NHỮNG VĂN KIỆN
CỦA GIÁO HỘI VỀ TRUYỀN GIÁO TRONG 100 NĂM QUA
Trong bài này, ba tác giả sẽ lần lượt trình bày giáo huấn
của Giáo hội Công giáo về truyền giáo trải qua ba giai đoạn:
I. James Kroeger,
MM (giáo sư tại Loyola School of Theology Manila), “Năm thông điệp truyền giáo
(1919-1959): Maximum Illud (1919), Rerum Ecclesiae (1926), Evangelii Praecones
(1951), Fidei Donum (1957), và Princeps Pastorum (1959)”.
II. Stephen B.
Bevans, SVD (giáo sư tại Catholic Theological Union, Chicago): “Công đồng Vaticanô II. Sắc lệnh Ad
gentes”.
III. Roger P.
Schroeder, SVD (giáo sư tại Catholic Theological Union, Chicago): “Sau công
đồng Vaticanô II: Tông huấn Evangelii
nuntiandi (1975). Thông
điệp Redemptoris
missio (1990). Văn kiện Đối
thoại và Loan truyền (1991)”.
Nguồn: Stephen B. Evans
(ed.), A Century of
Catholic Mission, Roman
Catholic Missiology 1910 to the Present, Regnum Books
International, Oxford 2013, p.93-120.
———————–
Phần I. Năm thông điệp
về truyền giáo (1919-1959)
James Kroeger, MM
Thời sự Thần học, số 86 (tháng 11/2019), trang 64-76
(catechesis.net) November 29,
2019
Những viễn tượng mới của Công đồng Vaticanô II
(1962-1965) về sứ mạng truyền giáo của Hội thánh đã được chuẩn bị hàng chục năm
trước bằng nhiều cảm nghiệm và suy tư về truyền giáo. Kinh nghiệm phong phú này
thường được tích lũy trong một vài văn kiện ghi mốc điểm. Trong tiền bán thế kỷ
XX, những viễn cảnh về truyền giáo có thể tìm thấy trong năm thông điệp của các
vị giáo hoàng: Maximum Illud (1919), Rerum Ecclesiae (1926), Evangelii Praecones
(1951), Fidei Donum (1957), và Princeps Pastorum (1959).
Dĩ nhiên các văn kiện này cần được lồng trong bối cảnh
của lịch sử cũng như của những suy tư thần học vào tiền bán thế kỷ XX, tiếc
rằng khuôn khổ của bài viết không cho phép khai triển khía cạnh này. Chúng tôi
chỉ giới hạn vào việc phân tích nội dung mà thôi.
1. Maximum Illud
Thông điệp truyền giáo thứ nhất vào thời cận đại là
Maximum Illud (MI - Quảng bá đức tin công giáo) được ĐTC Bênêđictô XV ban hành
ngày 30-11-1919.[1] Thông
điệp MI được đặt tên là “Hiến chương” truyền giáo của thời cận đại. Ảnh hưởng
của nó có thể thấy qua những lần được trích dẫn trong các văn kiện truyền giáo
tiếp theo.
Khung cảnh ra đời của văn kiện này thật đầy ý nghĩa. Thế
chiến thứ nhất (1914-1918) vừa chấm dứt, để lại nhiều vết tích tàn phá, kể cả
nỗ lực truyền giáo. Thông điệp muốn khơi dậy những dự án truyền giáo bị đình
trệ bởi chiến tranh. Ngoài ra, thời kỳ hậu chiến đã chứng kiến sự phát triển
đáng kể của ngành truyền thông xã hội.
ĐTC Bênêđictô XV tuyên bố hai mục đích của bức thư này:
cổ vũ việc lãnh đạo truyền giáo và khuyến khích các phương pháp truyền giáo.
Ngỏ lời trực tiếp với những người đang tham gia công cuộc truyền giáo, Đức
thánh cha lưu ý những vị lãnh đạo các địa điểm truyền giáo hãy cư xử hợp với
đức khôn ngoan và bác ái, luôn tìm cách phát triển các công cuộc truyền giáo.
Họ hãy biết mở rộng cửa để đón nhận sự trợ lực của những người làm việc tông
đồ, kể cả những người không thuộc cùng một hội dòng với mình, cũng như cần phải
nhìn nhận và cổ động công việc của các nữ tu.
Các vị thừa sai được khuyến khích hãy tăng trưởng về đời
sống thánh thiện, bắt chước mẫu gương của Chúa Giêsu và các thánh Tông đồ. Họ
hãy năng suy gẫm về ơn gọi cao quý và rực rỡ của minh. Thông điệp nhìn nhận
những gian nan mà các thừa sai phải gánh chịu trong công cuộc quảng bá đức tin,
đồng thời cũng mạnh mẽ nhắc nhở họ hãy tránh phục vụ những ích lợi của quê
hương mình. Nhà thừa sai hãy luôn luôn nhớ rằng mình không làm việc như là nhân
viên của quê hương mình, nhưng là sứ giả của Chúa Kitô. Các nhà thừa sai phải
được huấn luyện cẩn thận và chu đáo, đặc biệt là về truyền-giáo-học; họ không
thể chỉ thỏa mãn với việc nói lõm bõm tiếng địa phương, nhưng phải nói thật
trôi chảy lưu loát.
Một điểm nhấn đặc biệt của MI là việc phát triển hàng
giáo sĩ bản xứ: cần phải chú ý đến việc đào tạo các ứng sinh lãnh chức thánh,
bởi vì đây là niềm hy vọng lớn nhất của các giáo hội trẻ. Tại sao vậy? Bởi vì
linh mục địa phương, cùng dòng giống, cùng văn hóa, cùng khát vọng với đồng bào
của mình thì dễ gần gũi với tâm thức của họ và thu hút họ về đức tin.
Hàng giáo sĩ địa phương cần được huấn luyện kỹ lưỡng.
Đừng đào tạo họ đủ để thi hành những công việc tầm thường, dường như chỉ là phụ
tá cho các thừa sai ngoại quốc. Không nên có một hàng giáo sĩ địa phương tầm
thường.
Thông điệp kêu gọi toàn thể Giáo hội hãy cộng tác vào
việc truyền giáo bằng lời cầu nguyện, nhân sự và tài chính. Các công tác của
Hội Truyền bá đức tin đáng được nâng đỡ và hỗ trợ. “Thần học truyền giáo” của
thông điệp vẫn còn chịu ảnh hưởng đương thời, với viễn tượng là “ngoài Giáo hội
không có ơn cứu độ” (extra ecclesiam nulla salus). ĐTC Benêđictô XV cũng ký
thác các nỗ lực truyền giáo của Giáo Hội, cho Đức Thánh Mẫu, Nữ vương các thánh
Tông đồ.
2. Rerum Ecclesiae
Bảy năm sau Maximum Illud, vào ngày 28-2-1926, ĐTC Piô XI
ban hành thông điệp Rerum Ecclesiae (RE: Cổ vũ lòng hăng say truyền giáo),[2]
tiếp nối tư tưởng của vị tiền nhiệm tuy cũng khai triển thêm một vài chi tiết.
Đức thánh cha mở đầu với việc khẳng định lòng hăng say
truyền giáo, và không bỏ qua bất cứ việc gì có thể mang ánh sáng Tin mừng cho
dân ngoại. Để thực hiện điều này, ngài thấy cần một số thừa sai đông đảo hơn,
và các giáo dân cần phải ý thức hơn về bổn phận của mình đối với việc truyền
giáo.
Thông điệp xác định rõ mục tiêu của công tác truyền giáo.
“Mục tiêu của công cuộc truyền giáo là gì nếu không phải là thiết lập Hội thánh
Chúa Kitô tại nhiều nơi hơn nữa?” Vì thế, Đức thánh cha muốn cổ võ việc xây
dựng Giáo hội tại những dân tộc chưa thuộc về Kitô giáo. Nói cách khác, ngài
cho rằng bổn phận đầu tiên của các nhà truyền giáo là tổ chức Giáo hội hữu hình
và thành lập các chủng viện.
Với điểm nhấn như vậy, văn kiện này thúc đẩy việc đào tạo
hàng giáo sĩ bản xứ, đã được nói đến trong thông điệp Maximum Illud. Không được
khước từ thâu nhận các thanh thiếu niên bản xứ làm linh mục; không được coi
hàng giáo sĩ bản xứ là thua kém hàng giáo sĩ nước ngoài hoặc chỉ giao cho họ
những công tác tầm thường; không được kỳ thị hoặc phân biệt giai cấp giữa những
người Âu với hàng giáo sĩ bản xứ. Cần phải cổ động các cộng đồng tu sĩ bản xứ
và các ơn gọi chiêm niệm.
Đức thánh cha cũng đưa ra vài lời khuyên thực tiễn: công
cuộc truyền giáo cần phải được quản trị khoa học; chứng tá của các vị thừa sai
rất có ảnh hưởng bởi vì việc bác ái dễ thu phục lòng người. Các thừa sai hãy
tránh xây dựng những công trình sang trọng và tốn kém. Nên cất những viện mồ
côi, bệnh viện, phòng phát thuốc. Các dòng tu nên nhớ rằng họ không có danh
nghĩa nào để nắm độc quyền hoặc vĩnh viễn các lãnh thổ truyền giáo.
Được coi như “giáo hoàng của công cuộc truyền giáo, ĐTC
Piô XI đã bắt tay vào nhiều dự án quan trọng: cổ võ cuộc triển lãm truyền giáo
quốc tế (năm 1925), và trở thành cố định vào năm 1927 việc thành thành lập viện
Bảo tàng dân-tộc-học truyền giáo, (ngày nay đặt trong thư viện Vatican); thiết
lập Chúa nhật truyền giáo (1926); phê duyệt hai phân khoa truyền giáo học tại
Rôma (đại học Gregoriana năm 1932 và đại học Urbaniana năm 1933). Đức Piô XI
cũng còn được nhắc đến như là người cổ động hàng giáo phẩm bản xứ, và ngài đích
thân truyền chức cho các giám mục tiên khởi của Trung hoa, Ấn độ, Nhật bản.
3. Evangelii Praecones
Thông điệp truyền giáo thứ ba trong vòng 35 năm, được ĐTC
Piô XII ban hành ngày 2-9-1951,[3] nhằm
kỷ niệm giáp 25 năm thông điệp Rerum Ecclesiae. Trong suốt triều đại khá dài
(1939-1958), đức Piô XII đã viết 10 văn thư có liên quan đến truyền giáo, mà
Evangelii praecones (EP) là tác phẩm đặc trưng.
Đức cha Fulton J. Sheen, giám đốc hội Truyền bá đức tin
tại Hoa kỳ thời ấy, đã phân chia thông điệp thành ba mục lớn: mục I cho thấy
tình trạng hiện tại của công cuộc truyền giáo; mục II đề ra bảy nguyên lý và
quy tắc cho hoạt động truyền giáo; mục III phác họa bảy hình thức để hỗ trợ
công cuộc truyền giáo.
Mở đầu, Đức thánh cha suy nghĩ về những bước tiến của
hoạt động truyền giáo, qua những bản thống kê, về con số tín đồ Công giáo trên
thế giới, số các linh mục, sự tăng gia các giám mục bản xứ. Cùng với sự tiến
triển này, có những thách đố cần phải đương đầu, chẳng hạn như phong trào giành
độc lập, cuộc cánh mạng cộng sản.
Các nguyên lý và quy tắc cho hoạt động truyền giáo là:
(1) quê hương của vị thừa sai là xứ người mà mình đang phục vụ, và xứ người
phải trở nên quê hương của mình; (2) các thừa sai cần được huấn luyện chuyên
môn; (3) các thừa sai cần quan tâm đến việc thiết lập hàng giáo sĩ và giáo phẩm
bản xứ; (4) các thừa sai cần biết dùng sự cộng tác của các giáo dân; (5) bắt
tay vào việc cải tổ xã hội theo sự đòi hỏi của công bình và bác ái; (6) cần có
sự hợp tác giữa các hội truyền giáo; (7) thánh hóa các chân lý ngoại đạo.
Có lẽ điều mới mẻ nhất của EP là việc nhấn mạnh đến việc
bảo tồn những yếu tố tích cực trong các phong tục cổ kính của các dân tộc, và
cụ thể là: học thuật, mỹ thuật. “Giáo hội không muốn bứng nhổ các truyền thống
tốt đẹp, công trình mỹ thuật của bất cứ dân tộc nào. Nhiệm vụ của Giáo hội là
duy trì, nâng cao và thánh hóa chúng theo tinh thần của Tin mừng”.
Bảy điều hỗ trợ cho hoạt động truyền giáo là: (1) Việc
cầu nguyện của tất cả mọi tín hữu; (2) Nuôi dưỡng linh mục bản xứ; (3) Nhiệt
tình của hàng giáo sĩ; (4) Việc cầu nguyện và hy sinh của các thiếu nhi; (5)
Các phụ nữ trong các hội đạo đức; (6) Cỗ võ ơn gọi (7) Đóng góp tiền của. Thông
điệp cũng nói đến những cuộc bách hại ở Trung hoa và Triều tiên, vai trò của
Công giáo tiến hành, tầm quan trọng của các tổ chức từ thiện bác ái.
Về mặt thần học, thông điệp dựa trên tư tưởng “Nhiệm thể
Chúa Kitô” và tín điều “sự hiệp thông các thánh”.
4. Fidei Donum
Một năm trước khi băng hà, ĐTC Piô XII đã ký thông điệp
truyền giáo thứ hai, vào ngày 21-4-1957, trùng với chúa nhật Phục sinh, nhằm
nêu bật mối tương quan giữa việc truyền giáo với biến cố Phục sinh và Ngũ tuần.
Fidei Donum (FD 1957) là một văn kiện tương đối ngắn,[4] nhấn mạnh đến những nhu cầu khẩn cấp của
châu Phi.
Thông điệp được chia làm bốn phần. Phần Một trình bày
tình trạng Giáo hội tại Phi châu, đặc biệt là sự phát triển nhanh chóng trong
những năm gần đây. Nhiều quốc gia trẻ đang phải đương dầu với những biến đổi về
xã hội, kinh tế, chính trị có ảnh hưởng đến tương lai. 85 phần trăm dân số vẫn
còn ở ngoài Kitô giáo, trong khi đạo Islam đang bành trướng. Con số linh mục
cũng suy giảm so với số các tín hữu.
Trong bối cảnh này, ĐTC kêu gọi sự hợp tác của toàn thể
Hội thánh (phần Hai và phần Ba), và nhấn mạnh rằng: tinh thần truyền giáo và
tinh thần công giáo là một. Đặc tính công giáo là một thuộc tính của Giáo hội,
và do đó, đòi hỏi sự trợ giúp của toàn thể Giáo hội.
Trong phần Bốn, thông điệp kết thúc với lời tri ân và hy
vọng vào các nhà thừa sai, và thúc đẩu Giáo hội hãy nghe lời của Chúa Giêsu:
“Tiến ra khơi” (Lc 5,4). Đức thánh cha vạch ra bảy lãnh vực mà Giáo hội châu
Phi đang cần được quan tâm: (1) cổ động các ơn gọi truyền giáo tại các trường
học và nhờ Công giáo tiến hành; (2) các giám mục cần tuyển lựa thêm các ơn gọi;
(3) các giám mục cần gặp nhau để đương đầu với những thách đố chung; (4) sự hợp
tác giữa các tổ chức truyền giáo; (5) mục vụ cho giới sinh viên rất cấp bách;
(6) các linh mục nên tình nguyện phục vụ châu Phi; (7) các giáo dân có thể dấn
thân tham gia truyền giáo.
Một hiệu quả bền vững của Fidei Donum là cử các linh mục
giáo phận đi phục vụ miền truyền giáo trong một thời gian. Thể chế mang tên là
các “linh mục Fidei Donum” bổ sung phần nào con số các thừa sai. Kết quả của
những cuộc trao đổi này là siết chặt mối dây liên kết giữa các giáo hội địa
phương cũng như thúc đẩy những sáng kiến mục vụ giữa châu Phi và nơi xuất xứ
của các linh mục. Điều này là hệ luận của nguyên tắc được phát biểu trong thông
điệp “Một cộng đoàn Kitô giáo cung cấp con cái của mình cho Giáo hội thì không
thể nào chết được”.
5. Princeps pastorum
Được đắc cử vào lúc 77 tuổi, Đức giáo hoàng Gioan XXIII
được xem như một con người thuộc giai đoạn chuyển tiếp. Thế những trong triều
đại 5 năm (1958-1963), ngài đã để lại dấu ấn sâu xa trong Giáo Hội. Nhân dịp kỷ
niệm 40 năm thông điệp Maximum Illud, vào ngày 28-11-1959, ngài đã ký một thông
điệp truyền giáo Princeps Pastorum, Thủ lãnh các mục tử (PP).[5]
Mở đầu, Đức Gioan XXIII đề cập đến những thành quả của 40
năm truyền giáo: việc thiết lập hàng giáo phẩm và các giáo sĩ tại những nơi
trước đây được giao cho các thừa sai, kèm theo vài thống kê về sự tăng trưởng
này. Ngài ghi nhận rằng người châu Á đầu tiên thụ phong giám mục vào năm 1923,
và người châu Phi đầu tiên thụ phong giám mục vào năm 1939, nhưng đến năm 1959,
đã có 68 giám mục Á châu và 25 giám mục Phi châu.
Trong bối cảnh này, Đức Gioan XXIII đưa ra những định
hướng cho các giáo sĩ bản quốc và các thừa sai còn ở lại các Giáo hội trẻ: sự
hợp tác huynh đệ giữa hàng giáo sĩ bản xứ với các thừa sai nước ngoài; sự đào
tạo vững vàng về sự thánh thiện linh mục; việc học hỏi ngành truyền giáo học;
tầm quan trọng của những trường học và trung tâm văn hóa; việc sử dụng các kỹ
năng vào việc quảng bá đức tin; vai trò của giáo dân; tránh phong trào yêu nước
cực đoan tại các giáo hội địa phương.
Những biến chuyển xảy ra trong vòng 40 năm tại các miền
truyền giáo (1919-1959) mang nhiều ý nghĩa, bởi vì cho thấy các giáo hội trẻ
đang tiến đến trình trạng trưởng thành. Đồng thời, sự chuyển mình từ quốc gia
bị đô hộ sang quốc gia độc lập cũng đòi hỏi sự thay đổi trong quy chế của Giáo
hội. Rõ ràng là bất cứ vết tích nào của thời “truyền giáo thuộc địa” cần phải
được xóa bỏ.
Thông điệp Princeps Pastorum được ban hành vào tháng 11
năm 1959; ngay từ đầu năm ấy, Đức Gioan XXIII đã loan báo việc triệu tập Công
đồng Vaticanô II. Thông điệp này đã chứa đựng vào hạt mầm canh tân, và dọn
đường cho những quyết định của Công đồng về truyền giáo.
Tóm tắt và tổng hợp
Năm thông điệp trên đây gom lại khoảng độ 100 trang trong
ấn bản chính thức đăng trên công báo Acta Apostolicae Sedis, nhưng không dễ gì
tóm lại những ý tưởng chính. Ở đây chúng tôi chỉ muốn vạch ra vài đề tài nổi
bật trong giáo huấn các giáo hoàng trước Công đồng Vaticanô II.
Dựa trên nội dung và mục lục của các thông điệp, có thể
kể ra 10 đề tài thường được nhấn mạnh hơn cả: (1) bản tính truyền giáo của Hội
thánh; (2) mục tiêu của công cuộc truyền giáo; (3) bản thân nhà thừa sai; (4)
các giáo hội địa phương và hàng giáo sĩ bản quốc; (5) vai trò của giáo hoàng và
các giám mục; (6) vai trò của vị lãnh đạo xứ truyền giáo; (7) các loại công tác
truyền giáo; (8) các nhân đức của người truyền giáo; (9) sự trợ giúp của các
hiệp hội giáo hoàng truyền giáo (10) các giáo dân tại vùng truyền giáo.
Nhìn dưới góc độ tiến triển, có thể nói rằng dưới nhiều
khía cạnh, sắc lệnh của Công đồng Vaticanô II về hoạt động truyền giáo là hệ
luận của các văn kiện nói trên đây. Để minh họa điều này, ta có thể so sánh
giữa Ad gentes với
giáo huấn của các giáo hoàng trước Công đồng. Việc thiết lập Giáo hội phải được
coi là mục tiêu hàng đầu của công cuộc truyền giáo (AG 5), và điều này thường
được diễn tả như là “vun trồng Giáo hội” (plantatio
Ecclesiae: AG 6,19).[6] Các nghĩa vụ của vị thừa sai đã được phác
thảo, đặc biệt là ơn gọi nên thánh (AG 23-27). Sự hợp tác truyền giáo là điều
thiết yếu để hoạt động truyền giáo thâu hoạch kết quả (AG 35-41). Cổ động
sự tham gia của giáo dân (AG 41).
Dĩ nhiên, khi đi vào một vài vấn đề cụ thể, ta không thể
nào mong đợi các thông điệp tiền Công đồng sẽ đưa ra một viễn tượng tiến bộ về
việc truyền giáo. Những đề tài tựa như hội nhập văn hóa, đối thoại liên tôn,
công bằng xã hội, đại kết chỉ xuất hiện vào thời Công đồng. Thần học về nguồn
gốc Tam vị của sứ vụ sẽ chỉ gặp thấy nơi sắc lệnh Ad gentes. Tuy vậy, khi
vạch ra con đường “minh tuệ” của Giáo hội về truyền giáo qua các thông điệp của
các giáo hoàng dẫn tới cuộc canh tân của Công đồng, chúng ta không khỏi thán
phục bước tiến triển dưới sự hướng dẫn của Thánh Linh.
Khi bình luận về ảnh hưởng của các thông điệp truyền giáo
nói trên, một tác giả ghi nhận rằng, chúng không thu hút được sự chú ý đáng kể
và vì thế nhiều đề nghị trong đó đã không hề được mang ra áp dụng.[7] Nhận xét này thật đúng, nhưng nên được
hiểu theo phạm trù thần học, gọi là “tiếp nhận” (receptio). Sự tiếp nhận là tiến trình mà cộng
đồng Kitô hữu nhận ra, chấp nhận và hội nhập một giáo huấn hay kinh nghiệm của
Giáo hội. Đây là một tiến trình liên tục và thường đòi hỏi nhiễu nỗ lực lâu
dài. Do đó, Giáo hội ngày nay cố gắng để hội nhập sự minh tuệ của các thông
điệp trước Công đồng, những trực giác của Công đồng Vaticanô II, và những văn
kiện quan trọng hậu Công đồng tựa như Evangelii Nuntiandi của ĐGH Phaolô VI và
Redemptoris Missio của ĐGH Gioan Phaolô II. Hội thánh thiết tha khẩn nài: Veni,
Sancte Spiritus! Lạy Thánh Linh, xin ngự đến!
Để kết thúc, người viết chương này muốn trở về động lực
mà ĐGH Piô XII đã dùng làm tựa đề cho thông điệp Fidei Donum: ngài ghi nhận
rằng sứ vụ bắt nguồn từ “hồng ân đức tin”. Vì thế, việc nhận ra những ân huệ
bao la của Thiên Chúa trở thành động lực cho lòng biết ơn sâu xa, gợi lên niềm
hân hoan trong tâm hồn và thúc đẩy cất lên bài ca tri ân. Mặc dù thông điệp
được viết vào năm 1957, nhưng nó rất thích thời, cách riêng đối với ai đã có
kinh nghiệm làm việc tại châu Á: chúng ta trở thành thừa sai do lòng biết ơn vì
hồng ân đức tin đã nhận lãnh. Nói theo các giám mục châu Á, chúng ta loan báo
Tin mừng do lòng biết ơn sâu xa đối với Thiên Chúa. Nói cho cùng, “sứ vụ” trào
ra từ tấm lòng biết cảm tạ.
Phần II. Truyền giáo
theo Công đồng Vaticanô II
Stephen B. Bevans
Thời sự Thần học, số 86 (tháng 11/2019), trang 76-89
(catechesis.net) December 2,
2019
Mỗi khi muốn biết Công đồng Vaticanô II (1962-65) nói gì
về hoạt động truyền giáo của Hội thánh, lập tức người ta mở ra Sắc lệnh Ad gentes (AG 1965).
Đúng rồi, nhưng cũng nên biết rằng “truyền giáo” hoặc “loan báo Tin mừng” là
trọng tâm mọi suy tư của Công đồng. Thực vậy, Vaticanô II là một Công đồng
truyền giáo. Chủ đề căn bản của Công đồng là mầu nhiệm Hội thánh: một cộng đồng
được đặt làm dấu chỉ bí tích của ân sủng giữa lòng nhân loại (xem LG 1).
Khác với các công đồng trước đây, Vaticanô II được triệu
tập không phải để giải quyết một cuộc khủng hoảng về đức tin hay cơ cấu tổ
chức. Ít là bề ngoài, trong suốt triều đại của ĐTC Piô XII (1939-1958), uy tín
giáo hoàng chưa bao giờ lên mạnh như vậy và Giáo hội đang tăng trưởng khắp nơi.
Tuy vậy, với cái nhìn ngôn sứ, lý do mà ĐTC Gioan XXIII triệu tập Công đồng là
nhằm giúp cho Hội thánh duy trì và giảng dạy đạo lý một cách hữu hiệu hơn dưới
ánh sáng của những biến chuyển chính trị và văn hóa trong thế kỷ XX. Khẩu hiệu
“canh tân” (Aggiornamento,
tiếng Ý) không phải là lời kêu gọi thay đổi để mà đổi thay, nhưng là lời kêu
gọi truyền giáo. Việc truyền giáo là hướng đi căn bản của Công đồng.
Mỗi Hiến chế của Công đồng (về Giáo hội, về Giáo hội
trong thế giới ngày nay, về phụng vụ, về mặc khải) đều hàm chứa những yếu tố
soi sáng cho sứ mạng loan báo Tin mừng và cung cấp nền tảng vững chắc cho văn
kiện về truyền giáo. Tư tưởng hạt mầm về Giáo hội là dấu chỉ và dụng cụ cho kế
hoạch cứu độ nhân loại của Thiên Chúa (LG 1); ý tưởng về tất cả các Kitô hữu
đều san sẻ vào sứ mạng của Giáo hội như nhau tuy với cách thế khác biệt (LG,
chương II; số 32); việc nhìn nhận rằng những “vui mừng và hy vọng, buồn sầu và
âu lo của nhân loại cũng là của các môn đệ Chúa Kitô (GS 1); sự thay đổi từ chỗ
coi mặc khải như một mớ những mệnh đề sang lời mời sống tình bằng hữu (DV
2); nhận thức về văn hóa nằm ở đàng sau cuộc canh tân phụng vụ (SC 37-40) – tất
cả những điều này đều được thúc đẩy bởi tinh thần truyền giáo và loan báo Tin
mừng.
Ngoài ra, chỉ cần nhắc đến hai văn kiện khác, về tự do
tín ngưỡng và về các tôn giáo ngoài Kitô giáo, cũng cho thấy Công đồng đã đưa
ra một cái nhìn đầy thách đố đối với cách thức hiểu biết xưa nay về đường lối
truyền giáo, nhưng đồng thời cũng cung cấp một động lực mới, phù hợp với Tin
mừng hơn, cho việc rao giảng và chứng tá đức tin. Công đồng tuyên bố rằng, hết
mọi người đều có quyền tự do tín ngưỡng; điều này loại trừ mọi hình thức chiêu
dụ dưới danh nghĩa Giáo hội hoặc Tin mừng (DH 1). Công đồng nhìn nhận mỗi tôn
giáo đều chứa đựng những tia sáng của Chân lý soi sáng muôn người (NA 2); điều
này lưu ý rằng việc loan báo Tin mừng cần diễn ra trong khung cảnh đối thoại và
cố gắng tìm hiểu niềm tin chân chính của những người mà chúng ta mang Tin mừng
đến.
Dưới cái nhìn của một sử gia, John W. O’Malley còn nhận
xét rằng, Công đồng không những có những cách trình bày đạo lý mới mà còn với
một văn phong mới.[8][1]. Công đồng tránh những kiểu nói thị uy,
dọa nạt, cảnh cáo, giống như của cấp trên đối với cấp dưới, nếu chưa muốn nói
là với đối thủ; thay vào đó là ngôn ngữ thuyết phục. mang tính mục vụ hơn. Việc
thay đổi cung giọng biểu lộ sự thay đổi thái độ đối với việc dấn thân truyền
giáo: Giáo hội tự bản chất mang tính truyền giáo, không chỉ nguyên bởi lệnh
truyền của Đức Kitô phải quy tụ môn đệ từ khắp muôn dân (Mt 28,19), nhưng vì
đâm rễ từ cuộc sống sứ vụ của Thiên Chúa Tam vị (AG 2); Các Kitô hữu thi hành
sứ vụ với lòng quý trọng các nền văn hóa cũng như tín ngưỡng của các dân tộc mà
mình mang Tin mừng đến (AG 11; NA 2); Các Kitô hữu không chỉ có những điều quý
giá muốn chia sẻ cho thế giới, nhưng cũng có thể học hỏi từ những cuộc chiến
đấu, lòng chân thành, những tiến bộ của thế giới (GS 43-44). Nếu Vaticanô II là
một Công đồng truyền giáo, thì Công đồng cũng cho thấy một cung cách mới cho
công cuộc truyền giáo.
Sắc lệnh về hoạt động
truyền giáo
Tiến trình soạn thảo
Ngay từ thuở ban đầu, Giáo hội đã dấn thân cho công cuộc
truyền giáo “cho muôn dân” (ad
gentes), nhưng Sắc lệnh của Công đồng Vaticanô II về hoạt động
truyền giáo được coi như văn kiện chính thức đầu tiên của Giáo hội bàn về hoạt
động truyền giáo. Thế nhưng, điều thú vị là những cuộc thảo luận về văn kiện
này chỉ bắt đầu kể từ khóa họp thứ ba (1964), nghĩa là khi Công đồng đã đi được
nửa chặng đường, và sắp đến hồi kết thúc! Sau đây là tóm lược hành trình quanh
co trong việc soạn thảo văn kiện này.
Vào tháng 6 năm 1959, nghĩa là trong thời gian chuẩn bị
Công đồng, ủy ban soạn thảo lược đồ về hoạt động truyền giáo được đặt dưới sự
chủ tọa của Hồng y Gregory Peter Agagianian, Bộ trưởng bộ Truyền bá đức tin,
gồm 54 thành viên, hầu hết gốc châu Âu.
Bản dự thảo thứ nhất mang nặng tính cách pháp lý,
ít tính thần học, và chẳng mấy quan tâm đến những gợi ý do các giám mục châu Á
và châu Phi đề ra. Bản văn gồm 7 chương, bắt đầu với đề tài quản trị miền
truyền giáo, kế đến là những chương bàn về việc đào tạo giáo sĩ và giáo dân,
những vấn đề liên quan đến phụng vụ và bí tích, và chương cuối cùng dành cho sự
hợp tác truyền giáo. Xét vì có nhiều đề tài trùng hợp với các bản dự thảo khác,
Ủy Ban Trung ương quyết định chỉ lấy hai chương (về việc quản trị và hợp tác
truyền giáo) sẽ được đưa vào Công đồng.
Thế nhưng bản văn ấy chưa bao giờ được đưa ra thảo luận.
Trong khóa họp thứ nhất (năm 1962), có bốn dự thảo được đưa ra bàn, nhưng ba dự
thảo bị bác (về Giáo hội, Đức Maria, mặc khải) và trả lại cho ủy ban soạn thảo;
chỉ có dự thảo về phụng vụ là được chấp thuận để tiếp tục bàn trong khóa họp
năm sau (1963). Nói chung, bầu không khí của các giám mục là chống lại não
trạng của giáo triều; cách riêng, liên quan đến vấn đề truyền giáo, các giám
mục nói tiếng Pháp đã yêu cầu hạ cấp Bộ Truyền bá đức tin xuống một cơ quan gây
quỹ; các giám mục tại các vùng truyền giáo yêu cầu có tiếng nói trong việc quản
trị, chứ không thể nào khoán cho những nhân viên hành chánh ở Rôma.
Trong thời gian giữa khóa họp thứ nhất và khóa họp thứ
hai (từ tháng 12 năm 1962 đến tháng 10 năm 1963), ủy ban soạn dự thảo họp lại
nhưng không mang lại kết quả hữu ích. Họ đệ lên Ủy ban Trung ương một lược
đồ De Missionibus,
nhưng bị trả lại. Như vậy, khóa họp thứ hai (1963) không đả động gì đến vấn đề
truyền giáo. Vào cuối khóa họp ấy, có lời yêu cầu phải soạn xong tất cả mọi dự
thảo trước cuối năm 1964, với hy vọng sẽ kết thúc Công đồng vào khóa họp thứ
ba.
Vào tháng 5 năm 1964, một lược đồ vắn tắt gồm 14 mệnh đề
được đề ra, với nội dung thần học nghèo nàn. May thay, ủy ban của Công đồng về
Truyền giáo đã thay đổi nhân sự, bao gồm nhiều thành viên mới từ châu Á, Phi,
Bắc Mỹ, và đặc biệt là cha Johannes Schütte, Tổng quyền Dòng Ngôi Lời giữ vai
trò phó chủ tịch ủy ban. Cha đã soạn một dự thảo mới, với sự cộng tác của các
nhà thần học nổi tiếng như Yves Congar và Joseph Ratzinger. Tuy nhiên lược đồ
này chỉ được đem ra bàn cãi sau khi lược đồ vắn tắt nói trên đã bị các nghị phụ
bác bỏ ở nghị trường.
Cuối cùng, dự thảo của cha Schütte được trình bày cho các
nghị phụ vào ngày 7-10-1965. Từ ngày 7 cho đến 13 tháng 10, đã có 49 vị lên
tiếng phát biểu. Ngày 12 tháng 10, vị Tổng thư ký xin bỏ phiếu, với kết quả là
2070 thuận và 15 chống. Ủy ban tiếp tục đón nhận các ý kiến tiếp tục phát biểu
hoặc qua bản viết. Sau những sửa chữa, bản văn tu chính được đưa ra bỏ phiếu
chung quyết vào ngày 7-12-1965 (ngày chót trước khi bế mạc Công đồng), với kết
quả là 2,394 phiếu thuận và chỉ 5 phiếu chống. Đây là bản văn Công đồng
đạt được sự đồng ý cao nhất. Một kỷ nguyên mới của hoạt động truyền giáo đã bắt
đầu.
Nội dung
Chương Một
Sắc lệnh Ad Gentes
gồm Nhập đề ngắn, 6 chương và Kết luận ngắn. Có lẽ chương quan trọng nhất là
chương Một mang tựa đề “Những nguyên tắc đạo lý”, với dòng đầu tiên có lẽ là
lời tuyên bố súc tích hơn cả của toàn văn kiện, nói như sau: “Giáo hội lữ hành
mang tính sứ vụ tự bản tính, bởi vì bắt nguồn từ sứ vụ của Chúa Con và sứ vụ
của Thánh Linh, phù hợp với ý định của Chúa Cha” [2] (AG 2).[9]
Qua câu này, một phần gợi ý từ nhà thần học Karl Barth (Tin lành) một phần trở
về với truyền thống lâu đời của Giáo hội đã bị lãng quên, Công đồng muốn đặt nguồn
gốc của sứ vụ không phải từ mệnh lệnh của Chúa Giêsu (Mt 28,19) nhưng là từ
“suối nguồn tình yêu” (AG 2), tức là chính Thiên Chúa. Theo dòng suy tư mang
nhiều trích dẫn Kinh thánh và các giáo phụ, Công đồng nói đến cuộc tạo dựng vũ
trụ như là cuộc sai đi tiên khởi, và được trở nên rõ rệt nơi cuộc Nhập thể (vì
vài lý do, Công đồng không nhắc đến lịch sử của Israel mà chỉ lướt qua) rồi
được trao lại cho Giáo hội (AG 2-5).
Từ suy tư tổng quát về bản chất “sứ vụ (được sai đi) của
Giáo hội, sang đến số 6, văn kiện chuyển sang ý nghĩa “truyền giáo” (thừa sai)
theo nghĩa chặt, đó là “rao giảng Tin mừng và vun trồng Giáo hội nơi những dân
tộc và nhóm người chưa tin nhận Chúa Kitô”. Đàng sau lời khẳng định này, Công
đồng muốn dung hòa hai ý kiến liên quan đến mục tiêu của công cuộc truyền giáo
vào thập niên 60 (một bên chủ trương dẫn đưa người ngoại đạo vào đức tin; một
bên nhấn mạnh đến việc thiết lập giáo hội tại địa phương). Văn kiện cũng muốn
thay đổi một não trạng khi bàn về vấn đề truyền giáo. Vào thời ấy, nhìn từ châu
Âu, “truyền giáo” đồng nghĩa với “đi ra nước ngoài”. Thế giới được chia làm hai
khu vực: khu vực Kitô giáo (Âu Mỹ) và khu vực “truyền giáo” (châu Á và châu
Phi). Thuật ngữ “truyền giáo” được gắn với yếu tố lãnh thổ. Tuy khái niệm này
vẫn còn được duy trì trong sắc lệnh Ad
gentes, nhưng Công đồng muốn vượt lên não trạng ấy, khi gắn việc
“truyền giáo” với yếu tố nhân sinh: công tác truyền giáo nhắm đến những con
người, cá nhân hay cộng đoàn, chưa tin nhận Chúa Kitô, dù là ở Phi châu, Á
châu, hay tại Mỹ châu và Âu châu: những người di dân, những người vô thần,
những người lãnh đạm với tôn giáo, v.v…
Số 9 giải thích ý nghĩa của nỗ lực truyền giáo như thế
này: “Hoạt động truyền giáo không là gì khác hơn sự biểu lộ ý định của Thiên
Chúa và hoàn tất ý định ấy trên thế giới và trong lịch sử nhân loại”. Thiên
Chúa “hoàn thành lịch sử cứu độ nhờ việc truyền giáo” và mục tiêu của nó là
“làm cho Đấng tác thành công trình cứu độ là chính Chúa Kitô được hiện diện”.
Tuy nhiên, cũng nên ghi nhận một đề tài thường được nhắc đi nhắc lại trong suốt
văn kiện là sự hiện diện của Chúa Kitô không tiêu hủy văn hóa, nhưng kiện toàn
nó. Lý do bởi vì trong mỗi nền văn hóa, đã có một sự hiện diện bí ẩn của Thiên
Chúa mà Phúc âm sẽ làm tỏ lộ ra, khi nó được chữa lành và nâng cao.
Việc truyền giáo, như ta đọc thấy ở số 9 và kết luận của
Chương I, có một mục tiêu cánh chung. Nó nhắm tới sự hợp nhất của nhân loại và
thế giới, điều mà sẽ xảy ra vào lúc tận cùng của thời gian.
Chương Hai
Chương II mang tựa đề là “Công cuộc truyền giáo”, đưa ra
vài nguyên tắc quan trọng trong tiến trình thi hành công tác truyền giáo giữa
các dân tộc. Số 11-12 bàn về chứng tá Kitô hữu; số 13-14 nói đến việc rao giảng
Tin mừng; số 15-18 đề cập đến việc thiết lập các cộng đoàn cho những ai đã đón
nhận Tin mừng và đi theo Chúa Kitô. Ba hoạt động vừa rồi diễn ra trong ba bối
cảnh được mô tả ở số 10, đó là: giữa những tín đồ của các tôn giáo; giữa những
người không theo tín ngưỡng nào; giữa những người chống đối tôn giáo và tín
ngưỡng.
Số 11 đáng được xem là một trong những đoạn hùng hồn nhất
của văn kiện. Nó nói đến sự cần thiết đối với Kitô hữu phải làm chứng cho Tin
mừng bằng đời sống, sống hòa đồng với văn hóa và các giá trị của dân. Khi đã
quen thân với các truyền thống dân tộc và tín ngưỡng của dân, họ hãy hoan hỉ và
kính cẩn khám phá ra những “hạt giống của Lời” ẩn tàng trong đó. Thuật ngữ “hạt
giống của Lời” (semina Verbi)
lấy từ thánh Giustinô tử đạo, và thường được Công đồng trích dẫn. Nó muốn nói
rằng công cuộc truyền giáo không diễn ra trên vùng đất hoang vu, nhưng trong
bối cảnh mà Thánh Linh và Chúa Kitô đã hiện diện cách huyền nhiệm. Vì thế, các
vị thừa sai cần biết “chân thành và kiên nhẫn đối thoại” ngõ hầu khám phá
“những kho tàng và Thiên Chúa tốt lành đã phân phát cho các dân tộc trên thế giới”.
Chính vì tính thánh thiện cơ bản của các dân tộc, sự tôn
trọng lịch sử và văn hóa của họ mà Công đồng triệt để ngăn cấm mọi hình thức
chiêu dụ (proselytism)
thúc bách người ta theo đạo hoặc dùng những mánh khóe để lừa đảo họ (AG 13).
Công đồng bênh vực quyền tự do tín ngưỡng, cũng như khẳng định rằng hết mọi
người đều có quyền không bị người khác tước đoạt niềm tin bằng những quấy nhiễu
bất công (AG 13).
Một tiêu điểm quan trọng của hoạt động truyền giáo là
thiết lập một cộng đoàn Kitô hữu sinh động – nghĩa là theo kiểu nói của ĐTC
Phaolô VI mười năm sau đó trong tông huấn Evangelii nuntiandi – một cộng đoàn đến
lượt mình sẽ lên đường loan báo Tin mừng (EN 15). Các số 15-18 của AG đề cập
đến việc xây dựng một cộng đoàn như vậy. Nó nhấn mạnh đến tầm quan trọng của ơn
gọi giáo dân, ơn gọi các nam nữ tu sĩ và các giáo sĩ, và việc đào tạo các giáo
sĩ. Số 16 vọng lại Hiến chế Lumen
gentium về việc khôi phục các phó tế vĩnh viễn nếu Hội đồng
giám mục xét là cần. Sau hết, số 17 nêu bật vai trò các giáo lý viên và việc
đào tạo dành cho họ.
Chương Ba
Chương III bàn về “các Giáo hội địa phương” vẫn còn trong
tình trạng truyền giáo, nghĩa là chưa sẵn sàng tự lập xét vì con số các tín
hữu, hàng giáo sĩ bản xứ, hoặc nguồn tài chính. Mặc dù vậy, Công đồng nhấn mạnh
đó là những “Giáo hội” đúng nghĩa và cần phải được đối xử như vậy. Như vậy là
Công đồng muốn sửa đổi quan niệm coi “Giáo hội ở miền truyền giáo” là bất toàn.
Chương này được viết dựa trên một nền tảng vững chắc của thần học về Giáo hội
địa phương.
Số 20 nói đến giám mục và hàng giáo sĩ. Giám mục phải là
người “loan truyền đức tin”, và các giáo sĩ không chỉ dấn thân vào công tác mục
vụ mà còn hãy lưu ý đến việc rao giảng đức tin cho những người trong giáo phận
chưa chấp nhận Chúa Kitô. Số 21 là một suy tư về các giáo dân, nhấn mạnh rằng
“Giáo hội chưa được thực sự thiết lập, chưa thực sự trở nên sống động và trở
nên dấu chỉ của Chúa Kitô giữa nhân loại bao lâu các giáo dân chưa hợp tác với
hàng giáo phẩm”. Vai trò chính của các giáo dân là làm chứng tá trong đời sống
hàng ngày, và văn kiện nhấn mạnh rằng điều này cần được thực hiện trong bối
cảnh của nền văn hóa của mình. Ad
gentes nói đi nói lại là cộng đoàn Kitô hữu không được phép
thoát khỏi thế giới nhưng cần sống trong thế giới và góp phần xây dựng thế giới.
Số cuối cùng của chương này khuyến khích sự phát triển
thần học địa phương (ngày nay gọi là “hội nhập văn hóa” nhưng lúc ấy còn dùng
từ ngữ “thích nghi vào văn hóa”), với một hình ảnh rất đẹp được dùng trong
phụng vụ mùa Giáng sinh, đó là “tiếp nhận những sự phong phú của các dân tộc đã
được ban cho Chúa Kitô làm sản nghiệp” (x. Tv 2,8). Như vậy sẽ nhận thấy rõ
ràng thế nào là đức tin tìm kiếm sự hiểu biết (AG 22) trong bối cảnh của triết
lý, minh tuệ, phong tục và thế giới quan của các dân tộc địa phương.
Chương Bốn
Tựa đề của chương này là “các thừa sai”, nhắm đến việc
huấn luyện các nhân viên truyền giáo tương lai, bất kỳ là linh mục, nam nữ tu
sĩ, giáo dân, người nước ngoài hay người bản địa.
Tuy rằng mỗi người Kitô hữu được mời gọi tham gia vào
việc quảng bá đức tin bằng lời nói và nhất là bằng việc làm (AG 23), nhưng
trong Giáo hội, có một ơn gọi đặc biệt nhờ đó người tín hữu lìa bỏ quê hương
hay nơi mà mình được sinh ra và dưỡng dục để rao giảng Tin mừng cho những dân
tộc khác. Đây là một ân huệ của Thánh Linh, nhưng con số đặc sủng này vẫn còn
thiếu. Những thừa sai tương lai cũng cần được đào tạo đặc biệt về tâm linh và
luân lý (AG 25) ngõ hầu phát triển lòng quảng đại, tính cởi mở và tinh thần hy
sinh. Các thừa sai cũng cần được huấn luyện về thần học, vừa mang tính phổ quát
của Giáo hội vừa quan tâm đến nét riêng biệt của các dân tộc (AG 26). Nhất là,
vị thừa sai tương lai cần được huấn luyện về “truyền giáo học”, bao gồm cả giáo
huấn Giáo hội về hoạt động truyền giáo cũng như về lịch sử truyền giáo, và tuy
không nói minh nhiên nhưng cũng hiểu ngậm về các khoa học xã hội, cách riêng là
nhân-học: “Phàm ai sắp lên đường gặp gỡ các dân tộc khác thì cần phải biết tôn
trọng gia sản, ngôn ngữ và truyền thống của dân tộc ấy” (AG 26).
Chương Năm
Mang tựa đề là “Thảo hoạch hoạt động truyền giáo”, chương
này đã gây ra nhiều tranh cãi trong thời gian biên soạn, bởi vì liên quan đến
việc tái cấu trúc Bộ Truyền bá đức tin,[10]
và muốn trao cho các giám mục thuộc thầm quyền của Bộ được góp ý nhiều hơn
trong việc phát triển Giáo hội của mình.
Việc tái cấu trúc Bộ Truyền bá đức tin nằm trong bối cảnh
của quan niệm thần học mới về việc điều hành công cuộc truyền giáo. Mở đầu
chương này, số 28 tuyến bố rằng tất cả mọi Kitô hữu, tùy theo ân huệ được ban,
đều được mời tham gia vào sứ vụ của Giáo hội. Tuy nhiên, hoạt động của tất cả
các tín hữu cần được điều hành ngõ hầu “mọi sự diễn ra trong trật tự” (x. 1Cr
14,40). Việc điều hành này trước hết thuộc về toàn thể giám mục đoàn, như LG 23
đã dạy. Vì thế, để thực thi trách nhiệm tập đoàn này, Công đồng quyết định rằng
Hội đồng thường trực của các giám mục toàn thế giới (tức là Thượng hội đồng
giám mục), cần phải đưa ra những đường hướng cho hoạt động truyền giáo của Giáo
hội. Do đó, Bộ Truyền bá đức tin điều khiển công cuộc truyền giáo trong tư cách
là thừa hành toàn thể Giáo hội nói chung và tập đoàn giám mục nói riêng.
Đoạn văn ở cuối số 29 gây ra nhiều tranh luận sôi nổi hơn
cả trong thời gian soạn thảo cũng như tại nghị trường. Đoạn văn này tuyên bố
rằng ở trong ban điều hành của Bộ cần có đại diện của các giám mục thế giới,
giám đốc các hội giáo hoàng hỗ trợ công tác truyền giáo, các hội dòng truyền
giáo và các tổ chức giáo dân. Bản dự thảo trước đó yêu cầu những người này phải
là “thành viên” của Bộ, nhưng không được Công đồng chấp thuận. Tuy vậy, đã rõ
là những nhân vật ấy giữ phần tích cực, với phiếu biểu quyết, trong tiến trình
quyết định lập kế hoạch hoạt động.
Thật là một cuộc tái cấu trúc triệt để, nhưng phải đau
buồn nhìn nhận rằng định hướng của Ad Gentes chưa hề được thực thi. Vào những
năm sau Công đồng, nhiều văn thư đã dần dần giảm bớt vai trò của các cơ quan
ấy. Nói cách khác, cơ cấu của Bộ Truyền bá đức tin không có gì thay đổi so với
thời kỳ trước Công đồng.
Chương Sáu
Chương cuối cùng bàn về “Sự hợp tác truyền giáo”, nghĩa
là bằng cách nào các Kitô hữu góp phần vào hoạt động truyền giáo của Giáo hội.
Trước hết, Công đồng lặp lại vai trò của toàn thể Giáo hội, tiếp theo là của
các giám mục và linh mục, các tu sĩ thuộc dòng hoạt động cũng như chiêm niệm,
và cuối cùng là của các giáo dân. Tuy nhiên, có một khoảng cách giữa chương này
với lời tuyên bố về bản chất truyền giáo của Giáo hội địa phương ở chương II. Ở
đây, “truyền giáo” vẫn mang nghĩa là “truyền giáo hải ngoại”, tức là vẫn còn
phân biệt giữa “truyền giáo nội địa” và các “nước truyền giáo”.
Thiết tưởng có hai điều đáng nêu bật trong chương này.
Thứ nhất, số 30 suy tư về chiều kích truyền giáo nằm trong chức linh mục. Xét
vì các linh mục hợp tác với các giám mục trong việc điều hành Giáo hội, cho nên
một cách nào đó, các linh mục cũng có trách nhiệm đối với sứ vụ của toàn thể
Giáo hội. Vì thế, tác vụ của họ cũng bao gồm việc gây ý thức truyền giáo nơi
các tín hữu, cổ võ các ơn gọi truyền giáo và tài trợ cho công cuộc truyền giáo.
Thứ hai, văn kiện đề cao bản chất truyền giáo của các dòng chiêm niệm. Người ta
thường nghĩ rằng hoạt động truyền giáo là đặc trưng của những dòng hoạt động;
nhưng Công đồng nhấn mạnh rằng, các dòng chiêm niệm cũng là thành phần cốt yếu
của hoạt động truyền giáo. Xét vì chính
Thiên Chúa mới là Đấng mở lòng con người để đón nhận sứ điệp
Tin mừng, cho nên những lời cầu nguyện, những đau khổ, những việc hãm mình mà
các cộng đồng tu sĩ nam nữ dâng tiến đều góp phần to lớn cho việc trở lại của
những người ngoại đạo. Bản văn khuyến khích các dòng chiêm niệm hãy thiết lập
cộng đoàn tại các châu Á, Phi, Mỹ Latinh, và Đại dương, ngõ hầu khi sống đời tu
theo đường lối phù hợp với những truyền thống của các dân tộc, họ có thể mang
lại chứng từ cao quý cho những người ngoài Kitô giáo về sự cao cả và tình
thương của Thiên Chúa cũng như sự kết hợp của chúng ta với Chúa Kitô (AG 40).
Ad Gentes khép lại với lời chào thăm tất cả các vị thừa sai, đặc
biệt những người đang bị bách hại. Một lần nữa, Công đồng nhắc lại tầm quan
trọng của việc Giáo hội tham gia vào công cuộc truyền giáo, nhưng đồng thời một
lần nữa cũng lặp lại rằng việc truyền giáo tiên vàn là công cuộc của Thiên
Chúa. Các giám mục cầu xin cho thế giới trở lại với Tin mừng, nhờ lời chuyển
cầu của Đức Maria, Nữ vương các Tông đồ. Sau cùng Công đồng tuyên bố mọi sự
thay đổi về pháp luật chỉ có hiệu lực từ ngày 29-6-1966, và Đức thánh cha sẽ ban
hành những quy tắc cần thiết cho việc thực thi.
Kết luận
Như cha Roger Schroeder nhận xét trong chương kế tiếp,
Công đồng Vaticanô II đã khai mào một “chặng
dậy men” trong tư tưởng và thực hành của việc truyền giáo, nhưng
điều trớ trêu là nó được tiếp nối với “chặng
khủng hoảng” đòi xét lại vấn đề truyền giáo, phần nào do những
tuyên bố của Công đồng về tự do tín ngưỡng, tôn trọng văn hóa địa phương, và
con người có thể được cứu độ ngoài Giáo hội. Trong khi chặng khủng hoảng phần
nào đang tiếp diễn thì một “chặng
tái sinh” cũng ló dạng, trong đó việc truyền giáo diễn ra một cách
ôn hòa hơn, kèm theo các yếu tố đối thoại, công bình, vãn hồi hòa bình, nhạy
bén với môi sinh, phục vụ di dân, và hòa giải. Nhiều điều đã thay đổi trong
vòng 50 năm kể từ khi bế mạc Công đồng, có lẽ cách triệt để hơn cả là việc
truyền giáo được thực hiện nhiều hơn qua những cam kết ngắn hạn, với sự tham
gia đông đảo hơn của các giáo dân, bởi những người từ “vùng truyền giáo” sang
vùng “đạo gốc”. Bộ mặt truyền giáo ngày nay khác nhiều so với năm 1965 khi sắc
lệnh Ad gentes được
ban hành. Dù vậy, vẫn có nét liên tục: tất cả đều bắt nguồn từ biến cố tuyệt
vời là Công đồng Vaticanô II.
Phần III. Giáo huấn Hội thánh về truyền giáo sau Vaticanô
II: 1975-2007
Roger P. Schroeder, SVD
Thời sự Thần học, số 86 (tháng 11/2019), trang 90-104
(catechesis.net) December 4,
2019
Trong một bài viết về sự thay đổi về quan điểm và
thực hành truyền giáo của Giáo hội Công giáo ở thế kỷ XX, Robert Schreiter đã
phân chia thành bốn chặng: xác tín, dậy men, khủng hoảng, tái sinh.[11]
Chặng thứ nhất bao gồm thế kỷ XIX và tiền bán thế kỷ XX. Công đồng Vaticanô II
đánh dấu chặng dậy men. Hai phần trước đây đã đề cập giáo huấn Hội thánh trong
chặng xác tín của thế kỷ XX (1919-1959) và chặng dậy men của Vaticanô II (1959-1965).
Thập niên chuyển mình
sau Vaticanô II
Schreiter gọi thập niên sau Công đồng (1965-1975) là
chặng khủng hoảng về truyền giáo. Thế giới đang chuyển biến: phong trào nhân
quyền tại Hoa kỳ, cuộc cách mạng văn hóa bên Trung quốc, Chiến tranh sáu ngày ở
Trung Đông, Mùa Xuân Praha ở Tiệp khắc, cuộc nổi dậy của sinh viên ở Mêxicô.
Trong Giáo hội cũng có nhiều nhân tố góp phần cho cuộc khủng hoàng. Việc hồi
tục của nhiều linh mục và tu sĩ đã làm suy giảm nhân số các thừa sai. Cuộc chấm
dứt chế độ thuộc địa, mà công cuộc truyền giáo thường được gắn kết, cũng khiến
cho nhiều người kêu gọi kết liễu việc truyền giáo, hoặc ít là một đường lối
truyền giáo. Ngoài ra, những biến chuyển thần học của Công đồng – việc nhìn
nhận bản chất truyền giáo của toàn Giáo hội (AG 2), sự hiện diện của Thiên Chúa
trong thế giới như là các dấu chỉ thời đại (GS 4), sự cần thiết của việc đối
thoại và hợp tác với các tín đồ các tôn giáo khác (NA 2), và khả năng có thể
được cứu độ ngoài Hội thánh (LG 16) – đã cắt đứt những động lực trước Công đồng
về việc cứu độ các linh hồn và về việc thiết lập Giáo hội hữu hình.
Cần phải phát triển một thần học và thực hành mới về
truyền giáo. Cha Schreiter đánh dấu khởi đầu của chặng “tái sinh” là năm 1975
với tông huấn Evangelii Nuntiandi (EN) của ĐTC Phaolô VI. Tuy nhiên, cần ghi
nhận một vài chuyển động góp phần vào việc tái sinh đã manh nha từ chặng khủng
hoảng. Năm 1968, Liên Hội đồng giám mục châu Mỹ Latinh (CELAM) họp tại Medellin
(Colombia) đã phân tích và suy nghĩ về thực trạng của châu Mỹ Latinh, và đã
thảo ra một kế hoạch hành động vượt lên trên những khái niệm phát triển và cách
mạng đến chỗ biến đổi các cơ cấu bất công. Điều này đã tác dụng đến Giáo hội
phổ quát bởi vì Thượng hội đồng giám mục năm 1971 tại Rôma đã khẳng định mối
liên hệ chặt chẽ giữa công lý và loan báo Tin mừng. Nhiều sự tiến triển mới
cũng chớm nở tại những lục địa khác: các tín hữu tại châu Á chú trọng đến đối
thoại liên tôn; châu Phi quan tâm đến đức tin và văn hóa; châu Âu, Bắc Mỹ và Úc
châu để ý đến Kitô giáo và sự tục hóa; quần đảo Thái bình dương nghĩ đến tác
dụng của các biến đổi xã hội nhanh chóng. Các cộng đoàn cơ bản cũng phát triển,
và việc học hỏi Kinh thánh cũng tăng gia trong Giáo hội Công giáo trên khắp thế
giới.
Thập niên sau công đồng Vaticanô II là một thời chuyển
tiếp mang dấu vết của sự phá vỡ và xây dựng (xem Gv 3,3). Bây giờ chúng ta
chuyển sang chặng “tái sinh” trong quan điểm truyền giáo dựa theo các văn kiện
chính thức của Giáo hội, khởi đầu với Evangelii Nuntiandi năm 1975 và kết thúc
với văn kiện “Ghi chú đạo lý về một vài khía cạnh của việc Loan báo Tin mừng”
năm 2007.
Evangelii Nuntiandi
(1975)
ĐTC Phaolô VI triệu tập Thượng hội đồng năm 1974 để bàn
về việc “Loan báo Tin mừng trong thế giới hiện đại”. Đúc kết những ý kiến của
các nghị phụ (với tỷ lệ các giám mục miền “đạo gốc” cao hơn thời kỳ họp Công
đồng), Đức thánh cha đã soạn và ban hành tông huấn Evangelii Nuntiandi (EN) năm
1975. Có lẽ vì muốn tránh đồng hóa “truyền giáo” với “thuộc địa” cho nên thuật
ngữ “loan báo Tin mừng” (evangelization)
được dùng thay cho “truyền giáo” (mission).
Tuy rằng việc loan báo Tin mừng có thể hiểu theo nghĩa hẹp là công bố sứ điệp
Phúc âm bằng lời nói và chứng tá, nhưng ở đây Đức Phaolô VI muốn hiểu theo một
nghĩa rất rộng, bao gồm hết mọi hình thức của việc truyền đạo; hiểu như vậy,
hai từ ngữ loan báo Tin mừng (evangelization)
và “truyền giáo” (mission)
coi như đồng nghĩa. Chúng tôi muốn nêu bật ba đóng góp quan trọng nhất của tông
huấn vào việc hiểu biết sứ vụ.[12]
1. Hội thánh tiếp tục sứ vụ của Chúa Giêsu
Trong chương mở đầu, EN khẳng định bản tính truyền giáo
của Giáo hội mà Vaticanô II đã tái khám phá. Tuy nhiên, thay vì đặt nền tảng
của khẳng định này trên mầu nhiệm Tam vị (missio Dei), giống như Ad Gentes
[AG], Đức Phaolô VI lấy trọng tâm là vương quốc Thiên Chúa. “Như một người loan
báo Tin mừng, trước hết Đức Kitô loan báo một vương quốc, vương quốc của Thiên
Chúa, và điều này trở nên quan trọng đến nỗi khi so sánh với nó, tất cả những
cái khác đều là ‘phần còn lại, và sẽ được ban thêm’. Vì vậy, duy chỉ Vương quốc
mới tuyệt đối, khiến cho mọi điều khác trở nên tương đối” (EN 8). Vương quốc
Thiên Chúa là trọng tâm của sứ vụ Đức Giêsu, trong lời giảng (các dụ ngôn),
trong các hành động (cách riêng là chữa bệnh và trừ tà) và thái độ (cách riêng
là ngồi đồng bàn). Những ai chấp nhận Tin mừng và tìm kiếm vương quốc “họp
thành một cộng đoàn và đến lượt mình trở thành kẻ loan báo Tin mừng” (số 13).
Như vậy, “loan báo Tin mừng là hồng ân và ơn gọi riêng của Giáo hội, căn tính
sâu sắc nhất của mình” (14).
Đức thánh cha rút ra vài hệ luận về bản tính truyền giáo
của Giáo hội. Trước hết, Giáo hội cần “bắt đầu với việc Tin-mừng-hóa chính mình
… qua việc hoán cải và đổi mới không ngừng, ngõ hầu có khả năng loan báo Tin
mừng cách khả tín” (15). Thứ hai, có một mối liên hệ và liên tục chặt chẽ giữa
sứ vụ Đức Giêsu đối với vương quyền Thiên Chúa và Giáo hội, là thành quả trực
tiếp và hữu hình nhất của công trình của Đức Giêsu. Để trả lời cho những người
tách rời lòng yêu mến Chúa Kitô khỏi Giáo hội, EN trả lời rằng không thể nào
tách rời hai thực thể ấy. Vì thế, việc loan báo Tin mừng là một công việc của
Giáo hội và không thể nào thực thi mà không có Giáo hội, phương chi là chống
lại Giáo hội (16). Thứ ba, bởi vì toàn thể Giáo hội mang bản tính truyền giáo,
cho nên mỗi người trong Giáo hội phải tham gia vào sứ vụ của Giáo hội, “và công
việc của mỗi cá nhân đều quan trọng cho toàn thể” (15). Như vậy, tuy không nói
minh thị, nhưng hiểu rằng bí tích Thánh tẩy (cũng như Giáo hội) tự bản tính là
truyền giáo.
2. Thực chất đa dạng của việc loan báo Tin mừng
Sự đóng góp quan trọng thứ hai của EN là quan niệm mở
rộng của việc truyền giáo, đến nỗi không chỉ gồm việc rao giảng trực tiếp và
vun trồng Giáo hội, mà còn bao hàm nhiều hoạt động khác. Trong khi AG chỉ phớt
qua khái niệm mở rộng này, thì EN đi xa hơn. Để trả lời cho khuynh hướng muốn
thu hẹp việc loan báo Tin mừng vào việc công bố Chúa Kitô cho những ai chưa
biết Người, Đức Phaolô VI tuyên bố rằng “bất kỳ định nghĩa nào muốn thu hẹp
hoặc phân mảnh việc loan báo Tin mừng thì đều có nguy cơ làm nghèo và thậm chí
bóp méo nó. Ta chỉ có thể nắm bắt khái niệm về loan báo Tin mừng khi đào sâu
tất cả những yếu tố cốt yếu của nó” (17).
Tuy rằng việc rao giảng là điều thiết yếu nhưng nó chỉ là
một khía cạnh của việc loan báo Tin mừng (22). Chương hai mô tả các “yếu tố cốt
yếu khác”. Loan báo Tin mừng có nghĩa là đem Tin mừng vào tất cả mọi giai tầng
của nhân loại, với hy vọng đưa tới sự hoán cải lương tâm cá nhân và tập thể của
dân tộc, đời sống và môi trường của họ (18). Đức Phaolô VI mô tả điểm này như
là “Tin-mừng-hóa các nền văn hóa”, không chỉ như quét một vỏ sơn bên ngoài,
nhưng đâm sâu tận cội rễ (20). Ngoài ra, EN nhấn mạnh đến sự cần thiết tuyệt
đối của chứng tá của các cộng đoàn và cá nhân như là “sự công bố Tin mừng cách
thầm lặng” (21).
3. Loan báo Tin mừng và giải phóng
Việc mở rộng khái niệm truyền giáo như thế đưa đến sự
đóng góp thứ ba của EN: loan báo Tin mừng cũng bao gồm dấn thân vào việc thăng
tiến con người và giải phóng (31). Dựa trên kết luận của Thượng hội đồng họp
bốn năm trước (1971) theo đó công lý là một chiều kích cốt yếu của việc rao
giảng Tin mừng, Đức Phaolô VI tuyên bố rằng, “việc loan báo Tin mừng bao hàm
một sứ điệp … về những quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi cá nhân con người, về đời
sống gia đình mà nếu thiếu thì khó lòng nói đến sự phát triển cá nhân, về đời
sống trong xã hội, về đời sống quốc tế, hòa bình, công lý và phát triển – một
sứ điệp rất hùng hồn thời nay về cuộc giải phóng” (29). Đây là lần đầu tiên
từ giải
phóng (liberation) xuất hiện trong một văn kiện Tòa
thánh, cho thấy ảnh hưởng của thần học giải phóng rất mạnh vào thập niên 70.
Tông huấn nhấn mạnh đến sự quân bình giữa loan báo Tin
mừng và giải phóng. Trước hết, không thể nào thu gọn việc truyền giáo vào chiều
kích thuần túy thế tạm (32). Chiều kích tâm linh là nguồn mạch cho sự giải
phóng con người cách sâu đậm. Thứ hai, Giáo hội chống lại việc sử dụng bạo lực,
bởi vì bạo lực phát sinh ra bạo lực, và phát sinh ra những hình thức đàn áp và
ức chế mới còn tệ hơn những hình thức mà người ta muốn thoát khỏi” (số 37).
Qua ba điểm vừa nêu bật, người ta hiểu được vì sao EN
được xem như là “Hiến chương” cho cuộc tái sinh khái niệm truyền giáo. Bây giờ
chúng ta bước sang văn kiện khác ra đời 15 năm sau đó.
Redemptoris Missio
(1990)
Thông điệp Redemptoris Missio (RM) được ký vào ngày
7-12-1990, hôm trước kỷ niệm 25 năm Ad
gentes (AG) và 15 năm Evangelii
nuintiandi (EN). Dưới khía cạnh truyền-giáo-học, đây là văn
kiện quan trọng nhất của triều đại Giáo hoàng Gioan Phaolô II, và trình bày
cách hệ thống nhất suy tư về việc truyền giáo.
Tuy nhìn nhận rằng có nhiều tiến triển về truyền giáo
trong vòng 15 năm qua kể từ EN, ĐTC tỏ ra lo âu vì vài nhà thần học và thừa sai
đã không nêu bật đúng mức ý nghĩa của Đức Kitô và của Giáo hội. Trước hết, việc
nhấn mạnh đến sự thánh thiện của thế giới, của các nền văn hóa và tôn giáo dựa
theo nền tảng Tam Vị của AG có thể đưa đến việc coi nhẹ vai trò của Đức Giêsu
như là vị Cứu tinh duy nhất và vị xét xử các nền văn hóa. Thứ hai, việc đề cao
qua mức về sự vụ toàn diện dựa trên nền tảng vương quốc Thiên Chúa theo EN có
thể làm giảm nhẹ tầm quan trọng của Giáo hội trong sứ vụ. Thứ ba, việc nhấn
mạnh đến chiều kích phổ cập của sứ vụ Giáo hội và các hình thức đa dạng của
việc truyền giáo có thể dẫn đến sự bỏ rơi hình thức truyền giáo cho dân ngoại
và việc loan báo Tin mừng. Đức Gioan Phaolô II trở lại với khái niệm “sứ vụ”
nhìn dưới nhiều khía cạnh, cũng như khái niệm “loan báo Tin mừng” hiểu theo
nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Xét vì việc tóm lược thông điệp, dù cách vắn tắt đi
nữa, cũng sẽ vượt quá khuôn khổ của bài này,[13] cho nên chúng tôi chỉ nêu bật ba khía
cạnh quan trọng để hiểu rõ về truyền giáo theo RM, cũng như là áp dụng trên đây
cho EN.
1. Hướng về Chúa Kitô làm trọng tâm
Để trả lời cho ba mối quan tâm vừa nói trên, thông điệp
trình bày nền tảng của việc truyền giáo dựa trên một nền thần học quy về Đức
Kitô, cách riêng trong chương I. Tuy vẫn khẳng định giáo huấn của Vaticanô II
rằng, con người có thể được cứu độ mặc dù không có đức tin minh thị vào Đức
Kitô (RM 10), nhưng cần phải thêm rằng mọi ân sủng đều được ban qua Đức Kitô và
chỉ qua Người mà thôi. “Vì thế, không ai có thể hiệp thông với Thiên Chúa mà
không qua Đức Kitô, nhờ tác động của Thánh Linh … Tuy có thể nhìn nhận những
hình thức và cấp độ trung gian khác nhau, nhưng các hình thái trung gian ấy chỉ
có ý nghĩa và giá trị nhờ sự trung gian của Đức Kitô mà thôi, chứ không được
phép coi như song hành hoặc bổ sung cho Người” (5). Ngoài ra, Giáo hội đã được
thiết lập như là bí tích phổ quát của ơn cứu độ (9). Nhân loại có quyền được
tiếp nhận sự thật và sự sống do Tin mừng mang đến, tuy phải theo một đường lối
tôn trọng tự do của con người (7-8).
Trong chương II, thông điệp khẳng định vị trí trọng tâm
của vương quốc Thiên Chúa trong lời giảng và cuộc đời của Đức Giêsu. Dù rằng Giáo
hội không phải là cứu cánh cho chính mình (19), nhưng không thể nào tách rời
Vương quốc khỏi Đức Kitô và khỏi Giáo hội (18). Chương III khai triển thần học
về Tam vị của AG và nhấn mạnh đến Thánh Linh như là tác nhân chính của cuộc
loan báo Tin mừng. “Sự hiện diện của Thánh Linh chi phối không những các cá
nhân mà còn xã hội, lịch sử, các dân tộc, các nền văn hóa và tôn giáo” (28).
Ngoài ra, thông điệp nhấn mạnh rằng đó cũng chính là Thánh Linh của Đức Kitô,
và “không được phép tách rời tác động phổ cập của Thánh Linh … ra khỏi Giáo
hội” (29). Ba chương đầu mang tính nền tảng cho thần học truyền giáo, dựa trên
AG và EN, nêu bật vai trò của Chúa Kitô và sự cần thiết phải loan báo Đức Kitô
là chủ tể. Để trả lời cho câu hỏi “Tại sao phải truyền giáo?”, thông điệp trả
lời dựa vào thánh Phaolô rằng, “bởi vì ân huệ đã được ban cho chúng ta, đó là
rao giảng cho muôn dân Tin mừng về sự phong phú khôn lường của Chúa Kitô” (Ep
3,8). (11)
2. Mở rộng khái niệm truyền giáo
Thông điệp khai triển khái niệm truyền giáo theo hướng
“những chân trời” (chương IV) và “những nẻo đường” truyền giáo (chương V). Liên
quan đến các “chân trời” hoặc “hoàn cảnh”. Đứng đầu là “truyền giáo cho dân ngoại” (ad gentes), nghĩa là làm
chứng và công bố Tin mừng ở nơi nào Chúa Kitô chưa được biết đến hoặc ở nơi mà
Giáo hội chưa được trưởng thành đủ để cho đức tin thấm nhập vào môi trường của
mình và loan báo cho những nhóm khác (RM 33). Đây là truyền giáo theo nghĩa
chặt. “Hoàn cảnh” thứ hai được mô tả là công tác mục vụ dành cho các tín hữu, và
“hoàn cảnh” thứ ba là nơi một thời đã theo đạo mà nay không còn nữa. Việc
truyền giáo cho “chân trời” thứ ba mang tên là “loan báo Tin mừng cách mới mẻ”
hoặc “tái loan báo Tin mừng” (33). Tuy truyền giáo theo nghĩa chặt được dành
cho “dân ngoại”, nhưng phạm trù này có thể được hiểu về các môi trường như là
đô thị, giới trẻ, các cộng đồng di dân và người nghèo (37b). Ngoài ra, khi
thuật lại cảnh thánh Phaolô thuyết giảng tại nghị viện Athens, Đức Gioan Phaolô
II nhấn mạnh đến việc đáp ứng cách sáng tạo cho các “nghị viện” thời nay, nghĩa
là các môi trường văn hóa, tựa như thế giới truyền thông xã hội, cũng như các
phong trào tranh đấu cho hòa bình, phát triển và giải phóng dân tộc, các phong
trào tranh đấu cho quyền lợi cá nhân và dân tộc, đặc biệt các dân tộc thiểu số,
sự thăng tiến phụ nữ và thiếu nhi, việc bảo vệ sinh thái (37c). Thông điệp chú
trọng đến tầm quan trọng của việc truyền giáo cho dân ngoại, và đồng thời mở
rộng phạm vi của nó.
Thứ hai, RM mô tả những “nẻo đường” của việc truyền giáo
là một thực tại duy nhất nhưng đa dạng (41). Hình thức thứ nhất của việc loan
báo Tin mừng là chứng tá, chứng tá của các cá nhân, gia đình, cộng đoàn Kitô
hữu (42), và đứng hàng đầu là việc loan báo (44). Điều này có thể đưa đến sự
trở lại, rửa tội và xây dựng cộng đồng địa phương (46-49). Thông điệp còn thêm
những nẻo đường khác nữa, tựa như hội nhập văn hóa, đối thoại liên tôn, phát
triển nhân bản và công tác bác ái (52-60). Khi bàn về các “nẻo đường” và các
“chân trời”, thông điệp đã giải thích và mở rộng khái niệm của Công đồng
Vaticanô II về truyền giáo “thuộc về bản tính của Giáo hội”.
3. Đối thoại liên tôn
Đối thoại liên tôn được coi như sự đóng góp quan trọng
thứ ba của RM, bởi vì đề tài này tương đối còn mới mẻ trong giáo huấn của Giáo
hội. Số 53 của EN đã tái khẳng định tính tích cực của các tôn giáo nhưng không
đi sâu vào vấn đề. Năm 1984, Văn phòng “đặc trách những người ngoài Kitô giáo”
đã coi việc đối thoại liên tôn như một thành phần của công cuộc loan báo Tin
mừng trong văn kiện mang tựa đề là “Đối thoại và Truyền giáo” (Dialogue and Mission), (DM 1984). Tuy
nhiên, RM là thông điệp giáo hoàng đầu tiên đã coi việc đối thoại ấy như là
thành phần của sứ vụ loan báo Tin mừng (55).
Đức Gioan Phaolô II tuyên bố rằng việc đối thoại liên tôn
ăn khớp với những khía cạnh khác của truyền giáo. Giáo hội dấn thân vào cuộc
đối thoại bởi vì nhìn nhận sự hiện diện của Thiên Chúa nơi các tôn giáo, nhưng
điều này không loại trừ niềm tin rằng “ơn
cứu độ được ban qua Chúa Kitô” (55). Việc đối thoại không bỏ qua
việc loan báo Tin mừng: khi gặp gỡ các tín đồ của tôn giáo khác, người Công
giáo thâm tín rằng “Giáo hội là phương thế thông thường của ơn cứu độ và Giáo
hội có những phương thế dồi dào của sự cứu độ” (55). Tuy nhiên, thông điệp
tuyên bố rằng việc đối thoại không dựa trên chiến thuật lợi ích, nhưng dựa trên
sự tôn trọng hoạt động của Thánh Linh nơi người khác (56). Những ai dấn thân
vào cuộc đối thoại cần phải đến với người khác, không phải với thiên kiến hoặc
thiển cận, nhưng với lòng tôn trọng sự thật, khiêm tốn và thẳng thắn, biết rằng
việc đối thoại có thể làm phong phú cho cả đôi bên (56). Thông điệp cũng thêm
rằng việc đối thoại không chỉ dành cho các chuyên viên, nhưng các Kitô hữu có
thể thực hành trong đời sống hàng ngày.
Còn nhiều điều khác có thể viết về quan điểm truyền giáo
theo RM, nhưng ba điều vừa kể có lẽ là quan trọng nhất.
Đối thoại và Loan
truyền (1991)
Hội đồng Tòa thánh đặc trách đối thoại liên tôn vào năm
1984 (dưới danh xưng Văn phòng đặc trách những người ngoài Kitô giáo) đã công
bố văn kiện về đối thoại và truyền giáo, vài tháng sau khi thông điệp RM được
ban hành, đã cùng với Bộ Loan báo Tin mừng phát hành văn kiện mang tựa đề “Đối
thoại và Loan truyền” (Dialogue and Proclamation : DP). Thông điệp đã đề cập
đến mối liên hệ giữa đối thoại liên tôn và loan báo Tin mừng, nhưng văn kiện DP
đào sâu hơn mối tương tác linh động giữa đôi bên. Văn kiện gồm ba phần: phần
Một bàn về đối thoại, phần Hai bàn về loan báo, phần Ba nói đến tương quan giữa
đôi bên. Đối thoại được bàn ở phần Một, không phải vì vị trí ưu tiên, nhưng vì
văn kiện bắt nguồn từ Hội đồng đặc trách đối thoại. Cả hai khía cạnh (đối thoại
và loan truyền) của việc truyền giáo đều nằm trong tác động của Thiên Chúa.
Thiên Chúa luôn ban ơn cứu độ cho nhân loại, nhưng luôn dưới hình thức đối thoại,
nghĩa là mời gọi (x. DP 38).
Trước hết, văn kiện trình bày thần học về các tôn giáo và
bốn hình thức đối thoại: đối thoại bằng đời sống, hành động, trao đổi thần học,
cảm nghiệm tâm linh (DP 42). Về phía các Kitô hữu, việc đối thoại đòi hỏi sự
quân bình, thâm tín, mở rộng đến chân lý, và tin tưởng vào kết quả (47-50). Các
trở ngại của cuộc đối thoại liên tôn có thể là thiếu hiểu biết về đạo của mình
hoặc là đạo của bên kia, những dị biệt về văn hóa, những yếu tố xã hội chính
trị, sự hiểu lầm về cải đạo, phép rửa và đối thoại (52). Dù vậy, bất chấp những
khó khăn, việc Giáo hội dấn thân vào cuộc đối thoại là điều chắc chắn và không
thể thoái lui (54).
Phần thứ hai của DP bàn về sự loan báo, trước tiên nói
đến mệnh lệnh, nội dung, sự cần thiết. Xét về cách thức, văn kiện nhắc nhở
rằng, những người nghe rất có thể đã được Thánh Linh đụng chạm đến và đã được
liên kết cách huyền nhiệm với mầu nhiệm Vượt qua của Đức Kitô (DP 68, x.
Gaudium et Spes 22). Vì thế, Tin mừng cần được loan báo làm thế nào để người nghe
có thể liên kết với kinh nghiệm của mình và mời gọi đáp lại sáng khởi của Thiên
Chúa. Việc loan báo, một đàng cần phải xác tín và trung thành, đàng khác phải
khiêm tốn và đối thoại (70). Những trở ngại của việc đối thoại có thể là sự
cách biệt giữa sứ điệp Kitô giáo và lối sống của người Kitô hữu, thiếu tôn
trọng các tôn giáo khác, hoặc những yếu tố bên ngoài như là thành kiến chống
lại Kitô giáo (x. 73-74).
Trong phần thứ ba, DP tóm lại tương quan giữa hai yếu tố
quan trọng của truyền giáo: đối thoại và loan truyền là hai thành phần của sứ
vụ loan báo Tin mừng, dù không trên một bình diện. Cả hai đều cần thiết, có
tương quan mật thiết với nhau, nhưng không thể hoán đổi. Về phía người Kitô
hữu, việc đối thoại chân chính giả thiết lòng ước ao muốn cho Chúa Giêsu được
nhận biết và yêu mến; việc loan báo Chúa Giêsu cần được thực hiện theo tinh
thần đối thoại của Tin mừng (77).
Kết luận: từ DP đến nay
Đối với nhiều người, văn kiện EN đánh dấu khởi đầu của
cuộc tái sinh một khái niệm mới về truyền giáo trong các văn kiện chính thức
của Giáo hội Công giáo. Công đồng Vaticanô II đánh dấu sự kết thúc của một giai
đoạn truyền giáo và sự khởi đầu của giai đoạn kế tiếp. Sau 10 năm chuyển tiếp,
dựa trên thần học về Tam vị (missio Dei) của AG và những suy tư của Thượng hội
đồng giám mục năm 1974 về việc loan báo Tin mừng, Đức Phaolô VI đã ban hành
Tông huấn EN chú trọng đến thần học vương quốc Thiên Chúa. 15 năm sau, trong
thông điệp RM, Đức Gioan Phaolô II cung cấp một thần học hệ thống tuyệt vời về
truyền giáo bằng cách kết nạp cả AG và EN, và cụ thể hơn, bằng cách trình bày
thần học lấy Đức Kitô làm tâm điểm và mở rộng khái niệm truyền giáo. Một năm
sau, văn kiện Đối thoại
và Loan truyền tiêu biểu cho khảo luận quân bình và hệ thống
về những đề tài thách thức nhất trong thời hậu Công đồng. Các văn kiện sau đó
tiếp tục trả lời cho những vấn đề ấy.
Kể từ văn kiện Đối
thoại và Loan truyền năm 1991, không có văn kiện chính thức
nào của Tòa thánh về truyền giáo ngang tầm cỡ với EN, RM và DP. Trọng tâm của
những vấn đề thần học quan trọng nhất trong vòng 20 năm qua là tương quan giữa
đối thoại liên tôn và địa vị của Đức Giêsu Kitô như là Đấng Cứu thế duy nhất.
Bộ Giáo lý Đức tin đã công bố tuyên ngôn Dominus Iesus vào năm 2000 và một tài
liệu tựa đề “Ghi chú đạo lý về một vài khía cạnh của việc loan báo Tin mừng”
vào năm 2007. Cả hai đều nhấn mạnh đến địa vị trọng tâm của Đức Kitô là Đấng
Cứu Tinh, đến nỗi đạo lý về ân sủng ngoài Kitô giáo bị lu mờ. Tuy nhiên hai văn
kiện này không nhằm trình bày thần học hệ thống về truyền giáo, nhưng chỉ muốn
trả lời vài vấn đề liên quan đến chủ trương chân lý tương đối, tính cách duy
nhất của Đức Kitô và vai trò của Giáo hội. Điều này cho thấy rằng các vấn đề
của Kitô học rất quan trọng không những đối với việc đối thoại liên tôn mà còn
đối với việc hội nhập văn hóa.
———————–
Phụ thêm
Ngày nay, giáo huấn chính thức của Giáo hội Công giáo về
truyền giáo dựa trên ba nền thần học về sứ vụ: việc tham dự vào sứ vụ của Thiên
Chúa Tam vị (missio Dei), việc phục vụ Vương quốc Thiên Chúa mang lại sự giải
phóng, và việc công bố Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Tinh của toàn thể nhân
loại. Một đàng, một thứ thần học có thể nổi bật trong một bối cảnh đặc thù nào
đó; nhưng đàng khác, mỗi thứ thần học trong tính đa dạng của nó và được xây
dựng trên truyền thống Kitô giáo, mang lại một sự đóng góp quan trọng cho toàn
thể. Dưới viễn tượng Công giáo, chúng có thể họp thành một tổng hợp lành mạnh
cho sự hiểu biết về việc truyền giáo, cung cấp nền tảng cho việc đáp lại tiếng
gọi truyền giáo trong thế giới hôm nay.
Bài này được viết trong khung cảnh mừng 100 năm Hội nghị
về Truyền giáo (của các Giáo hội Tin Lành) tại Edinburgh (1910), trình bày quan
điểm của Giáo huấn Công giáo. Dĩ nhiên, danh sách các văn kiện có thể kéo dài
thêm, hoặc với những văn kiện trước Maximum
Illud hoặc sau Redemptoris
Missio.
Đối với các văn kiện được ban hành sau năm 2007, thiết
tưởng cần phải thêm hai tông huấn Verbum
Domini (30-9-2010) của ĐGH Bênêđictô XVI về “Lời Chúa trong
cuộc sống và sứ mạng của Giáo hội”, và Evangelii
gaudium (24-11-2013) của ĐGH Phanxicô, gắn liền với Thượng hội
đồng về “loan báo Tin mừng cách mới mẻ”.
Ngoài ra, chúng ta không nên bỏ qua những văn kiện về
Giáo huấn xã hội, bởi vì đó là một cách đưa Tin mừng vào các thực tại trần thế
hôm nay. Những văn kiện này đã được khởi xướng từ ĐTC Lêô XIII, và tiếp tục với
những văn kiện sau:
- Lêô XIII, Thông
điệp Rerum novarum (1891)
- Piô XI, Thông điệp Quadragesimo anno (1931)
- Gioan XXIII, Thông điệp Mater et Magistra (1961); Pacem in terris (1963)
- Phaolô VI, Thông điệp Populorum progressio (1967); Tông
thư Octogesima
adveniens (1971)
- Gioan Phaolô II, Thông điệp Laborem exercens (1981); Sollicitudo rei socialis (1987); Centesimus annus (1991)
- Bênêđictô XVI, Thông điệp Veritas in caritate (2009)
- Phanxicô, Thông điệp Laudato sì (2015)
[1] Thông điệp mang phụ đề “việc quảng bá đức tin Công giáo trên toàn thế
giới”: AAS 11 (1919) 440-455, với nội dung như sau: I. Những quy tắc cho các
giám mục, đại diện và phủ doãn tông tòa (chăm lo việc đào tạo các thừa sai và
giáo sĩ bản xứ). II. Khuyên nhủ các thừa sai (khuyến khích, sửa sai, đào tạo,
thánh thiện, nhân đức, phụ nữ truyền giáo). III. Sự hợp tác của tất cả các tín
hữu (cầu nguyện, ơn gọi, đóng góp, các Hội Giáo hoàng truyền giáo). Lưu
ý. Dưới khía cạnh pháp lý, Maximum illud là một littera
apostolica (tông thư), nhưng xét vì tầm ảnh hưởng quan trọng của nó,
nhiều tác giả đã xếp ngang với littera encyclica (thông
điệp).
[2] AAS 18 (1926) 65-83. Nội dung. I. Những bổn phận của tất cả mọi tín hữu
và những động lực. II Những bổn phận riêng của các giám mục và linh mục. III
Những quy tắc dành cho các vị đại diện và phủ doãn tông tòa.
[3] AAS 43 (1951) 497-528. Nội dung:
[4] AAS 49 (1957) 225-248. Nội dung:
[5] AAS 51 (1959) 833-864. Nội dung:
[6] Chú thích của người dịch. Plantatio là một từ ngữ lấy
từ nông nghiệp (có nghĩa là “trồng trọt, vun trồng); nhưng cũng có thể áp dụng
trong ngành xây dựng (“xây cất, kiến thiết”).
[7] Josef Glazik, 1971. “Mission Encyclicals of the Popes”, in: Concise
Dictionary of the Christian World
[8] John W. O’Malley, What Happened at
[9] Chú thích của người dịch. Từ missio quen được hiểu là
“truyền giáo”, nhưng Công đồng muốn trở về nguồn gốc của nó là “sự sai
đi, phái cử” (hoặc “sứ vụ”), bắt nguồn từ việc Chúa Cha phái Chúa
Con và Thánh Linh đến với nhân loại.
[10] Chú thích của người dịch. Danh xưng chính thức của Bộ “Truyền giáo” là
‘Truyền bá đức tin” (S.C. de Propaganda Fide). Sau Công đồng
(1968), Bộ được đổi tên là “Loan báo Tin mừng cho các dân tộc” (pro gentium
Evangelizatione).
[11] Robert Schreiter, ‘Changes in Roman Catholic Attitudes toward
Proselytism and
[12] Bố cục. Nhập đề. I. Từ Đức Kitô loan báo Tin mừng
(LBTM) đến Hội thánh LBTM – II. LBTM là gì? – III. Nội dung (sứ điệp) của việc
LBTM. – IV. Phương tiện LBTM. – V. LBTM cho ai? – VI. Những người LBTM. – VII.
Tinh thần của việc LBTM (74-80). Kết luận. Đức Maria, ngôi sao
của việc LBTM.
[13] Bố cục. Nhập đề.