Thượng Hội Đồng
Giám Mục
Ơn Gọi và Sứ Mạng
của Gia Đình
trong Giáo Hội và trong Thế Giới Hiện Nay
Tài Liệu Làm Việc
2015
Các chữ viết tắt
AA Công đồng Vatican II, sắc lệnh Apostolicam Actuositatem (18-11-1965)
AG Công đồng Vatican II, Sắc lệnh Ad Gentes (7-12-1965)
CCC Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo, (15-8-1997)
CV Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas
in Veritate (29-6-2009)
DC Hội Đồng Giáo Hoàng về Các Bản Văn Luật Pháp, Huấn Thị Dignitas Connubii (25-1-2005)
DCE Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Deus Caritas Est (25-12-2005)
DeV Thánh GH
Gioan Phaolô II, Thông Điệp Dominum
et Vivificantem (18-5-1986)
GS Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et Spes (7-12-1965)
EdE Thánh GH
Gioan Phaolô II, Thông điệp Ecclesia
de Eucharistia (17-4-2003)
EG Đức Phanxicô, Tông huấn Evangelii
Gaudium (24-11-2013)
EN Chân phúc Phaolô VI, Tông huấn Evangelii
Nuntiandi (8-12-1975)
FC Thánh GH Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris Consortio (22-11-1981)
IL Thượng Hội Đồng Giám Mục, Khóa Họp Ngoại thường lần thứ Ba, Các Thách Đố Mục Vụ của Gia Đình
trong Bối Cảnh Phúc Âm Hóa, Tài liệu làm việc Instrumentum Laboris, (24-6-2014)
LF Đức Phanxicô, Thông điệp Lumen
Fidei (29-6-2013)
LG Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium (21-11-1964)
MV Đức Phanxicô, Sắc chỉ Misericordiae
Vultus (11-4-2015)
NA Công Đồng Vatican II, Sắc lệnh Nostra Aetate (28-10-1965)
NMI Thánh GH Gioan Phaolô II, Tông thư Novo
Millennio Ineunte (6-1-2001)
RM Thánh GH Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio (7-12-1990)
Trình bày
Thời kỳ giữa hai thượng hội đồng
sắp sửa kết thúc. Trong khoảng thời gian này, Đức Thánh Cha, tức Giáo Hoàng
Phanxicô, đã ủy thác cho toàn thể Giáo Hội trách vụ “làm chín mùi hơn, bằng
tinh thần biện phân thiêng liêng chân thực, các ý tưởng [đã được khóa họp đề
xuất] và tìm ra các giải pháp cụ thể cho nhiều khó khăn và vô vàn thách đố mà
các gia đình cần phải đối mặt” (Diễn văn tại Lễ Bế Mạc Khóa Họp ngoại thường
Lần Thứ Ba của Thượng Hội Đồng Các Giám Mục, 18 tháng 10, 2014).
Sau khi suy nghĩ về Các Thách đố Mục vụ của Gia Đình
trong Bối Cảnh Phúc Âm Hóa nơi
Khóa họp Ngoại thường lần thứ Ba của Thượng Hội Đồng Giám Mục hồi tháng 10.2014,
Khóa họp Thường lệ lần thứ Mười Bốn, dự trù diễn ra từ ngày 4 tới ngày 25 tháng
10, 2015, sẽ bàn về chủ đề: Ơn Gọi và Sứ Mệnh của Gia Đình trong Giáo Hội và
trong Thế Giới Hiện Nay. Cuộc hành trình lâu dài của thượng hội đồng này
được đánh dấu bằng ba thời khắc có liên hệ với nhau một cách chặt chẽ, đó là: xem
xét các thách đố của gia đình; biện phân ơn gọi của gia
đình; và suy nghĩ về sứ mệnh của gia đình.
Một loạt các câu hỏi đã được
tổng hợp vào Phúc Trình của
Thượng Hội Đồng (Relatio
Synodi), vốn là kết quả của Khóa Họp trước, để ta biết Phúc Trình này đã được
tiếp nhận ra sao và để khuyến khích việc xem xét các nội dung của nó cách thấu
đáo. Văn kiện do Khóa Họp vừa kể soạn ra đã được dùng làm Đề cương (Lineamenta), được gửi
cho các Thượng hội đồng các Giáo Hội Công giáo Đông phương tự trị (sui iuris), các Hội đồng giám mục, các Cơ quan của Giáo
Triều Rôma và Liên Hiệp Các Bề Trên Cả.
Toàn bộ Dân Chúa đã can dự vào
diễn trình suy nghĩ và học hỏi. Việc này cũng diễn ra như là kết quả các buổi
giáo lý hàng tuần của Đức Thánh Cha về gia đình trong các buổi yết kiến chung,
cũng như các dịp khác, khi ngài ban hướng dẫn trong cuộc hành trình chung có
tính Thượng hội đồng này. Quan tâm đổi mới đối với gia đình, do Thượng Hội Đồng
đem lại, đã được minh họa qua việc gia đình được chú ý không phải chỉ trong các
giới Giáo Hội mà cả trong xã hội dân sự nữa.
Chất liệu trong Các Câu Trả Lời
nhận được từ các thực thể nêu trên đã được tăng gia thêm nhờ các điều gọi là Nhận Xét (Observations) của rất nhiều tín
hữu (các cá nhân, các gia đình và các nhóm). Nhiều thành viên của các Giáo Hội
đặc thù, các tổ chức, các nhóm giáo dân và các thực thể khác trong Giáo Hội đã
đưa ra nhiều khuyến cáo quan trọng. Các đại học, các viện học thuật, các trung
tâm nghiên cứu và các học giả cá nhân đã, và hiện còn tiếp tục, làm giầu việc
xem xét thấu đáo các chủ đề của Thượng Hội Đồng bằng Các Đóng Góp (Contributions) của họ, qua các hội nghị chuyên đề,
các hội nghị và các ấn phẩm, nhờ thế, rọi nhiều ánh sáng lên các khía cạnh mới
mẻ, như “đã được yêu cầu trước” (question préalable) trong Đề cương (Lineamenta).
Tài Liệu Làm Việc bao gồm bản văn
Phúc Trình Thượng Hội Đồng (RS), thêm
vào đó, một bản tóm tắt Các Câu Trả Lời,
Các Nhận Xét và Các Đóng Góp đã được tổng hợp. Để dễ cho việc đọc, cách đánh số
phản ảnh cả bản Phúc Trình lẫn khuôn
khổ của tài liệu này. Các đoạn và đầu đề nguyên thủy trong bản Phúc Trình được in nghiêng và được đánh
dấu bằng con số tương ứng trong ngoặc đơn.
Tài liệu được chia thành ba
phần, nhằm minh họa tính liên tục giữa hai Khóa Họp, đó là: Xem Xét các Thách Đố của Gia Đình (phần I), phần này trực tiếp rút
tỉa từ giai đoạn đầu của Thượng Hội Đồng; Biện Phân Ơn Gọi của Gia Đình (phần II) và Sứ Mệnh của Gia Đình Ngày Nay (phần
III), phần này dẫn khởi chủ đề của giai đoạn hai với ý định giới thiệu cho Giáo
Hội và thế giới hiện nay các sáng kiến mục vụ nhằm đẩy mạnh các cố gắng đổi mới
trong việc phúc âm hóa.
Hồng Y Lorenzo Baldisseri
Tổng Thư Ký
Vatican City, 23 Tháng 6, 2015
DẪn NhẬp
1. (1). Thượng Hội Đồng Giám Mục,
tụ họp quanh Đức Thánh Cha, đã hướng các suy nghĩ của mình về mọi gia đình trên
thế giới, mỗi gia đình với các niềm vui, nỗi khó khăn và niềm hy vọng của họ.
Một cách đặc biệt, Khóa Họp cảm thấy bổn phận phải tạ ơn Chúa về lòng quảng đại
và sự trung thành của rất nhiều gia đình Kitô hữu trong việc đáp ứng ơn gọi và
sứ mệnh của họ, ơn gọi và sứ mệnh được họ chu toàn một cách hân hoan và đầy đức
tin, ngay cả khi phải đương đầu với trở ngại, hiểu lầm và đau khổ. Toàn thể
Giáo Hội và THĐ này biểu lộ với các gia đình lòng trân trọng, biết ơn và khích
lệ của chúng tôi. Trong buổi canh thức cầu nguyện tổ chức tại Quảng Trường
Thánh Phêrô ngày 4 tháng Mười năm 2014 để chuẩn bị cho THĐ về gia đình, Đức GH
Phanxicô gợi nhớ một cách đơn giản nhưng cụ thể tính trung tâm của [trải
nghiệm] gia đình trong đời sống mọi người: “Chiều đang buông xuống cuộc tụ họp của
chúng ta. Đây là giờ khắc trong đó ta vui vẻ trở về nhà để gặp nhau tại cùng
một bàn ăn, trong cái thâm sâu của tình âu yếm, của những điều tốt đã làm và đã
nhận được, của những gặp gỡ làm ấm lòng và giúp nó lớn thêm, của rượu ngon báo
trước lễ hội không cùng của đời người. Đây cũng là giờ khắc nặng nề nhất đối
với những ai thấy mình diện đối diện với chính niềm cô đơn của mình, trong cõi
tranh sáng tranh tối đắng cay của những giấc mộng tan tác và những kế hoạch
không thành; biết bao người lê bước suốt ngày trong những ngõ cụt của nhẫn
nhục, bỏ rơi, thậm chí ghét bỏ: trong không biết bao căn nhà, bình rượu hân
hoan mỗi ngày một vơi đi, và cùng với nó, là niềm vui sống, chính sự khôn
ngoan, để sống […]. Ta hãy làm cho lời cầu nguyện của ta được khứng nhậm cho
nhau vào buổi tối hôm nay, một lời cầu nguyện cho mọi người”.
2. (2). Bên trong gia đình, các
hân hoan và thử thách, yêu thương và liên hệ sâu sắc, có lúc, có thể bị thương
tổn. Gia đình quả là “trường dạy nhân tính” (Gaudium et Spes, 52) rất cần thiết
ngày nay. Bất chấp các dấu hiệu khủng hoảng trong định chế gia đình tại một số
vùng của “làng hòan cầu”, ý muốn kết hôn và thành lập gia đình vẫn còn rất sinh
động, nhất là nơi giới trẻ, và được dùng làm căn bản cho nhu cầu của Giáo Hội,
một chuyên viên về nhân tính và luôn trung thành với sứ mệnh công bố một cách
không mệt mỏi và hoàn toàn xác tín “Tin Mừng Gia Đình”, đã được ủy thác cho
Giáo Hội cùng với việc mạc khải tình yêu Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô và
không ngừng được các giáo phụ, các bậc thầy linh đạo và Huấn Quyền Giáo Hội
giảng dạy. Gia đình quan trọng đối với Giáo Hội một cách độc đáo và trong lúc
này, khi mọi tín hữu đều được mời gọi nghĩ tới người khác hơn là nghĩ tới mình,
gia đình càng cần được tái khám phá làm tác nhân chủ yếu cho công việc phúc âm
hóa. Hãy nghĩ tới chứng tá của biết bao gia đình đã chu toàn được sứ mệnh Kitô
Giáo của mình.
3. (3). Tại Khóa Họp Toàn Thể Ngoại
Thường hồi tháng Mười năm 2014, Giám Mục Rôma đã mời gọi THĐ Giám Mục suy tư về
thực tại khẩn trương và vô giá của gia đình, một suy tư sẽ được theo đuổi cách
sâu sắc hơn nữa tại Khóa Họp Toàn Thể Thường Lệ dự tính sẽ khai diễn vào tháng
Mười năm 2015, cũng như trong trọn cả năm giữa hai biến cố của THĐ. “Cuộc tụ
họp nên một (convenire in unum) quanh Giám Mục Rôma vốn đã là một biến cố đầy
ơn thánh, trong đó, tình hợp đoàn giám mục đã được tỏ hiện trên con đường biện
phân tâm linh và mục vụ”. Đó là những lời đã được Đức GH Phanxicô sử dụng để mô
tả trải nghiệm THĐ và ấn định ra nhiệm vụ trước mắt: đọc cả các dấu chỉ của
Thiên Chúa lẫn lịch sử con người, trong lòng trung thành hai mặt nhưng rất độc
đáo vốn nằm trong việc đọc này.
4. (4). Với những lời lẽ ấy trong
tâm khảm, chúng tôi đã thu góp lại với nhau kết quả các suy tư và các thảo luận
của chúng tôi trong ba phần sau đây: lắng nghe, để nhìn vào thực tại gia đình
ngày nay trong mọi nét phức tạp của nó, cả ánh sáng lẫn bóng tối; nhìn, chúng
tôi rõi nhìn vào Chúa Kitô để cân nhắc, một cách tươi mát và hứng khởi đổi mới
điều mà mạc khải, được thông truyền trong đức tin của Giáo Hội, muốn nói với
chúng tôi về vẻ đẹp, vai trò và phẩm giá của gia đình; và đương đầu với hoàn
cảnh, với đôi mắt rõi nhìn Chúa Giêsu, để biện phân các cách thế qua đó Giáo
Hội và xã hội có thể canh tân cam kết của mình đối với gia đình được thành lập
trên cuộc hôn nhân giữa một người đàn ông và một người đàn bà.
5. Trong khi duy trì thành quả qúy
giá của Khóa Họp trước, bước kế tiếp là lấy các thách đố của gia đình và xem
xét chúng dưới ánh sáng ơn gọi và sứ mệnh của gia đình trong Giáo Hội và trng
thế giới hiện nay. Gia đình, ngoài việc được kêu gọi đáp ứng các thách đố ngày
nay, trước nhất được Thiên Chúa kêu gọi mỗi ngày mỗi ý thức hơn về căn tính
truyền giáo của mình trong tư cách Giáo Hội tiểu gia, đến độ phải “đi ra ngoài
chính mình”. Trong một thế giới thường hằn vết cô đơn và buồn bã, “Tin Mừng Gia
Đình” quả là một tin vui.
PHẦN THỨ NHẤT
Xem xét các
thách đỐ cỦa gia đình
Chương I
Gia đình và bối
cảnh văn hóa – nhân học
Bối cảnh văn
hóa xã hội
6. (5)
Trung thành với giáo huấn của Chúa Kitô, chúng tôi nhìn vào thực tại gia đình
ngày nay trong mọi nét phức tạp của nó, với cả ánh sáng và bóng tối của nó.
Chúng tôi hướng các suy nghĩ của chúng tôi vào các cha mẹ, các ông bà, các anh
chị em, các thân nhân xa gần và các dây liên kết giữa hai gia đình được hôn
nhân tạo ra. Các thay đổi nhân học và văn hóa thời ta đã ảnh hưởng lên mọi khía
cạnh đời sống và đòi hỏi một phương thức phân tích và đa dạng. Các khía cạnh
tích cực sẽ được nêu bật trước nhất, tức là, một tự do phát biểu lớn hơn và một
nhìn nhận tốt hơn các quyền của phụ nữ và trẻ em, ít nhất tại một số nơi trên
thế giới. Mặt khác, cần phải dành một xem sét tương tự cho mối nguy hiểm đang
lớn mạnh do chủ nghĩa duy cá nhân đầy rắc rối tạo ra, một chủ nghĩa đang làm
méo mó các dây liên kết gia đình và kết cục coi mỗi thành tố của gia đình như
một đơn vị cô lập, mà trong một số trường hợp đã dẫn tới ý niệm cho rằng mỗi
người được đào tạo tùy theo dục vọng riêng, những dục vọng được coi như tuyệt
đối. Thêm vào đó, còn có cuộc khủng hoảng đức tin, mà người ta thấy tận mắt nơi
rất nhiều người Công Giáo, một cuộc khủng hoảng đôi lúc nằm bên dưới cuộc khủng
hoảng hôn nhân và gia đình.
Các thay đổi
nhân học
7. Đặc điểm của xã hội ngày nay là tính
đa dạng trong các khuynh hướng. Chỉ một thiểu số người sống theo, ủng hộ và
khuyến khích giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo về hôn nhân và gia đình, thấy
trong nó sự tốt lành của chương trình tạo dựng của Thiên Chúa. Các cuộc hôn
nhân, bất luận là hôn nhân tôn giáo hay không, đều đang giảm đi về con số, trong
khi ly thân và ly dị thì đang gia tăng.
Người ta càng
ngày càng ý thức hơn về phẩm giá của mọi người, cả đàn ông lẫn đàn bà và trẻ
em, và sự quan trọng của các nhóm sắc tộc và thiểu số khác nhau, là các nhóm
hiện đang trở nên thịnh hành tại nhiều quốc gia, không phải chỉ ở Tây Phương mà
thôi.
Trong nhiều nền
văn hóa, người trẻ đang biểu lộ sự sợ sệt trong việc thực hiện các cam kết dứt
khoát, trong đó, có cam kết đối với (việc lập) gia đình. Nói chung, chủ nghĩa
duy cá nhân cực đoan, mỗi ngày mỗi trở nên phổ thông, tập chú hàng đầu vào việc
thỏa mãn các dục vọng không dẫn tới việc hoàn thành bản thân cách trọn vẹn.
Sự phát triển
của xã hội tiêu thụ đã tách biệt tính dục ra khỏi sinh sản. Sự kiện này cũng là
một trong các nguyên nhân nằm sâu bên dưới làm giảm dần sinh suất, mà ở một số
nơi có liên hệ với cảnh nghèo hay thiếu khả năng săn sóc con cái; và ở một số
nơi khác, có liên hệ với việc không sẵn sàng nhận trách nhiệm và với ý niệm cho
rằng con cái có thể xâm phạm tới việc thong dong theo đuổi các mục tiêu bản
thân.
Các mâu thuẫn
văn hóa
8. Nhiều mâu thuẫn văn hóa đang gây hiệu
quả đối với gia đình. Gia đình tiếp tục được coi là nơi trú ẩn an toàn cho các
liên hệ thân mật và đáp trả yêu đương hơn hết, nhưng các căng thẳng phát sinh
từ nền văn hóa cá nhân chủ nghĩa cực đoan, đặt trọng tâm vào việc tích lũy của
cải và hưởng thụ, đã phát sinh trong gia đình sự bất khoan dung và gây hấn, đôi
khi không kiểm soát nổi nữa. Một thứ chủ nghĩa duy nữ nào đó cũng có thể được
nhắc đến, một thứ duy nữ coi việc làm mẹ chỉ như cái cớ để bóc lột người đàn bà
và ngăn cản nàng không thể hiện được trọn vẹn. Đồng thời, hiện có khuynh hướng
càng ngày càng coi việc có con như là cách thỏa mãn các ước vọng bản thân, một
điều có thể thực hiện được bằng bất cứ phương tiện nào hiện có. Cuối cùng, có
những lý thuyết theo đó, căn tính bản thân và sự thân mật xúc cảm phải được
tách biệt khỏi sự dị biệt sinh học giữa nam và nữ.
Tuy nhiên, cùng
một lúc, một số người lại muốn thừa nhận đặc tính bền vững của mối liên hệ cặp
đôi tách biệt khỏi sự dị biệt tính dục, và đặt nó cùng một bình diện như mối
liên hệ hôn nhân, là mối liên hệ được nối kết từ bên trong với các vai trò làm
cha và làm mẹ và được xác định trên căn bản sinh học của việc sinh đẻ. Sự lẫn
lộn do đó mà ra không giúp được gì cho việc xác định tính chất đặc biệt của các
cuộc kết hợp như thế trong xã hội. Đúng hơn, nó hạ tầng sợi dây nối kết đặc
biệt giữa dị biệt sinh học, việc sinh sản và căn tính nhân bản xuống hàng một
chọn lựa có tính cách cá nhân chủ nghĩa. Điều chắc chắn cần thiết là một cuộc
xem xét thấu đáo hơn về bản chất và văn hóa con người vốn đặt căn bản không chỉ
trên sinh học và dị biệt giới tính, vì ý thức trọn vẹn rằng “loại bỏ dị biệt
[…] chỉ tạo vấn đề, chứ không phải giải pháp” (Đức Phanxicô, Yết Kiến Chung, 15 tháng 4,
2015)
Các mâu thuẫn
xã hội
9. Các biến cố gây chấn thương, như chiến
tranh, việc làm cạn kiệt các tài nguyên và việc di dân, đang càng ngày càng tác
động lên năng lực xúc cảm và tâm linh của cuộc sống gia đình và đang đe dọa các
mối liên hệ trong gia đình. Rất nhiều khi, các tài nguyên vật chất và tâm linh
của gia đình rơi vào thế bị cạn kiệt.
Xét chung, các
mâu thuẫn trầm trọng là kết quả nặng nề của các chính sách kinh tế khinh suất
và các chính sách xã hội thiếu nhậy cảm, ngay trong các xã hội gọi là sung túc.
Cách riêng, phí tổn gia tăng trong việc nuôi nấng con cái và việc xuống cấp lớn
lao trong các trách vụ phụ trội của việc chăm sóc của xã hội đối với người bệnh
và người cao niên, chính vì thế mà được trao cho các gia đình, quả là một gánh
nặng thực sự ảnh hưởng lớn lao tới đời sống gia đình.
Thêm vào đó,
các hậu quả của việc phát triển kinh tế gây hại, không rõ ràng về bản chất,
hiện tượng ngày càng gia tăng việc tích lũy của cải vào tay một thiểu số và
việc phân tán (diversion) các tài nguyên đáng lẽ nên dành cho các chương trình
phục vụ các gia đình càng làm cho các gia đình nghèo thêm và dẫn tới nhiều nan
đề. Việc ghiền rượu chè, ma túy, hay cờ bạc đôi lúc cũng cho thấy các mâu thuẫn
xã hội này và các bất lợi tạo nên một phần của cuộc sống gia đình.
Điểm yếu và
điểm mạnh của gia đình
10. Qua cuộc khủng hoảng văn
hóa và xã hội của nó, gia đình, cộng đồng căn bản của con người, hơn bao giờ
hết, đang cho thấy một nỗi thống khổ lớn lao gây ra bởi việc suy yếu và đặc
tính mỏng dòn của nó, và, đồng thời, điểm mạnh lớn lao của nó, vì ngay trong
mình, nó có khả năng đền bù cho sự thiếu thỏa đáng và thiếu hành động của các
định chế bằng việc đào luyện con người, phẩm chất nối kết xã hội và việc chăm
sóc những người dễ bị thương tổn nhất. Bởi thế, điều đặc biệt cần có là phải
đánh giá thỏa đáng điểm mạnh của gia đình, khi nói tới các điểm yếu của nó.
Chương II
Gia đình và bối
cảnh kinh tế xã hội
Gia đình: tài
nguyên không thể thay thế của xã hội
11. Gia đình vẫn còn, và
luôn luôn sẽ còn, là cột trụ nền tảng và không thể thiếu của đời sống xã hội.
Thực vậy, nhiều con người khác nhau cùng chia sẻ cuộc đời với nhau, nhờ đó, các
liên hệ được củng cố và gia đình lớn lên trong đối thoại và chấp nhận hỗ tương
giữa nhiều thế hệ. Bằng cách này, gia đình tượng trưng cho một giá trị nền tảng
và một tài nguyên không thể thay thế cho việc phát triển hài hòa của mọi xã hội
con người, như Công Đồng từng viết: “Gia đình là một trường dạy sự phong phú
hóa nhân bản […] và là nền tảng của xã hội” (GS, 52). Trong các mối liên hệ của
một gia đình, liên hệ vợ chồng, liên hệ con cái, liên hệ anh chị em, mọi thành
viên của gia đình đều sẵn sàng thiết lập các sợi dây mạnh mẽ giúp họ vượt thắng
các nguy cơ cô lập và cô đơn, một cách hài hòa và tôn trọng nhau.
Các chính sách
công nhân danh gia đình
12. Vì gia đình là tác nhân
dẫn đầu trong việc xây dựng xã hội chứ không phải là một việc riêng tư, nên các
chính sách công cộng thỏa đáng nhân danh gia đình là điều cần thiết để nâng đỡ
và cổ vũ gia đình. Hơn nữa, có khuyến cáo phải xem xét mối liên hệ giữa phúc
lợi (welfare) và hành động đền bù của
gia đình. Về phương diện chính sách công nhân danh gia đình và các hệ thống
phúc lợi thiếu thỏa đáng, hành động đền bù như thế tái phân phối các tài nguyên
và các trách vụ vì ích chung, giúp tái cân bằng các hiệu quả tiêu cực của bất
bình đẳng trong xã hội.
13. (6). Một triệu chứng của sự nghèo nàn lớn lao trong nền văn hóa đương
thời là sự cô đơn, phát sinh từ việc thiếu vắng Thiên Chúa trong đời sống người
ta và sự mỏng dòn trong các mối liên hệ. Người ta cũng đang cảm nhận một cách
tổng quát sự bất lực khi phải đối diện với các thực tại xã hội văn hóa mà đôi
khi kết thúc bằng việc đè bẹp các gia đình. Đó là trường hợp gia tăng cảnh
nghèo và nạn thất nghiệp tại nơi làm việc, mà đôi lúc đã trở thành cơn ác mộng
thực sự hay trường hợp khó khăn tràn ngập về tài chánh khiến người trẻ nản lòng
không dám kết hôn. Các gia đình thường cảm thấy mình bị các định chế bỏ rơi vì
bất lợi hay thiếu chú ý. Tác động tiêu cực đối với việc tổ chức xã hội khá rõ
ràng, như ta thấy trong cuộc khủng hoảng dân số, trong sự khó khăn dưỡng dục
con cái, trong việc do dự không muốn chào đón sự sống mới và trong việc coi sự
hiện diện của người cao niên là gánh nặng. Tất cả những yếu tố này có thể tác
động lên thế quân bình xúc cảm của người ta, một điều đôi khi dẫn tới bạo lực.
Nhà nước có trách nhiệm thông qua các đạo luật và tạo công ăn việc làm để bảo
đảm tương lai người trẻ và giúp họ thể hiện được kế hoạch tạo lập gia đình của
họ.
Thách đố kinh
tế
14. Các khía cạnh cụ thể của
đời sống gia đình có liên hệ mật thiết với các vấn đề kinh tế. Nhiều người chỉ
ra rằng cho đến tận nay, gia đình vẫn có thể dễ dàng chịu khổ bởi rất nhiều
điều khiến nó trở thành dễ bị thương tổn. Trong số những nan đề trầm trọng nhất,
ta thấy các nan đề có liên quan tới tiền lương thấp, thất nghiệp, bất ổn kinh
tế, thiếu việc làm xứng đáng và chức vụ không bảo đảm trong việc làm, nạn buôn
bán người và nạn nô lệ.
Các hiệu quả
sau đây của sự thiếu công bằng kinh tế được phản ảnh một cách hết sức sâu sắc
trong gia đình: việc tăng trưởng bị ngăn trở; thiếu nhà ở; vợ chồng không muốn
có con; con cái thấy khó học hành và trở nên độc lập; và việc bình thản đặt kế
hoạch cho tương lai bị đẩy lui. Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh rằng một thay
đổi về cảm nhận nơi mọi người trong xã hội là điều cần thiết để vượt qua tình
huống này: “Tăng tiến về công lý không chỉ đòi hỏi tăng tiến về kinh tế, dù có
giả thiết sự tăng tiến này: nó đòi các quyết định, các chương trình, các cơ chế
và diễn trình phải được điều hướng một cách chuyên biệt cho việc phân phối lợi
tức tốt hơn, tạo ra các nguồn cung cấp nhân dụng và việc thăng tiến toàn bộ
người nghèo vượt quá não trạng phúc lợi đơn giản” (EG, 204). Sự liên đới
đổi mới giữa các thế hệ bắt đầu với việc chăm lo cho người nghèo của thế hệ
này, trước khi chăm lo cho người nghèo của các thế hệ tương lai, bằng cách chú
tâm cách riêng tới các nhu cầu của gia đình.
Thách đố của
cảnh nghèo và cảnh bị xã hội loại trừ
15. Một thách đố đặc biệt
quan trọng đã được nhiều nhóm xã hội đặt ra. Các nhóm này thường thường rất
đông và có đặc điểm là cảnh nghèo của họ không thuộc kinh tế mà thôi, mà thường
còn thuộc văn hóa nữa, do đó, ngăn cản họ không thể thể hiện được kế hoạch sống
của gia đình tương hợp với phẩm giá con người. Hơn nữa, bất chấp các khó khăn
lớn lao, nhiều gia đình nghèo vẫn cố gắng sống cách xứng đáng trong cuộc sống
hàng ngày của họ, vì tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng không làm thất vọng cũng
như bỏ rơi bất cứ ai.
Có nhiều dấu
chỉ cho thấy hệ thống kinh tế hiện nay đang tạo ra nhiều kiểu xã hội loại trừ
người ta. Những người cảm thấy mình bị loại trừ được xếp vào nhiều loại khác
nhau. Tuy nhiên, nét chung là “những người ở bên ngoài” này thường “vô hình”
dưới con mắt xã hội. Nền văn hóa đang thống trị, các phương tiện truyền thông
và các định chế chính thường góp phần làm cho “tính vô hình” có hệ thống này
tiếp diễn, và có khi còn làm cho nó ra tệ hơn. Về phương diện này, Đức GH
Phanxicô đặt câu hỏi: “Tại sao ta làm quen với việc thấy việc làm xứng đáng bị
tiêu hủy, vô vàn gia đình bị đuổi nhà, các công nhân nông trại bị trục xuất
khỏi đất đai, chiến tranh được tuyên chiến và thiên nhiên bị lạm dụng?” Và ngài
trả lời: “Vì trong hệ thống này, con người, con người nhân bản, đã bị đẩy khỏi
trung tâm và bị một thứ gì khác thay thế. Vì việc thờ ngẫu thần đã được dành
cho tiền bạc. Vì sự dửng dưng đã được hoàn cầu hóa” (Diễn Văn với Các Người
Tham Dự Cuộc Gặp Gỡ Thế Giới Các Phong Trào Bình Dân, 28 tháng 10, 2014).
Việc loại trừ
của xã hội làm suy yếu gia đình và trở thành mối đe dọa nghiêm trọng đối với
phẩm giá các thành viên của nó. Quan tâm đặc biệt là hoàn cảnh trẻ em, những
người tiên thiên bị trừng phạt, vì bị xã hội loại
trừ và đôi khi bị trấn thương suốt đời vì nghèo khó và khổ cực. Người ta rất
đúng và rất thích đáng khi gọi chúng là “các trẻ mồ côi xã hội”.
Thách đố sinh
thái
16. Theo quan điểm sinh
thái, người ta thấy các nan đề phát sinh từ việc không đến được nguồn nước một
cách thỏa đáng, việc xuống cấp của môi sinh, nạn đói và thiếu dinh dưỡng, đất
đai không cày cấy và bị tàn phá, và nền văn hóa “vứt bỏ” (prends et jette). Các
tình thế vừa kể có nhiều tác động, đôi khi rất mạnh mẽ, đối với cảnh sống gia
đình và đặc tính thanh thản của cuộc sống này.
Vì các lý do
đó, và cũng do kết quả các cố gắng của Đức GH Phanxicô, Giáo Hội hy vọng và
cùng làm việc với nhiều định chế khác nhằm hướng tới việc suy nghĩ lại hướng đi
của hệ thống hoàn cầu một cách sâu xa, qua một nền văn hóa sinh thái có khả
năng lên công thức cho một viễn tượng, một chính sách công, một chương trình
giáo dục, một lối sống và một nền linh đạo. Vì mọi sự đều có liên hệ với nhau
một cách mật thiết, nên ta cần phải khảo sát các khía cạnh của một “nền sinh
thái tổng thể” (écologie intégrale, holistic), là nền sinh thái bao gồm không
những môi sinh, mà cả việc phát triển con người, xã hội và bền vững về kinh tế
cũng như việc bảo vệ tạo thế nữa.
Chương III
Gia đình và chính sách bao gồm
Người cao niên
17. Nhiều người
nhấn mạnh tới hoàn cảnh người cao niên trong gia đình. Tại các nước đã mở mang,
con số người cao niên đang gia tăng, trong khi sinh suất đang giảm dần. Người
ta đang không đánh giá thỏa đáng những điều người cao niên đóng góp như một tài
nguyên. Như Đức GH Phanxicô đã nhận định “Con số người cao niên đã được nhân
bội, nhưng các xã hội chúng ta chưa tổ chức đủ tốt để dành chỗ cho họ, với lòng
kính trọng và lưu ý cách thực tiễn tới sự già yếu và phẩm giá của họ. Trong khi
ta còn trẻ, ta được hướng dẫn để lãng quên tuổi già, như thể đó là một thứ bệnh
ta cần tránh xa; rồi khi có tuổi, nhất là nếu ta nghèo, bệnh hoạn và cô đơn, ta
sẽ cảm nhận các thiếu sót của một xã hội vốn được thảo chương cho hiệu năng, là
thứ kết cục sẽ làm ngơ người già. Nhưng người già là một vốn qúy không nên làm
ngơ” (Yết Kiến Chung, 3 tháng 3, 2015).
18. Cần lưu tâm
đặc biệt tới các ông bà trong gia đình. Họ là dây liên kết giữa các thế hệ, bảo
đảm sự lưu truyền các truyền thống và phong tục, nhờ đó những người rất trẻ có
thể lần ra gốc gác của họ. Hơn nữa, Ông bà thường bảo đảm cách kín đáo và không
cần đền bù tài chánh cả một sự hỗ trợ giá trị về kinh tế cho các cặp vợ chồng
trẻ và giúp việc săn sóc các cháu, thậm chí còn chuyển giao cả đức tin cho
chúng nữa. Nhiều người, nhất là thời nay, sẵn sàng thừa nhận rằng chính nhờ ông
bà mà họ nhận được việc khai tâm gia nhập đời sống Kitô Giáo. Điều này chứng tỏ
đức tin đã được thông truyền và duy trì ra sao trong gia đình, trong diễn trình
kế tục các thế thế hệ, do đó đã trở thành di sản không thể thay thế được đối
với các gia đình mới. Thành thử, người cao niên đáng được người trẻ, các gia
đình và xã hội nhìn nhận, đánh giá cao cách chân chính và tiếp nhận cách chân
tình.
Thách thức góa bụa
19. Góa bụa là
một cảm nghiệm hết sức khó khăn đối với những người quyết định chọn sống cuộc
sống hôn nhân và gia đình như là hồng phúc Chúa ban. Tuy thế, dưới ánh sáng đức
tin, bậc sống này đem lại nhiều khả thể khác nhau mà ta có thể chứng minh là vô
giá. Thí dụ, trong lúc kinh qua cảm nghiệm đau đớn này, nhiều người cho thấy
khả năng dồn hết năng lực vào việc tận tụy hơn với con cái và các cháu, tìm
thấy nơi cảm nghiệm yêu thương này cả một sứ mệnh có tính soi sáng trong việc
nuôi dưỡng con cái. Theo một nghĩa nào đó, sự trống vắng do người phối ngẫu quá
vãng để lại được đổ đầy bằng tình yêu của các thành viên trong gia đình biết đánh
giá người ở lại, nhờ đó, giúp người này trân quí ký ức về cuộc hôn nhân của
mình. Ngược lại, những người không thể dựa vào sự hiện diện của người thân để
cống hiến và nhận được tình âu yếm và gần gũi, thì cần được sự lưu tâm đặc biệt
của cộng đồng Kitô hữu và được cộng đồng này hỗ trợ bằng sự sẵn sàng có đó,
nhất là khi những người đau khổ này gặp cảnh nghèo.
Giai đoạn cuối đời và tang chế trong gia
đình
20. Những người
trọng tuổi biết rõ mình đang ở giai đoạn chót của cuộc đời. Thân phận của họ
ảnh nhưởng tới mọi khía cạnh của cuộc sống gia đình. Đối diện với bệnh hoạn,
điều thường đi theo việc kéo dài tuổi già, và, trên hết, viễn ảnh cái chết,
được coi như đang tới gần hay được cảm nghiệm thực sự trong việc mất người thân
yêu (người phối ngẫu, gia đình, bằng hữu) là những khía cạnh nghiêm trọng của
giai đoạn này của cuộc sống, dẫn các cá nhân và toàn thể gia đình tới chỗ phải
xác định lại ý nghĩa của quân bình.
Ngày nay, việc
đánh giá cao giai đoạn cuối cùng của cuộc đời càng cần thiết hơn nữa, ít là tại
các nước đã phát triển vì các nước này luôn cố gắng loại bỏ mọi khía cạnh của
thời gian chết chóc này. Vì cái nhìn tiêu cực về thời kỳ này, một cái nhìn chỉ
lưu tâm tới các khía cạnh suy thoái và từ từ mất năng lực, mất tự lập và tình
âu yếm, các năm tháng cuối đời của một người có thể được coi và được đối diện
bằng một ý thức hoàn thành nào đó và tổng hợp nó vào toàn bộ cuộc đời của họ.
Cũng có thể khám phá ra một khía cạnh mới đối với khả năng gây lợi ích của
người này qua việc họ để lại một di sản tinh thần đặc thù nào đó cho các thế hệ
tương lai. Linh đạo của một người cũng như ý thức siêu việt của họ, cộng với sự
gần gũi của các thành viên gia đình, là các tài nguyên cần thiết để tuổi già
được tràn ngập ý thức biết mình có phẩm giá và hy vọng. Các gia đình hiện đang
kinh qua tang chế cần được săn sóc đặc biệt. Khi việc mất mát liên hệ tới các
trẻ thơ, trẻ em và thanh thiếu niên, thì tác động đối với gia đình càng mạnh mẽ
hơn.
Thách thức khuyết tật
21. Cần phải lưu
tâm đặc biệt tới các gia đình có người có các nhu cầu chuyên biệt, trong đó,
một khuyết tật bất ngờ làm gián đoạn cuộc sống, sản sinh ra cả một thách đố sâu
sắc, không thấy trước được và đảo lộn thế quân bình, các ước vọng và chờ mong
của gia đình; điều này tạo ra nhiều cảm xúc lẫn lộn cần được đương đầu và xử
lý; nó cũng đặt để nhiều bổn phận, nhiều điều khẩn thiết phải làm, nhiều nhu
cầu mới và nhiều vai trò và trách nhiệm khác nhau. Quan niệm về gia đình và
toàn bộ chu kỳ sống của nó bị khuấy động một cách sâu xa. Tuy nhiên, cùng với
cộng đồng Kitô hữu mà nó vốn thuộc về, gia đình có thể khám phá ra nhiều khả
năng mới, nhiều kỹ năng không ngờ trước, nhiều cử chỉ và cách thông đạt mới,
nhiều hình thức hiểu biết và nhận diện, trong cuộc hành trình lâu dài và khó
khăn nhằm chấp nhận và chăm sóc nhau trong mầu nhiệm của cuộc đời thoáng qua
này.
22. Một diễn
trình như thế, tự nó vốn cực kỳ phức tạp, càng trở nên khó khăn hơn trong các
xã hội, trong đó, các hình thức tiên kiến (stigma) và thiên kiến đầy nhẫn tâm
vẫn còn tồn tại, cản trở việc giao thoa hữu ích giữa việc khuyết tật và tình
liên đới và đồng hành của cộng đồng. Đối với từng cá nhân và đối với toàn thể
cộng đồng, việc giao thoa này thực sự có thể là dịp may quí giá để thăng tiến
công lý, yêu thương và bảo vệ giá trị của mọi đời sống nhân bản, bắt đầu với
việc cùng nhau thừa nhận ý nghĩa sâu sắc của tình huống dễ bị tổn thương. Một
số người nhiệt tâm mong muốn rằng, trong một cộng đồng thực sự biết mở tay chào
đón, gia đình và người có các nhu cầu đặc biệt sẽ không cảm thấy cô đơn và bị
từ bỏ, nhưng có thể tìm được sự trợ giúp và nâng đỡ, nhất là khi điểm mạnh và
các tài nguyên của gia đình không còn nữa.
23. Về phương
diện này, hoàn cảnh ấy đặt ra một thách đố mà ta có thể gọi là “sau chúng tôi”,
nói cách khác, là các tình huống gia đình tạo ra bởi cảnh nghèo hay cô đơn hay
hiện tượng mới được khám phá gần đây, trong đó, tại các xã hội phát triển cao
về kinh tế, có xác suất cao là việc kéo dài tuổi thọ trung bình sẽ giúp những
người có khuyết tật sống lâu hơn cha mẹ họ. Nếu, dưới ánh sáng đức tin, gia
đình có khả năng chấp nhận sự hiện diện của người có nhu cầu đặc biệt, thì gia
đình cũng sẽ giúp họ không coi khuyết tật của họ như một giới hạn mà đúng hơn
biết nhận ra các hồng phúc và giá trị độc đáo của mình. Việc này sẽ dẫn tới
việc bảo đảm, bênh vực và đánh giá cao tiềm năng nơi mọi đời sống, cả của cá
nhân lẫn của gia đình, và thừa nhận các nhu cầu vốn cố hữu nơi cá nhân và quyền
của họ đối với phẩm giá và cơ hội bình đẳng, đối với việc được chăm sóc và phục
vụ, đối với việc được đồng hành và âu yếm, đối với linh đạo, cái đẹp và ý hướng
trọn vẹn của ý nghĩa, trong mọi giai đoạn của đời sống, từ lúc được tượng thai,
qua tuổi già và tới cái chết tự nhiên.
Thách thức di dân
24. Nhiều người
quan tâm tới các hậu quả của di dân đối với gia đình, một việc liên quan tới
toàn bộ dân số tại một số nơi trên thế giới, theo nhiều cách khác nhau. Các
người di cư đòi được chăm sóc mục vụ cách đặc biệt, một nền chăm sóc không
những dành cho các gia đình di cư mà thôi mà còn cho các gia đình còn ở lại nơi
nguyên quán của họ nữa. Một nền chăm sóc như thế phải được thực hiện trong khi
tôn trọng các nền văn hóa của họ cũng như cách đào tạo về nhân bản và tôn giáo
mà từ đó, mỗi người họ vốn xuất thân. Ngày nay, việc di dân đang tạo ra nhiều
hậu quả bi thảm cho nhiều khối cá nhân và gia đình đông đảo, như thể họ chỉ là
“một thặng dư” nơi các dân số và lãnh thổ khác. Một cách hợp pháp, những người
này đi tìm một tương lai tốt hơn và, đôi lúc, “một tái sinh” trong trường hợp
những người không còn có thể sống tại nơi sinh quán của mình nữa.
25. Những tình
huống khác nhau của chiến tranh, bách hại, nghèo đói và bất bình đẳng thường là
do việc di dân, cộng với cuộc ra đi đầy nguy hiểm, có lúc, đe dọa tới chính
mạng sống, đã tạo ra các hậu quả gây chấn thương cho các gia đình và các cá
nhân. Thực vậy, trong diễn trình di dân, các gia đình di dân không khỏi tránh
việc bị tan nát bởi nhiều kinh nghiệm bị bỏ rơi và phân rẽ đa dạng. Trong nhiều
trường hợp, đơn vị gia đình chịu phân ly đáng kể giữa những người bỏ đi trước
người khác và những người chờ đợi việc hồi hương hay đoàn tụ. Những người ra đi
thấy mình bị bứng khỏi lãnh thổ, văn hóa và ngôn ngữ của mình cũng như các sợi
dây nối kết mình với đại gia đình và cộng đồng của họ, ấy là chưa kể quá khứ
của họ và các truyền thống họ đã theo suốt cả đời.
26. Gặp một xứ sở
và một nền văn hóa mới càng trở nên khó khăn hơn khi không hề có những điều
kiện ấm áp, tiếp nhận, tôn trọng chân chính đối với quyền lợi mọi người và
quyền được chung sống hòa bình và liên đới. Một cảm thức mất hướng, một niềm
hoài nhớ dĩ vãng nay đã không còn, chưa kể các khó khăn trong việc hội nhập
chân chính vào cộng đoàn mới, vốn là những cảm nghiệm trong khi cố gắng tạo lập
các dây liên hệ mới và đặt kế hoạch sống bằng cách tổng hợp quá khứ và hiện tại,
các nền văn hóa cũng như ngôn ngữ và các não trạng khác nhau, được coi là không
thể nào vượt qua được, trong rất nhiều tình huống hiện nay. Thay vào đó, các
cảm nghiệm này cho thấy một nỗi thống khổ đổi mới trong các gia đình thuộc thế
hệ di dân thứ hai và thứ ba, càng đổ thêm dầu vào chủ nghĩa cực đoan
(fundamentalism) và bạo động bác bỏ nền văn hóa chủ nhà.
Một tài nguyên
quí giá để thắng vượt các khó khăn này tìm thấy trong việc các gia đình gặp gỡ
nhau. Vai trò chủ chốt trong diễn trình hội nhập này thường do các bà mẹ thực
hiện, nhờ việc họ chia sẻ kinh nghiệm dưỡng nuôi con cái của mình.
27. Các kinh
nghiệm di dân đặc biệt bi thảm và phá hoại các gia đình và các cá nhân: khi họ
bất hợp pháp; khi họ “được hỗ trợ” bởi hệ thống buôn bán người quốc tế; khi họ
liên lụy tới các trẻ em không người lớn đi theo; và khi họ đòi một thời gian
kéo dài tại các nơi trung gian giữa nước này và nước kia và giữa quá khứ và
tương lai, và thời gian kéo dài trong các trại hay các trung tâm tỵ nạn, nơi
không thể khởi đầu diễn trình bén rễ và đặt kế hoạch cho tương lai.
Các thách đố đặc biệt khác
28. (7).
Một số bối cảnh văn hóa và tôn giáo đặt ra các thách đố đặc thù. Tại một số
nơi, đa hôn vẫn còn được thực hành và tại một số nơi nơi có truyền thống lâu
đời, vẫn còn tồn tại phong tục “hôn nhân từng giai đoạn”. Tại nhiều nơi khác,
“các cuộc hôn nhân sắp xếp” vẫn là một thực hành lâu đời. Tại các nước mà Đạo
Công Giáo là thiểu số, nhiều cuộc hôn nhân hỗn hợp và khác đạo đã diễn ra, tất
cả đều có những khó khăn cố hữu về phương diện pháp chế, Phép Rửa, dưỡng dục
con cái và tôn trọng hỗ tương liên quan tới dị biệt đức tin. Trong những cuộc
hôn nhân này, có thể có nguy cơ duy tương đối hay dửng dưng; nhưng cũng có khả
thể phát huy tinh thần đại kết và đối thoại liên tôn trong việc sống chung của
nhiều cộng đoàn tại cùng một nơi. Tại nhiều nơi, và không riêng ở Tây Phương,
đã và đang có việc gia tăng khá phổ biến trong tập tục sống chung trước khi lấy
nhau hay đơn thuần chỉ sống chung với nhau chứ không hề có ý định sẽ bước vào
các mối liên hệ bị luật pháp trói buộc. Thêm vào đó, thường còn có các đạo luật
dân sự mang hại lại cho hôn nhân và gia đình. Vì hiện tượng duy tục hóa ở nhiều
nơi trên thế giới, việc nhắc tới Thiên Chúa đã giảm một cách đáng kể và đức tin
không còn được chia sẻ trong xã hội nữa.
Gia đình và trẻ em
29 (8). Đặc biệt tại một số quốc gia, một số đông trẻ em được sinh hạ ngoài
hôn nhân, nhiều em sau đó lớn lên chỉ có một trong hai cha mẹ hay trong các gia
đình pha trộn hay tái tạo. Các vụ ly dị đang gia tăng, nhiều khi diễn ra chỉ vì
các lý do kinh tế. Nhiều khi, con cái là nguồn tranh chấp giữa cha mẹ và trở
thành nạn nhân thực sự của các vụ tan vỡ gia đình. Các người cha, những người
thường vắng mặt khỏi gia đình không nguyên chỉ vì lý do kinh tế, cần phải nhận
trách nhiệm rõ ràng hơn nữa đối với con cái và gia đình. Phẩm giá phụ nữ vẫn
cần được bênh vực và cổ xúy. Thực vậy, tại nhiều nơi ngày nay, chỉ vì là đàn bà
cũng là nguồn cho kỳ thị và hồng ơn làm mẹ đôi khi bị trừng phạt thay vì quí
mến. Việc cũng không nên làm ngơ là bạo lực gia tăng chống lại phụ nữ, trong
đó, họ trở thành nạn nhân, bất hạnh thay, đôi khi ngay trong gia đình và là hậu
quả của tập tục nghiêm trọng và phổ biến cắt bỏ bộ phận sinh dục trong một số
nền văn hóa. Việc khai thác tình dục trẻ em vẫn còn là một thực tại đầy tai
tiếng và sai lầm khác trong xã hội ngày nay. Các xã hội đang trải qua bạo lực
do chiến tranh, khủng bố hay các tổ chức tội phạm gây ra đang chứng kiến tận
mắt việc giảm giá trị của gia đình, nhất là tại các thành phố lớn, nơi, trong
các khu ngoại biên, hiện tượng gọi là “trẻ em đường phố” đang gia tăng. Hơn
nữa, di dân là một dấu chỉ thời đại nữa cần được đương đầu và hiểu rõ về phương
diện các hậu quả nặng nề của nó đối với cuộc sống gia đình.
Vai trò phụ nữ
30. Nhiều khu vực
đang mục kích việc giải phóng phụ nữ, một điều rõ ràng cho thấy vai trò người
đàn bà trong việc tăng trưởng của gia đình và xã hội. Tuy nhiên, sự thật vẫn
là: tư thế (status) phụ nữ trên thế giới khác nhau rất đáng kể, chủ yếu do các
nhân tố văn hóa. Hiển nhiên, ta không thể giải quyết các tình thế khó khăn này
chỉ giản đơn bằng cách chấm dứt cuộc khủng hoảng kinh tế hay việc ra đời của
nền văn hóa hiện đại, như các hoàn cảnh khó khăn của phụ nữ tại một số nước mới
phát triển gần đây đã chứng tỏ.
Tại các nước
Tây Phương, việc tăng quyền cho phụ nữ đòi người ta phải suy nghĩ lại các bổn
phận của các người phối ngẫu trong tính hỗ tương và trách nhiệm chung của họ
đối với cuộc sống gia đình. Tại các nước đang phát triển, việc bóc lột phụ nữ
và bạo hành đối với thân xác họ và các trách vụ gây mệt nhọc áp đặt lên họ,
ngay cả lúc thai nghén, đôi khi đi đôi với phá thai và buộc phải triệt sản,
chưa kể các hậu quả cực kỳ tiêu cực của các thói quen liên hệ tới việc sinh sản
(như “cho thuê” dạ con hay mua bán các giao tử phôi thai). Tại các nước tiền
tiến, ước muốn có con “bất cứ giá nào” chưa thấy đem lại được liên hệ gia đình
nào hạnh phúc hơn và mạnh mẽ hơn, nhưng, trong nhiều trường hợp, thực sự đã gia
trọng sự bất bình đẳng giữa đàn ông và đàn bà. Theo thiên kiến của một số nền
văn hóa khác nhau, sự hiếm muộn nơi một người đàn bà là một điều kiện đưa tới
việc kỳ thị của xã hội.
Một nhân tố góp
phần vào việc thừa nhận vai trò có tính quyết định của phụ nữ trong xã hội là
việc đánh giá cao hơn trách nhiệm của họ trong Giáo Hội, tức là, cho họ tham dự
vào diễn trình đưa ra quyết định, cho họ tham gia việc quản trị một số định
chế; và cho họ can dự vào việc huấn luyện các thừa tác viên thụ phong.
Chương IV
Gia đình, cảm tính và đời sống
Sự quan trọng của cảm tính (affectivity)
trong đời sống
31. (9). Đứng trước tình thế xã hội nói trên, tại nhiều nơi trên thế giới,
người ta cảm thấy nhu cầu lớn lao phải tự chăm sóc, tự biết mình nhiều hơn,
sống hòa hợp hơn với các cảm xúc và cảm nhận của mình và tìm các liên hệ có
tính cảm giới có giá trị bao nhiêu có thể.
Những khát mong
chính đáng này có thể dẫn tới ước muốn cố gắng nhiều hơn để xây dựng các liên
hệ tự hiến và hỗ tương đầy sáng tạo có tính lên năng lực và hỗ trợ giống các
liên hệ trong gia đình. Tuy nhiên, trong trường hợp này, chủ nghĩa cá nhân và
chỉ biết sống cho riêng mình là một nguy hiểm thực sự. Thách đố đối với Giáo
Hội là trợ giúp các cặp vợ chồng trong diễn trình làm chín mùi xúc cảm của họ
cũng như việc phát triển cảm giới của họ qua việc cổ vũ đối thoại, nhân đức và
tín thác vào tình yêu từ bi của Thiên Chúa. Việc cam kết trọn vẹn trong hôn
nhân có thể là một đối cực mạnh mẽ đối đầu với cơn cám dỗ của chủ nghĩa duy cá
nhân vị kỷ.
Đào luyện cảm tính
32. Các gia đình
cần nhìn nhận trách nhiệm của họ trong việc đào luyện cảm tính nơi các thế hệ
trẻ. Tốc độ của các thay đổi đang diễn ra trong xã hội hiện đại khiến cho việc
hướng dẫn để đạt được cảm tính của toàn diện con người càng khó khăn hơn. Điều
này cũng đòi hỏi: các nhân viên mục vụ phải được huấn luyện thích đáng, không
phải chỉ là việc hiểu biết Thánh Kinh và Tín Lý Công Giáo cách thấu đáo mà thôi
mà cả các khí cụ sư phạm, cũng như một số thích đáng các nhà xã hội học và bác
sĩ nữa. Kiến thức tâm lý học về gia đình cũng sẽ giúp thông truyền một cách hữu
hiệu quan niệm Kitô Giáo về cảm tính. Cố gắng giáo dục này có thể đã bắt đầu
với việc dạy giáo lý lúc khai tâm.
Sự mỏng manh và kém trưởng thành về cảm
tính
33. (10). Các khuynh hướng văn hóa
trong thế giới ngày nay xem ra không muốn đặt bất cứ giới hạn nào lên cảm giới
người ta trong đó, mọi khía cạnh cần được khám phá, dù là những khía cạnh phức
tạp nhất. Thực vậy, ngày nay, vấn đề mỏng dòn của cảm giới là một vấn đề cấp
bách; một cảm giới tự yêu mình thái quá (narcissistic), bất ổn định hay dễ thay
đổi không luôn luôn cho phép người ta lớn lên đến độ trưởng thành. Đặc biệt
đáng lo ngại là việc phổ biến khiêu dâm và việc thương mãi hóa thân xác, vốn
cũng được cổ vũ bởi việc lạm dụng internet và những hoàn cảnh đáng trách trong đó
người ta bó buộc phải đĩ điếm. Trong bối cảnh này, các cặp vợ chồng thường
không biết chắc, do dự và lao đao trong việc tìm đường lớn lên. Nhiều cặp có
khuynh hướng dừng lại ở các giai đoạn đầu của cuộc sống cảm giới và tính dục
của họ. Chỉ một cuộc khủng hoảng trong mối liên hệ của họ cũng đủ làm gia đình
bất ổn và, trong trường hợp ly thân hay ly dị, có thể dẫn tới những hậu quả
nghiêm trọng cho người lớn, trẻ em và xã hội nói chung, làm suy yếu cá nhân và
các dây kiên kết xã hội. Việc gỉam dân số, do não trạng không muốn có con gây
ra và được nền chính trị sức khỏe sinh sản của thế giới cổ vũ, đã tạo nên không
những một tình thế trong đó mối liên hệ giữa các thế hệ không còn được bảo đảm
nữa mà cả nguy cơ này: với thời gian, việc xuy giảm này sẽ dẫn tới việc bần
cùng hóa kinh tế và mất hy vọng trong tương lai. Việc phát triển của kỹ thuật
sinh học (bio-technology) cũng có tác động lớn đối với sinh suất.
Thách đố đạo đức sinh học
34. Nhiều dấu chỉ
từ nhiều miền khác nhau trên thế giới rằng điều gọi là cuộc cách mạng kỹ sinh
học (bio-technological) đã đưa vào lãnh vực sinh sản nhân bản khả thể thao túng
hành vi sinh sản của con người, khiến nó lệ thuộc mối liên hệ tính dục giữa
người đàn ông và người đàn bà. Theo chiều hướng này, sự sống nhân bản và việc
làm cha mẹ đã trở thành những thực tại có thể tháo ráp được, chủ yếu tùy thuộc
ý muốn của cá nhân hay của cặp mà không nhất thiết phải dị tính hay kết hôn hợp
lệ. Thời gần đây, hiện tượng này, một hiện tượng xẩy tới như một điều mới lạ
thực sự trong tính dục con người và càng ngày càng được nhiều người ủng hộ,
đang gây hậu quả sâu xa đối với các mối liên hệ, trong xã hội và trong hệ thống
luật pháp; hệ thống này đang can thiệp nhằm cố gắng điều hòa một loạt các tình
huống khác nhau và những gì đã xẩy ra rồi.
Thách đố mục vụ
35. (11) Về phương diện này, Giáo Hội ý
thức rõ nhu cầu phải trình bày lời lẽ của sự thật và hy vọng, mà căn bản là con
người phát xuất từ Thiên Chúa, và do đó, một suy tư với khả năng tái lên khuôn
các câu hỏi vĩ đại về ý nghĩa nhân sinh sẽ đáp ứng các hoài mong sâu sắc nhất
của nhân loại. Các giá trị vĩ đại của hôn nhân và gia đình Kitô Giáo tương ứng
với cuộc tìm kiếm vốn lên đặc điểm cho nhân sinh, dù là trong thời đại của chủ
nghĩa duy cá nhân và duy khoái lạc. Người ta cần được chấp nhận trong các hoàn
cảnh cụ thể của đời sống. Ta cần biết cách hỗ trợ họ trong cuộc tìm kiếm của họ
và khuyến khích họ trong niềm khát khao Thiên Chúa của họ và ước nguyện của họ
muốn cảm thấy mình là thành phần của Giáo Hội, bao gồm cả những người từng kinh
qua thất bại hay thấy mình rơi vào đủ loại tình huống. Sứ điệp Kitô Giáo luôn
chứa đựng trong chính nó thực tại và năng động tính của lòng thương xót và sự
thật vốn gặp nhau trong Chúa Kitô.
36. Trong các
chương trình đào luyện về hôn nhân và đời sống gia đình, các nhân viên mục vụ
cần phải xem xét tính đa diện của các tình huống cụ thể. Một đàng, họ cần phát
huy các chương trình nhằm bảo đảm để người trẻ được đào luyện thích đáng; đàng
khác, điều cũng cần thiết như thế là các chương trình dành cho những người chưa
kết hôn và thường vẫn còn sống với cha mẹ. Những cặp không thể có con cũng nên
nhận được sự chú ý đặc biệt của Giáo Hội về mục vụ để họ nhận ra kế hoạch của
Thiên Chúa trong tình huống của họ, trong việc phục vụ toàn thể cộng đoàn.
Nhiều người yêu
cầu rằng nhóm người mà ta thường gọi là “xa rời Giáo Hội” không nên bị coi là
những người “bị loại trừ” hay “bị loại bỏ” vì những người như thế vẫn được
Thiên Chúa yêu thương và vẫn nằm ở tâm điểm hoạt động mục vụ của Giáo Hội. Mọi
người đều có quyền được đối xử với sự hiểu biết, vì nhớ rằng một số tình huống
khiến người ta không tham dự đời sống Giáo Hội không luôn được họ cố tình lựa
chọn. Thường thường các tình huống này phát sinh từ tác phong của một người thứ
ba, điều mà, đôi khi, họ phải chịu đựng trong đau khổ lớn lao.
PHẦN II
BiỆn phân ơn
gỌi gia đình
Chương I
Gia đình và sư
phạm Thiên Chúa
Nhìn Chúa Giêsu
và khoa sư phạm Thiên Chúa trong lịch sử cứu rỗi
37. (12) Để có thể “bước đi giữa các
thách đố đương thời, điều kiện có tính quyết định là rõi nhìn vào Chúa Giêsu
Kitô, là ngừng lại chiêm niệm và thờ lạy gương mặt Người… Thực vậy, mỗi lần ta
trở về nguồn trải nghiệm Kitô Giáo, những con đường mới và các khả thể chưa bao
giờ mơ ước sẽ mở ra” (Đức GH Phanxicô, Diễn
Văn ngày 4 tháng Mười năm 2014). Chúa Giêsu nhìn những người đàn bà và đàn ông
Người gặp một cách đầy yêu thương và trìu mến, đồng hành với họ một cách
kiênnhẫn và đầy xót thương, trong khi vẫn công bố các đòi hỏi của Nước Thiên
Chúa.
Lời Chúa trong
gia đình
38. Nhìn Chúa
Giêsu, trước nhất, có nghĩa là lắng nghe lời của Người. Đọc Sách Thánh không
những trong cộng đồng mà còn cả tại nhà nữa sẽ dẫn tới việc làm sáng tỏ tính
trung tâm của vợ chồng và của gia đình trong kế hoạch của Thiên Chúa và tới
việc hiểu Thiên Chúa đã bước vào đời sống gia đình ra sao và nhờ đó, làm cho nó
đẹp tươi và sinh động hơn.
Tuy nhiên, bất
kể một vài sáng kiến, xem ra các gia đình Công Giáo vẫn thiếu việc tiếp xúc
trực tiếp với Thánh Kinh. Việc chăm sóc mục vụ cho các gia đình càng ngày càng
làm nổi bật tính trung tâm của việc gặp gỡ Chúa Kitô, một cảm nghiệm tự nhiên
sẽ xẩy tới khi gia đình biết đặt cơ sở trên Thánh Kinh. Bởi thế, nhiều người
ước mong trên hết rằng mối liên hệ có tính sinh tử với Lời Chúa cần được khuyến
khích trong các gia đình để họ được điều hướng về một cuộc gặp gỡ bản thân chân
thực và thích đáng với Chúa Giêsu Kitô. Một cách tiếp cận Sách Thánh đã được đề
xướng là lectio divina,
tức cách vừa đọc vừa cầu nguyện Lời Chúa và là nguồn linh hứng cho cuộc sống
hàng ngày.
Sư phạm Thiên
Chúa
39. (13) Vì trật tự tạo dựng được xác
định bởi xu hướng của nó hướng về Chúa Kitô, nên cần phải phân biệt, tuy không
tách biệt, các bình diện qua đó, Thiên Chúa thông ban cho nhân loại ơn thánh
của giao ước. Vì lý do sư phạm của Thiên Chúa, theo đó, trật tự tạo dựng phát
triển qua các giai đoạn nối tiếp với trật tự cứu chuộc, nên ta cần phải hiểu sự
mới mẻ của Bí Tích Hôn Nhân Kitô Giáo trong liên tục tính với hôn nhân tự nhiên
ngay từ đầu, nghĩa là, cách hành động cứu chuộc của Thiên Chúa trong cả tạo
dựng lẫn đời sống Kitô Giáo.
Trong tạo dựng,
vì mọi sự đều được dựng nên nhờ Chúa Kitô và cho Chúa Kitô (xem Cl 1,16), nên
các Kitô hữu “hân hoan và kính cẩn khám phá ra những hạt giống Lời Chúa đang
tiềm ẩn nơi các đồng loại; họ phải chú ý đến sự biến đổi sâu xa đang diễn ra
nơi các dân tộc” (Ad Gentes, 11). Trong đời sống Kitô Giáo, việc lãnh nhận Bí
Tích Rửa Tội đem tín hữu vào Giáo Hội qua Giáo Hội tiểu gia, nghĩa là, qua gia
đình; nhờ thế, khởi đầu “một diễn trình năng động luôn phát triển, một diễn
trình từ từ diễn tiến cùng với việc tiệm tiến hoà nhập các ơn phúc của Thiên
Chúa” (Familiaris Consortio, 9), trong một cuộc hồi tâm liên tục trở về với
tình yêu cứu vớt ta khỏi tội lỗi và ban cho ta sự sống viên mãn.
Hôn nhân tự
nhiên và sự viên mãn của bí tích
40. Vì biết rằng
cần phải hiểu các thực tại tự nhiên dưới ánh sáng ơn thánh, nên ta không thể
không nhớ rằng trật tự cứu chuộc soi chiếu và cử hành trật tự tạo dựng. Do đó,
hôn nhân tự nhiên chỉ có thể hiểu trọn vẹn dưới ánh sáng nó được thể hiện trong
Bí Tích Hôn Phối. Chỉ khi nào rõi nhìn lên Chúa Kitô, người ta mới có thể tiến
tới chỗ nhận thức sâu sắc được sự thật trong các mối liên hệ nhân bản. “mầu
nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể.
[…]Chúa Kitô, Adam mới, trong khi mạc khải về Chúa Cha và tình yêu của Người,
đã cho con người biết rõ về chính con người và tỏ cho họ biết thiên chức rất
cao cả của họ” (GS, 22). Trong viễn ảnh này, ta sẽ hợp thời hiểu được
các đặc điểm tự nhiên rất phong phú và đa dạng của hôn nhân, nhờ dùng các chìa
khóa của Kitô học.
Chúa Giêsu và
gia đình
41. (14) Chính Chúa Giêsu, khi nhắc lại
kế hoạch nguyên thủy dành cho các cặp vợ chồng, đã tái khẳng định tính bất khả
tiêu trong cuộc phối hợp giữa một người đàn ông và một người đàn bà, dù có nói
với các người Biệt Phái rằng: “vì sự cứng lòng của các ông, nên Môsê đã để các
ông ly dị vợ, nhưng từ nguyên thủy, không có việc ấy đâu” (Mt 19,8). Tính bất
khả tiêu của hôn nhân (“do đó, sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không
được phân ly” Mt 19,6), phải được hiểu không như một “cái ách” áp đặt lên con
người mà như một “hồng phúc” dành cho chồng và vợ kết hợp với nhau trong hôn
nhân. Bằng cách này, Chúa Giêsu muốn tỏ cho thấy hành vi khiêm hạ xuống trần
gian của Thiên Chúa luôn luôn đồng hành với cuộc hành trình nhân bản của ta ra
sao và có thể chữa lành và dùng ơn thánh để biến đổi một trái tim đã trở nên
cứng cỏi như thế nào, bằng cách hướng nó về nguyên lý của ơn thánh, tức con
đường thập giá. Các Tin Mừng đã minh xác rằng gương sáng của Chúa Giêsu là tiêu
mẫu đối với Giáo Hội. Thực vậy, Chúa Giêsu vốn sinh ra trong một gia đình;
Người bắt đầu làm các dấu lạ tại tiệc cưới Cana và Người công bố ý nghĩa của
hôn nhân như sự viên mãn của mạc khải nhằm phục hoạt kế hoạch nguyên thủy của
Thiên Chúa (Mt 19,3). Tuy nhiên, cùng một lúc, Người thực hành điều Người giảng
dạy và biểu lộ ý nghĩa chân thực của lòng thương xót, được minh họa một cách rõ
rệt trong cuộc gặp gỡ của Người với người phụ nữ Samaria (Ga 4,1-30) và với
người phụ nữ ngoại tình (Ga 8,1-11). Qua việc nhìn người tội lỗi bằng lòng yêu
thương, Chúa Giêsu dẫn họ tới thống hối và hồi tâm (“hãy đi và đừng phạm tội
nữa”), vốn là căn bản để được tha thứ.
Tính bất khả
tiêu: một hiến tặng và là một trách vụ
42. Chứng từ của
những cặp vợ chồng biết sống trọn cuộc hôn nhân Kitô Giáo làm nổi bật giá trị
của sợi dây bất khả tiêu của hôn nhân và luôn cho thấy những cách thế mới để
làm chứng cho lòng chung thủy vợ chồng. Tính bất khả tiêu biểu tượng cho một
giải đáp có tính bản thân cho khát vọng sâu xa muốn yêu thương hỗ tương và dài
lâu: một yêu thương “không bao giờ chấm dứt” trở thành một chọn lựa và một việc
hiến mình, một hiến tặng do mỗi người phối ngẫu thực hiện cho người kia, do đó
đóng ấn cho mối liên hệ của họ với chính Thiên Chúa và tất cả những ai Thiên
Chúa ủy thác cho họ. Từ viễn ảnh này, điều đặc biệt quan trọng là việc cử hành
các ngày kỷ niệm lễ cưới trong cộng đồng Kitô hữu phải làm sao để có thể nhắc
nhớ rằng nếu hôn nhân có cơ sở trong Chúa Kitô, thì việc sống vĩnh viễn với
nhau như vợ chồng không những là điều khả hữu mà còn là một kinh nghiệm đẹp đẽ
nữa.
Tin Mừng Gia
Đình đem lại một lý tưởng trong cuộc sống, một lý tưởng phải lưu ý tới cảm thức
thời gian và các khó khăn thực sự trong việc vĩnh viễn duy trì các cam kết. Về
phương diện này, Giáo Hội cần phải công bố một sứ điệp có thể đem lại hy vọng,
chứ không phải gánh nặng, để mọi gia đình đều có thể biết rằng Giáo Hội không
bao giờ bỏ rơi gia đình, vì “sợi dây bất khả tiêu của lịch sử Chúa Kitô và Giáo
Hội với lịch sử hôn nhân và gia đình nhân loại” (Đức Phanxicô, Yết Kiến Chung, 6 tháng 5,
2015).
Sống như một
gia đình
43. Nhiều người
khuyến cáo nên cổ vũ một nền luân lý ơn thánh có thể dẫn tới việc khám phá ra
và sự bừng nở vẻ đẹp của các nhân đức vốn cố hữu trong đời sống hôn nhân, tức
kính trọng và tín thác lẫn nhau; chấp nhận và biết ơn nhau; và nhẫn nại cùng
tha thứ. Đức GH Phanxicô nói rằng ở trên khung cửa dẫn vào đời sống gia đình
“có viết ba chữ […] ‘xin phép’, ‘cám ơn’ và ‘xin lỗi’. Thực vậy, các cách nói
này mở đường để sống tốt trong gia đình, để sống hòa bình. Chúng là các cách
nói đơn giản, nhưng không đơn giản chút nào khi đem ra thực hành! Chúng nắm
nhiều sức mạnh: sức mạnh giữ cho đời sống gia đình nguyên vẹn dù có khi bị thử
thách bởi hàng ngàn vấn nạn. Nhưng nếu chúng vắng mặt, những lỗ hổng nho nhỏ có
thể bắt đầu nứt rộng mãi ra và toàn bộ sự vật có thể sụp đổ” (Đức Phanxicô, Yết kiến chung, 13 tháng Năm,
2015). Quả thực, việc cử hành Bí Tích Hôn Phối là một khởi đầu cho một diễn
trình bao gồm và nâng đỡ nhiều giai đoạn và thử thách khác nhau của tình yêu,
tất cả, nhờ được nuôi dưỡng bằng ơn thánh, sẽ đòi một phát triển từ từ hướng
tới việc phát triển trọn vẹn.
Gia đình trong
kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa
44. (15) Lời ban sự sống đời đời mà
Chúa Giêsu ban cho các môn đệ của Người, bao gồm giáo huấn về hôn nhân và gia
đình. Giáo huấn này giúp ta phân biệt ba giai đoạn căn bản trong chương trình
của Thiên Chúa dành cho hôn nhân và gia đình. Khởi đầu, là gia đình nguyên
thủy, khi Thiên Chúa Tạo Hóa thiết lập cuộc hôn nhân đầu hết giữa Ađam và Evà
làm nền tảng vững chắc cho gia đình. Thiên Chúa không những dựng nên con người
có nam có nữ (St 1,27), mà Người còn chúc phúc để họ sinh sôi nẩy nở (St 1,28).
Chính vì thế, “người đàn ông sẽ lià bỏ cha mẹ và gắn bó với vợ và cả hai nên
một thân xác” (St 2,24). Sự kết hợp này đã bị tội lỗi làm cho thương tổn và trở
nên hình thức hôn nhân có tính lịch sử nơi Dân Chúa, hình thức mà Môsê đã ban
cấp khả thể ban hành chứng thư ly dị (xem Đnl 24,1tt). Đó là thực hành chính
vào thời Chúa Giêsu. Với việc xuống thế của Chúa Giêsu và việc Người giao hòa
thế giới sa ngã bằng ơn cứu chuộc của Người, giai đoạn bắt đầu từ Môsê đã chấm
dứt.
Kết hợp vợ
chồng và tính sinh hoa trái
45. Một số người
nhấn mạnh rằng làm nổi bật giáo huấn trong Sách Thánh có thể giúp ích trong
việc chứng tỏ: từ thời Sáng Thế, Thiên Chúa đã đóng lên vợ chồng hình ảnh và
họa ảnh của Người ra sao. Phù hợp với những đường nét này, Đức GH Phanxicô nhắc
nhở rằng “một mình người nam không phải là hình ảnh của Thiên Chúa mà một mình
người nữ cũng không phải là hình ảnh của Thiên Chúa, nhưng người nam và người
nữ như một cặp mới là hình ảnh của Thiên Chúa. Sự khác nhau giữa người nam và
người nữ không nhằm đứng đối lập nhau, hay khuất phục nhau, mà là để hiệp thông
và sinh sản, luôn luôn theo hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa” (Yết Kiến
Chung, 15 tháng Tư, 2015). Một số người chỉ rõ rằng bản chất bổ túc cho
nhau trong đặc tính kết hợp và sinh sản của hôn nhân đã được viết ngay trong kế
hoạch tạo dựng của Thiên Chúa: đặc tính kết hợp là kết quả của một quyết định
có ý thức, nhưng không và có chủ tâm, được thể hiện trong đặc tính sinh sản.
Hơn nữa, hành vi sinh sản phải được hiểu từ vọng nhìn làm cha mẹ có trách nhiệm
và bổn phận trung thành chăm sóc và dưỡng dục con cái.
Gia Đình: hình
ảnh của Ba Ngôi
46. (16) Chúa Giêsu, Đấng giao
hòa mọi sự nơi chính Người, đã phục hồi hôn nhân và gia đình trở lại hình thức
nguyên thủy của nó (Mc 10,1-12). Hôn nhân và gia đình đã được Chúa Kitô cứu
chuộc (Ep 5,21-32), được phục hồi trong hình ảnh Ba Ngôi Chí Thánh, mầu nhiệm
mà từ đó, mọi yêu thương đích thực đã phát sinh. Giao ước phu phụ, phát nguyên
từ chính tạo dựng và được mạc khải trong lịch sử cứu rỗi, nhận được ý nghĩa
trọn vẹn của nó trong Chúa Kitô và Giáo Hội. Qua Giáo Hội, Chúa Kitô ban cho
hôn nhân và gia đình ơn thánh cần thiết để làm chứng cho tình yêu của Thiên
Chúa và sống cuộc sống hiệp thông. Tin Mừng Gia Đình trải dài suốt lịch sử thế
giới từ lúc tạo ra con người giống hình ảnh và họa ảnh Thiên Chúa (xem St 1,26-27)
cho tới ngày đạt tới sự thành toàn của nó vào ngày sau hết trong mầu nhiệm Giao
Ước Chúa Kitô với tiệc cưới của Chiên Con (xem Kh 19,9; xem Đức Gioan Phaolô
II, Giáo Lý về Tình Yêu Nhân
Bản).
Chương II
Gia đình và đời
sống Giáo Hội
Gia đình trong
các văn kiện của Giáo Hội
47. (17) “Xuyên suốt các thế kỷ, Giáo
Hôi luôn duy trì giáo huấn không thay đổi của mình về hôn nhân và gia đình. Một
trong các phát biểu cao nhất về giáo huấn này đã được Công Đồng Vatican II đề
xuất trong Hiến Chế Mục Vụ Gaudium
et Spes, là hiến chế đã dành trọn một chương để cổ vũ phẩm giá của hôn nhân và
gia đình (xem Gaudium et Spes,
47-52). Văn kiện này định nghĩa hôn nhân như một cộng đồng sống và yêu thương
(xem Gaudium et Spes, 48), đặt
tình yêu ở giữa gia đình và đồng thời biểu lộ chân lý của tình yêu này ngược
với nhiều hình thức khác nhau của chủ nghĩa giản lược đang thịnh hành trong nền
văn hóa hiện nay. ‘Tình yêu đích thực giữa chồng và vợ’ (Gaudium et Spes, 49)
hàm nghĩa việc hiến thân cho nhau và bao hàm cũng như tích hợp các khía cạnh tính
dục và cảm giới, theo kế hoạch của Thiên Chúa (xem Gaudium et Spes, 48-49). Đàng khác, Gaudium et Spes, 48, còn nhấn mạnh tới
việc đặt cơ sở cho vợ chồng trong Chúa Kitô. Chúa Kitô ‘bước vào cuộc sống các
vợ chồng Kitô hữu qua bí tích hôn phối’ và ở lại với họ. Trong Nhập Thể, Người
mang lấy tình yêu nhân bản, thanh tẩy nó, mang nó tới hoàn hảo và ban cho vợ
chồng, cùng với Thần Khí Người, khả năng sống tình yêu ấy, một tình yêu thấm
nhiễm mọi phần trong cuộc sống đức tin, đức cậy và đức mến của họ. Bằng cách
này, có thể nói cô dâu và chú rể đã được thánh hiến và nhờ ơn thánh của Người,
họ xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô và là một Giáo Hội tiểu gia (xem Lumen Gentium, 11), đến nỗi Giáo Hội,
muốn hiểu rõ mầu nhiệm của mình, đã phải nhìn vào gia đình Kitô hữu, là hữu thể
biểu lộ Giáo Hội một cách có thực chất” (Instrumentum Laboris, 4).
48. Dưới ánh sáng
giáo huấn của Công Đồng Vatican II và các văn kiện của Huấn Quyền sau đó, đã có
khuyến cáo được đưa ra phải khảo sát thấu đáo chiều kích truyền giáo của gia đình
như là một Giáo Hội tại gia, một chiều kích đặt cơ sở trên Bí Tích Rửa Tội và
được chu toàn bởi việc hoàn thành nhiệm vụ riêng của mỗi người bên trong cộng
đồng Kitô Giáo. Từ bản chất, gia đình vốn có tính truyền giáo và gia tăng đức
tin của mình trong chính hành vi truyền đạt đức tin này cho người khác. Đề cao
vai trò truyền giáo được ủy thác cho gia đình đòi các gia đình Kitô hữu khám
phá trở lại lời kêu gọi làm chứng cho Tin Mừng bằng đời sống mình và không để
cho đức tin của họ mãi mãi không ai thấy. Thực sự “sống thực” tình hiệp thông
gia đình là một hình thức của công bố truyền giáo rồi. Về phương diện này, vai
trò của gia đình cần được cổ vũ trong sinh hoạt mục vụ nhờ một số hình thức
khác nhau của việc làm chứng, trong đó có: liên đới với người nghèo, cởi mở đối
với tính đa diện giữa người ta, tài quản lý tạo thế và dấn thân phát huy ích
chung, chủ yếu khởi đầu từ nơi mình sinh sống.
Gia đình: đường
của Giáo Hội
49. (18) “Tiếp theo Công Đồng Vaticvan
II, Huấn Quyền giáo hoàng đã tinh lọc hơn nữa học lý về hôn nhân và gia đình.
Một cách đặc biệt, Chân Phúc Giáo Hoàng Phaolô VI, trong thông điệp Humanae Vitae của ngài, đã cho thấy sợi dây gần gũi
nối kết tình yêu vợ chồng với việc sinh sản sự sống mới. Thánh Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II dành một sự chú ý đặc biệt cho gia đình trong loạt bài giáo lý của
ngài về tình yêu nhân bản, Thư Gửi Các Gia Đình Gratissimam Sane và nhất là Tông Huấn Familiaris Consortio. Trong các văn
kiện này, Đức Giáo Hoàng gọi gia đình là ‘đường đi của Giáo Hội’, ngài đưa ra
một cái nhìn tổng quát về ơn gọi của người đàn ông và người đàn bà bước vào
tình yêu và đề xuất nhiều hướng dẫn có tính căn bản cho việc chăm sóc mục vụ
gia đình và sự hiện diện của gia đình trong xã hội. Khi chuyên biệt bàn tới
‘tình yêu vợ chồng’ (xem Familiaris
Consortio, 13), ngài mô tả việc vợ chồng, qua tình yêu hỗ tương của họ, đã lãnh
nhận hồng ân của Thần Khí Chúa Kitô và sống ơn gọi nên thánh của họ như thế
nào” (Instrumentum Laboris, 5).
Thước của Thiên
Chúa đo tình yêu
50. (19) “Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI,
trong thông điệp Deus Caritas Est của ngài, một lần nữa, đã tiếp nối chủ
đề chân lý của tình yêu giữa người đàn ông và người đàn bà, một tình yêu chỉ
hiểu được nhờ ánh sáng tình yêu của Chúa Kitô chịu đóng đinh (xem Deus Caritas Est, 2). Đức Giáo Hoàng
nhấn mạnh rằng ‘hôn nhân dựa trên tình yêu độc chiếm và dứt khoát đã trở nên
hình tượng mối liên hệ giữa Thiên Chúa và dân của Người và ngược lại. Cung cách
yêu thương của Thiên Chúa đã trở thành thước đo tình yêu nhân bản’ (Deus
Caritas Est, 11). Hơn nữa, trong thông điệp Caritas
in Veritate của mình, ngài nhấn
mạnh tới tầm quan trọng của tình yêu, coi nó như nguyên lý sống trong xã hội
(Xem Caritas in Veritate, 44),
nơi mà con người học biết cảm nghiệm được ích chung” (Instrumentum Laboris, 6).
Gia đình cầu
nguyện
51. Giáo huấn của
các Đức Giáo Hoàng là một lời mời xem xét thấu đáo khía cạnh thiêng liêng của
đời sống gia đình, bắt đầu với việc khám phá lại việc gia đình cầu nguyện và
cùng nhau lắng nghe lời Thiên Chúa, là điều dẫn tới việc dấn thân cho các công
cuộc bác ái. Sự quan trọng có tính nền tảng trong đời sống gia đình là khám phá
lại Ngày của Chúa như một dấu chỉ gia đình có ý hướng sâu xa muốn thuộc về cộng
đồng Giáo Hội. Việc hướng dẫn mục vụ thỏa đáng cũng đã được đề nghị để linh đạo
cụ thể của gia đình có thể phát triển đáp ứng các câu hỏi phát sinh từ đời sống
hàng ngày. Đặc biệt hữu ích là việc nuôi dưỡng một nền linh đạo gia đình bằng
các trải nghiệm đức tin mạnh mẽ, nhất là trong việc trung thành tham dự Phép
Thánh Thể, là “nguồn và là đỉnh cao của toàn bộ đời sống Kitô hữu” (LG, 11).
Gia đình và đức
tin
52. (20) “Đức Giáo Hoàng Phanxicô,
trong thông điệp Lumen Fidei của ngài, khi bàn tới sự nối kết giữa
gia đình và đức tin, đã viết rằng: “Gặp gỡ Chúa Kitô, tự để họ (người trẻ) được
tình yêu của Người chiếm hữu và hướng dẫn, sẽ mở rộng chân trời hiện sinh, đem
lại cho nó một niềm hy vọng vững chắc sẽ không làm họ thất vọng. Đức tin không
phải là nơi ẩn náu cho những người nhát gan, nhưng là một điều thăng tiến đời
ta. Nó làm ta ý thức được lời mời gọi tuyệt vời, tức lời mời gọi yêu thương. Nó
bảo đảm với ta rằng tình yêu này đáng tin cậy và đáng ôm lấy, vì nó đặt căn bản
trên lòng trung thành của Thiên Chúa, một lòng trung thành luôn lớn lao hơn mọi
yếu đuối của ta’ (Lumen Fidei, 53)” (Instrumentum Laboris, 7).
Giáo lý và gia
đình
53. Nhiều người
cho rằng chương trình giáo lý cho gia đình cần được tái duyệt. Về phương diện
này, cần phải lưu ý tới việc làm cho các cặp vợ chồng can dự vào việc giáo lý,
nhất là đối với con cái họ, hợp tác với các linh mục, các phó tế và các vị sống
đời thánh hiến. Sự hợp tác này dùng để chứng tỏ rằng ơn gọi hôn nhân là một
thực tại quan trọng đòi phải có sự chuẩn bị thỏa đáng trong một thời gian hữu
lý. Lồng các gia đình Kitô Giáo lành mạnh và các thừa tác viên đáng tin cậy vào
chương trình này sẽ gia tăng tính khả tín của cộng đồng trong việc làm chứng
của nó đối với người trẻ trên hành trình đưa ra các chọn lựa có ý nghĩa của họ
ở trong đời.
Cộng đồng Kitô
hữu không chịu chỉ đơn giản là nơi để đến xin các dịch vụ nhân bản; thay vào
đó, cộng đồng này là nơi các gia đình đã phát sinh và là nơi họ gặp nhau và
hành động qua lại khi cùng nhau nhịp bước trong đức tin và chia sẻ các cách thế
phát triển và trao đổi hỗ tương.
Tính bất khả
tiêu của hôn nhân và niềm vui cùng nhau chia sẻ đời sống
54. (21) Sự hiến mình cho nhau trong Bí
Tích Hôn Nhân được đặt cơ sở trên ơn thánh của Phép Rửa, là Phép vốn thiết lập
ra giao ước nền tảng của mọi người với Chúa Kitô trong Giáo Hội. Khi chấp nhận
nhau và với ơn thánh của Chúa Kitô, cặp đính hôn hứa sẽ hoàn toàn hiến mình cho
nhau, trung thành với nhau và chào đón sự sống mới. Cặp vợ chồng khi đã cưới
nhau cùng nhìn nhận các yếu tố này như là thành phần cấu tạo ra hôn nhân, như
là hồng ân Thiên Chúa hứa ban cho họ, coi trọng sự cam kết hỗ tương, nhân danh
Thiên Chúa và trước mặt Giáo Hội. Do đó, trong đức tin, người tín hữu có thể
coi các thiện ích của hôn nhân như các cam kết có thể duy trì được hơn nhờ sự
trợ giúp của ơn thánh bí tích. Thiên Chúa thánh hiến tình yêu của vợ chồng và
củng cố tính bất khả tiêu của nó, giúp họ sống lòng trung thành, tính bổ túc hỗ
tương và việc chào đón sự sống mới của họ. Bởi thế, Giáo Hội ngoảnh nhìn các
cặp vợ chồng như là trái tim của toàn bộ gia đình, và gia đình, ngược lại,
ngoảnh nhìn lên Chúa Kitô.
55. Niềm vui nói
lên việc thể hiện trọn vẹn một con người. Để biểu tỏ niềm vui độc đáo của việc
kết hợp chồng và vợ và việc tạo lập một gia đình mới đòi phải trình bầy gia
đình như nơi chốn của các mối liên hệ bản thân và nhưng không, không giống như
các mối liên hệ trong xã hội. Việc hiến mình tự ý và hỗ tương, sự sống được
sinh ra và việc săn sóc của một thành viên cho một thành viên khác, từ người
trẻ nhất tới người già nhất, chỉ là một số khía cạnh làm gia đình thành độc đáo
trong vẻ đẹp của nó. Điều quan trọng là khai triển ý niệm cho rằng hôn nhân là
một chọn lựa cả đời vốn không hạn chế cuộc hiện sinh của ta, nhưng thay vào đó
làm cho nó phong phú và trọn vẹn hơn, ngay trong những lúc khó khăn.
Qua việc chọn
lựa ấy ở trong đời, gia đình xây dựng xã hội không phải như tổng số số học các
cư dân của một lãnh thổ đặc thù hay một nhóm công dân của một quốc gia, nhưng
như một trải nghiệm chân thực của một dân tộc hợp nhất trong tinh thần và như
Dân Thiên Chúa, trong trường hợp Giáo Hội.
Chương III
Gia đình và
đường dẫn tới tính viên mãn của nó
Mầu nhiệm của
hôn phối trong tương quan với Đấng Tạo Hóa
56. (22) Trong cùng cách nhìn như trên,
phù hợp với giáo huấn của Thánh Tông Đồ, đấng từng nói rằng toàn bộ sáng thế đã
được lên kế hoạch trong Chúa Kitô và vì Chúa Kitô (xem Cl 1,16), Công Đồng
Vatican II muốn nói lên sự đánh giá cao của mình đối với hôn nhân tự nhiên và
các yếu tố giá trị hiện diện trong các tôn giáo (xem Nostra Aetate, 2) và văn
hóa khác, bất chấp các giới hạn và bất cập của họ (xem Redemptoris Missio, 55).
Sự hiện diện của hạt giống Lời Chúa trong các nền văn hóa này (xem Ad Gentes,
11), về một số phương diện, cũng có thể được áp dụng vào hôn nhân và gia đình
nơi rất nhiều xã hội và cá nhân không theo Kitô Giáo. Bởi thế, các yếu tố có
giá trị quả có hiện hữu dưới một số hình thức nào đó bên ngoài hôn nhân Kitô
Giáo, tuy nhiên, phải đặt căn bản trên mối tương quan bền vững và chân thực
giữa một người đàn ông và một người đàn bà, mà dù sao, chúng ta vẫn coi là quy
hướng về hôn nhân Kitô Giáo. Với việc lưu ý tới sự khôn ngoan bình dân nơi các
dân tộc và nền văn hóa khác nhau, Giáo Hội cũng nhìn nhận loại gia đình này,
coi nó như đơn vị căn bản, cần thiết và sinh hoa trái đối với đời sống chung
của nhân loại.
57. Giáo Hội biết rõ trình
độ cao qúi của mầu nhiệm hôn nhân giữa một người đàn ông và một người đàn bà,
một mầu nhiệm được nhìn trong bối cảnh mối tương quan giữa con người được Thiên
Chúa và là Thiên Chúa Tạo Hóa dựng nên. Bởi thế, Giáo Hội muốn làm nổi bật ơn
thánh nguyên thủy này, một ơn thánh vốn phát sinh từ mối tương quan của kẻ được
tạo dựng và Đấng Tạo Hóa và là một phần của trải nghiệm hôn nhân giao ước, mà
Thiên Chúa đã cố ý thiết kế để đáp ứng ơn gọi nguyên thủy của hôn nhân và để
làm ơn gọi này hoạt động có hiệu quả. Tính nghiêm chỉnh của việc tuân thủ kế
hoạch của Thiên Chúa này và lòng can đảm đòi phải có để làm chứng cho nó phải
được thời nay trân trọng, khi quan niệm này, một quan niệm liên quan tới mọi
mối liên hệ trong gia đình, bị đặt nghi vấn, nếu không muốn nói là chống đối
hay bác bỏ thẳng thừng.
Bởi vậy, ngay
trong các trường hợp trong đó quyết định tiến tới bí tích hôn phối của những
người sống chung với nhau hay kết hôn dân sự chỉ mới ở tình trạng ảo hay ở giai
đoạn phôi thai hay chưa được xác định rõ rệt, Giáo Hội vẫn được yêu cầu đừng
tránh né nhiệm vụ khuyến khích và nâng đỡ diễn trình phát triển này. Đồng thời,
ta có thể làm một điều tốt bằng cách thân thiện cho thấy ta đánh giá cao việc
dấn thân họ đã làm và nhìn nhận việc tuân thủ các yếu tố thích đáng trong kế
hoạch của Thiên Chúa, một kế hoạch vốn phát xuất từ mối tương quan của kẻ được
Thiên Chúa tạo dựng và Thiên Chúa Tạo Hóa.
Một số người
nhấn mạnh sự quan trọng cần khai triển việc chăm sóc mục vụ thỏa đáng cho các
gia đình kết hôn khác đạo, mà con số hiện đang gia tăng, không phải chỉ tại các
lãnh thổ truyền giáo, mà ở cả các nước có truyền thống Kitô Giáo lâu đời nữa.
Sự Thật và Vẻ
Đẹp của Gia Đình và Lòng Thương Xót đối với Các Gia Đình Tan Vỡ và Mỏng Dòn
58. (23) Với niềm vui nội tâm và an ủi
sâu xa, Giáo Hội mong đợi các gia đình tiếp tục trung thành với các giáo huấn
của Tin Mừng, bằng cách khuyến khích họ và cám ơn họ về các chứng từ họ cung
hiến. Thực vậy, họ làm chứng, một cách đầy khả tín, cho vẻ đẹp của cuộc hôn
nhân bất khả tiêu và trung trinh mãi mãi, trong khi luôn trung thành với nhau.
Bên trong gia đình, vốn “có thể gọi là Giáo Hội tại gia” (Lumen Gentium, 11),
người ta khởi sự cảm nghiệm được sự hiệp thông có tính Giáo Hội nơi mọi người,
một sự hiệp thông phản ảnh Mầu Nhiệm Ba Ngôi Chí Thánh, nhờ ơn thánh. “Trong
gia đình, người ta học được sự cố gắng và niềm vui của việc làm, của tình yêu
anh chị em, và của lòng đại lượng trong việc tha thứ cho người khác, một lòng
đại lượng luôn được đổi mới, và trên hết, của việc thờ phượng Thiên Chúa trong
cầu nguyện và dâng hiến cuộc sống bản thân” (Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo,
số 1657). Thánh Gia Nadarét là khuôn mẫu kỳ diệu mà trong trường dạy của nó, ta
“hiểu được lý do tại sao ta phải duy trì kỷ luật thiêng liêng, nếu ta muốn vâng
theo các giáo huấn của Tin Mừng và trở nên các môn đệ của Chúa Kitô” (Chân Phúc
Giáo Hoàng Phaolô VI, Diễn Văn Tại Nadarét, 5 tháng Giêng 1964). Tin Mừng Gia
Đình cũng nuôi dưỡng các hạt giống vẫn đang chờ được nẩy mầm; và được dùng làm
căn bản cho việc nuôi dưỡng các cây đang héo tàn và không nên bị bỏ rơi.
Dây nối kết
thân mật giữa Giáo Hội và gia đình
59. Phúc lành và trách nhiệm
của một gia đình mới, được đóng ấn trong Bi Tích Hôn Phối của Giáo Hội, hàm
nghĩa: ngay bên trong Cộng Đồng Kitô Giáo, phải có sự sẵn sàng cổ vũ và bênh
vực phẩm chất nói chung của giao ước giữa người đàn ông và người đàn bà: ở mọi
phạm vi của xã hội, đó là việc sinh sản con cái, việc che chở những người yếu
đuối nhất trong xã hội và việc sống chung. Sự sẵn sàng này đòi một trách nhiệm,
một trách nhiệm nên được nâng đỡ, nhìn nhận và đánh giá cao.
Nhờ Bí Tích Hôn
Phối, mỗi gia đình, dù xét cách nào, cũng vẫn trở nên một thiện ích cho Giáo
Hội, là người, đến lượt mình, vốn yêu cầu được coi như một thiện ích cho gia
đình mới. Theo viễn tượng này, chắc chắn Giáo Hội, vào lúc này, sẽ cung hiến
một ơn phúc quí giá, nếu chịu biểu lộ một sự sẵn sàng muốn khiêm cung xem xét
một cách ít thiên vị hơn tính hỗ tương của bonum
Ecclesiae này, tức việc Giáo
Hội là một thiện ích cho gia đình và gia đình là một thiện ích cho Giáo Hội.
Gìn giữ ơn phúc của Chúa trong Bí Tích Hôn Phối, một đàng, là trách nhiệm của
cặp vợ chồng Kitô hữu, và đàng khác, là trách nhiệm của cộng đồng Kitô hữu, mỗi
đàng mỗi cách riêng. Khi các khó khăn, ngay cả các khó khăn trầm trọng, phát
sinh từ việc duy trì cuộc kết hợp hôn nhân, thì việc biện phân các nghĩa vụ và
các sa sẩy của mỗi người phải được vợ chồng xem xét một cách không thiên vị,
với sự giúp đỡ của cộng đồng, để mỗi người hiểu được, đánh giá được và sửa chữa
được những gì đã sa sẩy quên sót.
60. (24) Như một bà thầy đáng tin cậy
và một bà mẹ đầy chăm sóc, Giáo Hội thừa nhận rằng chỉ sợi dây hôn phối nào của
những người đã chịu phép rửa mới có tính bí tích và bất cứ sự vi phạm nào tới
nó đều chống lại thánh ý Thiên Chúa. [Nhưng] cùng một lúc, Giáo Hội cũng ý thức
được sự yếu đuối của nhiều con cái của mình đang lao đao trong hành trình đức
tin của họ. “Thành thử, tuy không đi ra ngoài lý tưởng Tin Mừng, họ cần được
đồng hành với lòng thương xót và kiên nhẫn trong những giai đoạn trưởng thành
bản thân sau cùng khi chúng từ từ diễn ra. […] Một bước tiến nhỏ giữa những
giới hạn nhân bản lớn lao vẫn có thể làm vui lòng Thiên Chúa hơn là cuộc sống
bề ngoài xem ra có trật tự và ngày qua ngày không phải đối diện với các khó khăn
lớn lao nào. Mọi người đều cần được sự an ủi và sức lôi kéo của tình yêu cứu
rỗi của Thiên Chúa đánh động; tình yêu này luôn hành động một cách huyền nhiệm
nơi từng người, vượt lên trên và vượt ra ngoài các lỗi lầm và sa ngã của họ”
(Gaudium Evangelii, 44).
Gia đình: hồng
phúc và nghĩa vụ
61. Thái độ của các tín hữu
đối với những người chưa hiểu được sự quan trọng của Bí Tích Hôn Phối chủ yếu
phải được bày tỏ qua mối liên hệ có tính bản thân và thân hữu biết chấp nhận
người khác trong con người của họ mà không phê phán, và biết tìm cách thoả mãn
các nhu cầu căn bản của họ và đồng thời, làm chứng cho tình yêu và lòng thương
xót của Thiên Chúa. Điều quan trọng là phải ý thức rõ rằng mọi người ai cũng
yếu đuối cả và mỗi người đều là kẻ có tội như bất cứ ai khác, nhưng vẫn không
quên khẳng định các thiện ích và giá trị của hôn nhân Kitô Giáo. Hơn nữa, người
ta cần ý thức được rằng trong kế hoạch của Thiên Chúa, gia đình không phải là
một nghĩa vụ mà là một hồng phúc, và ngày nay, quyết định bước vào Bí Tích Hôn
Phối không phải là một kết luận đã qua nhưng là một điều cần được khai triển và
là một mục tiêu cần đạt tới.
Trợ giúp để
vươn tới sự viên mãn của kế hoạch Thiên Chúa
62. (25) Khi cân nhắc một phương thức
mục vụ đối với những người đã kết ước một cuộc hôn nhân dân sự, những người đã
ly dị và tái hôn hay đơn giản chỉ sống chung với nhau, Giáo Hội có trách nhiệm
giúp họ hiểu nền sư phạm của Thiên Chúa về ơn thánh trong đời họ và giúp họ để
họ đạt tới sự viên mãn của kế hoạch Thiên Chúa dành cho họ. Trông cậy ở Chúa
Kitô, Đấng mà ánh sáng soi chiếu mọi con người (xem Ga 1,9; Gaudium et Spes,
22), Giáo Hội ngoảnh nhìn với lòng yêu thương những ai đang tham dự vào đời
sống mình một cách không trọn vẹn, vì nhìn nhận rằng ơn thánh của Thiên Chúa
cũng đang hành động trong cuộc sống của họ bằng cách ban cho họ sự can đảm để
làm điều thiện, chăm sóc lẫn nhau trong yêu thương và phục vụ cộng đồng trong
đó họ sống và làm việc.
63. Cộng đồng Kitô Giáo cũng
có thể biểu lộ tình bằng hữu với các cặp vợ chồng đang gặp khó khăn qua việc
gần gũi với các gia đình đang thực sự sống cuộc hôn nhân Kitô Giáo. Giáo Hội
xích lại gần các người phối ngẫu đang gặp nguy cơ ly thân, để họ khám phá lại
vẻ đẹp và sức mạnh đời sống vợ chồng của họ. Trong các trường hợp đau lòng phải
chấm dứt mối liên hệ của họ, thì Giáo Hội cảm thấy có nghĩa vụ gần gũi những
người đang trong lúc đau khổ cách nào đó để ngăn ngừa các tranh chấp thảm họa
có thể xẩy ra giữa hai người phối ngẫu và, trên hết, tối thiểu hóa sự đau khổ
của con cái.
Một số người tỏ
ý muốn các giáo phận phát huy các chương trình nhằm dần dần mời gọi các người
sống chung hay kết hôn dân sự can dự vào. Khởi đầu với cuộc hôn nhân dân sự,
cuối cùng, người ta có thể vươn tới cuộc hôn nhân Kitô Giáo: sau một thời kỳ
biện phân, họ có thể tiến tới một chọn lựa có hiểu biết.
64. (26) Giáo Hội lo lắng lưu ý tới
việc nhiều người trẻ mất tin tưởng đối với cam kết hôn nhân và Giáo Hội đau đớn
khi thấy nhiều tín hữu vội vã quyết định chấm dứt các nghĩa vụ họ đã đảm nhiệm
và gánh lấy nghĩa vụ khác. Vốn là các chi thể của Giáo Hội, các tín hữu này cần
một nền chăm sóc mục vụ biết xót thương và biết khuyến khích cũng như biết phân
biệt thích đáng các tình huống khác nhau. Nên khuyến khích những người trẻ đã
rửa tội để họ hiểu rằng Bí Tích Hôn Phối có khả năng làm phong phú triển vọng
yêu thương của họ và họ luôn được sự nâng đỡ của ơn thánh Chúa Kitô trong Bí
Tích và của khả thể tham dự trọn vẹn vào đời sống Giáo Hội.
Giới trẻ và nỗi
sợ kết hôn
65. Khi xem xét viễn tượng
kết hôn, nhiều người trẻ sợ bị thất bại, vì được mục kích nhiều cuộc tan vỡ hôn
nhân trong thời đại ta. Thành thử, cần phải dành nhiều chú ý hơn vào việc biện
phân các lý do nằm bên dưới việc họ bác bỏ và thất vọng. Thực vậy, một số người
nghĩ rằng, trong nhiều trường hợp, các lý do này có thể có liên hệ với việc họ
cho rằng đây là một mục tiêu, mà dù được họ đánh giá cao và không kém ước muốn,
nhưng xem ra bất cân xứng với các điểm mạnh được họ lượng giá một cách hợp lý,
hay có liên hệ với sự kiện họ hoài nghi nặng nề rằng họ thiếu kiên định về xúc
cảm. Vì đối với lòng trung thành và sự ổn định trong liên hệ yêu đương, điều
tuy họ vẫn coi là đáng ước ao, nhưng một số người trẻ cảm thấy lo lắng, thậm
chí xao xuyến, cho là mình không có khả năng bảo đảm lòng trung thành và ổn
định ấy trong tình yêu; điều này thường khiến họ từ khước việc kết hôn. Dù tự
nó có thể vượt qua được, một khó khăn như thế vẫn được nêu ra làm bằng chứng
cho rằng lòng trung thành và sự ổn định trong tình yêu là điều bất khả hữu một
cách căn để. Ngoài ra, đôi khi các khía cạnh của sự thuận lợi xã hội và các vấn
đề kinh tế liên quan tới việc cử hành hôn lễ cũng gây tác động lên quyết định
không kết hôn.
66. (27) Về phương diện trên, một khía
cạnh mới trong thừa tác vụ gia đình cần được lưu ý trong lúc này, là thực tại
hôn nhân dân sự giữa một người đàn ông và một người đàn bà, tức hôn nhân theo
truyền thống và, thậm chí cả sống chung nữa, tuy có những dị biệt liên hệ. Khi
cuộc kết hợp đạt tới một một mức độ ổn định đặc thù nào đó, được luật pháp thừa
nhận, có đặc điểm của một tình âu yếm và trách nhiệm sâu sắc đối với con cái và
chứng tỏ khả năng có thể vượt qua thử thách, thì những cuộc kết hợp này có thể
tạo cơ hội để được hướng dẫn nhằm sau cùng tiến tới việc cử hành Bí Tích Hôn
Phối. Mặt khác, rất thường xẩy ra việc một cặp nào đó sống chung với nhau không
những không nhằm để có thể kết hôn trong tương lai mà còn không hề có ý định
nào tạo ra một liên hệ có tính trói buộc theo luật pháp.
67. (28) Phù hợp với lòng thương xót
của Chúa Kitô, Giáo Hội phải đồng hành một cách đầy lưu tâm và chăm sóc với
những đứa con yếu đuối nhất của mình, những đứa con cho thấy các dấu hiệu của
một tình yêu bị thương tích và mất mát, bằng cách phục hồi lòng hy vọng và sự
tin tưởng nơi họ, giống như ánh sáng hải đăng tại một hải cảng hay ngọn đuốc
mang theo giữa người ta để soi sáng cho những ai lạc đường hay đang gặp giông
bão. Ý thức rằng lòng thương xót cao cả hơn hết là lòng thương xót nói lên sự
thật một cách yêu thương, nên chúng ta bước qua phía cảm thương. Vốn có tính
lôi kéo và kết hợp, tình yêu thương xót biến cải và nâng cao. Nó là lời mời gọi
hồi tâm. Ta hiểu thái độ của Chúa cùng bằng cách này; Người không kết án người
đàn bà ngoại tình, nhưng yêu cầu nàng đứng phạm tội nữa (Ga 8,1-11).
Lòng thương xót
và chân lý mặc khải
68. Khởi điểm của Giáo Hội
là tình thế cụ thể của các gia đình ngày nay, tất cả đang cần lòng thương xót,
bắt đầu với các gia đình đau khổ nhất. Thực vậy, lòng thương xót biểu lộ tính
tối thượng của Thiên Chúa; tính này cho phép Người luôn trung thành với chính
hữu thể của Người, một hữu thể vốn là tình yêu (xem 1Ga 4,8) và với giao ước của Người. Lòng thương xót chính là một
chân lý mạc khải và có liên hệ gần gũi với các chân lý nền tảng của đức tin:
việc làm người, cái chết và sống lại của Chúa. Không có các chân lý này, lòng
thương xót sẽ biến mất. Lòng thương xót là “cốt lõi mạc khải của Chúa Giêsu
Kitô” (MV, 25).
Phần III
SỨ mỆnh cỦa gia đình ngày nay
Chương I
Gia đình và việc phúc âm hóa
Công Bố Tin Mừng Gia Đình Ngày
Nay trong Các Bối Cảnh Khác Nhau
69. (29)
Cuộc thảo luận tại Thượng Hội Đồng nào tập chú vào một số vấn đề khẩn cấp hơn
cần được tiến hành tại các Giáo Hội địa phương, trong sự hiệp thông cum Petro
et sub Petro (với Phêrô và dưới quyền Phêrô). Công bố Tin Mừng Gia Đình là điều
khẩn cấp cần thiết trong công cuộc phúc âm hóa. Giáo Hội có nhiệm vụ thi hành
việc này với sự dịu hiền của một bà mẹ và với sự minh bạch của một bà thầy (xem
Ep 4,15), luôn trung thành với lòng thương xót được biểu lộ trong mầu nhiệm hư
vị hóa (kenosis) của Chúa Kitô. Sự thật trở thành xác phàm trong sự yếu đuối
nhân bản, để không kết án nó mà là để cứu vớt nó (xem St 3,16.17).
Tình âu yếm trong gia đình –
Tình âu yếm của Thiên Chúa
70. Âu yếm nghĩa là cho đi một cách hân hoan, và ngược lại,
khơi dậy nơi người khác niềm hân hoan cảm thấy được yêu thương. Âu yếm được
biểu lộ một cách đặc biệt qua việc nhìn các giới hạn của người khác một cách
yêu thương, nhất là khi các giới hạn này nổi bật rõ ràng. Cư xử một cách tế nhị
và tôn trọng có nghĩa: chăm sóc các vết thương và tái lập hy vọng để có thể
phục hoạt sự tin tưởng nơi người khác. Tình âu yếm trong các liên hệ gia đình
là nhân đức giúp người ta thắng vượt các tranh chấp hàng ngày ngay bên trong
một con người và trong các liên hệ với người khác. Về phương diện này, Đức GH
Phanxicô mời gọi mọi người suy nghĩ lời ngài nói: “Ta có lòng can đảm âu yếm
đón nhận các khó khăn và các vấn đề của những người gần gũi chúng ta không hay
ta thích các giải pháp vô ngã hơn, là các giải pháp, có thể hữu hiệu nhưng
thiếu hẳn cái ấm áp của Tin Mừng? Thế giới ngày nay cần tình âu yếm xiết bao!
Lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa, sự thân thiết của Thiên Chúa, tình âu yếm của
Thiên Chúa” (Bài giảng Thánh Lễ Nửa Đêm Giáng Sinh, 24 tháng 12, 2014).
71. (30)
Việc phúc âm hóa là trách nhiệm chung của toàn thể dân Chúa, mỗi người theo
thừa tác vụ và đặc sủng của mình. Không có chứng từ hân hoan của các vợ chồng
và các gia đình, các Giáo Hội tại gia, việc công bố, dù được thi hành thích
đáng bao nhiêu đi chăng nữa, cũng có nguy cơ bị hiểu lầm hay mất hút trong cái
náo động của ngôn từ vốn là đặc điểm của xã hội ngày nay (xem Novo Millennio
Ineunte, 50). Trong nhiều dịp khác nhau, các nghị phụ thượng hội đồng từng nhấn
mạnh rằng các gia đình Công Giáo, vì lý do ơn thánh của Bí Tích Hôn Phối, được
mời gọi trở thành các tác nhân tích cực trong mọi hoạt động mục vụ nhân danh
gia đình.
Gia đình: tác nhân của sinh hoạt
mục vụ
72. Giáo Hội phải truyền dẫn vào các gia đình một ý hướng
thuộc về Giáo Hội, một ý hướng “chúng ta”, trong đó, không chi thể nào bị lãng
quên. Mọi người phải được khuyến khích để phát triển các kỹ năng của mình và
hoàn thành kế hoạch bản thân của đời mình trong việc phục vụ Nước Thiên Chúa.
Cũng thế, mọi gia đình trong Giáo Hội phải khám phá lại niềm vui hiệp thông với
các gia đình khác để có thể phục vụ ích chung của xã hội bằng cách phát huy
chính sách công, nền kinh tế và văn hóa phục vụ gia đình, cho dù phải dùng tới
mạng lưới xã hội và các phương tiện truyền thông.
Điều trên đòi ta phải có khả
năng tạo nên các cộng đồng nhỏ làm nhân chứng sống động cho các giá trị của Tin
Mừng. Một số gia đình cần được chuẩn bị, huấn luyện và giúp khả năng để họ có
thể đồng hành với các gia đình khác trong việc sống theo con đường Kitô Giáo.
Những gia đình nào sẵn sàng đảm nhiệm sứ mệnh ad
gentes (truyền giáo) thì cần
được thừa nhận và khuyến khích. Sau cùng, việc nối kết thừa tác mục vụ giới trẻ
với thừa tác mục vụ gia đình là một điều quan trọng đã được ghi nhận.
Phụng vụ lễ cưới
73. Cặp đính hôn phải dành khoảng thời gian đáng kể để
chuẩn bị hôn nhân. Việc cử hành chính hôn phối, nên cử hành trong cộng đồng mà
một hay cả hai người cùng thuộc về, đòi phải lưu tâm và nhấn mạnh thích đáng,
trên hết, tới đặc điểm thiêng liêng và Giáo Hội đặc trưng của nó. Với một sự
nồng ấm và hân hoan tham dự vào việc cử hành và khẩn cầu Chúa Thánh Thần, cộng
đồng Kitô hữu sẽ tiếp nhận gia đình mới vào lòng mình để, trong tư cách Giáo
Hội tại gia, gia đình mới này tự cảm nhận được mình là thành phần của gia đình
Giáo Hội rộng lớn hơn.
Lắm khi, vị cử hành có dịp nói
chuyện với một cộng đoàn chỉ tham dự vào đời sống Giáo Hội cách tối thiểu hay
thuộc một hệ phái Kitô Giáo khác hoặc một tôn giáo khác. Thành thử, đây có thể
là dịp qúy giá để công bố Tin Mừng Gia Đình, một việc công bố có thể thúc đẩy,
ngay trong các gia đình hiện diện, việc khám phá lại các hồng ân tin và yêu của
Thiên Chúa. Việc cử hành một lễ cưới cũng có thể là dịp may đúng lúc để mời gọi
nhiều người cử hành Bí Tích Hòa Giải.
Gia đình: Công trình của Thiên
Chúa
74. (31)
Cần phải làm nổi bật tính ưu vị (primacy) của ơn thánh và do đó, các khả thể mà
Chúa Thánh Thần vốn ban cho trong Bí Tích. Đây là vấn đề giúp người ta cảm nhận
được rằng Tin Mừng Gia Đình là một niềm vui “tràn ngập các tâm hồn và các cuộc
đời” vì trong Chúa Kitô, ta “được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn sầu, trống vắng
nội tâm, và cô đơn” (Evangelii Gaudium, 1). Dưới ánh sáng Dụ Ngôn Người Gieo
Giống (xem Mt 13,3), trách vụ của chúng ta là hợp tác vào việc gieo; phần còn
lại là việc của Thiên Chúa; ta cũng đừng quên rằng, khi rao giảng về gia đình,
Giáo Hội là dấu chỉ mâu thuẫn.
75. Tính ưu vị của ơn thánh được biểu lộ trọn vẹn khi gia
đình giải thích lý lẽ cho đức tin của mình và khi cặp vợ chồng thực sự sống
cuộc hôn nhân của mình như một ơn gọi. Về phương diện này, các khuyến cáo sau
đây đã được nêu ra: hỗ trợ và khuyến khích chứng tá trung thành của các cặp vợ
chồng Kitô hữu; dấn thân vào các chương trình có cơ sở nhằm phát triển ơn thánh
của Phép Rửa, nhất là các chương trình dành cho tuổi trẻ; sử dụng một ngôn từ
có tính biểu tượng, cảm nghiệm và nhiều ý nghĩa để giảng thuyết và dạy giáo lý;
và cung cấp các buổi gặp gỡ và các khóa học đặc biệt cho các nhân viên mục vụ,
để họ có thể thông đạt cách hữu hiệu với các người nghe họ và giáo dục những
người này biết khẩn cầu và nhìn nhận sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc kết
hợp bí tích cũng như diễn trình liên tục hồi tâm của họ.
Hồi tâm truyền giáo và đổi mới
ngôn từ
76. (32)
Thành thử, công trình này kêu gọi mọi người trong Giáo Hội phải hồi tâm truyền
giáo, nghĩa là, không dừng lại ở việc công bố một sứ điệp chỉ có tính lý thuyết
mà không liên hệ gì tới các vấn đề có thực của người ta. Ta phải liên tục nhớ
rằng cuộc khủng hoảng đức tin vốn dẫn tới cuộc khủng hoảng hôn nhân và gia đình
và do đó, việc thông truyền đức tin từ cha mẹ cho con cái thường hay bị gián
đoạn. Trước một đức tin mạnh, việc áp đặt một số tầm nhìn văn hóa nào đó nhằm
làm suy yếu gia đình và hôn nhân sẽ không gây nên bất cứ thiệt hại nào.
77. (33)
Hồi tâm cũng cần được thấy ngay trong ngôn ngữ ta sử dụng, để chứng tỏ nó có ý
nghĩa hữu hiệu. Việc công bố cần tạo ra cảm nghiệm cho thấy Tin Mừng Gia Đình
quả đáp ứng được các hoài mong sâu sắc nhất của con người nhân bản: một đáp ứng
đối với phẩm giá và sự thành toàn trọn vẹn của mỗi người trong tính hỗ tương,
hiệp thông và sinh hoa trái. Điều này không hệ ở việc chỉ trình bày một mớ qui
luật, nhưng hệ ở việc ủng hộ các giá trị đáp ứng được nhu cầu của những người
đang hiện diện trong các xã hội bị tục hóa hơn cả.
78. Sứ điệp Kitô Giáo cần phải được ưu tiên công bố cách
nào đó để gợi lòng hy vọng. Cần phải chọn lối truyền đạt rõ ràng, có tính mời
gọi và cởi mở, tức lối truyền đạt không có tính dạy đời, phê phán hay kiểm
soát, nhưng làm chứng cho giáo huấn luân lý của Giáo Hội, trong khi, cùng một
lúc, vẫn nhậy cảm đối với các hoàn cảnh của mỗi cá nhân.
Vì nhiều người không hiểu các
chủ đề đa dạng của Huấn Quyền Giáo Hội, nên khẩn thiết phải có một ngôn từ mà
mọi người, nhất là người trẻ, có thể hiểu được và là ngôn từ có thể chuyển tải
vẻ đẹp của tình yêu gia đình và nghĩa của các từ ngữ, như tự hiến, tình yêu phu
phụ, khả năng sinh sản (fertility) và sinh đẻ (procreation).
Sử dụng văn hóa như một phương
tiện
79. Thời ta, hình như cần phải sử dụng văn hóa như một
phương tiện để thông truyền đức tin cách thỏa đáng hơn, một nền văn hóa có khả
năng diễn tả một cách gắn bó việc trung thành cả với Tin Mừng Chúa Kitô lẫn với
con người thời nay. Chân phúc Phaolô VI từng dạy rằng: “Nhất là chúng ta, các
mục tử của Giáo Hội, chúng ta có trách nhiệm phải lên khuôn lại các phương tiện
thích hợp nhất và hữu hiệu nhất để truyền đạt sứ điệp Tin Mừng cho mọi người
nam nữ thời đại ta, một cách mạnh dạn và khôn ngoan, nhưng hoàn toàn trung
thành với nội dung phúc âm hóa” (EN, 40).
Nhất là ngày nay, ta cần phải
nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hân hoan và lạc quan công bố các sự thật của
đức tin liên quan tới gia đình và của việc sử dụng các nhóm chuyên môn và các
chuyên gia trong truyền thông có khả năng hiểu biết cách xem xét thích đáng các
vấn đề do cách sống của người thời nay đặt ra.
Lời Chúa: nguồn của đời sống
thiêng trong gia đình
80. (34)
Lời Thiên Chúa là nguồn sự sống và linh đạo cho gia đình. Mọi công trình mục vụ
nhân danh gia đình phải giúp người ta được lên khuôn và đào luyện nội tâm để
trở thành các chi thể của Giáo Hội tại gia nhờ việc đọc Sách Thánh theo kiểu
cầu nguyện của Giáo Hội. Lời Thiên Chúa không những là tin mừng trong đời sống
tư của người ta mà còn là tiêu chuẩn để phán đoán và là ánh sáng để biện phân
các thách đố khác nhau mà các cặp vợ chồng và các gia đình gặp phải.
81. Dưới ánh sáng Lời Chúa, một lời đòi có sự biện phân
trong các tình huống đa dạng, việc chăm sóc mục vụ cần xem xét điều này: một
cuộc thông đạt cởi mở để đối thoại và không thiên kiến là điều cần thiết, nhất
là trong các trường hợp trong đó, người Công Giáo không sống hay không ở trong
hoàn cảnh sống hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của Giáo Hội, trong các vấn đề
hôn nhân và đời sống gia đình.
Một bản hòa tấu các dị biệt
82. (35)
Cùng một lúc, nhiều nghị phụ thượng hội đồng còn nhấn mạnh tới cách tiếp cận
tích cực hơn đối với sự phong phú của nhiều cảm nghiệm tôn giáo khác nhau, mà
không bỏ qua các khó khăn nội tại. Trong các thực tại tôn giáo khác nhau và
trong tính đa dạng văn hóa lớn lao vốn là đặc điểm của các quốc gia hiện nay,
ta nên đánh giá trước nhất các khả thể tích cực, rồi, trên căn bản này, ta mới
nên lượng giá các giới hạn và thiếu sót.
83. Căn cứ trên sự hiện hữu của tính đa nguyên tôn giáo và
văn hóa, một số người mong rằng Thượng Hội Đồng duy trì và đánh giá cao hình
ảnh “bản hòa tấu các dị biệt”. Nói một cách tổng quát, có nhiều dấu chỉ cho
thấy việc chăm sóc mục vụ đối với hôn nhân và gia đình cần phải biết đánh giá
cao các yếu tố tích cực hiện hữu trong các trải nghiệm văn hóa và tôn giáo khác
nhau; chúng vốn là praeparatio
evangelica, nghĩa là, “một chuẩn bị cho Tin Mừng”. Một cuộc gặp gỡ với
những người đã chọn con đường hiểu biết và lãnh trách nhiệm đối với các thiện
ích chân chính của hôn nhân có thể tạo nên một sự cộng tác hữu hiệu để phát huy
và bảo vệ gia đình.
Chương II
Gia đình và
việc đào tạo
Chuẩn bị hôn
nhân
84. (36) Hôn nhân Kitô Giáo là một ơn
gọi phải được đảm nhiệm bằng một việc chuẩn bị thích đáng trong hành trình đức
tin, với một diễn trình biện phân thích hợp và không nên bị coi chỉ như một
truyền thống văn hóa hay một đòi hỏi có tính xã hội hay luật pháp. Do đó, việc
đào luyện phải đi theo con người và cặp vợ chồng một cách nào đó để kinh nghiệm
sống của toàn bộ cộng đồng Giáo Hội được hợp nhất với giáo huấn trong nội dung
đức tin.
85. Muốn làm cho ơn gọi của
hôn nhân Kitô Giáo được hiểu biết, ta cần phải cải thiện việc chuẩn bị hôn
nhân, nhất là việc dạy giáo lý trước hôn nhân, một việc hiện đôi khi rất nghèo
về nội dung; đây là phần chủ yếu của việc chăm sóc mục vụ thông thường. Điều
quan trọng là: các người phối ngẫu phải vun sới đức tin của họ một cách có
tránh nhiệm, dựa trên giáo huấn của Giáo Hội, một giáo huấn phải được trình bầy
cách rõ ràng, dễ hiểu.
Trong việc chăm
sóc mục vụ cho các cặp đính hôn, cộng đồng Kitô Hữu phải tận tụy trình bầy sứ
điệp Tin Mừng liên quan tới phẩm giá của con người, tự do của họ và việc tôn
trọng nhân quyền, một cách thích đáng và đầy thuyết phục.
86. Trong việc thay đổi văn
hóa đang diễn ra, ta thấy thường được trình bày, nếu không muốn nói là áp đặt,
nhiều mô thức đi ngược lại viễn kiến Kitô Giáo về gia đình. Thành thử, các khóa
huấn luyện cần phải đưa ra các chương trình giáo dục có thể giúp người ta phát
biểu thỏa đáng nguyện vọng yêu thương của họ bằng một ngôn ngữ tính dục thích
đáng. Trong bối cảnh xã hội và văn hóa ngày nay, trong đó, tính dục thường bị
tách biệt khỏi sự vận hành toàn diện của tình yêu đích thực, gia đình không thể
là nơi duy nhất để dạy về tính dục, dù nó giữ một vị trí hàng đầu. Điều này đòi
phải có sự thiết kế các chương trình chân thực và thích đáng, trong khuôn khổ
nâng đỡ các gia đình về mục vụ, nhằm ngỏ với cả các cá nhân lẫn các cặp hôn
phối, để họ khám phá được vẻ đẹp của tính dục trong tình yêu, nhất là những
người ở tuổi dậy thì và thiếu niên.
Tại một số
nước, có nhiều dấu chỉ cho thấy có những chương trình đào tạo do các nhà cầm
quyền áp đặt với nội dung đi ngược lại quan niệm thực sự nhân bản và Kitô Giáo.
Về phương diện này, nhất định phải đề cao quyền phản đối lương tâm của các nhà
giáo dục.
Việc đào tạo
các linh mục tương lai
87. (37) Các nghị phụ thượng hội đồng
không ngừng kêu gọi một cuộc canh tân thấu đáo các thực hành mục vụ của Giáo
Hội dưới sự soi sáng của Tin Mừng Gia Đình và để thay thế việc chỉ nhấn mạnh
tới các cá nhân hiện thời. Vì thế, các nghị phụ thượng hội đồng không ngừng
nhấn mạnh tới việc canh tân lối huấn luyện các linh mục, các phó tế, các giáo
lý viên và các nhân viên mục vụ khác với sự can dự lớn lao hơn của các gia
đình.
88. Ơn gọi làm linh mục phát
sinh trong gia đình riêng của mỗi người nam và được nuôi dưỡng bằng chứng tá
đức tin của gia đình này. Một cảm thức rất phổ biến hiện nay cho thấy càng ngày
càng cần phải bao gồm các gia đình, nhất là sự hiện diện của phụ nữ, trong việc
đào tạo các linh mục. Một số người khuyến cáo rằng, trong diễn trình đào tạo
họ, các chủng sinh nên dành nhiều thời gian thích hợp để sống với gia đình họ,
tiếp nhận sự chỉ dẫn trong việc thu lượm kinh nghiệm cho việc chăm sóc mục vụ
gia đình và thủ đắc được kiến thức thỏa đáng về tình thế các gia đình thời nay.
Cũng cần phải xem xét việc một số chủng sinh phát xuất từ các hậu cảnh gia đình
khó khăn. Sự hiện diện của giáo dân và các gia đình, ngay trong các năm tháng
đào tạo ở chủng viện, được coi là ích lợi, để các ứng viên chịu chức linh mục
hiểu được giá trị riêng biệt của hai ơn gọi khác nhau. Việc đào tạo thừa tác vụ
thụ phong không thể bỏ qua việc phát triển xúc cảm và tâm lý cũng như việc
chủng sinh trực tiếp tham gia các chương trình thỏa đáng liên hệ.
Việc đào tạo
hàng giáo sĩ và các nhân viên mục vụ
89. Trong việc liên tục đào
tạo hàng giáo sĩ và các nhân viên mục vụ, một số người mong rằng các phương
tiện thích đáng cần được sử dụng để đạt được sự phát triển về xúc cảm và tâm lý
rất cần thiết để họ chăm sóc mục vụ các gia đình. Một số người gợi ý rằng văn
phòng giáo phận về gia đình và các văn phòng mục vụ khác nên tăng cường việc
hợp tác của họ nhằm một sinh hoạt mục vụ hữu hiệu hơn.
Gia đình và các
định chế công cộng
90. (38) Các ngài cũng làm nổi bật sự
kiện này: việc phúc âm hóa cần phải tố cáo một cách rõ ràng các nhân tố văn
hóa, xã hội, chính trị và kinh tế, như tầm quan trọng thái quá dành cho luận lý
học thị trường chẳng hạn, từng ngăn cản đời sống chân thực của gia đình và dẫn
tới cảnh kỳ thị, nghèo khổ, bị loại trừ, và bạo lực. Do đó, đối thoại và hợp
tác cần được khai triển với các thực thể xã hội và cần khuyến khích các giáo
dân Kitô hữu đang can dự vào các lãnh vực văn hóa và chính trị xã hội, với tư
cách Kitô hữu.
91. Vì là “tế bào đầu tiên
và sống còn của xã hội” (AA, 11), gia đình phải khám phá lại ơn gọi của nó trong
việc tham dự vào mọi khía cạnh của đời sống xã hội. Một cách thiết yếu, khi tụ
lại với nhau, các gia đình cần tìm ra các cách để hành động qua lại với các
định chế công cộng, kinh tế và văn hóa ngõ hầu có thể xây dựng được một xã hội
công bình hơn.
Việc lượng giá
mọi phạm vi của xã hội cho thấy: hợp tác với các định chế công cộng không luôn
dễ dàng. Thực vậy, nhiều định chế cổ vũ những quan niệm về gia đình không phù
hợp với quan điểm Kitô Giáo hay ý nghĩa gia đình dựa trên tự nhiên. Các chi thể
của Giáo Hội luôn phải giao tiếp với những mô thức nhân học khác nhau; các mô
thức này thường ảnh hưởng và triệt để thay đổi cách suy tư của họ.
Các hiệp hội
gia đình và các phong trào Công Giáo cần làm việc với nhau để làm cho các định
chế xã hội và công dân lưu tâm tới các nhu cầu chân chính của gia đình và lớn
tiếng chống lại bất cứ thực hành nào gây hại tới sự ổn định của gia đình.
Dấn thân xã hội
chính trị nhân danh gia đình
92. Các Kitô hữu phải dấn
thân trực tiếp vào đời sống xã hội chính trị bằng cách tích cực tham gia vào
diễn trình làm quyết định và dẫn khởi học thuyết xã hội của Giáo Hội vào các
cuộc thảo luận với các định chế. Việc dấn thân này sẽ cổ vũ việc khai triển các
chương trình thích đáng để trợ giúp giới trẻ và các gia đình túng thiếu liều mình
đang bị cô lập hay bị loại trừ.
Ở các bình diện
quốc gia và quốc tế đa dạng, việc tái đề xuất Hiến Chương Về Các Quyền Của Gia
Đình có thể hữu ích, song song với việc nối kết nó với Bản Tuyên Ngôn Phổ Quát
Các Nhân Quyền.
Cảnh nghèo và
nguy cơ vay mượn nặng lãi
93. Nhiều gia đình sống
trong cảnh nghèo về kinh tế vì thất nghiệp hay việc làm bất ổn hoặc vì con cái
quá đông hay thiếu trợ giúp xã hội và chăm sóc y tế cũng như các gia đình không
thể nhận được tín dụng, thường trở thành nạn nhân của nạn cho vay nặng lãi.
Tình huống này khiến có gợi ý cho rằng cần phải thiết lập ra các cơ cấu nâng đỡ
kinh tế để trợ giúp các gia đình.
Đồng hành với
các cặp đính hôn trong việc họ chuẩn bị hôn nhân
94. (39) Thực tại xã hội phức tạp và
các thay đổi có ảnh hưởng tới gia đình ngày nay đòi toàn thể cộng đồng Kitô hữu
phải cố gắng hơn nữa trong việc chuẩn bị những người sắp sửa kết hôn. Tầm quan
trọng của các nhân đức cần được bao gồm trong đó. Trong số các nhân đức này,
đức trong sạch đã được chứng minh là vô giá để tình yêu giữa hai người thực sự
lớn mạnh. Về phương diện này, các nghị phụ thượng hội đồng đã cùng nhau nhấn
mạnh việc cần phải để toàn thể cộng đồng can dự một cách sâu rộng hơn bằng cách
tham chiếu chứng tá của chính các gia đình và cần bao gồm việc chuẩn bị hôn
nhân trong diễn trình Khai Tâm Kitô Giáo cũng như việc nhấn mạnh tới sự nối kết
giữa hôn phối, phép rửa và các bí tích khác. Các ngài cũng cảm thấy cần phải có
các chương trình chuyên biệt trong việc chuẩn bị hôn nhân cho các cặp; các
chương trình này phải nhằm tạo ra một cảm nghiệm tham dự thực sự vào đời sống
Giáo Hội và thấu đáo bàn tới các khía cạnh khác nhau của đời sống gia đình.
95. Một số người hy vọng
rằng nhiều chủ đề hơn cần được lồng vào các chương trình chuẩn bị hôn nhân để
chúng huấn giáo người ta tốt hơn trong các vấn đề đức tin và tình yêu. Các
chương trình này phải được hoạch định sao đó để các cá nhân và các cặp vợ chồng
biện phân được ơn gọi của họ. Điều này đòi phải có sự hợp tác tốt hơn giữa các
sáng kiến mục vụ đa dạng: tuổi trẻ, giáo lý gia đình, các phong trào và hiệp
hội, để đem lại một ý hướng Giáo Hội cho diễn trình đào tạo.
Nhiều người
khác nhấn mạnh tới việc cần phải đổi mới việc chăm sóc mục vụ gia đình trong
bối cảnh một chương trình mục vụ bao quát hơn có thể đem lại một nền đào tạo
toàn bộ ở mọi giai đoạn của đời sống, trong đó, có hành vi và giá trị của việc
làm chứng. Các chương trình chuẩn bị hôn nhân cũng nên bao gồm các cặp vợ chồng
đang ở vị thế có thể hướng dẫn các cặp đính hôn trước ngày cưới của họ và trong
những năm tháng đầu đời hôn nhân của họ, nhờ thế, đem lại cho việc phục vụ của
các người đã kết hôn một giá trị đặc biệt.
Đồng hành với
các cặp đã kết hôn trong các năm tháng đầu đời hôn nhân
96. (40) Những năm đầu của cuộc hôn
nhân là thời kỳ rất chủ yếu và nhậy cảm trong đó, các cặp vợ chồng ý thức được
nhiều hơn các thách đố và ý nghĩa của đời sống hôn nhân. Thành thử, việc đồng
hành mục vụ cần đi quá bên kia việc cử hành bí tích (Familiaris Consortio, phần
III). Về phương diện này, các cặp vợ chồng nhiều kinh nghiệm có tầm quan trọng
lớn lao trong bất cứ sinh hoạt mục vụ nào. Giáo xứ là nơi lý tưởng để các cặp
vợ chồng này phục vụ các cặp trẻ hơn, với sự hợp tác có thể của các hiệp hội,
phong trào trong Giáo Hội và các cộng đoàn mới. Các cặp vợ chồng cần được
khuyến khích trong việc chào đón có tính nền tảng đối với hồng phúc con cái.
Tầm quan trọng của linh đạo gia đình, việc cầu nguyện và tham dự Thánh Lễ Chúa
Nhật cần được nhấn mạnh để các cặp vợ chồng được khích lệ gặp nhau thường xuyên
nhằm cổ vũ việc phát triển đời sống thiêng liêng và tình liên đới trong các đòi
hỏi cụ thể của cuộc sống. Các cử hành phụng vụ có ý nghĩa, các thực hành đạo
đức và Thánh Lễ cử hành cho các gia đình, nhất là nhân dịp kỷ niệm lễ cưới, đều
đã được nhắc tới như các nhân tố chủ yếu trong việc phát huy phúc âm hóa qua
ngỏ gia đình.
97. Trong những năm tháng
đầu đời hôn nhân, các cặp vợ chồng thường có khuynh hướng khép kín trong chính
họ, kết cục bị cô lập đối với xã hội. Vì lý do này, các cặp mới cưới nhau cần
cảm nghiệm được sự gần gũi của cộng đồng. Mọi người đều đồng ý rằng chia sẻ
kinh nghiệm của đời sống vợ chồng có thể giúp các gia đình trẻ phát triển được
một sự ý thức lớn lao hơn về vẻ đẹp và các thách đố của hôn nhân. Việc tăng
trưởng của gia đình tiến tới già dặn đòi phải tăng cường mạng lưới liên hệ giữa
các cặp vợ chồng và việc họ tạo ra các dây nối kết có ý nghĩa. Vì các phong
trào và các nhóm trong Giáo Hội chủ yếu nhằm cung cấp và bảo đảm các thời điểm
tăng trưởng và đào tạo này, nên một số người mong ước rằng các hiệp hội này cố
gắng hơn nữa nhằm đồng hành với các cặp mới kết hôn một cách nhất quán, nhất là
ở bình diện giáo phận.
Chương III
Gia đình và
việc đồng hành của Giáo Hội
Chăm sóc mục vụ
cho các cặp kết hôn dân sự hay sống chung với nhau
98. (41) Trong khi tiếp tục công bố và
phát huy hôn nhân Kitô Giáo, Thượng Hội Đồng cũng khuyến khích việc biện phân
về phương diện mục vụ các hoàn cảnh của rất nhiều người không còn sống thực tại
này nữa. Bước vào cuộc đối thoại mục vụ với những người này là điều cần thiết
để phân biệt được các yếu tố nào trong đời sống họ có thể phát huy được việc
phúc âm hóa cũng như việc phát triển nhân bản và thiêng liêng. Một yếu tố mới
trong hoạt động mục vụ ngày nay là sự nhậy cảm đối với các khía cạnh tích cực
của các cuộc hôn nhân cử hành theo dân luật và việc sống chung, tuy có nhiều dị
biệt. Dù trình bày sứ điệp Kitô Giáo cách minh bạch, Giáo Hội cũng vẫn cần phải
chỉ ra các yếu tố xây dựng trong các tình huống này, những tình huống chưa hoặc
không còn tương hợp với sứ điệp này nữa.
99. Vì Bí Tích Hôn Phối là
sự kết hợp trung thành bất khả tiêu và độc chiếm giữa một người đàn ông và một
người đàn bà được mời gọi tiếp nhận lẫn nhau và đón chào sự sống, nên hôn nhân
Kitô Giáo là một ơn phúc lớn lao đối với gia đình nhân loại. Giáo Hội có nhiệm
vụ và sứ mệnh công bố ơn phúc này cho mỗi người trong mọi hoàn cảnh. Giáo Hội
cũng phải đồng hành với những người kết hôn dân sự và những người sống chung
với nhau trong việc họ dần dần khám phá ra “hạt giống Lời Chúa” vốn nằm dấu ẩn
đâu đó, để họ biết trân qúy các hạt giống này cho tới khi đạt được sự viên mãn
của việc kết hợp trong Bí Tích.
Con đường dẫn
tới Bí Tích Hôn Phối
100. (42) Các nghị phụ Thượng Hội Đồng
cũng ghi nhận rằng tại nhiều quốc gia, “càng ngày càng có nhiều người muốn sống
thử (ad experimentum) với nhau, trong những cuộc kết hợp chưa được nhìn nhận về
phương diện tôn giáo hay dân sự (Instrumentum Laboris, 81). Ở một số nước, việc
này đặc biệt diễn ra trong các cuộc hôn nhân truyền thống được xếp đặt giữa các
gia đình và thường được cử hành trong nhiều giai đoạn khác nhau. Ở một số nước
khác, người ta được chứng kiến sự gia tăng liên tục con số những người, sau khi
sống chung với nhau một thời gian dài, yêu cầu được cử hành hôn lễ trong Giáo
Hội. Chỉ đơn giản sống chung với nhau thường là một lựa chọn dựa trên thái độ
tổng quát chống lại bất cứ điều gì có tính định chế hay dứt khoát; nó cũng có
thể được lựa chọn trong khi chờ có nhiều an toàn hơn trong cuộc sống (việc làm
ổn định và thu nhập đều đặn). Cuối cùng, ở một số nước, các cuộc hôn nhân trên
thực tế (de facto) khá phổ biến, không những chỉ vì người ta bác bỏ các giá trị
liên quan tới gia đình và hôn nhân mà chủ yếu vì việc cử hành hôn nhân bị coi
là quá tốn kém trong nhiều hoàn cảnh xã hội. Thành thử, cảnh nghèo vật chất dẫn
người ta tới các cuộc kết hợp trên thực tế.
101. (43) Tất cả các tình huống trên đòi
hỏi một đáp ứng xây dựng, tìm cách biến đổi chúng thành các cơ hội có thể dẫn
người ta tới sự viên mãn của hôn nhân và gia đình phù hợp với Tin Mừng. Các cặp
này cần được chuẩn bị đầy đủ và hướng dẫn một cách kiên nhẫn và khôn ngoan. Ý
thức được điều này, chứng tá các gia đình Kitô hữu chân chính sẽ đặc biệt quan
trọng và đầy lôi cuốn như những tác nhân phúc âm hóa gia đình.
102. Việc chọn kết hôn dân sự
hay, trong một số trường hợp, chỉ đơn giản “sống chung với nhau” ít khi do
thiên kiến hay ác cảm đối với việc kết hợp bí tích, nhưng đúng hơn được liên
kết với các tình huống văn hóa hay ngẫu nhiên mà thôi. Trong nhiều hoàn cảnh,
quyết định sống chung với nhau là dấu chỉ một mối liên hệ muốn được tự cấu trúc
hóa và mở cửa đón nhận viễn ảnh viên mãn. Ý muốn này, một ý muốn tự diễn dịch
bằng một dây liên kết lâu dài, có tính bền vững và chào đón sự sống, có thể
được coi như một điều kiện giúp bước vào hành trình tăng trưởng có thể dẫn tới
khả thể hôn nhân bí tích; khả thể hôn nhân bí tích này nên được công bố như một
ơn phúc nhằm phong phú hóa và củng cố đời sống hôn nhân và gia đình, hơn là như
một lý tưởng khó đạt tới.
103. Để giải quyết nhu cầu
mục vụ này, các thành viên của cộng đồng Kitô hữu, nhất là ở bình diện địa
phương, phải làm việc với nhau để tăng cường cách tiếp nhận người ta vào cộng
đồng của mình. Các động lực trong các liên hệ mục vụ trên bình diện bản thân có
thể cung cấp nền tảng vững chắc cho một phương pháp giáo huấn có thể phát huy
được việc từ từ mở tâm trí ra đón nhận sự viên mãn của kế hoạch Thiên Chúa, nhờ
được gợi hứng bởi ơn thánh và có thái độ tôn kính. Về phương diện này, các gia
đình Kitô hữu nào biết làm chứng cho chân lý của Tin Mừng, bằng chính đời sống
của mình, đều có một vai trò quan trọng để đóng.
Chăm sóc các
gia đình bị thương tích (Những người ly thân, ly dị nhưng không tái hôn, ly dị
tái hôn, và các gia đình chỉ có cha/mẹ đơn lẻ)
104. (44) Nên dành cho các cặp vợ chồng
có vấn đề trong mối liên hệ của họ khả thể biết trông cậy vào sự giúp đỡ và
hướng dẫn của Giáo Hội. Việc mục vụ bác ái và từ tâm phải tìm cách giúp người
ta phục hồi và tái lập mối liên hệ của họ. Kinh nghiệm cho hay: với sự trợ giúp
thích đáng và các hành vi hoà giải, nhờ ơn thánh, rất nhiều cuộc hôn nhân gặp
trở ngại đã tìm được giải pháp một cách thỏa đáng. Biết cách tha thứ và cảm
nhận được tha thứ là cảm nghiệm nền tảng trong cuộc sống gia đình. Sự tha thứ
giữa vợ và chồng cho phép họ cảm nghiệm được một tình yêu khôn cùng, không bao
giờ qua đi (xem 1Cr 13,8). Đôi khi, điều này khá khó khăn, nhưng những ai đã
nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa đều được ban sức mạnh để có thể tha thứ
đích thực giúp hồi sinh con người.
Sự tha thứ
trong gia đình
105. Trong các mối liên hệ
gia đình, nhu cầu hoà giải là điều gần như xẩy ra hàng ngày vì nhiều lý do đa
dạng. Các việc hiểu lầm do các mối liên hệ trong gia đình người ta, các va chạm
do các thói quen khác nhau đã bén rễ từ lâu, các phương thức đa dạng trong việc
nuôi dưỡng con cái, lo âu trước các khó khăn kinh tế và các căng thẳng phát
sinh từ việc mất việc chỉ là một số ít trong các lý do hiện đang tạo ra tranh
chấp. Việc giải quyết các tình huống này đòi một sự sẵn sàng liên tục để hiểu
ngưòi khác và tha thứ cho nhau. Nghệ thuật cam go để tái lập yên hàn cho mối
liên hệ đòi hỏi không những sự trợ giúp của ơn thánh mà cả việc sẵn sàng tìm
kiếm sự giúp đỡ từ bên ngoài. Về phương diện này, cộng đồng Kitô hữu phải chứng
tỏ mình thực sự sẵn sàng cung hiến sự trợ giúp này.
Các tình huống
đau lòng nhất, như bất trung hôn nhân, đòi phải có việc sửa chữa thích đáng
được cả hai người coi là khả hữu. Liên hệ vợ chồng nào bị đổ vỡ cũng có thể
được tái lập; niềm hy vọng này cần được giảng dạy ngay ở đầu việc chuẩn bị hôn
nhân.
Ở đây, cần phải
nhắc nhớ sự quan trọng của hành động Chúa Thánh Thần trong việc chăm sóc các
người và các gia đình bị thương tổn, và sự cần thiết của con đường thiêng liêng
được đồng hành bởi các thừa tác viên có chuyên môn. Thực vậy, đúng là Chúa
Thánh Thần, “Đấng mà Giáo Hội gọi là ‘ánh sáng lương tâm’ luôn vào sâu và đổ
đầy ‘tận đáy trái tim con người’. Nhờ một hồi hướng như thế trong Chúa Thánh
Thần, mà người ta mở lòng ra để tha thứ” (DeV, 45).
"Dòng sông
vĩ đại của lòng thương xót"
106. (45) Sự cần thiết của việc phải đưa
ra các lựa chọn can đảm về mục vụ được thấy rất rõ tại Thượng Hội Đồng. Bằng
cách mạnh mẽ tái xác định lòng trung thành của mình đối với Tin Mừng Gia Đình
và thừa nhận rằng ly thân và ly dị luôn là những vết thương gây nên đau khổ sâu
xa cho các cặp vợ chồng và con cái họ, các nghị phụ thượng hội đồng cảm thấy
cần phải khẩn cấp khởi diễn một tiến trình mục vụ mới đặt căn bản trên thực tại
yếu đuối hiện nay bên trong gia đình, vì biết rằng người ta thường phải
"chịu đựng" các yếu đuối này hơn là tự do chọn lựa chúng. Đây là các
tình huống thay đổi theo các nhân tố bản thân, văn hóa, và kinh tế xã hội. Lối
xem xét dị biệt hóa, vì thế, là điều cần thiết, như đã được Thánh Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II gợi ý (xem Familiaris Consortio, 84).
107. Gần như ai cũng đồng ý
rằng việc chăm sóc các gia đình bị thương tổn và giúp họ cảm nghiệm được lòng
thương xót vô hạn của Thiên Chúa là điều nền tảng. Tuy nhiên, người ta rất khác
nhau về phương thức phải dùng. Một đàng, một số người nghĩ cần phải khuyến khích
những người đang sống trong các liên hệ không phải là vợ chồng dấn thân vào con
đường trở về. Đàng khác, nhiều người lại ủng hộ việc mời gọi những người này
nhìn về phía trước, bỏ lại cái nhà tù giận dữ, thất vọng, đau đớn và cô đơn của
họ và tiếp tục con đường phía trước. Dù sao, người khác bảo, nghệ thuật đồng
hành đòi phải có diễn trình biện phân khôn ngoan và thương xót, cũng như khả
năng nắm bắt một cách cụ thể tính đa dạng của các tình huống.
108. Mọi người cần nhớ rằng
sự thất bại của hôn nhân luôn là sự thất bại đối với mọi người. Thành thử, sau
khi ý thức được trách nhiệm riêng của mình, mỗi người cần lấy lại được lòng tin
và lòng hy vọng. Mọi người cần phải cho đi và nhận lãnh lòng thương xót. Dù
sao, công lý phải được phát huy cho mọi phía có liên hệ tới cuộc hôn nhân thất
bại (các người phối ngẫu và con cái).
Giáo Hội có bổn
phận yêu cầu các người phối ngẫu ly thân và ly dị phải hành xử một cách tôn
trọng và thương xót, nhất là vì thiện ích của con cái; không nên bắt chúng phải
chịu đau khổ thêm nữa. Một số người kêu gọi Giáo Hội bày tỏ cùng một thái độ
như thế đối với những người thất bại trong hôn nhân. “Từ trái tim Chúa Ba Ngôi,
từ thẳm sâu lòng thương xót của Thiên Chúa, dòng sông vĩ đại của lòng thương
xót đã vọt lên và chẩy tràn không thôi. Nó là mạch suối không bao giờ cạn, bất
kể số người đến đó múc nước. Mỗi lần ai đó cần đến, họ đều có thể tiến lại gần,
vì lòng thương xót của Thiên Chúa không bao giờ chấm dứt” (MV, 25).
Nghệ thuật đồng
hành
109. (46) Nhưng trên hết, mọi gia đình
phải được đối xử một cách kính trọng và thương yêu, và được đồng hành trong
cuộc hành trình của họ như Chúa Kitô từng đồng hành với các môn đệ trên đường
Emmau. Đối với các tình huống này, lời lẽ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô có giá
trị hết sức đặc biệt: “Giáo Hội phải khai tâm mọi chi thể của mình, cả linh
mục, tu sĩ lẫn giáo dân, về ‘nghệ thuật đồng hành’ này, một nghệ thuật dạy ta
phải biết bỏ giầy dép của mình ra trước mảnh đất thánh thiêng là người khác
(xem Xh 3,5). Phải dành cho con đường đồng hành của ta một nhịp độ gần gũi có
tính cứu vớt, với một thái độ kính trọng và đầy cảm thương, nhưng đồng thời
chữa lành, giải thoát và khuyến khích việc chín mùi trong đời sống Kitô hữu”
(Evangelii Gaudium, 169).
110. Nhiều người hài lòng với
việc Thượng Hội Đồng nhắc tới hình ảnh Chúa Giêsu đồng hành với các môn đệ trên
đường Emmau. Đối với Giáo Hội, xích lại gần gia đình như người cùng đi trên
đường đồng hành là tiếp nhận não trạng khôn ngoan và dị biệt hóa. Có lúc, điều
này có nghĩa ở bên cạnh người ta và lắng nghe họ trong im lặng; có lúc, đứng ở
đàng trước để chỉ đường tiến lên; và có lúc, đứng ở phía sau để nâng đỡ và
khuyến khích. Giáo Hội biến lối hành động này thành của riêng mình bằng cách
chia sẻ các niềm vui và hy vọng, các niềm u sầu và lo lắng của từng gia đình.
111. Trong việc chăm sóc mục
vụ gia đình, có nhiều dấu chỉ cho thấy: các phong trào và hiệp hội trong Giáo
Hội đang cung hiến sự giúp đỡ lớn lao; trong các tổ chức này, khía cạnh cộng
đồng vốn được nhấn mạnh và được đem ra sống. Đồng thời, điều cũng không kém
quan trọng là phải chuẩn bị các linh mục một cách chuyên biệt cho thừa tác vụ
an ủi và chăm sóc này. Nhiều người bầy tỏ ý muốn thấy các trung tâm chuyên biệt
được thiết lập, trong đó, các linh mục và/hoặc các tu sĩ có thể học cách chăm
sóc các gia đình, nhất là những gia đình đang chịu thử thách gay go, và có thể
dấn thân vào việc đồng hành với họ trong cộng đồng Kitô hữu, là cộng đồng không
phải lúc nào cũng sẵn sàng hỗ trợ nhiệm vụ này cách thỏa đáng.
Liên kết với các tín hữu ly thân và ly
dị
112. (47) Đối với việc hướng dẫn những người ly thân, ly dị hay bị bỏ rơi,
điều không thể thiếu là phải đặc biệt biện phân. Chủ yếu phải tỏ lòng kính
trọng đối với sự đau khổ của những người phải ly thân, ly dị hay bị bỏ rơi một
cách bất công, hay những người phải chịu sự đối xử tàn tệ của chồng hay của vợ,
đến làm cuộc sống của họ hoàn toàn bị gián đoạn. Tha thứ một bất công như thế
không phải là điều dễ dàng, nhưng ơn thánh vẫn giúp cho hành trình này thành có
thể. Như thế, hoạt động mục vụ cần qui hướng vào việc hòa giải hay trung gian
giải quyết các dị biệt, một việc có thể diễn ra tại “các trung tâm lắng nghe
nhau” được chuyên biệt thiết lập tại các giáo phận. Cùng một lúc, các Nghị phụ
THĐ cũng nhấn mạnh tới sự cần thiết phải bàn, một cách trung thành và xây dựng,
tới các hậu quả của ly thân hay ly dị đối với con cái, dù trong trường hợp nào
cũng vẫn là các nạn nhân vô tội của tình huống. Không được biến con cái thành
“đối tượng” để tranh chấp. Thay vào đó, phải tìm đủ mọi cách thích đáng để bảo
đảm việc chúng có thể vượt qua được cơn chấn thương tan vỡ gia đình này và lớn
lên một cách thanh thản bao nhiêu có thể. Trong bất cứ trường hợp nào, Giáo Hội
cũng luôn có nhiệm vụ phải chỉ rõ sự bất công rất thường liên hệ với việc ly
dị. Cần phải đặc biệt lưu ý tới việc hướng dẫn các gia đình có cha mẹ đơn lẻ.
Phụ nữ trong tình huống này cần được trợ giúp đặc biệt để họ chu toàn trách
nhiệm cung cấp mái ấm và dưỡng dục con cái.
Thiên Chúa
không bao giờ bỏ rơi bất cứ ai
113. Nhiều người nhấn mạnh
rằng thái độ thương xót đối với những người thất bại trong hôn nhân đòi phải
lưu ý tới các khía cạnh khách quan và chủ quan khác nhau từng dẫn tới việc tan
vỡ. Nhiều người chứng minh sụ kiện này: thảm kịch ly thân thường xẩy tới sau
nhiều thời kỳ tranh chấp lâu dài; những thời kỳ tranh chấp này, trong trường
hợp có con, đã sản sinh ra nhiều đau khổ còn lớn lao hơn nữa. Sau một tình
huống như thế, thường xẩy ra một thứ thử thách phụ, đó là thử thách của cô đơn,
đối với người phối ngẫu bị bỏ rơi hay người có sức phá vỡ cuộc sống chung vì bị
đối xử tàn tệ nặng nề và liên tục. Các trạng huống này cần sự chăm sóc và quan
tâm đặc biệt của cộng đồng Kitô hữu, nhất là đối với các gia đình chỉ có cha
hoặc mẹ đơn lẻ, nơi các vấn đề kinh tế có thể phát sinh do việc làm bất ổn, do
khó khăn nuôi dưỡng đứa con hay do thiếu nơi để ở.
Những người
không bước vào mối liên hệ mới và vẫn trung thành với các lời thề hứa hôn nhân
của mình, đáng được Giáo Hội quí mến và nâng đỡ; Giáo Hội cần tỏ lộ cho họ
gương mặt của một Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi bất cứ ai và luôn sẵn sàng
hồi phục sức mạnh và lòng hy vọng.
Hợp lý hóa thủ
tục vô hiệu và sự quan trọng của Đức Tin trong các vụ tuyên bố vô hiệu
114. (48) Một số lớn nghị phụ thượng hội
đồng nhấn mạnh tới việc phải làm cho thủ tục tuyên bố vô hiệu dễ dàng đến với
tín hữu nhiều hơn, đỡ mất thì giờ nhiều hơn, và, nếu có thể, thì miễn phí.
Trong số nhiều điều khác, các ngài đề nghị: miễn việc đòi phải có tòa thứ hai
(second instance) mới có thể xác nhận phán quyết; có thể thiết lập ra các phương
tiện hành chánh dưới thẩm quyền tài phán của giám mục giáo phận; và nên sử dụng
một diễn trình đơn giản hơn trong trường hợp việc tuyên bố vô hiệu đã rõ ràng
hiển nhiên. Tuy nhiên, một số nghị phụ thượng hội đồng chống lại các đề nghị
này vì các ngài cảm thấy: chúng không bảo đảm đem lại được một phán quyết đáng
tin cậy. Trong tất cả các trường hợp này, cần phải tái khẳng định rằng đây là
việc kiểm chứng sự thật về tính thành hiệu của dây hôn phối. Theo một số đề
nghị khác, ta có thể xác định được tính thành hiệu của Bí Tích Hôn Phối nhờ
khảo sát vai trò đức tin nơi những người kết hôn, vì nhớ rằng cuộc hôn nhân
giữa hai Kitô hữu luôn luôn là một bí tích.
115. Khá nhiều người đồng ý
nay là lúc thuận tiện để làm cho các thủ tục vô hiệu của hôn nhân dễ dàng hơn,
đỡ mất thì giờ hơn và có thể miễn phí.
Về phí tổn, một
số người đề nghị: các giáo phận sẽ liên tục cung cấp dịch vụ cố vấn hôn nhân
miễn phí. Về vấn đề tòa đệ nhị cấp để xác định các bản án, số khá đông ủng hộ
việc loại bỏ nó, tuy nhiên vẫn để khả thể kháng án cho người muốn bênh vực dây
hôn phối hay một trong hai người liên hệ. Trái lại, không có nhất trí nào về
việc liệu giám mục giáo phận có nên đảm nhiệm trách nhiệm đối với thủ tục hay
không; một số người nêu ra các khía cạnh gây vấn nạn. Tuy thế, một số đông đồng
ý việc có thể sử dụng diễn trình giản lược (summary process) của giáo luật
trong những vụ vô hiệu rõ ràng.
Liên quan tới
sự quan trọng của đức tin bản thân nơi các người phối ngẫu tương lai để xác
định tính thành sự của việc thuận tình, có người nêu ra sự bất đồng về tầm quan
trọng và sự đa dạng trong cách tiếp cận để đào sâu thêm.
Chuẩn bị các
nhân viên và gia tăng con số tòa án
116. (49) Về chủ đề các vụ án hôn nhân,
song song với việc chuẩn bị cho có đủ số nhân viên gồm cả giáo sĩ lẫn giáo dân,
việc hợp lý hóa thủ tục do nhiều nghị phụ thượng hội đồng yêu cầu đòi vị giám
mục giáo phận phải chịu nhiều trách nhiệm hơn. Việc hợp lý hóa này có thể được
thực hiện qua các huấn đạo viên được huấn luyện đặc biệt với khả năng có thể
cung cấp các lời cố vấn miễn phí cho các bên liên hệ về tính thành sự của cuộc
hôn nhân của họ. Việc này có thể được thực hiện bởi một văn phòng hay bởi các
cá nhân có khả năng (xem Dignitas Connubii, điều 113, 1).
117. Một đề nghị muốn mỗi
giáo phận cung cấp miễn phí các tín liệu, việc huấn đạo và làm trung gian trong
các vấn đề liên quan tới việc chăm sóc mục vụ các gia đình, nhất là cho những
người đang gặp trục trặc trong hôn nhân và những người đã ly thân. Một dịch vụ
hữu hiệu loại này có thể giúp người ta chấp nhận thủ tục giáo luật, một thủ
tục, trong lịch sử Giáo Hội, xem ra là phương cách đáng tin cậy nhất để biện
phân và xác định tính thành sự đích thực của hôn nhân. Ngoài ra, nhiều nơi trên
thế giới yêu cầu phải có nhiều toà án Giáo Hội hơn và phải phân quyền nhiều hơn
cho các tòa này và cung cấp cho chúng các nhân viên có trình độ và khả năng.
Các phương thức
mục vụ chung
118. (50) Những người ly dị nào mà không
tái hôn, nghĩa là những người sẵn sàng làm chứng tá cho các lời thề hứa trung
thành trong hôn nhân của họ, cần được khuyến khích để tìm thấy nơi Phép Thánh
Thể của nuôi dưỡng cần thiết để nâng đỡ họ trong bậc sống hiện nay của họ. Cộng
đồng và các vị mục tử địa phương phải đồng hành với những người này một cách ân
cần, nhất là khi có liên quan đến con cái hay khi họ gặp khó khăn nghiêm trọng
về tài chánh.
119. Ngoài việc lưu ý tới các
tình huống cụ thể, nhiều người cảm thấy sự cần thiết này nữa là phát huy các
sáng kiến mục vụ chung, mà nếu thiếu sẽ dẫn tới sự mù mờ và chia rẽ lớn lao hơn
cũng như gây đau khổ nặng nề nơi những người đang chịu đựng sự thất bại của hôn
nhân; họ là những người đôi khi cảm thấy bị xử bất công. Thí dụ, một số người
trong Giáo Hội, đã ly thân nhưng chưa bước vào mối liên hệ mới, nghĩ lầm rằng
việc ly thân của họ là có tội khiến họ không được lãnh nhận các bí tích. Hơn
nữa, những người đã ly dị và đã tái hôn dân sự nhưng đang sống tiết dục vì
nhiều lý do khác nhau, không hề biết rằng họ có thể lãnh nhận các bí tích tại
một nơi không ai biết hoàn cảnh của họ. Một số người trong trạng thái kết hợp
bất hợp lệ nhưng bằng lương tâm, đã quyết định sống tiết dục, thì vẫn có thể
lãnh nhận các bí tích, dù phải cẩn thận tránh gây gương mù gương xấu. Các thí
dụ này cho thấy Giáo Hội cần phải đưa ra sự chỉ dẫn rõ ràng, để con cái mình, những
người trong các hoàn cảnh đặc biệt, không cảm thấy một ý hướng kỳ thị.
Tháp nhập những
người ly dị và tái hôn dân sự vào cộng đồng Kitô hữu
120. (51) Cũng thế, những người ly dị và tái hôn cần được biện phân thận
trọng và được đồng hành một cách hết sức kính trọng. Ngôn từ hay tác phong nào
có thể làm họ cảm thấy như đối tượng của kỳ thị thì cần phải tránh, trong khi
khích lệ họ tham gia vào đời sống cộng đồng. Không được coi việc cộng đồng Kitô
hữu chăm sóc những người như thế là làm suy yếu đức tin và chứng từ của cộng
đồng này đối với tính bất khả tiêu của hôn nhân, mà đúng hơn, chính trong chiều
hướng này, cộng đồng được coi như đã nói lên đức ái của mình.
121. Nhiều phía yêu cầu rằng
việc chú ý tới và đồng hành với những người đã ly dị và tái hôn dân sự cần phải
xem xét tính đa dạng của các tình huống và phải ăn khớp với việc tháp nhập họ
nhiều hơn vào đời sống của cộng đồng Kitô hữu. Không cố ý làm tổn hại tới các
khuyến cáo trong Familiaris
Consortio số 84, một số người
gợi ý rằng các hình thức loại trừ hiện đang được tuân giữ trong thực hành phụng
vụ và mục vụ phải được xem xét lại cũng như các thực hành trong giáo dục và
hoạt động bác ái. Vì những người này vẫn còn là thành phần của Giáo Hội, nên
mục tiêu là phải suy nghĩ tới dịp loại bỏ các hình thức loại trừ ấy. Hơn nữa,
để phát huy việc tháp nhập những người này vào cộng đống Kitô hữu nhiều hơn,
phải lưu ý đặc biệt tới quyền lợi tốt nhất của con cái họ, xét vì cha mẹ có vai
trò không thay thế được trong việc dạy dỗ con cái.
Trước khi tháp
nhập những người đã ly dị và tái hôn dân sự vào sinh hoạt mục vụ, một số người
khuyến cáo: các mục tử phải biện phân thích đáng đặc điểm không thể trở lui của
hoàn cảnh họ cũng như đời sống đức tin của cặp kết ước trong mối liên hệ mới
của họ; con đường tháp nhập này phải đi đôi với việc nhậy cảm hóa cộng đồng
Kitô hữu dưới khía cạnh chào đón những người liên hệ, và phải được thể hiện
theo luật tiệm tiến (xem FC, số 34), luôn tôn trọng diễn trình chín mùi của
lương tâm.
Con đường thống
hối
122. (52) Các nghị phụ thượng hội đồng
cũng xem xét khả thể cho phép người ly dị và tái hôn được chịu các bí tích
thống hối và Thánh Thể. Nhiều nghị phụ nhấn mạnh việc phải duy trì kỷ luật hiện
nay, vì mối liên hệ cấu thành giữa việc tham dự Phép Thánh Thể và sự hiệp thông
với Giáo Hội cũng như giáo huấn của Giáo Hội về đặc tính bất khả tiêu của hôn
nhân. Các nghị phụ khác đưa ra một phương thức có tính cá nhân hóa nhiều hơn,
cho phép chịu các bí tích này trong một số tình huống và với những điều kiện
được xác định cẩn thận, chủ yếu là trong các tình huống không thể đảo ngược
được và các tình huống có liên hệ tới nghĩa vụ tinh thần đối với con cái là
những người sẽ phải chịu những đau khổ bất công. Chịu các bí tích có thể diễn
ra nếu có việc thực hành thống hối trước đó, do vị giám mục giáo phận xác định.
Đề tài này cần được xem xét thấu đáo, luôn nhớ tới việc phân biệt giữa một bên
là tình thế tội lỗi khách quan và các hoàn cảnh giảm khinh, xét vì “việc có thể
qui tội và trách nhiệm đối với một hành động nào đó có thể gia giảm, thậm chí
còn bị triệt tiêu bởi ngu dốt, thiếu thận trọng, bị cưỡng ép, sợ sệt, bởi thói
quen, các gắn bó vô trật tự, và nhiều nhân tố tâm lý hay xã hội” (CCC, 1735).
123. Liên quan tới chủ đề vừa
nhắc, đa số đồng ý rằng hành trình hòa giải hay thống hối, dưới sự giám sát của
giám mục địa phương, có thể được thực hành bởi những người ly dị và tái hôn dân
sự thấy mình ở trong tình huống thê thiếp (concubinage) không thể nào trở lui
được nữa. Tham chiếu Familiaris
Consortio, số 84, có gợi ý cho rằng cần phải theo thủ tục sau đây: hiểu rõ
lý do tại sao cuộc hôn nhân đã thất bại và các thương tổn nó gây ra; thống hối
thỏa đáng; chứng thực tính vô hiệu có thể có của cuộc hôn nhân đầu; cam kết
rước lễ thiêng liêng; và quyết định sống tiết dục.
Các người khác
hiểu con đường thống hối như một diễn trình làm sáng tỏ các vấn đề sau khi đã
sống sự thất bại, và tới việc tái định hướng, một việc phải được sự đồng hành
của một linh mục được đề cử cho mục đích này. Diễn trình này phải dẫn những
người liên hệ tới một phê phán trung thực đối với chính trạng huống của họ, nhờ
đó cũng vị linh mục vừa kể có thể có được một lượng giá chín chắn để có thể sử
dụng quyền buộc và quyền tha đối với trạng huống này.
Để có thể xem
xét thấu đáo tình trạng khách quan của tội và phần lỗi luân lý của các bên, một
số người gợi ý phải tham chiếu các văn kiện Thư Gửi Các Giám Mục của Giáo
Hội Công Giáo về Việc Rước Lễ của Các Thành Phần Ly Dị và Tái Hôn của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin (4
tháng 9, 1994) và Tuyên Bố về
Việc Cho Các Tín Hữu Ly Dị và Tái Hôn Rước Lễ của
Hội Đồng Giáo Hoàng về Các Bản Văn Lập Pháp (24 tháng 6, 2000).
Tham dự thiêng
liêng vào hiệp thông Giáo Hội
124. (53) Một số nghị phụ thượng hội
đồng chủ trương rằng các người ly dị và tái hôn hay những người sống chung với
nhau có thể rước lễ thiêng liêng một cách hữu ích. Các nghị phụ khác thì nêu
vấn đề: như thế, tại sao họ lại không được chịu lễ thực sự. Thành thử, các nghị
phụ yêu cầu rằng cần phải có những nghiên cứu thần học sâu xa hơn về vấn đề này
nhằm minh giải các nét khác biệt của hai hình thức rước lễ và mối nối kết của
chúng với nền thần học hôn nhân.
125. Việc Giáo Hội tháp nhập
các chi thể của mình vào Chúa Kitô, khởi đầu trong Phép Rửa, cả trong trường
hợp những người ly dị và tái hôn dân sự, diễn tiến theo từng giai đoạn nhờ một
hành trình hoán cải liên tục. Trong diễn trình này, người ta được mời gọi nhiều
cách khác nhau để làm cho đời mình nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, Đấng
luôn dùng ơn thánh của Người nâng đỡ họ trong hiệp thông Giáo Hội. Dựa vào Familiaris Consortio, số 84,
một lần nữa, các hình thức tham dự được khuyến cáo là: lắng nghe Lời Chúa, tham
dự việc cử hành Thánh Thể, kiên tâm cầu nguyện, làm việc bác ái, các sáng kiến
của cộng đồng nhằm phát huy công lý, đào luyện con cái trong đức tin và tinh thần
thống hối, tất cả đều được hỗ trợ bởi lời cầu nguyện và chứng tá đầy từ tâm của
Giáo Hội. Hoa trái của việc tham dự này là việc hiệp thông của các tín hữu với
toàn thể cộng đồng, vốn nói lên việc được tháp nhập vào Giáo Hội như là Nhiệm
Thể Chúa Kitô. Điều quan trọng phải nhớ là: việc rước lễ thiêng liêng, một việc
rước lễ giả thiết phải có hồi tâm và ở trong trạng thái ơn thánh, có liên hệ
với việc rước lễ bí tích.
Các cuộc hôn
nhân hỗn hợp và các cuộc hôn nhân khác đạo
126. (54) Các vấn đề liên quan tới các
cuộc hôn nhân hỗn hợp thường được các tham luận của các nghị phụ nêu ra. Các dị
biệt trong luật lệ hôn nhân của các Giáo Hội Chính Thống tạo nên nhiều vấn đề
trầm trọng trong một số bối cảnh; các vấn đề này đòi được xem xét theo quan
điểm đại kết. Cũng thế, sự đóng góp của cuộc đối thoại với các tôn giáo rất
quan trọng đối với các cuộc hôn nhân liên tôn giáo.
127. Các cuộc hôn nhân hỗn
hợp và các cuộc hôn nhân khác đạo có nhiều khía cạnh quan yếu không dễ giải
quyết, không hẳn ở bình diện pháp lý cho bằng ở bình diện mục vụ. Các cuộc hôn
nhân này đặt ra một loạt các vấn đề cần đương đầu; thí dụ, việc dưỡng dục con
cái về tôn giáo; việc tham dự vào sinh hoạt phụng vụ của người phối ngẫu, như
trong trường hợp kết hôn hỗn hợp với những người rửa tội trong các tuyên tín
khác của Kitô Giáo; và việc chia sẻ các kinh ngiệm tâm linh với một người phối
ngẫu thuộc một tôn giáo khác hoặc thậm chí với người không tin đang còn đi tìm
Thiên Chúa. Các hoàn cảnh như thế đòi phải đưa ra một chính sách về tác phong trong
đó, không người phối ngẫu nào được ngăn cản hành trình đức tin của người kia.
Về việc này, muốn xử lý với các dị biệt liên quan tới đức tin một cách xây
dựng, nhất thiết phải lưu ý cách riêng tới những người hiện đang sống trong các
cuộc hôn nhân này, không chỉ trong thời gian chuẩn bị trước ngày cưới mà thôi.
128. Một số người gợi ý rằng
có thể coi các cuộc hôn nhân hỗn hợp như các trường hợp “thật cần thiết” trong
đó có thể cho phép người đã chịu phép rửa nhưng chưa hiệp thông trọn vẹn với
Giáo Hội Công Giáo, tuy có chia sẻ đức tin của Giáo Hội vào phép Thánh Thể,
được rước lễ, khi các mục tử của họ không sẵn có đó và phải tính tới các tiêu
chuẩn của cộng đồng Giáo Hội mà họ vốn thuộc về (xem EdE, 45-46; Hội Đồng Giáo
Hoàng về Cổ Vũ Hợp Nhất Kitô Giáo, Tập
Hướng để Áp Dụng Các Nguyên Tắc và Qui Định về Đại Kết, ngày 25 tháng 3,
1993, 122-128).
Bản chất đặc
biệt của truyền thống Chính Thống Giáo
129. Những người nhắc tới
thực hành hôn phối của các Giáo Hội Chính Thống cần phải nhớ sự khác nhau trong
cách hiểu thần học của các Giáo Hội này về hôn nhân. Các Giáo Hội Chính Thống
liên kết tập tục chúc lành cho cuộc kết hợp thứ hai với quan niệm “nhiệm cục”
(oikonomia), được hiểu là việc thích nghi mục vụ đối với cuộc hôn nhân thất bại
mà không đặt nghi vấn gì đối với lý tưởng của một liên hệ tuyệt đối đơn hôn hay
tính độc đáo của hôn nhân. Trong chính nó, việc chúc lành này là một cử hành
thống hối để khẩn cầu ơn Chúa Thánh Thần, ngõ hầu sự yếu đuối của con người
được chữa lành và hối nhân được hiệp thông trở lại với Giáo Hội.
Lưu tâm mục vụ
đối với những người có khuynh hướng đồng tính
130. (55) Một số gia đình có các thành
viên có khuynh hướng đồng tính luyến ái. Về phương diện này, các nghị phụ
thượng hội đồng tự hỏi mục vụ phải chú ý một cách thích hợp ra sao đối với họ
mà vẫn phù hợp với giáo huấn của Giáo Hội vốn dạy rằng: “Tuyệt đối không có bất
cứ cơ sở nào để coi các cuộc kết hợp đồng tính là tương đương hay có thể so
sánh dù rất xa xôi với kế hoạch của Thiên Chúa dành cho hôn nhân và gia đình”.
Tuy nhiên, các người nam nữ có khuynh hướng đồng tính phải được tiếp nhận với
lòng kính trọng và nhậy cảm. “Mọi dấu hiệu kỳ thị bất công đối với họ phải được
xa tránh” (Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Các Xem Xét Liên Quan Tới Các Đề Nghị Thừa
Nhận Hợp Pháp Các Cuộc Kết Hợp Giữa Những Người Đồng Tính Luyến Ái, số 4).
131. Điểm sau đây cần được
lặp lại: mọi người, bất kể xu hướng tính dục của họ, đều phải được tôn trọng
trong nhân phẩm của họ và được tiếp nhận một cách nhậy cảm và hết sức quan tâm
trong cả Giáo Hội lẫn xã hội. Điều đáng ước mong là: trong các chương trình mục
vụ của họ, các giáo phận nên dành sự chú ý đặc biệt để đồng hành với các gia
đình trong đó một thành viên có khuynh hướng đồng tính, và với chính những
người đồng tính.
132. (56) Về phương diện trên, gây áp
lực đối với các mục tử của Giáo Hội là điều hoàn toàn không thể chấp nhận được:
cũng thế, không thể chấp nhận được việc các tổ chức quốc tế nối kết sự trợ giúp
tài chánh của họ cho các nước nghèo với việc (các nước này) phải ban hành các
luật lệ hợp pháp hóa “cuộc hôn nhân” giữa những người cùng phái tính.
Chương IV
Gia đình, việc
sinh sản và dưỡng dục
Việc truyền
sinh và các thách đố của việc giảm sinh suất
133. (57) Ngày nay, việc phổ biến não
trạng muốn rút gọn việc sinh sản sự sống nhân bản thành một thông số tùy thuộc
kế hoạch của cá nhân hay của cặp vợ chồng là điều thấy rõ. Đôi khi, các nhân tố
kinh tế nặng nề đã đóng góp nhiều vào việc sút giảm đáng kể về sinh suất, làm
suy yếu cơ cấu xã hội, làm hại mối tương quan giữa các thế hệ và làm cho viễn
ảnh tương lai càng trở nên bất trắc hơn. Chào đón sự sống là một đòi hỏi nội
tại của tình yêu vợ chồng. Về phương diện này, Giáo Hội hỗ trợ các gia đình để
họ chấp nhận, nuôi dưỡng và âu yếm bảo bọc các đứa con có khuyết tật.
134. Một số người thấy cần
phải tiếp tục làm cho người ta biết đến việc Huấn Quyền của Giáo Hội cổ vũ nền
văn hóa sự sống, đối đầu với nền văn hóa sự chết đang mỗi ngày mỗi lan tràn
hơn. Về phương diện này, cần lưu tâm hơn tới một số trung tâm đang dấn thân vào
cuộc nghiên cứu về khả năng sinh sản và sự hiếm muộn, một cuộc nghiên cứu đang
cổ vũ cuộc đối thoại giữa các nhà đạo đức sinh học Công Giáo và các nhà khoa
học tinh tường kỹ thuật học sinh y (bio-medical). Sinh hoạt mục vụ gia đình nên
bao gồm nhiều chuyên gia sinh y Công Giáo hơn trong việc chuẩn bị hôn nhân cho
các cặp đính hôn và đồng hành với các cặp đã kết hôn rồi.
135. Điều cần kíp là các Kitô
hữu đang tham gia sinh hoạt chính trị cần phải khuyến khích các quyết định lập
pháp thích đáng và có trách nhiệm trong các vấn đề cổ vũ và bảo vệ sự
sống.Tiếng nói của Giáo Hội về các chủ đề này đã được nghe trên bình diện xã
hội và chính trị thế nào, thì ta cũng phải cố gắng hết sức để bước vào một cuộc
đối thoại với các cơ quan và các nhà tạo chính sách quốc tế như thế ngõ hầu cổ
vũ việc tôn trọng sự sống con người, từ lúc tượng thai cho tới lúc chết tự
nhiên. Về phương diện này, cần dành sự chú ý đặc biệt đối với các gia đình có
con khuyết tật.
Làm cha mẹ có
trách nhiệm
136. (58) Việc mục vụ trong lãnh vực
trên phải khởi đầu bằng việc lắng nghe người ta và thừa nhận vẻ đẹp và sự thật
của việc chào đón sự sống vô điều kiện, một điều cần thiết, nếu muốn sống đầy
đủ tình yêu nhân bản. Điều này được dùng làm căn bản cho một giáo huấn thích
đáng liên quan tới các phương pháp tự nhiên trong việc sinh sản có trách nhiệm;
phương pháp này cho phép cặp vợ chồng sống một cách hòa hợp và có ý thức sự
thông đạt đầy yêu thương giữa vợ và chồng trong mọi khía cạnh của nó phù hợp
với trách nhiệm phụ tạo sự sống. Về phương diện này, ta nên trở lại với sứ điệp
của thông điệp Sự Sống Con Người của Chân Phúc Giáo Hoàng Phaolô VI, một sứ
điệp nhấn mạnh tới việc phải tôn trọng phẩm giá người ta khi lượng giá các
phương pháp điều hòa sinh sản về phương diện luân lý. Việc nhận nuôi trẻ em,
trẻ mồ côi và trẻ bị bỏ rơi và coi chúng như con cái của mình là một hình thức
chuyên biệt của việc tông đồ gia đình (xem Apostolicam Actuositatem, III, 11),
và thường được Huấn Quyền kêu gọi và khuyến khích (xem Familiaris Consortio,
III, II; Evangelium Vitae, IV, 93). Quyết định nhận con nuôi hay nhận nuôi
dưỡng nói lên tính sinh hoa trái của cuộc sống vợ chồng, không phải chỉ trong
trường hợp hiếm muộn mà thôi. Một quyết định như thế là dấu hiệu mạnh mẽ nói
lên tình yêu gia đình và là cơ hội làm chứng cho đức tin của ta cũng như phục
hồi phẩm giá người con cho những người bị tước mất phẩm giá này.
137. Liên quan tới nội dung
phong phú của Humanae Vitae và các vấn đề nó bàn, hai điểm
chính đã được đặt ra và luôn phải liên kết với nhau. Một điểm liên quan tới vai
trò của lương tâm, được hiểu như tiếng nói của Thiên Chúa vang lên trong tâm
hồn đã được huấn luyện để lắng nghe của con người. Điểm kia là qui luật luân lý
khách quan vốn không cho phép coi hành vi sinh sản như một thực tại được quyết
định cách võ đoán tùy tiện, bất chấp kế hoạch của Thiên Chúa dành cho việc sinh
sản của con người. Quá nhấn mạnh tới khía cạnh chủ quan của con người, sẽ có
nguy cơ dễ dàng đưa ra các chọn lựa vị kỷ. Quá nhấn mạnh tới khía cạnh kia kết
cuộc sẽ coi qui luật luân lý như một gánh nặng không thể nào vượt qua và không
đáp ứng được nhu cầu và tài nguyên của con người. Kết hợp cả hai, dưới sự hướng
dẫn thường xuyên của một người hướng dẫn tâm linh có khả năng sẽ giúp những
người kết hôn thực hiện được các lựa chọn hoàn toàn có tính nhân bản và là
những lựa chọn phù hợp với thánh ý Thiên Chúa.
Nhận con nuôi
và làm dưỡng phụ mẫu
138. Để cung cấp cho các trẻ
em bị bỏ rơi một gia đình, nhiều người yêu cầu phải chú ý nhiều hơn tới sự quan
trọng của việc nhận con nuôi và việc chăm dưỡng (foster care). Về phương diện
này, có người nhấn mạnh tới việc phải quả quyết rằng việc giáo dục một đứa trẻ
phải đặt căn bản trên sự dị biệt giới tính, giống như việc sinh đẻ vậy. Do đó,
cả trong việc giáo dục nữa, tự nó cũng phải đặt căn bản trên tình yêu vợ chồng
giữa một người đàn ông và một người đàn bà, là những người tạo nền thiết yếu
cho việc đào tạo tòan vẹn một đứa trẻ.
Trước các hoàn
cảnh trong đó cha mẽ đôi khi ước muốn đứa con "cho riêng mình” và bằng bất
cứ cách nào, như thể đứa trẻ này chỉ là sự nối dài các ước nguyện của mình, thì
việc nhận con nuôi và việc chăm dưỡng, nếu hiểu cho đúng, sẽ làm sáng tỏ một
khía cạnh quan trọng của việc làm cha mẹ và dòng dõi, ở điểm nó giúp các cha mẹ
nhận ra rằng, bất kể là tự nhiên, là nuôi hay chăm dưỡng, con cái vẫn là “những
nhân vị khác với chính mình” và do đó, cần được chấp nhận, yêu thương và chăm
sóc chứ không phải chỉ là “đem vào thế gian”.
Vì căn bản
trên, thực tại nhận con nuôi và chăm dưỡng phải được đánh giá cao và được đào
sâu, nhất là trong nền thần học về hôn nhân và gia đình.
Sự sống con
người: một mầu nhiệm khôn dò
139. (59) Cảm tính cũng cần được hỗ trợ
trong hôn nhân, như là con đường tiến tới sự trưởng thành trong việc mỗi ngày
mỗi chấp nhận người khác cách sâu sắc hơn và là một hiến thân mỗi ngày mỗi trọn
vẹn hơn; theo ý hướng này, có người đã lặp lại sự cần thiết phải đưa ra các
chương trình đào tạo nhằm nuôi dưỡng cuộc sống lứa đôi và tầm quan trọng của
hàng ngũ giáo dân trong việc đồng hành như những chứng tá sinh động. Điều chắc
chắn là gương sáng của một tình yêu trung thành và sâu sắc sẽ giúp ích rất
nhiều; một tình yêu được biểu lộ trong âu yếm và kính trọng; một tình yêu có
khả năng lớn mạnh với thời gian; một tình yêu, ngay chính trong hành vi cởi mở
chào đón việc sinh sản, giúp ta cảm nghiệm được một mầu nhiệm vượt quá ta.
140. Sự sống là một ơn phúc
của Thiên Chúa và là một mầu nhiệm siêu việt. Thành thử, dù ở khởi đầu hay ở
kết thúc của cuộc sống, con người không có cách chi bị “vứt bỏ”. Trái lại, phải
đưa ra các biện pháp để bảo đảm cho các giai đoạn của sự sống con người được
lưu ý đặc biệt. Ngày nay, “chính các hữu thể nhân bản cũng (quá dễ dàng) bị coi
như những hàng hóa tiêu thụ phải được sử dụng rồi sau đó vứt đi. Chúng ta đã
tạo ra một nền văn hóa ‘vứt bỏ’ hiện đang lan rộng” (EG, 53). Về phương diện
này, với sự hỗ trợ của mọi người trong xã hội, nhiệm vụ của gia đình là chào
đón sự sống nhân bản chưa sinh ra và chăm sóc sự sống nhân bản trong giai đoạn
cuối cùng của nó.
141. Về thảm kịch phá thai,
trên hết, Giáo Hội khẳng định đặc điểm thánh thiêng và bất khả vi phạm của sự
sống con người và tích cực dấn thân bảo vệ sự sống. Các định chế của Giáo Hội
cung cấp huấn đạo cho các phụ nữ mang thai, hỗ trợ các bà mẹ đơn lẻ, thiếu niên
và trợ giúp các trẻ em bị bỏ rơi, và gần gũi với những người đau khổ vì phá
thai. Giáo Hội nhắc nhở những người đang làm việc tại các cơ sở chăm sóc y tế
nhớ tới nghĩa vụ luân lý phải phản đối theo lương tâm.
Cũng thế, Giáo
Hội không những cảm thấy khẩn thiết phải khẳng quyết quyền được chết tự nhiên,
tránh những điều trị và an tử quá quyết đoán (aggressive), mà còn chăm sóc
người cao niên, bảo vệ những người khuyết tật, giúp đỡ người bệnh nguy kịch và
an ủi người hấp hối.
Thách đố dưỡng
dục và vai trò gia đình trong việc phúc âm hóa
142. (60) Một trong các thách đố căn bản mà các gia đình ngày nay đang đối
đầu chắc chắn là thách đố dưỡng dục con cái; một thách đố bị thực tại văn hóa
ngày nay và ảnh hưởng lớn lao của các phương tiện truyền thông làm cho khó khăn
và phức tạp hơn. Như thế, ta cần phải xem xét tới các nhu cầu và mong ước của
các gia đình, giúp họ có khả năng trở nên các nơi để phát triển trong cuộc sống
hàng ngày, các nơi để truyền thụ các nhân đức một cách cụ thể và chủ yếu, các
nhân đức lên hình dáng cho cuộc hiện sinh của ta. Như thế, các bậc cha mẹ phải
có khả năng chọn lựa mô thức giáo dục cho con cái họ, tùy theo xác tín của họ.
143. Mọi người nhất trí rằng
trường học đầu tiên trong việc nuôi dạy một đứa con là gia đình và cộng đồng
Kitô hữu cung hiến sự hỗ trợ và giúp đỡ vai trò dưỡng dục không thể thay thế
này của gia đình. Nhiều người thấy cần phải cung cấp nơi chốn và cơ hội để các
gia đình có thể gặp nhau nhằm khuyến khích việc huấn luyện làm cha mẹ và chia
sẻ các kinh nghiệm giữa các gia đình với nhau. Vì các cha mẹ là các nhà giáo
dục và chứng tá đức tin đầu tiên đối với con cái họ, nên điều quan trọng là họ
phải tích cực tham dự vào việc chuẩn bị cho chúng lãnh nhận các Bí Tích Khai
Tâm Kitô Giáo.
144. Trong các nền văn hóa đa
dạng, các người trưởng thành trong gia đình duy trì một vai trò giáo dục không
thể thay thế. Tuy nhiên, nhiều nơi đang mục kích sự kiện: càng ngày vai trò
dưỡng dục của cha mẹ càng bị làm yếu đi, do sự hiện diện đầy xâm lấn của các
phương tiện truyền thông vào gia đình cũng như khuynh hướng muốn đẩy nhiệm vụ
này cho các thực thể khác. Hiện tượng này đòi Giáo Hội phải khuyến khích và hỗ
trợ các gia đình trong việc giám sát cẩn mật và có trách nhiệm đối với các
chương trình ở trường và các chương trình giáo dục có thể ảnh hưởng tới con cái
mình.
145. (61) Giáo Hội đảm nhiệm một vai trò
có giá trị trong việc hỗ trợ các gia đình, bắt đầu với việc Khai Tâm Kitô Giáo,
bằng cách trở thành các cộng đồng chào đó. Ngày nay, hơn bao giờ hết, các cộng
đồng này cần phải cung cấp sự hỗ trợ cho các bậc cha mẹ, trong các tình huống
phức tạp lẫn trong cuộc sống hàng ngày, trong việc dưỡng dục con cái của họ,
đồng hành với chúng, cả trong tuổi thiếu niên lẫn tuổi thanh niên khi chúng
đang độ phát triển, nhờ các chương trình mục vụ đã được bản vị hóa, có khả năng
dẫn đưa chúng vào ý nghĩa trọn vẹn của đời người và khuyến khích chúng trong
các quyết định và trách nhiệm của chúng, thực thi dưới ánh sáng Tin Mừng. Trong
tình âu yếm, từ bi và mẫn cảm mẫu thân, Đức Maria có khả năng thoả mãn cơn khát
của nhân loại và cả sự sống nữa. Do đó, các gia đình và người Kitô hữu nên chạy
đến xin ngài cầu bầu. Việc mục vụ và lòng tôn sùng Thánh Mẫu là khởi điểm thích
đáng của việc công bố Tin Mừng Gia Đình.
146. Các gia đình Kitô hữu có
bổn phận phải chuyển giao đức tin cho con cái mình, một bổn phận xây dựng trên
sự cam kết được thực hiện trong lúc cử hành hôn lễ. Việc thực thi cam kết này,
một việc thực thi đòi phải có trong mọi giai đoạn của cuộc sống gia đình, phải
được cộng đồng Kitô hữu hỗ trợ. Cách riêng, việc chuẩn bị con cái lãnh nhận các
Bí Tích Khai Tâm Kitô Giáo là một cơ hội vô giá để các cha mẹ khám phá lại đức
tin của mình, vì họ trở về chính nền tảng ơn gọi Kitô hữu của họ và thấy được
nơi Thiên Chúa nguồn mạch tình yêu của họ, một tình yêu được Người thánh hiến
trong Bí Tích Hôn Phối.
Không được lãng
quên vai trò của ông bà trong việc truyền thụ đức tin và các truyền thống cũng
như lòng sùng kính tôn giáo. Là các tông đồ, các ngài là những người không thể
nào thay thế được trong các gia đình, vì các lời khuyên bảo khôn ngoan, lời cầu
nguyện và gương sáng của các ngài. Việc tham dự phụng vụ Chúa Nhật, việc lắng
nghe Lời Chúa, việc năng lui tới các bí tích và việc sống một cuộc sống bác ái
sẽ luôn bảo đảm điều này: cha mẹ làm chứng một cách rõ rệt và khả tín về Chúa
Kitô cho con cái mình.
147. Tài Liệu Làm Việc này
phát sinh trong khoảng thời gian giữa hai khóa họp của Thượng Hội Đồng vốn là
hoa trái từ óc sáng tạo mục vụ của Đức GH Phanxicô, đấng, trong khoảng một năm,
đã triệu tập hai khóa họp này về cùng một đề tài để kỷ niệm 50 năm ngày kết
thúc Công Đồng Vatican II và việc Chân Phúc Phaolô VI Thiết Lập ra Thượng Hội
Đồng Giám Mục. Nếu Khóa Đặc Biệt Thứ III, hồi mùa Thu vừa qua, đã giúp toàn thể
Giáo Hội tập chú vào Các Thách
Đố Mục Vụ của Gia Đình trong Bối Cảnh Phúc Âm Hóa, thì Khóa Thường Lệ Thứ
XIV, dự tính vào tháng Mười, 2015, sẽ được mời gọi suy nghĩ về Ơn Gọi và Sứ Mệnh của Gia Đình
trong Giáo Hội và trong Xã Hội Ngày Nay. Ngoài ra, việc cử hành Thượng Hội
Đồng kế tiếp sẽ xẩy ra vào ngày vọng Năm Thánh Ngoại Thường về Lòng Thương Xót,
được Đức GH Phanxicô công bố và định sẽ bắt đầu ngày 8 tháng Mười Hai, 2015.
Giống trường
hợp của thượng hội đồng trước, số lượng lớn các câu trả lời, nhận xét do Văn
Phòng Tổng Thư Ký Thượng Hội Đồng Giám Mục nhận được cho thấy sự quan tâm ngoại
thường và sự tích cực tham gia của Dân Chúa khắp nơi. Dù bản tóm lược các đề
nghị trong tài liệu này không thể kể hết sự phong phú của chất liệu đến từ khắp
mọi lục địa, tuy nhiên, bản văn này có thể được dùng như một phản ảnh đáng tin cậy
các tầm nhìn của cảm thức thông suốt nơi toàn thể Giáo Hội về chủ đề chủ yếu
gia đình.
Công việc của
khóa họp Thượng Hội Đồng kế tiếp được phó thác cho Thánh Gia Nadarét: Chúa
Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse, là các đấng đang thúc giục chúng ta “khám phá lại
ơn gọi và sứ mệnh của gia đình” (Đức Phanxicô, Yết Kiến Chung, 17 tháng 12,
2014).
Lời
kinh cầu nguyện cùng Thánh Gia
Lạy Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse,
nơi các
Đấng chúng con được chiêm ngắm
nét rạng
ngời của tình yêu đích thực,
chúng
con tin tưởng dâng lời nguyện xin:
Lạy
Thánh Gia Nazareth,
xin làm
cho các gia đình của chúng con
trở
thành nơi hiệp thông và nhà cầu nguyện,
thành
trường học đích thực của Phúc Âm
và Hội
thánh tại gia bé nhỏ.
Lạy
Thánh Gia Nazareth,
xin cho
trong các gia đình
đừng bao
giờ xảy ra bạo lực, khép kín và chia rẽ nữa:
xin cho
tất cả những ai đã bị tổn thương
hoặc bị
ảnh hưởng vì gương xấu
sớm tìm
được niềm an ủi và được chữa lành.
Lạy
Thánh Gia Nazareth,
xin cho
Thượng Hội đồng Giám mục sắp tới
làm thức
tỉnh nơi mọi người
ý thức
bản chất thánh thiêng
và bất
khả xâm phạm của gia đình,
cũng như
vẻ đẹp của gia đình trong kế hoạch của Thiên Chúa.
Lạy Chúa
Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse
xin nghe
lời chúng con,
xin nhậm
lời chúng con cầu xin. Amen.