bành trướng quyền hành.

        Chắc chắn rằng người giáo dân dấn thân vào công việc chính trị phải tôn trọng tính độc lập của các thực tại trần thế, hiểu theo nghĩa đã được Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng xác định : “... Điều rất quan trọng là cần nhận thức chính xác về mối tương quan giữa cộng đoàn chính trị và Giáo Hội. Cũng cần phải phân biệt minh bạch giữa những hành động của các tín hữu, hoặc cá nhân hoặc đoàn thể, với danh nghĩa công dân, dưới sự hướng dẫn của lương tâm Kitô-giáo, và những hành động của các tín hữu khi họ nhân danh Giáo Hội và hợp nhất với các chủ chăn của họ. Vì lý do chức vụ và thẩm quyền của mình, Giáo Hội không cách nào bị đồng hóa với một cộng đồng chính trị và cũng không hề cấu kết với bất cứ hệ thống chính trị nào, vì Giáo Hội vừa là dấu chỉ vừa là đảm bảo cho tính cách siêu việt của con người”[33]. Đồng thời – và điều này ngày nay được coi như một sự cấp bách và như một trách nhiệm – giáo dân phải làm chứng về những giá trị của con người và Tin Mừng, là những giá trị có liên hệ mật thiết đến hoạt động chính trị, chẳng hạn như tự do và công lý, tình liên đới, sự tận tụy trung thành và vô vị lợi đối với thiện ích của mọi người, cách sống giản dị, tình thương ưu tiên dành cho người nghèo khổ và người bé mọn nhất. Điều này đòi hỏi giáo dân phải ngày càng tìm thấy hứng khởi tinh thần nhờ tham gia thực sự vào đời sống Giáo Hội, và được học thuyết xã hội của Giáo Hội soi sáng. Trong công việc này, họ có thể được các cộng đồng Kitô-giáo, các chủ chăn theo dõi giúp đỡ.[34]

        Tình liên đới là kiểu cách và phương thế để thực hiện một đường lối chính trị nhằm phát triển đích thực con người : tình liên đới này đòi hỏi mọi người tham dự tích cực và có trách nhiệm vào đời sống chính trị, từ mỗi công dân đến các nhóm khác nhau nhất, từ các nghiệp đoàn đến các đảng phái ; mọi người và từng người, tất cả chúng ta vừa là những người được hưởng lợi từ chính trị vừa là những người tham dự chủ động vào chính trị. Trong những hình thức phối hợp như thế, như tôi đã viết trong Thông điệp Quan tâm tới vấn đề xã hội, sự liên đới “không phải là mối đồng cảm mơ hồ hay xúc động hời hợt trước những đau khổ của bao nhiêu người xa gần. Ngược lại, đó là quyết tâm mạnh mẽ và bền vững dấn thân cho công ích, nói khác đi, cho ích lợi của mọi người và từng người, vì tất cả chúng ta đều thực sự có trách nhiệm về mọi người[35].

        Ngày nay, sự liên đới chính trị phải được thể hiện ngang tầm với đường chân trời, vượt khỏi mỗi quốc gia hoặc khối quốc gia, đạt tới tầm mức lục địa hay thế giới.

        Kết quả của hoạt động chính trị liên đới, kết quả mà mọi người đều rất mong ước, nhưng cho đến nay vẫn chưa đạt tới chín muồi, đó là hòa bình. Giáo dân không thể dửng dưng, xa lạ hay biếng nhác trước tất cả những gì chối bỏ và gây phương hại đến hòa bình, như : bạo lực và chiến tranh, hành hạ và khủng bố, trại tập trung, quân sự hóa chính trị, chạy đua vũ trang, hiểm họa hạt nhân. Ngược lại, với tư cách là những môn đệ của Đức Giêsu-Kitô, Đấng là “Hoàng Tử bình an” (Is 9,5) và “Bình An của chúng ta” (Ep 2,14), giáo dân phải đảm nhận công việc của những người “xây dựng hòa bình” (Mt 5,9), bằng việc hoán cải tâm hồn cũng như bằng hành động cổ võ cho chân lý, cho tự do, công bình và bác ái, là những nền tảng không thể tước bỏ của hòa bình”[36].

        Khi cộng tác với tất cả những ai thực sự tìm kiếm hòa bình và khi sử dụng những cơ quan chuyên biệt và các thể chế quốc gia cũng như quốc tế, giáo dân phải cổ võ một công cuộc giáo dục tế vi, nhằm chế ngự thứ văn hóa nổi trội về sự ích kỷ, hận ghét, báo thù, hiềm khích, và phát triển một thứ văn hóa liên đới ở mọi cấp độ. Thực vậy, sự liên đới “là con đường đi tới hòa bình, đi tới phát triển”[37]. Trong nhãn giới đó, các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng đã kêu mời các kitô-hữu đẩy lùi mọi hình thức bạo lực không thể chấp nhận, cổ võ những thái đọ đối thoại và hòa bình, đồng thời dấn thân xây dựng một trật tự xã hội và quốc tế trong công bình.[38]

Đặt con người ở trung tâm đời sống kinh tế – xã hội

12.         Điểm hành động chủ yếu của sự phục vụ xã hội từ phía giáo dân tập trung vào vấn đề kinh tế – xã hội, mà chìa khóa giải quyết là việc tổ chức lao động.

        Mức độ nghiệm trọng hiện nay của những vấn đề này, nhìn trong toàn cảnh của sự phát triển và theo đề nghị giải quyết do học thuyết xã hội của Giáo Hội đưa ra, mới được nhắc tới trong Thông điệp Quan tâm tới vấn đề xã hội ; tôi rất mong muốn tất cả anh chị em, đặc biệt là giáo dân, đọc lại văn kiện đó.

        Trong số những điểm chính của học thuyết xã hội của Giáo Hội, có nguyên tắc của cái thuộc về tất cả mọi người : trong ý định của Thiên Chúa, của cải trên trái đất được ban tặng cho mọi người và từng người, như một phương thế để phát triển một đời sống đích thực của con người. Quyền tư hữu nhằm thực hiện nguyên tắc đó, và chính vì mục đích này, quyền tư hữu có một chức năng xã hội ngay trong nội tại. Một cách cụ thể, việc lao động của người nam và người nữ cho thấy phương tiện phổ biến và trực tiếp nhất để phát triển đời sống kinh tế, phương tiện này làm thành một quyền lợi và cũng là một bổn phận của mỗi người.

        Tất cả những điều đó đều thuộc phạm vi sứ vụ của người giáo dân cách đặc biệt. Mục đích và tiêu chuẩn cho sự hiện diện và hành động của họ được Công Đồng Vatican II trình bày bằng những từ ngữ tổng quát như sau : “Ngày trong đời sống kinh tế – xã hội, phẩm giá cũng như ơn gọi toàn diện của con người và lợi ích của toàn thể xã hội phải được tôn trọng và thăng tiến. Vì con người là tác giả, là tâm điểm và là cứu cánh của tất cả đời sống kinh tế – xã hội”[39].

        Trước bối cảnh những biến chuyển đang diễn ra trong thế giới lao động và kinh tế, và làm đảo lộn nó, ước gì giáo dân thuộc vào số những người tiên phong tìm mọi cách giải quyết những vấn đề rất nghiêm trọng của nạn thất nghiệp đang gia tăng ; ước gì họ đấu tranh đến cùng để chống lại vô vàn bất công phát sinh từ những tổ chức sai trái về lao động ; ước gì họ nỗ lực biến nơi làm việc thành môi trường sống của một cộng đồng gồm những con người mà nét đặc thù và quyền tham gia của họ được tôn trọng ; ước gì họ cố gắng phát triển những mối liên đới mới mẻ giữa những người cùng làm việc chung với nhau, gợi ra những hình thức kinh doanh mới và kêu gọi xét lại những hệ thống thương mại, tài chánh cũng như trao đổi công nghệ học.

        Trong mục đích này, giáo dân phải chu toàn công việc của mình với khả năng nghề nghiệp chuyên môn, với tính liêm khiết của con người, với tinh thần Kitô-giáo, như là phương tiện thánh hóa chính mình,[40]  theo lời kêu gọi của Công Đồng : “Nhờ việc làm, con người theo lệ thường nuôi sống mình và gia đình, liên kết với anh em và phục vụ họ, có thể thực thi bác ái đích thực và góp công vào việc kiện toàn công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa. Hơn nữa, chúng tôi cho rằng nhờ việc làm của mình, con người cộng tác vào chính công cuộc cứu chuộc của Chúa Giêsu-Kitô, Đấng đã nâng cao giá trị của việc làm khi Người làm việc với chính hai bàn tay của mình tại Nadarét”[41].

        Liên hệ đến đời sống kinh tế – xã hội và lao động, ngày nay vấn đề được gọi là “sinh-thái-học”, đang được đặt ra càng ngày càng nhức nhối. Chắc chắn, con người được Thiên Chúa trao phó công việc “thống trị” các lòai thụ tạo và “chăm sóc thửa vườn” trần gian ; thế nhưng, con người phải chu toàn công việc này với lòng tôn trọng hình ảnh Thiên Chúa mà họ đã lãnh nhận, và do đó, chu toàn trong hiểu biết và yêu mến : họ phải cảm thấy có trách nhiệm về những ân huệ Thiên Chúa đã rộng ban và không ngừng rộng ban cho họ. Con người sử dụng một ân huệ mà họ phải chuyển giao cho các thế hệ tương lai – và nếu có thể, phải làm cho nó tốt hơn –, vì chính các thế hệ này cũng là những người được thừa hưởng hồng ân của Chúa : “Quyền thống trị do Đấng Sáng Tạo ban cho con người... không phải là một quyền tuyệt đối, và người ta không thể nói về một thứ tự do ‘sử dụng và lạm dụng’, hay định đoạt sự vật như mình muốn. Giới hạn được đặt ra cách tượng trưng bằng lệnh cấm ‘ăn trái cấm’ (x. St 2,16-17), cho thấy một cách đủ rõ là, trong khuôn khổ của thiên nhiên hữu hình, ... chúng ta lệ thuộc vào những quy luật cả sinh học lẫn luân lý, và người ta không thể vi phạm mà không bị trừng phạt. Một quan niệm đúng đắn về phát triển không thể không kể đến những suy tư trên – liên quan đến việc sử dụng các yếu tố thiên nhiên, đến việc tái tạo các tài nguyên cũng như đến những hậu quả của việc kỹ nghệ hóa vô trật tự – ; những suy tư đó, một lần nữa, đặt trước lương tâm chúng ta chiều kích luân lý là chiều kích phải ghi dấu sự phát triển”[42].

Việc Phúc-âm-hóa văn hóa

và các nền văn hóa của con người

13.         Việc phục vụ con người và xã hội nhân loại được diễn tả và thực hiện qua việc sáng tạo và truyền đạt văn hóa, điều này, đặc biệt ngày nay, là một trong những công việc nặng nề nhất trong sự chung sống của con người và sự tiến hóa của xã hội. Theo ánh sáng Công Đồng, chúng ta hiểu “văn hóa” là “tất cả những gì con người dùng để trau dồi và phát triển các năng khiếu đa dạng của tâm hồn và thể xác ; cố gắng chế ngự cả trái đất bằng tri thức và lao động ; làm cho đời sống xã hội, đời sống gia đình cũng như đời sống chính trị trở thành nhân bản hơn, nhờ sự tiến bộ trong các tập tục và định chế ; sau hết, diễn tả, thông truyền và bảo tồn trong các công trình của mình, những kinh nghiệm tinh thần và hoài bão lớn lao của các thời đại, để giúp cho nhiều người và tòan thể nhân lọai tiến bộ hơn”[43]. Theo nghĩa này, văn hóa phải được coi như tài sản chung của mỗi dân tộc, là sự diễn tả phẩm giá, tự do và óc sáng tạo của họ, là chứng từ về quá trình lịch sử của họ. Đặc biệt, chỉ trong và nhờ văn hóa mà niềm tin Kitô-giáo có tính cách lịch sử và sáng tạo lịch sử.

        Trước một văn hóa như xa rời không những niềm tin Kitô-giáo mà cả những giá trị nhân bản,[44] cũng như trước mộ văn hóa khoa học và kỹ thuật nào đó không có khả năng giải đáp cho đòi hỏi về sự thật và sự thiện đang thiêu đốt tâm hồn con người, Giáo Hội ý thức đầy đủ rằng, về phương diện mục vụ, phải cấp bách dành cho văn hóa một sự quan tâm rất đặc biệt.

        Chính vì thế, Giáo Hội yêu cầu giáo dân hiện diện cách can đảm và với óc sáng tạo tri thức tại những môi trường ưu đãi của văn hóa, như nhà trường và đại học, các trung tâm nghiên cứu khoa học – kỹ thuật, các môi trường sáng tác nghệ thuật và suy tư nhân bản. Sự hiện diện này không chỉ có mục đích nhìn nhận và tùy tình hình mà thanh tẩy các yếu tố của văn hóa hóa đó, bằng cách khôn khéo phê bình chúng, nhưng còn nhằm làm tăng trưởng các giá trị của chúng, nhờ sự phong phú độc đáo của Tin Mừng và đức tin Kitô-giáo. Giáo huấn của Công Đồng Vatican II về mối liên hệ giữa Tin Mừng và văn hóa đáp ứng với một thực tại vốn có trong lịch sử, đồng thời đưa ra một lý tưởng hành động mang tính thời sự và thúc bách đặc biệt ; đó là một chương trình quan trọng được đề ra cho trách nhiệm mục vụ củua toàn thể Giáo Hội, và đ đó, cho trách nhiệm riêng biệt của người giáo dân : “Tin Mừng của Chúa Kitô không ngừng đổi mới cuộc sống và văn hóa của con người đã sa ngã ; chống đối và khử trừ các sai lầm và tai họa phát sinh từ sức quyến rũ thường xuyên của tội lỗi luôn đe dọa. Phúc Âm không ngừng tinh luyện và nâng cao phong hóa các dân tộc. Những đức tính của mọi thời đại như được Phúc Âm làm cho phong phú từ bên trong, bổ túc và tái tạo trong Chúa Kitô nhờ những ân huệ bởi trời. Như thế, trong khi chu toàn bổn phận riêng, Giáo Hội cũng đồng thời thúc đẩy và góp phần vào công cuộc phát triển văn hóa nhân loại, và nhờ hoạt động của mình, ngay cả trong nghi lệ phụng vụ, Giáo Hội giáo dục con người đạt tới tự do nội tâm”[45].

        Ở đây nên đọc lại một số diễn tả rất có ý nghĩa trong Tông huấn Loan báo Tin Mừng của Đức Phaolô VI : “Giáo Hội thực thi công việc phúc-ân-hóa khi, chỉ nhờ sức mạnh thần linh của Sứ Điệp mà Giáo Hội công bố (x. Rm 1,16 ; 1 Cr 1,18 ; 2,4), Giáo Hội tìm cách hoán cải lương tâm cá nhân cũng như tập thể, hoán cải sinh hoạt mà họ đang dấn thân, hoán cải đời sống và môi trường cụ thể của họ. Những cảnh vực sống của con người đang biến đổi : đối với Giáo Hội, vấn đề không chỉ là rao giảng Tin Mừng nơi những vùng đất càng ngày càng đông, nhưng là tác động đến, và nhờ sức mạnh của Tin Mừng, như làm đảo lộn những tiêu chuẩn phán đoán, những giá trị quyết định, những trọng tâm sinh hoạt, những đường hướng tư tưởng, những nguồn cảm hứng, những kiểu mẫu sống của nhân loại, khi những điều ấy đi ngược với Lời Chúa và chương trình cứu độ. Chúng ta có thể diễn tả tất cả những điều ấy như sau : điều quan trọng là phúc-âm-hóa văn hóa và những nền văn hóa của con người một cách sống động sâu xa cho tới tận gốc rễ chứ không theo cách trang trí như lớp sơn bóng ngòai mặt... Sự ly khai giữa Tin Mừng và văn hóa quả là một thảm trạng của thời đại chúng ta cũngg như của các thời đại trước. Vì vậy, phải dồn mọi nỗ lực để phúc-âm-hóa văn hóa, đúng hơn, các văn hóa”[46].

        Các phương tiện truyền thông xã hội là con đường hiện nay thuận lợi nhất để tạo lập và chuyển đạt văn hóa.[47] Tiếp theo sự phát triển mau lẹ của những phát minh, và ảnh hưởng của chúngvừa có tính toàn cầu vừa có tính tế vi trong việc tạo thanh não trạng và tập tục, thế giới các phương tiện truyền thông làm nên một ranh giới mới trong sứ vụ của Giáo Hội. Cách riêng, trách nhiệm nghề nghiệp của giáo dân trong lãnh vực này, dù được thi hành với danh nghĩa cá nhân hay qua những sáng kiến và định chế cộng đồng, vẫn phải được nhìn nhận với đầy đủ giá trị của nó và được nâng đỡ bằng những nguồn lực vật chất, tinh thần và mục vụ tích hợp nhất.

        Liên quan đến việc sử dụng các phương tiện truyền thông, dù là sản xuất hay tiếp nhận các chương trình, điều cấp bách là thực hiện một công tác giáo dục óc phê bình, được lòng say mê chân lý thúc đẩy, đàng khác, thực hiện một hoạt động nhằm bảo vệ sự tự do và sự tôn trọng phẩm giá con người, cổ võ văn hóa đích thực của các dân tộc qua việc kiên quyết và can đảm khước từ mọi hình thức độc quyền và mánh lới.

        Trách nhiệm tông đồ giáo dân không chỉ dừng lại ở công việc bảo vệ trên đây : Tin Mừng cứu độ chúng ta phải được loan báo trên mọi nẻo đường của thế giới, kể cả trên những con đường lớn như báo chí, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình, kịch nghệ.

 



[1]      CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, s. 1

[2]      CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, s. 30

[3]      CĐ Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Tông Đồ giáo dân, s. 10

[4]      Đức PHAOLÔ VI, Tông Huấn Loan báo Tin Mừng, Evangelii nuntiandi (8/12/1975), s. 14

[5]      Đức GIOAN-PHAOLÔ II, Bài giảng khởi đầu thừa tác vụ Mục Tử Tối Cao (22/10/1978)

[6]      Đề nghị 10

[7]      CĐ Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Truyền Giáo của Giáo Hội, s. 20 ; xt. s. 37

[8]      Đề nghị 29

[9]      CĐ Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Truyền Giáo của Giáo Hội, s. 21

[10]    Đề nghị 30 bis

[11]    CĐ Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, s. 5

[12]    x. CĐ Vatican II, Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới hôm nay, s. 22

[13]    nt.

[14]    Đức GIOAN-PHAOLÔ II, Thông điệp Đấng Cứu Chuộc con người, Redemptor hominis (4/3/1979), s. 14

[15]    CĐ Vatican II, Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới hôm nay, s. 40

[16]    CĐ Vatican II, Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới hôm nay, s. 12

[17]    “Nếu chúng ta cử hành trọng thể cuộc giáng sinh của Chúa Giêsu, chính là để chứng tỏ rằng mỗi người có tính độc nhất và bất khả thay thế. Các bản thống kê, xếp lọai, các hệ thống chính trị, kinh tế và xã hội cũng như những khả năng của con người mà thôi không đủ để bảo đảm rằng con người có thể sinh ra, tồn tại và hành động như một hữu thể độc nhất và bất khả thay thế, chỉ có Thiên Chúa là Đấng bảo đảm cho con người điều đó. Đối với Thiên Chúa, con người luôn luôn là hữu thể độc nhất và bất khả thay thế ; là người đã được nghĩ đến từ đời đời, đã được tuyển chọn từ đời đời ; là người được mời gọi đích danh” (Đức GIOAN-PHAOLÔ II, Sứ điệp Giáng Sinh gửi thế giới 1979)

[18]    CĐ Vatican II, Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới hôm nay, s. 27

[19]    Đức GIOAN-PHAOLÔ II, Tông Huấn về Gia Đình, Familiaris consortio (22/11/1981), s. 30

[20]    x. Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Huấn thị Hồng ân sự sống (22/2/1987)

[21]    Đề nghị 36

[22]    Đức GIOAN-PHAOLÔ II, Sứ điệp Ngày quốc tế hòa bình lần thứ XXI (8/12/1987)

[23]    Thánh Augustinô, Về Giáo lý vỡ lòng XXIV, 44

[24]    Đề nghị 32

[25]    CĐ Vatican II, Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới hôm nay, s. 24

[26]    CĐ Vatican II, Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới hôm nay, s. 12

[27]    x. Đức GIOAN-PHAOLÔ II, Tông Huấn về Gia Đình, ss. 42–48

[28]    x. Đức GIOAN-PHAOLÔ II, Tông Huấn về Gia Đình, s. 85

[29]    CĐ Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Tông Đồ giáo dân, s. 8

[30]    Về mối tương quan giữa công lý và nhân từ, x. Thông điệp Thiên Chúa giầu lòng thương xót, Dives in misericordia (30/11/1980), s. 12

[31]    CĐ Vatican II, Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới hôm nay, s. 75

[32]    nt., s. 74

[33]    nt., s. 76

[34]    x. Đề nghị 28

[35]    Đức GIOAN-PHAOLÔ II, Thông điệp về xã hội, Sollicitudo rei socialis (30/12/1987), s. 38

[36]    x. Đức GIOAN XXIII, Thông điệp Hòa bình trên trái đất

[37]    x. Đức GIOAN-PHAOLÔ II, Thông điệp về xã hội, s. 39

[38]    x. Đề nghị 26

[39]    CĐ Vatican II, Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới hôm nay, s. 63

[40]    x. Đề nghị 24

[41]    CĐ Vatican II, Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới hôm nay, s. 67 ; x. Đức GIOAN-PHAOLÔ II, Thông điệp về Lao động, Laborem exercens (14/9/1981), ss. 24–27

[42]    Đức GIOAN-PHAOLÔ II, Thông điệp về xã hội, s. 34

[43]    CĐ Vatican II, Hiên chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới hôm nay, s. 53

[44]    x. Đề nghị 35

[45]    CĐ Vatican II, Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới hôm nay, s. 58

[46]    Đức PHAOLÔ VI, Tông Huấn Loan báo Tin Mừng, ss. 18–20

[47]    x. Đề nghị 37