PHÁT TRIỂN

LỜI MỜI GỌI CỦA TÌNH YÊU

 

 

I. NHẬP ĐỀ

Khoảng cuối thế kỷ 19, Giáo Hội phải đối diện với một cuộc thay đổi triệt để việc tổ chức xã hội, trong đó một loạt những thay đổi tận căn xảy ra trong lãnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, và cả trong khoa học, kỹ thuật. Trong lãnh vực chính trị, những thay đổi này làm nẩy sinh một quan niệm mới về xã hội và nhà nước. Lý thuyết chính trị nổi bật ở thời đại đó có khuynh hướng cổ võ sự tự do tuyệt đối về kinh tế. Việc xuất hiện kỹ nghệ tân tiến đã khai tử trật tự xã hội cũ và trật tự một xã hội mới bắt đầu xuất hiện, được ghi dấu bằng niềm hy vọng những quyền tự do mới, nhưng đồng thời cũng có nguy cơ rơi vào những hình thức bất công và nô lệ mới. Trong lãnh vực kinh tế, nơi hội tụ những khám phá và ứng dụng khoa học, xã hội mới dần dần tạo ra những cơ cấu mới trong việc sản xuất của cải tiêu dùng. Người ta chứng kiến sự xuất hiện một hình thức tư hữu mới, tức là nguồn vốn, và một hình thức lao động mới, lao động trả lương. Các cơ chế sản xuất và tư bản từ nay trở thành quyền lực mới. Lao động trả lương được xác định bằng nhịp độ làm việc cực nhọc, không lưu ý đến những khác biệt về phái tính, tuổi tác hay tình trạng gia đình mà chỉ căn cứ vào hiệu năng để gia tăng lợi nhuận. Như thế, lao động trở thành một món hàng có thể được tự do mua bán trên thị trường, và giá cả của nó chỉ được qui định tùy vào luật cung cầu, mà không để ý tới nhu cầu tối thiểu trong cuộc sống của người công nhân và gia đình họ. Hơn nữa, người lao động thậm chí không chắc có bán được “món hàng” của mình hay không, và họ thường xuyên bị đe dọa thất nghiệp ; nếu không có xã hội bảo trợ, họ sẽ lâm vào nguy cơ chết đói. Hậu quả của những thay đổi tận căn đó là “một xã hội bị chia cắt thành hai giai cấp cách nhau một trời một vực : giai cấp chủ nhân tư bản và giai cấp công nhân”.

Trước những vấn đề mới của xã hội lúc bấy giờ, như Đức Bênêđictô XVI đã viết trong thông điệp Thiên Chúa là tình yêu (Deus caritas est) : Phải công nhận rằng các vị đại diện Hội Thánh thật chậm trễ khi nhận ra vấn nạn về cơ cấu công bằng của xã hội được đặt ra cách mới mẻ”.[1] Người ta nhớ lại những co cụm, tránh né và thái độ lửng lờ của Giáo Hội trước vấn đề mới của xã hội đặt ra, đặc biệt là vào cuối thế kỷ 18 và trong suốt thế kỷ 19. Vào năm 1891, Huấn Quyền lần đầu tiên mới vào cuộc : Đức Lêô XIII, vị giáo hoàng của công nhân, can thiệp bằng cách ban hành một văn kiện có hệ thống bàn về “vấn đề thợ thuyền”, tức thông điệp Tân sự (Rerum novarum). Tiếp theo là thông điệp Năm thứ bốn mươi (Quadragesimo anno) của Đức Piô XI năm 1931, thông điệp Mẹ và Thầy (Mater et magistra) của Đức Gioan XXIII năm 1961. Trong thông điệp Phát triển các dân tộc (Populorum progressio) năm 1967 và trong Tông thư Năm thứ tám mươi đang đến (Octagesima adveniens) năm 1971, Đức Phaolô VI đã đề cập mạnh mẽ đến vấn đề xã hội, lúc đó đang nóng bỏng cách đặc biệt tại Châu Mỹ La Tinh. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã để lại cho chúng ta bộ ba thông điệp xã hội : Lao động (Laborem exercens) năm 1981, Bận tâm về vấn đề xã hội (Sollicitudo rei socialis) năm 1987 và Bách chu niên (Centesimus annus) năm 1991.

Thông điệp xã hội thứ nhất Lao động của con người (14.9.1981) ra đời nhân kỷ niệm 90 năm ban hành thông điệp Tân sự (Rerum Novarum) đã trình bày lao động” như chìa khóa, và có lẽ là chìa khóa chính yếu của tất cả vấn đề xã hội, xét theo quan điểm lợi ích của con người. Trong thông điệp Bận tâm về vấn đề xã hội (30.12.1987) ta có thể nói rằng việc “phát triển” như chìa khóa của vấn đề xã hội, xét theo quan điểm lợi ích của các dân tộc. Đức Gioan Phaolô II đã muốn mượn dịp kỷ niệm 20 năm thông điệp Phát triển các dân tộc của Đức Phaolô VI (26.3.1967), để cống hiến cho chúng ta một bài suy gẫm về công cuộc phát triển đích thực và toàn diện như đã được Đức Phaolô VI quan niệm, và được cổ võ 20 năm sau.

Ý niệm phát triển là tư tưởng chủ đạo của thông điệp Populorum progressio và của Sollicitudo rei socialis, quên điều đó, chúng ta có nguy cơ không thấy được tính cách độc đáo, ngay cả chân tính của hai thông điệp mà mục đích là nhấn mạnh tới sự cần thiết phải có một quan niệm phong phú và đa dạng hơn về phát triển.

Trong sứ điệp Mùa Chay 2006, Đức Bênêđictô XVI đã dùng một câu trong bản văn Tin Mừng Mathêu làm chủ đề cho sứ điệp : “Đức Giêsu thấy đám đông, thì chạnh lòng thương” (Mt 9,36) và từ ánh sáng của câu Tin Mừng này, ngài đã dừng lại để suy tư về vấn đề phát triển, một vấn đề càng trở nên nóng bỏng trong thế giới hôm nay, một thế giới mà mọi vấn đề đều mang tính toàn cầu. Đức Bênêđictô XVI lập luận rằng khi “cổ võ cho sự phát triển đích thực và trọn vẹn, cái “nhìn” của chúng ta trên nhân loại phải được đo lường theo cái nhìn của Chúa Kitô”.[2] Khi phát biểu như thế, ta thấy hướng suy tư của Đức Bênêđictô XVI gắn liền phát triển với bác ái Kitô giáo, hay nói khác, cội nguồn của một sự phát triển đích thực và trọn vẹn là tình yêu xuất phát từ Chúa Kitô.

Vấn nạn về phát triển đặt ra cho nhân loại ngày nay không còn là vấn đề riêng của từng người, nhưng là vấn đề của các dân tộc, của toàn thể nhân loại. Nhưng thế nào là sự phát triển đích thực ? Phát triển phải gắn với công bằng và bác ái như thế nào ? Đó là những câu hỏi mà chúng ta sẽ đề cập tới trong bài chia sẻ này.


II. VẤN NẠN VỀ PHÁT TRIỂN,

     VẤN NẠN CỦA CÁC DÂN TỘC.

Trước vấn đề phát triển, Đức Phaolô VI đã cam kết trong thông điệp Populorum progressio (PP) rằng Giáo Hội phải dấn thân phục vụ nhân loại, không những để giúp nhân loại nhận rõ tất cả mọi chiều kích của vấn đề Phát triển, mà còn để thuyết phục nhân loại phải cấp tốc hành động liên đới với nhau cho sự phát triển,[3] bởi vì theo ngài, ngày nay vấn đề của xã hội trở thành vấn đề của thế giới.[4]

Về phần Đức Gioan Phaolô II, khi viết thông điệp Sollicitudo rei socialis (SRS) để kỷ niệm 20 năm thông điệp Populorum progressio, ngài đã nói rõ mục đích thông điệp xã hội thứ hai của ngài như sau :

Bài suy niệm này có mục đích, nhờ sự tra cứu thần học về thực tại thời nay, nhấn mạnh tới sự cần thiết phải có một quan niệm phong phú và đa dạng hơn về phát triển, dựa theo các đề xuất của thông điệp Populorum progressio và vạch ra vài mô hình thực hiện”.[5]

Theo Đức Gioan Phaolô II, việc đọc kỹ lại thông điệp Populorum progressio sẽ là sợi chỉ đỏ cho các suy tư về một quan niệm phát triển phong phú và đa dạng.[6]

Trở lại với Populorum progressio, Đức Phaolô VI đã suy tư và lượng giá về phát triển tiên vàn trong hướng nhìn đạo đức luân lý và nhân bản và ngài đã gọi bổn phận luân lý đó là “bổn phận liên đới”. [7] Ngài nói rằng “Xã hội loài người đang lâm trọng bệnh. Nguyên nhân của bệnh tình này không phải là tài nguyên của thiên nhiên kiệt quệ hay lòng tham của một số người vơ vét, mà chính là thiếu tình thương huynh đệ giữa người với người cũng như giữa dân tộc với dân tộc”.[8] Như vậy, theo Đức Phaolô VI, tình thương là gốc rễ của sự phát triển đích thực.

Từ hướng nhìn này, Đức Phaolô VI kêu gọi : “Chúng ta phải chú trọng đến hoàn cảnh sống của các nước kém mở mang ; và nói rõ hơn, tình thương của chúng ta đối với vô số người nghèo trên thế giới, phải vồn vã hơn, hữu hiệu hơn và quảng đại hơn”.[9]

Trong viễn tượng toàn cầu, Đức Phaolô VI cho rằng muốn có phát triển thì nhân loại phải tôn trọng trật tự của công bằng xã hội, bởi vì phát triển là danh hiệu mới của hòa bình”. [10] Theo ngài, chống bần cùng, chống bất công không phải chỉ là làm cho đời sống con người dễ chịu hơn, mà còn phát huy tinh thần đạo đức của mọi người và mưu cầu lợi ích chung của nhân loại. Hòa bình không chỉ là không có chiến tranh, hòa bình cũng không phải là thành quả của một sự quân bình giữa các sức mạnh, luôn bấp bênh - hòa bình được xây dựng ngày này sang ngày khác bằng cách thiết lập một trật tự công bằng hơn giữa loài người như Chúa muốn.[11]

Như vậy, quan điểm của Đức Phaolô VI về phát triển thật rõ ràng : ngài xem tình thương như gốc rễ của phát triển và công bằng như đòi hỏi thiết yếu của phát triển.

Dưới ánh sáng của diễn ngữ do Đức Phaolô VI phát biểu, Đức Gioan Phaolô II đã duyệt xét lại khái niệm phát triển trong thông điệp Bận tâm về vấn đề xã hội. Theo ngài, khái niệm này hiển nhiên không đồng hóa với việc chỉ tìm thỏa mãn những nhu cầu vật chất bằng cách tăng thêm của cải, mà không đếm xỉa tới nỗi thống khổ của đa số dân chúng. Như vậy, Đức Gioan Phaolô II cùng chia sẻ một hướng nhìn với Đức Phaolô VI : tình thương vẫn là cội rễ của một sự phát triển toàn diện và phát triển phải mang chiều kích của trật tự công bằng xã hội, văn hóa và siêu việt của con người :

Sự phát triển đích thực không thể chỉ là tích lũy tiền bạc và làm gia tăng của cải cũng như các dịch vụ, nếu như việc phát triển đó lại được trả bằng giá của sự chậm phát triển đại chúng và không đếm xỉa gì tới những chiều kích xã hội, văn hóa và thiêng liêng của con người”.[12]

Tại sao vấn đề phát triển lại được đặt ra một cách nóng bỏng nhiều lần như vậy ? Câu trả lời cho vấn nạn này đòi buộc chúng ta đi tìm nguyên nhân của vấn đề. Tình cảnh của thế giới ngày nay, với ánh sáng và bóng tối bắt buộc nhân loại phải nêu lên vấn nạn về phát triển.

A. BÓNG TỐI :

1.        Sự chênh lệch giũa giầu và nghèo càng ngày

    càng tăng và người nghèo chiếm đa số.

Trong bối cảnh lịch sử của Populorum progressio, ngoài những cố gắng của mỗi quốc gia, tổ chức Liên Hiệp Quốc đã có sáng kiến dành hai thập niên liên tiếp cho việc phát triển.[13] Về phần mình, lúc bấy giờ Giáo Hội đã cảm thấy có bổn phận đào sâu các vấn đề do tình huống mới đặt ra, với ý định nâng đỡ những cố gắng nói trên, nhờ một nguồn cảm hứng có tính cách tôn giáo và nhân bản.

Ta không thể nói rằng những sáng kiến tôn giáo, nhân bản, kinh tế và kỹ thuật khác nhau đó là vô ích, vì thực sự chúng đã đạt được một số kết quả. Nhưng nói chung, nếu xét tới các yếu tố khác nhau, người ta không thể chối cãi rằng tình trạng thế giới ngày nay gây một ấn tượng tiêu cực nhiều hơn, đứng ở quan điểm phát triển.

a. Số người nghèo tăng :

Không đi sâu vào việc phân tích các con số và các thống kê, chỉ cần nhìn vào cảnh tượng vô số người, nam cũng như nữ, trẻ em và người lớn, người già, tóm lại, những con người cụ thể và độc nhất đang quằn quại dưới sức nặng không chịu đựng được của cảnh khốn cùng. Họ là hàng triệu con người sống không hy vọng, vì ở nhiều nơi trên trái đất, tình trạng của họ rõ ràng đã trở nên bi thảm hơn.

b. Hố sâu về sự chênh lệch giầu nghèo

giữa các vùng trên thế giới :

Có một hố sâu chia rẽ dưới góc nhìn về phát triển giữa các vùng gọi là phía Bắc đã phát triển và các vùng phía Nam đang phát triển, giữa những lục địa phát triển và lục địa kém phát triển. Tuy nhiên cách gọi này chỉ có giá trị như một chỉ dẫn, vì ai cũng biết rằng ranh giới giữa giầu nghèo nằm ngay trong chính xã hội, dù đã phát triển hay đang phát triển. Thực vậy, cũng như có sự bất bình đẳng tới mức độ cùng cực trong các nước giầu, thì đồng thời, ngay trong các nước kém phát triển, người ta cũng thấy khá nhiều trường hợp ích kỷ, phô trương của cải vừa đáng kinh ngạc, vừa gây “xì căng đan”.

Các nước giầu phát triển nhanh, trong lúc các nước nghèo phát triển chậm. Sự chênh lệch cứ tăng thêm theo mức độ gia tốc. Có nước sản xuất thực phẩm thừa thãi, có nước lại thiếu thốn một cách rất nghiêm trọng. Những nước này nếu có nguồn lợi dư thừa nào, thì hoặc khi có khi không, hoặc không chắc gì đã có thị trường để xuất khẩu, Nhưng điều đáng buồn là chính vùng địa lý chính trị này lại là vùng đất của đại đa số nhân loại.

c. Nhiều “thế giới” ở trong một thế giới :

Cũng phải nói đến những khác biệt về văn hóa và hệ thống giá trị giữa các nhóm dân chúng khác nhau, những khác biệt này không luôn luôn đi đôi với mức phát triển kinh tế, nhưng góp phần tạo nên các chênh lệnh.

Khi người ta quan sát các vùng khác nhau trên thế giới, một thế giới bị phân cách bởi cái hố ngày càng sâu rộng hơn, khi người ta nhận thấy rằng mỗi vùng theo đuổi con đường riêng của mình, bằng cách thức thực hiện riêng, thì người ta hiểu tại sao ngôn ngữ thông thường lại nói tới nhiều thế giới ở trong lòng một thế giới duy nhất của chúng ta : thế giới thứ nhất, thế giới thứ hai, thế giới thứ ba, và cả thế giới thứ tư nữa.[14] Những diễn ngữ như thế, tuy không nhằm việc sắp loại tất cả các quốc gia một cách đầy đủ, nhưng không phải là không có ý nghĩa : chúng làm chứng cho sự nhận thức tản mạn rằng tính cách duy nhất của một thế giới, hay nói cách khác, tính cách duy nhất của một nhân loại bị đe dọa nghiêm trọng.

d. Nạn thiếu nhà ở :

Trong năm quốc tế những người vô gia cư (1987) do tổ chức Liên Hiệp Quốc chủ xướng, đã có một sự quan tâm hướng về hàng triệu người không có một nơi để ở, nhằm thức tỉnh các lương tâm và tìm ra một giải pháp cho vấn đề nghiêm trọng này, là vấn đề có những hậu quả tiêu cực cho cá nhân, gia đình và xã hội.[15]

Đâu cũng có nạn thiếu nhà ở, và phần lớn do hiện tượng đô thị hóa không ngừng gia tăng. Ngay cả những dân tộc phát triển nhất, cho thấy những tình cảnh đáng buồn của những cá nhân và gia đình phải thực sự đấu tranh để sống còn, đang khi không có một mái nhà che nắng che mưa, hay với một nơi trú ngụ mong manh đến độ có cũng như không.

Nạn thiếu nhà ở, một vấn đề tự nó rất nghiêm trọng, phải được coi như dấu chỉ và tổng hợp của cả một chuỗi sự thiếu thốn về mặt kinh tế, xã hội, văn hóa, hay đơn giản là thiếu thốn về mặt nhân bản, và nếu để ý tới tính cách phổ biến của hiện tượng này, chúng ta không khó khăn gì mà không nhìn nhận rằng nhân loại còn xa sự phát triển đích thực các dân tộc.

e. Nạn thất nghiệp :

Một vấn đề mà ta thường thấy nơi phần lớn các quốc gia, là hiện tượng thất nghiệp và thừa nhân công. Tại các nước đang trên đà phát triển, với tỷ lệ tăng dân số cao và có đông đảo người trẻ, ta thấy hiện tượng thừa nhân công, và thừa nhân công lại kéo theo thất nghiệp, đang khi đó, tại các nước có một mức phát triển kinh tế cao, các nguồn cung cấp công ăn việc làm lại giảm bớt thay vì gia tăng và lại kéo theo thất nghiệp.

Phải nhìn nhận rằng nạn thất nghiệp tạo ra một chuỗi hậu quả tiêu cực ở mức độ cá nhân, gia đình và xã hội, nó có thể kéo theo một sự vong thân về nhân phẩm và đánh mất lòng tự trọng mà bất kỳ người nam, người nữ nào cũng phải có.

f. Vấn đề nợ nần giữa các nước :

Cho dù vấn đề này không có ở mọi nơi, nhưng cũng là điểm đặc trưng tương thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia phát triển và các quốc gia kém phát triển.

Lý do thúc đẩy các dân tộc đang trên đường phát triển chấp nhận đề nghị được cung cấp thật nhiều vốn, là vì họ hy vọng có thể đầu tư những nguồn vốn đó vào các hoạt động phát triển. Do đó, việc sẵn sàng cho vay và chấp nhận vay, có thể được coi như một sự đóng góp vào chính sự phát triển, đó là điều nên có và tự nó hợp pháp, cho dù đôi khi việc vay mượn đó thiếu khôn ngoan và trong một vài trường hợp là hấp tấp.

Vì tình thế thay đổi, cả ở trong các nước mắc nợ lẫn trên thị trường tài chính quốc tế, phương tiện được dự kiến để góp phần vào việc phát triển lại biến thành một cơ chế có kết quả ngược lại. Đó là vì, một đàng để trả nợ, các nước vay nợ phải chuyển ra nước ngoài những nguồn vốn mà có lẽ họ đang cần để phát triển, hay ít là để duy trì mức sống của họ : và đàng khác, cũng vì lý do đó, họ không thể có được nguồn tài trợ khác cũng cần thiết như vậy. Do cơ chế đó, phương tiện dùng để giúp việc phát triển các dân tộc đã biến thành một “cái thắng”, và trong vài trường hợp, lại thành một yếu tố làm tăng thêm sự chậm phát triển

g. Vấn đề dân số :

Người ta không thể phủ nhận rằng trên thế giới, đặc biệt tại vùng phía Nam, vấn đề dân số đang là vấn đề gây khó khăn cho công cuộc phát triển. Nhưng cũng nên nói thêm rằng, trong vùng phía Bắc, vấn đề này được đặt ngược lại : điều đáng bận tâm là việc giảm tỷ lệ sinh, kèm theo sự hóa già của dân chúng, khiến không thể có sự đổi mới ngay cả về mặt sinh học. Hiện tượng này có thể gây cản trở cho việc phát triển. Tuy nhiên, ta không thể khẳng định một chiều rằng các khó khăn kinh tế là do việc gia tăng dân số, cũng thế, ta không chứng minh được rằng mọi sự gia tăng dân số đều không thể đi đôi với một sự phát triển có trật tự.

Đàng khác, thật rất đáng lo ngại khi thấy trong nhiều quốc gia đã phát động những chiến dịch có hệ thống để chống lại việc sinh sản, dựa theo sáng kiến của chính quyền, nghịch lại với căn tính, văn hóa và tôn giáo của các nước đó, và nghịch cả với bản tính của sự phát triển đích thực. Những chiến dịch này thường do áp lực và được các vốn ngoại quốc tài trợ ; ở vài nơi chúng còn là điều kiện để được viện trợ kinh tế và tài chánh.

2.        Chậm phát triển trong lãnh vực văn hóa,

    chính trị hay chậm phát triển về con người

Những gì chúng ta vừa nói ở trên đây sẽ không đầy đủ, nếu ngoài những dữ kiện kinh tế và xã hội của tình trạng kém phát triển, ta không thêm vào những dữ kiện khác cũng có tính cách tiêu cực và còn đáng quan tâm hơn nữa, như những dữ kiện về lãnh vực văn hóa. Đó là nạn mù chữ, tình trạng khó khăn hay không thể học lên cao hơn, các hình thức bóc lột mới và đàn áp con người, cũng như các quyền của con người về mặt kinh tế, xã hội, chính trị và cả tôn giáo không được tôn trọng.

Nạn mù chữ trong các vùng kém phát triển đã đẩy con người xa sự phát triển. Ta có thể quả quyết rằng sự phát triển kinh tế tùy thuộc phần lớn ở sự tiến bộ về mặt xã hội. Do đó giải quyết nạn mù chữ là mục tiêu thứ nhất của một chương trình phát triển. Thiếu học cũng làm suy nhược không kém thiếu ăn : Một người mù chữ là một trí óc không được nuôi dưỡng đủ. Biết đọc, biết viết, biết được một nghề là có được lòng tự tin và khám phá được rằng mình có thể cùng tiến với người khác. Trong sứ điệp gửi Đại hội UNESCO năm 1965 ở Teheran, Đức Phaolô VI nói rằng “biết chữ, đối với con người, là một yếu tố thứ nhất và quan hệ nhất để đi vào đời, cũng như để thêm giầu có riêng, còn đối với xã hội, nó là một dụng cụ đặc biệt để tiến bộ về kinh tế và để phát triển”. [16]

Tình cảnh chậm phát triển về văn hóa kéo theo những hậu quả về quyền của mỗi nước. Thật vậy, có nhiều quốc gia bị tước đoạt mất nhân cách, nghĩa là mất chủ quyền của mình về mặt kinh tế, chính trị và xã hội, hay một cách nào đó, cả về mặt văn hóa, vì trong một cộng đồng quốc gia, tất cả các chiều kích trên của đời sống được liên kết với nhau.

Như vậy, ngày nay tình trạng chậm phát triển không phải chỉ là chậm phát triển về kinh tế, nhưng còn cả trong lãnh vực văn hóa, chính trị, và nói một cách đơn giản, đó còn là chậm phát triển về con người, như thông điệp Phát triển các dân tộc đã nêu lên cách đây 20 năm.

Tuy nhiên, khi nhìn vào thế giới ngày nay, ta cũng thấy được những dấu chỉ của niềm hy vọng.

B. ÁNH SÁNG :

1. Sự tôn trọng các quyền con người :

Dấu chỉ hy vọng đầu tiên là có nhiều người nam, nữ rất ý thức về phẩm giá của họ và về phẩm giá của mỗi con người, ý thức đó được biểu lộ, chẳng hạn, qua việc khắp nơi người ta quan tâm mạnh mẽ tới sự tôn trọng các quyền con người, và qua việc khước từ rõ rệt những vi phạm các quyền đó.

Ý thức này không chỉ liên quan tới các cá nhân mà còn đến các quốc gia và các dân tộc. Xét như là những thực thể có căn tính văn hóa nhất định, họ đặc biệt nhạy cảm tới việc duy trì, quản lý cách tự do và phát huy di sản quý báu của mình.

2. Ý thức về sự tương thuộc lẫn nhau

Trong thế giới bị chia rẽ này, ta cũng thấy có sự phát triển của một xác tín về một sự tương thuộc triệt để (interdépendence) và do đó, về sự cần thiết có một sợi dây liên đới mang tính luân lý. Ngày nay có lẽ hơn cả quá khứ, người ta hiểu rằng nhân loại liên kết với nhau trong một vận mệnh chung để cùng nhau thoát được cơn tai biến. Từ tâm trạng lo âu sợ hãi, kèm theo những hiện tượng đào thoát như nạn ma túy, là đặc trưng của thế giới hiện tại, ta thấy con người thời đại ý thức hơn về sự tương thuộc lẫn nhau, chẳng hạn hạnh phúc của nhân loại không thể đạt được, nếu không có sự cố gắng và chuyên chú của tất cả mọi người, không trừ ai.

3. Quan tâm tới hòa bình :

Trong xã hội hôm nay, mặc dù với bao cám dỗ hủy diệt sự sống, từ việc phá thai đến việc gây chết êm dịu, ta vẫn thấy đồng thời có một sự quan tâm tới hòa bình, đó là đấu hiệu của thái độ tôn trọng sự sống, và như thế ta thấy rằng, một lần nữa, người ta ý thức rằng hòa bình không thể chia cắt được, hòa bình là việc của mọi người chứ không phải của riêng ai. Một nền hòa bình càng ngày càng đòi hỏi phải hết sức tôn trọng công lý, và do đó, cũng đòi hỏi sự phân phối một cách công bình các thành quả của sự phát triển đích thực.

4. Quan tâm tới môi sinh :

Trong những dấu chỉ niềm hy vọng của thời đại hôm nay, ta còn phải ghi nhận có một ý thức lớn hơn về những giới hạn của các tài nguyên sẵn có, có một nhu cần tôn trọng sự toàn vẹn và hài hòa của thiên nhiên, và cân nhắc những điều đó trong việc lập kế hoạch phát triển, thay vì hy sinh chúng cho một quan niệm phát triển có tính cách mị dân.

Sau khi đã đọc qua các dấu chỉ thời đại để đi tìm lý lẽ cho vấn nạn phát triển, giờ đây, chúng ta đi vào nội dung chính yếu của bài chia sẻ này.

III.    THẾ NÀO

      LÀ MỘT SỰ PHÁT TRIỂN ĐÍCH THỰC ?

Trong thông điệp Bận tâm về vấn đề xã hội, Đức Gioan Phaolô II đã đặt câu hỏi về phát triển như sau : Ở đây cần tự hỏi phải chăng thực tại đáng buồn của ngày hôm nay lại không phải là kết quả, ít nhất một phần, của một quan niệm rất hẹp hòi về phát triển, tức là quan niệm chỉ chú ý tới mặt kinh tế sao ?”. [17]

Như vậy, theo Đức Gioan Phaolô II, muốn có được một sự phát triển đích thực thì điều đầu tiên nhân loại ngày nay phải có đó là một quan niệm phong phú, đa dạng, bao gồm nhiều chiều kích về phát triển.

1. Sự phát triển đích thực

     không đồng nghĩa với “sự tiến bộ” một chiều :

Sự phát triển không phải là một tiến trình diễn ra theo đường thẳng, gần như máy móc và không có giới hạn, dường như là, với một số điều kiện nào đó, nhân loại phải tiến nhanh tới một thứ hoàn thiện vô hạn.[18] Quan niệm xem phát triển như là “sự tiến bộ” một chiều, dường như ngày nay đang bị xét lại một cách nghiêm chỉnh, nhất là sau kinh nghiệm bi đát của hai trận thế chiến, của cuộc tàn sát đã được tính toán và phần nào được thực hiện đối với cả tập thể, và kinh nghiệm về nguy cơ nguyên tử đang đè nặng trên thế giới.

2. Chiều kích công bằng của phát triển

Từ cách nói “thế giới thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư”, sự phát triển phải được suy nghĩ trên sự tương thuộc lẫn nhau (interdépendence) và phải gắn với những đòi hỏi luân lý đạo đức về trật tự công bằng, nếu không, nó sẽ kéo theo những hậu quả tai hại cho những người yếu kém nhất. Sự phát triến đích thực của các dân tộc là : tất cả các nước trên thế giới phải được thông phần vào sự phát triển, nếu không, sự phát triển ấy không đích thực.

Công đồng Vatican II đã nhắc lại điều nêu trên rằng : “Thiên Chúa đã tạo dựng trái đất và mọi vật trên đó là để mọi người và mọi dân tộc sử dụng. Vì thế của cải trần gian phải tràn đầy đồng đều cho mọi người, theo luật công bằng là một luật đi liền với luật Bác ái”. [19]

Định luật này phải được ưu tiên trên mọi quyền hạn khác, bất cứ là quyền nào kể cả quyền tư hữu và quyền tự do buôn bán. Các quyền khác không những không được cản trở, mà trái lại phải giúp định luật này thể hiện dễ dàng.

Phát triển đòi hỏi một trật tự công bằng ; nó không cho phép bất cứ ai, dù là các cơ chế chính trị hay Giáo Hội được nhắm mắt làm ngơ trước nỗi khổ của anh em đồng loại, bởi vì “Các dân tộc đói khổ đang chất vấn các dân tộc giầu sang. Giáo Hội cũng cảm thấy run rảy khi nghe tiếng kêu phát ra tự niềm thao thức ấy, và kêu gọi mọi người hãy vì yêu thương đáp lại tiếng gọi của người anh em mình”.[20]

Thánh Ambrôsiô có những lời rất mạnh mẽ về lẽ công bằng : “Anh cho người nghèo, nhưng không phải là việc anh lấy của anh mà cho, mà anh chỉ trả lại cho họ của cải của họ. Bởi vì của cải là để cho mọi người dùng chung, thì anh đã dành lấy một mình cho anh. Trái đất này là của mọi người, chứ không phải của người giầu”.[21]

Thông điệp Phát triển các dân tộc đã nhìn thấy trước rằng những hệ thống tài chính quốc tế có thể làm tăng thêm sự giàu có của những người giàu, trong khi vẫn giữ mãi những người nghèo trong cảnh khốn cùng.[22] Dự kiến đó đã được xác nhận với sự xuất hiện của cái gọi là thế giới thứ tư.[23]

3. Chiều kích luân lý đạo đức của sự phát triển

Các quan niệm “kinh tế” hay “duy kinh tế” đi kèm với từ ngữ “phát triển” cũng bị đặt thành vấn đề. Thật vậy, ngày nay người ta hiểu rõ hơn rằng việc tích lũy thuần túy các của cải và dịch vụ dẫu cho rằng vì lợi ích của đa số, cũng không đủ làm cho người ta hạnh phúc. Do đó, việc chiếm hữu các lợi lộc thực sự khoa học và kỹ thuật, kể cả ngành thông tin, đem lại trong thời gian vừa qua cũng không đưa tới sự giải phóng khỏi mọi hình thức nô lệ. Kinh nghiệm những năm mới đây chứng minh ngược lại rằng nếu các nguồn tài nguyên và các tiềm năng được đặt vào tay con người, lại không được sử dụng theo một ý định đạo đức và chiều hướng nhằm ích lợi đích thực cho nhân loại, thì nó sẽ dễ dàng quay ngược lại để đàn áp con người.[24]

Thông điệp Populorum progressio của Đức Phaolô VI đã nêu lên sự khác biệt thường được nhấn mạnh ngày nay, đó là sự khác biệt giữa cái “có” (avoir) và cái “là” (être),[25] sự khác biệt này đã được Công đồng Vatican II diễn tả trước đây với những từ ngữ chính xác. [26] Có những đồ vật và những của cải, điều đó tự nó không hoàn thiện được một con người, nếu nó không góp phần làm cho cái “là” của người đó thêm trưởng thành và phong phú, nghĩa là góp phần vào việc thực hiện chính ơn gọi làm người của người ấy. Có những người – một số ít nhưng lại chiếm hữu nhiều - không thực sự đạt tới cái “là”, bởi vì do một sự đảo ngược bậc thang giá trị, họ tôn thờ cái “có” và sự tôn thờ này ngăn cản họ “là” ; và có những người - một số lớn nhưng lại chiếm hữu ít hay không có gì – họ không thực hiện được ơn gọi làm người căn bản của họ (être), bởi vì họ thiếu cả những của cải sơ đẳng (avoir).

Như vậy, sự dữ (le mal) không nằm trong sự kiện “có”, nhưng trong việc chiếm hữu một cách không tôn trọng phẩm chất và trật tự các giá trị của những gì mình có. Phẩm tính và trật tự các giá trị phải là việc làm chủ của cải, và việc sử dụng các của cải đó phải hướng về việc phục vụ cho cái “là” của con người và cho ơn gọi đích thực của con người.

4. Chiều kích nhân bản của sự phát triển

Như vậy, sự phát triển đích thực phải gắn với việc tôn trọng quyền con người cũng như quyền của các quốc gia và các dân tộc : Một mô hình phát triển không tôn trọng và không khuyến khích các quyền con người, quyền cá nhân hay quyền xã hội kinh tế và chính trị, kể cả quyền lợi của các quốc gia và các dân tộc, thì không thể thực sự xứng đáng với con người”.[27]

Một cuộc phát triển bị giới hạn đơn thuần vào khía cạnh kinh tế dễ làm cho con người và những nhu cầu sâu xa nhất của con người bị lệ thuộc vào những đòi hỏi của các kế hoạch hóa kinh tế hay của chủ trương duy lợi nhuận. Từ đó, ta thấy có một sợi dây liên kết nội tại giữa công cuộc phát triển đích thực với việc tôn trọng nhân quyền : không thể nâng cao con người một cách đích thực, phù hợp với ơn gọi tự nhiên và lịch sử của mỗi người, bằng cách chỉ sử dụng các của cải và dịch vụ dư giả, hay bằng cách có những hạ tầng kiến trúc hoàn hảo.

Trên bình diện quốc tế, tức bình diện những quan hệ giữa các quốc gia, cần phải tôn trọng trọn vẹn căn tính cùng với các đặc trưng lịch sử và văn hóa của mỗi
dân tộc.

Một sự phát triển toàn diện phải mang chiều kích nhân bản, bởi vì mục đích của phát triển là phục vụ con người. Sự phục vụ này phải tuân theo các đòi hỏi thuộc phạm vi chân lý và sự thiện, là phạm vi của con người thụ tạo. Một sự phát triển không chỉ có tính cách kinh tế, nhưng phải được đánh giá và được định hướng theo phẩm giá và ơn gọi của con người xét một cách toàn diện.

Một sự phát triển đích thực đối với mỗi người cũng như đối với mọi người, là đi từ những điều kiện ít xứng với con người đến những điều kiện xứng với con người hơn.

Sống trong những điều kiện ít xứng với con người : trước tiên có nghĩa là những kẻ sống trong hoàn cảnh thiếu thốn về vật chất như thiếu ăn thiếu mặc, thiếu thốn về tinh thần như xa đọa ích kỷ quá độ.

Sống trong những điều kiện ít xứng với con người : còn là những kẻ bị cơ cấu của xã hội đè nén: những cơ cấu do sự lạm dụng sở hữu, lạm dụng quyền hành, bóc lột nhân công cũng như buôn bán gian lận tạo nên.

Xứng với con người hơn, có nghĩa làm cho con người từ nghèo đói đến no đủ, loại trừ các tệ đoan xã hội, mở rộng được kiến thức, hấp thụ được văn hóa. Xứng với con người hơn còn có nghĩa là kính trọng nhân phẩm của người khác hơn, hướng về một tinh thần nghèo khó,[28] mưu cầu ích chung, quyết tâm hòa bình. Xứng với con người hơn còn có nghĩa là con người nhìn nhận những giá trị tối cao, và nhìn nhận Thiên Chúa là nguồn gốc và là cùng đích của mọi giá trị.

Xứng hợp với con người hơn, sau hết và hơn hết, có nghĩa rằng : con người thành tâm đón nhận đức tin, tức là đón nhận ân huệ của Thiên Chúa, và hòa hợp các tâm hồn trong tình thương yêu của Đức Kitô, Đấng đã gọi chúng ta trở nên con cái, tham gia vào sự sống của Thiên Chúa hằng sống, Cha của mọi người.[29]

Đức Bênêđictô XVI viết : “Bị xúc động như Chúa Giêsu với lòng trắc ẩn đối với các đoàn lũ, Giáo Hội ngày nay cho mình có nhiệm vụ xin các nhà lãnh đạo chính trị và những kẻ nắm quyền kinh tế và tài chính cổ võ sự phát triển dựa trên sự tôn trọng phẩm giá của mỗi người nam và người nữ”. [30]

5. Chiều kích kinh tế của phát triển :

Trong thông điệp Phát triển các dân tộc, Đức Phaolô VI đã mô tả các đặc tính của một sự phát triển toàn diện và nhân bản, xứng với ơn gọi đích thực của con người mà không phủ nhận chiều kích kinh tế.[31]

Sự phát triển phải có chiều kích kinh tế, dù cho sự phát triển không được tự giới hạn vào chiều kích kinh tế, vì nó phải giúp cho số đông dân nghèo của thế giới có được những của cải cần thiết (avoir) để “là” (être) người và sống đúng phẩm giá con người, Trong trường hợp này, cần phải có nhiều hơn để là nhiều hơn (Avoir plus pour être plus).

6. Chiều kích toàn cầu của sự phát triển

Sự phát triển toàn diện của con người còn phải gắn liền với sự phát triển của nhân loại. Trong chuyến thăm mục vụ tại Bombay, Ấn Độ, Đức Phaolô VI đã phát biểu :

“Con người phải gặp con người, các quốc gia phải gặp nhau như anh em, chị em, như con cái của Thiên Chúa. Nhờ hiểu biết nhau, thân thiện nhau, và cảm thông với nhau một cách linh thiêng, chúng ta cũng phải bắt đầu hoạt động chung với nhau để xây dựng tương lai chung của nhân loại”. [32]

7. Chiều kích vũ trụ của sự phát triển

Ngoài ra, vì mang chiều kích đạo đức luân lý, nên việc phát triển không thể gạt sang một bên lòng kính trọng đối với những hữu thể hợp thành thế giới hữu hình mà nét đặc trưng là trật tự, điều mà người Hy Lạp xưa gọi là “vũ trụ” (cosmos). Sự tôn trọng trật tự của vũ trụ đòi hỏi những điều sau đây :

Thứ nhất, phải ý thức hơn rằng chúng ta không thể thản nhiên sử dụng các loại hữu thể hữu sinh hay vô sinh – động vật, thảo mộc, khoáng chất – như ý muốn của chúng ta chỉ vì nhu cầu kinh tế riêng của mình. Trái lại, phải để ý tới bản tính của mỗi hữu thể và của các dây liên kết lẫn nhau trong một hệ thống có trật tự, tức là” vũ trụ" (cosmos).

Thứ hai, dựa trên nhận định mỗi ngày, ta thấy một sự thật ngày càng hiển nhiên về sự giới hạn của các nguồn tài nguyên thiên nhiên : một vài loại trong các thứ này hễ cạn là hết, không lấy ở chỗ khác được. Việc sử dụng những tài nguyên như thể chúng vô tận, với một quyền chiếm hữu tuyệt đối, sẽ đe dọa nghiêm trọng khả năng phục vụ của chúng, không những đối với thế hệ này, mà nhất là đối với thế hệ mai sau.

Thứ ba, liên quan trực tiếp tới hậu quả của một mô hình phát triển nào đó, ta đều biết rằng, việc kỹ nghệ hóa luôn luôn gây ra, một cách trực tiếp hay gián tiếp, việc ô nhiễm môi sinh cùng với hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe dân chúng.

8. Chiều kích siêu việt của sự phát triển

Sự phát triển cần có những của cải vật chất và những sản phẩm của kỹ nghệ không ngừng được làm tinh xảo hơn nhờ tiến bộ khoa học kỹ thuật. Nhưng để theo đuổi sự phát triển đích thực, không bao giờ được quên cái thông số vốn nằm trong bản tính đặc thù của con người được Thiên Chúa tạo dựng theo hình ảnh và giống với Người (St 1,26).

Như vậy, đối với một dân tộc cũng như đối với một cá nhân, có thêm nhiều của cải không phải là mục đích tối hậu. Mỗi một sự thăng tiến đều có hai mặt : nó cần thiết để con người “là” người hơn, nhưng đồng thời nó cũng giam hãm con người một khi của cải trở thành giá trị tuyệt đối, không còn cho thấy giá trị nào khác. Lúc đó, lòng người trở nên chai đá và tinh thần khép kín lại, con người không còn đến với nhau vì tình nghĩa, nhưng chỉ vì lợi lộc. Lợi lộc làm cho con người chống đối nhau và chia rẽ nhau. Vì thế nếu chỉ tìm của cải mà thôi thì không những sẽ làm cản trở cho sự phát triển của con người, mà còn phản lại sự cao cả của phẩm giá con người.

Từ đó, ta thấy rằng phát triển không chỉ ở trong việc sử dụng, thống trị, chiếm hữu không giới hạn các sự vật được Thiên Chúa dựng nên, cũng như những sản phẩm kỹ thuật của con người làm ra. Nhưng đúng hơn trong sự chiếm hữu, thống trị, sử dụng phải tùy thuộc vào phẩm giá của con người được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa và được kêu gọi sống bất tử. Đó là chiều kích siêu việt của con người, một chiều kích đã được thông ban ngay từ đầu cho một cặp nam nữ (St 1,27), và như vậy chiều kích này tự bản chất mang tính xã hội.[33]

Như vậy, con người còn tiến tới một sự phát triển khác, một sự phát triển của một nền nhân bản siêu việt làm cho con người được sống sung mãn là được tháp nhập vào Chúa Kitô, Đấng đến “để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Đó là mục đích tối hậu của việc phát triển con người.[34]

IV. PHÁT TRIỂN, LỜI MỜI GỌI CỦA TÌNH YÊU

Suy nghĩ cho cùng, ta thấy rằng chính sự hoán cải của con tim mới là con đường đưa phát triển vào thực tế. Bao lâu con người chưa thay đổi cách cư xử của mình thì bấy lâu chưa thể có sự phát triển đích thực. Đức Gioan-Phaolô đã viết rằng : Nhận ra tính cách luân lý là đặc tính chính yếu của phát triển” “cần phải tìm ra những nguyên nhân thuộc phạm vi luân lý đã kìm hãm tiến trình phát triển và ngăn cản việc phát triển đầy đủ, tức là những nguyên nhân nằm trong cách cư xử của con người, xét như là những chủ thể có trách nhiệm”. [35]

Hướng suy tư này đã đưa ngài đến việc khám phá ra gốc rể của một sức mạnh đen tối gây trở ngai cho công cuộc phát triển đích thực, đó là “tội lỗi” của con người và “những cơ cấu tội lỗi” của thế giới :

““Tội” và “cơ cấu tội lỗi” là những phạm trù ít được áp dụng vào tình trạng thế giới hiện nay. Tuy nhiên, không dễ mà hiểu được cách thật sâu sắc cái thực tại xuất hiện dưới mắt chúng ta, nếu không vạch rõ gốc rễ những tai họa đang tác hại nơi chúng ta”. [36]

Do đó, cần có một xác tín rằng các trở ngại cho việc phát triển toàn diện không chỉ thuộc phạm vi kinh tế, mà còn tùy thuộc những thái độ tinh thần thâm sâu hơn, như tấm lòng của con người, cái nhìn về tha nhân, sự nhạy cảm trước những nỗi khốn khổ của đa số dân nghèo và sự giúp đỡ thực tế.

Thánh Giacôbê nói, “Nếu có người anh em hay chị em không có áo mặc, không có cơm ăn, mà một người trong anh em chỉ nói với họ rằng: chúc anh em về bình an, hay cố mặc cho ấm, cố ăn cho no, rồi không cho họ gì cần cho thân xác họ, thì lời nói đó nào có ích gì ?” (Gc 2,15-16). Ngày nay không ai mà không biết rằng : trên nhiều lục địa, biết bao người đang bị nạn đói hành hạ ; biết bao trẻ em thiếu ăn, đến nỗi một phần lớn phải chết lúc còn nhỏ tuổi ; bao nhiêu người khác không phát triển được về vật chất lẫn tinh thần cũng vì đói. Cũng vì vậy mà dân chúng trong bao nhiêu miền rộng lớn đang lâm vào cảnh tuyệt vọng thê thảm.

Như vậy, muốn có phát triển đích thực, điều cần thiết cấp bách là phải thay đổi các thái độ tinh thần, là những thái độ đặc trưng trong mối quan hệ của con người với chính mình, với người lân cận, với các cộng đồng nhân loại – dù xa mấy đi nữa – và với thiên nhiên. Ta làm như vậy là vì sự phát triển toàn diện con người và của toàn thể mọi người.[37]

Việc thực thi tình liên đới trong mọi xã hội sẽ đạt được giá trị trọn vẹn của nó, khi các thành phần biết nhìn nhận nhau như là những nhân vị. Sự liên đới giúp ta nhìn người khác, con người, dân tộc hay quốc gia, không phải như bất kỳ một dụng cụ nào mà người ta khai thác, một cách ít tốn kém, khả năng lao động và sức mạnh thể lực của họ, để rồi lại vất bỏ khi họ không phục vụ được nữa. Trái lại, phải coi họ như “đồng loại”, như một “trợ tá” (St 2,18-20) mà chúng ta phải cho tham dự đồng hàng vào bữa tiệc cuộc sống mà Thiên Chúa mời gọi tất cả mọi người đến dự. Từ đó phát sinh tầm quan trọng của việc thức tỉnh lương tâm tôn giáo nơi các cá nhân và nơi các dân tộc :[38]

Sự liên đới mà chúng tôi đề nghị là con đường đi tới hòa bình, và đồng thời cũng là con đường đi tới phát triển” [39] những gì đụng chạm tới phẩm giá con người và các dân tộc, chẳng hạn việc phát triển đích thực, không thể thu gọn vào một vấn đề “kỹ thuật”. Làm như vậy, việc phát triển sẽ mất đi ý nghĩa đích thực của nó, và người ta sẽ phản bội con người cũng như các dân tộc mà mình phải phục vụ”. [40]

Kết cuộc, sự phát triển thực sự chất vấn tấm lòng của con người, như Đức Bênêđictô nhận xét : “Tình yêu (caritas) vẫn luôn cần thiết, ngay cả trong một xã hội công bằng nhất. Không có một trật tự công bằng của nhà nước nào có thể xem công tác bác ái là thừa thãi. Ai muốn loại bỏ tình yêu thì cũng đồng thời không xem con người là con người nữa. Vẫn luôn có sự khổ đau cần đến sự an ủi và trợ giúp. Vẫn luôn luôn còn có sự cô đơn. Vẫn luôn còn có những trường hơp thiếu thốn vật chất, nơi mà sự trợ giúp theo nghĩa thực hiện tình yêu tha nhân là cần thiết”. [41]

V. KẾT LUẬN

Một sự phát triển chỉ đơn thuần thuộc phạm vi kinh tế sẽ không thể nào giải phóng được con người, trái lại cuối cùng nó sẽ nô lệ hóa con người hơn nữa. Kinh tế và kỹ thuật không có nghĩa gì nếu không hướng về ích lợi con người để phục vụ. Một sự phát triển không hội nhập các chiều kích xã hội, văn hóa, siêu việt, đạo đức luân lý, tôn giáo, vũ trụ, và nếu càng không nhận biết những chiều kích đó và không hướng về chúng như những mục tiêu thì càng không thể đưa tới một sự giải phóng đích thực cho con người. Con người chỉ hoàn toàn được hạnh phúc khi mình là mình, với đầy đủ các quyền và các nghĩa vụ, cũng phải nói như vậy về toàn thể xã hội.

Sự phát triển phải ăn rễ sâu nơi chính bản chất con người. Thật vậy, “con người là một thụ tạo chỉ có thể hoàn thành chính mình cách trọn vẹn nhờ việc tự do trao hiến chính mình”. [42] Con người là một chủ thể độc đáo không sao chép lại được và cũng không bao giờ có thể nhận chìm trong một khối nhân loại mơ hồ, dù rằng con người chỉ hoàn thành trọn vẹn vận mệnh của mình một khi họ biết vượt lên trên những lợi lộc hẹp hòi của cá nhân để liên kết với những người khác bằng rất nhiều liên hệ.

Vì lẽ này, sự đóng góp hàng đầu mà Giáo Hội cống hiến cho sự phát triển nhân loại và cho các dân tộc không chỉ chú trọng tới những phương tiện vật chất hay là những giải pháp kỹ thuật. Nói đúng hơn, sự đóng góp đó bao hàm việc công bố chân lý về Chúa Kitô, Đấng giáo dục các lương tâm và dạy cho biết phẩm giá đích thực của con người và của lao động hệ tại đâu.

Công cuộc phát triển con người và các dân tộc mang tính chất của một cuộc chiến cam go và cũng là một cuộc chiến tiêu hao. Cuối cùng, vấn nạn về phát triển đưa nhân loại về cõi thâm sâu và cũng là tiếng nói cuối cùng đang định đoạt sự hình thành của thế giới : đó là Tấm Lòng con người, một tấm lòng để cho Thần Khí không ngừng chạm tới và thổi lên làn gió hy vọng.

 

Lm. Antôn Nguyễn Đức Khiết



[1] Bênêđictô XVI, Thiên Chúa là tình yêu, 27.

[2] Bênêđictô XVI, Sứ điệp Mùa Chay 2006

[3] PP, 1

[4] Ibid., 3

[5] SRS, 4

[6] Ibid., 5

[7] GS, 48 : PP 43

[8] PP 66

[9] Pacem in Terris : AAS 55 (1963) tr. 301

[10] GS, 87 : SRS 10

[11] Văn kiện AAS 57 ( 1965 ) tr. 880

[12] GS, 14 : SRS 9

[13] Hai thập niên 1960-1970 và 1970-1980

[14] Diễn ngữ “thế giới thứ tư” được dùng không những để nói về những nước chậm phát triển, mà còn để chỉ về những khu vực rất nghèo hay rất cơ cực tại những nước có lợi tức cao hay trung bình.

[15] Tòa Thánh đã đóng góp vào việc cử hành năm quốc tế này một tài liệu đặc biệt của Ủy ban Giáo hoàng Công Lý và Hòa Bình : Bạn hãy làm gì với người anh em không nhà ở ? Giáo Hội và vấn đề nhà ở (27.12.1987).

[16] Osservatore Romano 11-9-1965

[17] SRS, 15

[18] Familiaris Consortio (FC), 6.

[19] GS 69, đ. 1.

[20] PP, 3

[21] R.Palanque, Saint Ambroise et l'Empire romain, Paris, 1933, tr. 336

[22] PP, 33.

[23] SRS 16

[24] SRS, 28

[25] PP, 19

[26] GS, 35

[27] Ibid., 33

[28] Mt 5,3.

[29] PP, 21

[30] Bênêđictô XVI, Sứ điệp Mùa Chay 2006

[31] PP, 20-21

[32] Diễn văn tiếp đại diện các tôn giáo ngoài Kitô giáo, ngày 3-12-1964 tại Bombay :AAS 57 (1965) trang 132.

[33] SRS, 29

[34] PP, 16

[35] SRS, 35

[36] Ibid., 36

[37] PP, 42 : SRS, 38

[38] SRS, 39

[39] Ibid., 39

[40] Ibid., 40

[41] Bênêđictô XVI, Thiên Chúa là tình yêu, 28

[42] GS 24


Mục Lục