ĐÔNG PHƯƠNG VÀ TÂY PHUƠNG

TRƯỚC MẦU NHIỆM BA NGÔI

 

1. Hài hòa những gì hiệp nhất chúng ta

Cuộc viếng thăm gần đây của Đức Giáo hoàng Phanxicô đến Thổ Nhĩ Kỳ, kết thúc bằng cuộc gặp gỡ với Thượng phụ Chính thống Bartôlômêô, nhưng đặc biệt là lời ngài cổ võ chia sẻ hoàn toàn đức tin chung giữa Đông phương Kitô giáo và Tây phương La tinh, đã gợi cho tôi ý tưởng dành những bài suy niệm Mùa Chay năm nay, để đáp lại nguyện vọng của Đức Giáo Hoàng cũng như của tất cả các Kitô hữu.

Mong muốn một sự hiệp thông sâu xa hơn giữa Công giáo và Chính Thống giáo không phải là điều mới mẻ. Công đồng Vatican II, trong sắc lệnh về Hiệp nhất, đã khuyên xem xét đặc biệt các Giáo Hội Đông phương và sự phong phú của họ (HN 14).

Thánh Gioan Phaolô II, trong tông thư Orientale lumen (1995), đã viết: "Vì chúng tôi tin rằng truyền thống đáng kính và cổ xưa của các Giáo Hội Đông phương là một phần không thể tách rời trong di sản của Giáo Hội Chúa Kitô, điều cần thiết đầu tiên cho người Công giáo là phải biết nó, để có thể được nó nuôi dưỡng, và ủng hộ quá trình hiệp nhất theo các phương tiện của mỗi người"

Ngài cũng đã đưa ra một nguyên tắc mà tôi cho là căn bản để tiến tới trên con đường hiệp nhất: "Để chung tất cả những gì liên kết chúng ta thì chắc chắn quan trọng hơn những gì chia rẽ chúng ta".

Chính thống giáo và Giáo Hội Công giáo chia sẻ cùng một đức tin vào Ba Ngôi, vào sự Nhập thể của Ngôi Lời, vào Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa thật và người thật trong một ngôi vị, đã chết và sống lại vì ơn cứu rỗi chúng ta và đã ban cho chúng ta Chúa Thánh Thần ; chúng ta tin rằng Giáo Hội là thân thể của Ngài được Chúa Thánh Thần linh hoạt, Thánh Thể là "nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống Kitô giáo", Đức Maria là Theotokos, Mẹ Thiên Chúa, số phận chúng ta là để được sống đời đời. Còn điều gì có thể quan trọng hơn thế ? Những khác biệt trong cách hiểu và cắt nghĩa một số những mầu nhiệm này chỉ là thứ yếu chứ không phải là chính yếu.

Trước đây, những tương quan giữa thần học Đông phương và thần học La tinh rõ ràng đậm nét hộ giáo và bút chiến. Người ta nhấn mạnh (gần đây bằng những giọng điệu xem ra hòa hoãn hơn) những gì phân biệt hai bên và những gì mà mỗi người nghĩ là có khác biệt và khá chính đáng so với người khác. Đã đến lúc đảo ngược xu hướng này, bất cứ giá nào cũng không nhấn mạnh những khác biệt nữa (thường dựa trên sức ép hay sự bóp méo tư tưởng của người khác), thay vào đó chia sẻ những gì chúng ta có chung và kết hợp chúng ta trong cùng một đức tin duy nhất. Trách nhiệm chung loan báo đức tin cho một thế giới thay đổi sâu sắc đòi hỏi khẩn cấp công việc này. Ngày nay, các câu hỏi và lợi ích không còn giống như khi bắt đầu có những khác biệt giữa Đông và Tây ; thế giới thậm chí còn không hiểu được ý nghĩa của tất cả những phân biệt tinh tế của chúng ta, coi như cách xa cả hàng nhiều năm ánh sáng.

Cho đến nay, trong nỗ lực cổ võ sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu, một đường lối ứng xử ưu thế có thể được hình thành theo cách sau đây: "tiên vàn giải quyết những khác biệt, sau đó chia sẻ những gì chúng ta có chung", trong khi đường lối ngày càng tỏ rõ trong những môi trường đại kết là: "chia sẻ những gì chúng ta có chung và sau đó giải quyết những khác biệt, với thái độ kiên nhẫn và tôn trọng".

Kết quả đáng ngạc nhiên nhất của sự thay đổi nhãn quan này là, thay vì nhìn những khác biệt về giáo lý như một "sai lầm" hay "lạc giáo", chúng ta bắt đầu ngày càng thấy chúng tương thích với quan điểm của chúng ta, thậm chí thường xuyên sửa chữa và làm phong phú cho mỗi bên. Chúng ta đã thấy một ví dụ cụ thể, ở một khía cạnh khác, với sự nhất trí năm 1999 giữa Giáo Hội Công giáo và Liên minh các Giáo Hội Luthêrô, liên quan đến sự công chính hóa bởi đức tin.

Một nhà hiền triết ngoại giáo ở thế kỷ IV, Quintô Aurêliô Symmacô, nhắc lại một sự thật có tầm quan trọng rất lớn khi áp dụng cho những mối quan hệ giữa các thần học khác nhau của Đông phương và Tây phương: "Uno itinerante non potest perveniri ad tam grande secretum" : "Người ta không thể đạt tới một sự bí ẩn lớn lao như vậy bằng một con đường duy nhất." Trong bài suy niệm, chúng ta cố gắng cho thấy không chỉ ích lợi, mà cả vẻ đẹp và niềm vui đứng trên đỉnh núi, để cùng nhau chiêm ngưỡng toàn cảnh tuyệt vời của đức tin Kitô giáo, cho dù đến từ nhiều hướng khác nhau.

Những mầu nhiệm đức tin lớn, trong đó chúng ta cố gắng xác minh sự đồng thuận căn bản dù hai truyền thống có khác nhau, là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, con người Đức Kitô, mầu nhiệm Chúa Thánh Thần, và giáo thuyết về sự cứu rỗi. Hai lá phổi, một hơi thở : xác tín này sẽ hướng dẫn trong đề xuất của chúng ta. Về vấn đề này, Đức  Phanxicô có nói đến "những khác biệt hòa giải" : không cho qua hoặc tầm thường hóa, nhưng hòa giải. Vì đây là những bài giảng thuần túy của Mùa Chay, hiển nhiên tôi sẽ đề cập những vấn đề quá phức tạp mà không chút tham vọng khai thác hết chủ đề, theo cách tổng hợp chứ không phân tích.

Tôi tiếp cận công việc này cách khiêm tốn, gần như rón rén vậy, biết rằng vứt bỏ phạm trù riêng của mình để đảm nhận những phạm trù của người khác quả là chuyện khó. Điều khuyến khích tôi là các Giáo Phụ Hy lạp, kể cả các Giáo Phụ La tinh, trong bao nhiêu năm trời đã là lương thực hàng ngày của tôi trong việc nghiên cứu và giảng dạy, cũng như sự kiện có rất nhiều tác giả chính thống giáo sau này (Simêon Nhà Thần học Mới, Cabasilas, Hai hợp tuyển tu đức Hy lạp, Sêraphim Sarov) như là một nguồn cảm hứng trong sứ vụ rao giảng của tôi, không kể các ảnh thánh là những hình ảnh duy nhất lúc nào cũng ở trước mặt khi tôi cầu nguyện.

2. Sự duy nhất và ba ngôi của Thiên Chúa

Hãy bắt đầu leo ngọn cao nhất, núi Everest, của đức tin, bằng cách đối mặt với mầu nhiệm Ba Ngôi. Trong suốt ba thế kỷ đầu tiên, Giáo Hội càng tỏ rõ đức tin của mình vào Ba Ngôi, thì các Kitô hữu càng thấy mình bị cáo buộc bằng chính những điều họ đã cáo buộc chống lại dân ngoại : tin vào nhiều thần, chính họ cũng là những tín đồ đa thần. Đó là lý do tại sao, trong thế kỷ IV, người ta đã thêm một sự bổ sung nhỏ nhưng có ý nghĩa vào Kinh Tin Kính : thay vì bắt đầu bằng "Tôi tin kính Thiên Chúa" (Credo in Deum), thì bằng "Tôi tin kính một Thiên Chúa "(Credo in unum Deum).

Không cần phải lặp lại ở đây lịch sử cuộc tranh cãi dẫn đến việc đó ; chúng ta có thể bắt đầu từ kết luận của nó. Vào cuối thế kỷ IV, việc biến đổi từ thuyết độc thần của Cựu Ước sang thuyết độc thần ba ngôi của các Kitô hữu là một sự kiện đã qua. Để minh giải hai khía cạnh của mầu nhiệm, người La Tinh sử dụng công thức "một bản thể và ba ngôi vị" ; người Hy Lạp sử dụng công thức "ba hypostases, một bản tính duy nhất (ousia)". Sau những cuộc thảo luận nghiêm nhặt, tiến trình có vẻ kết thúc qua sự đồng thuận hoàn toàn giữa hai thần học. Thánh Grêgoriô Nadian kêu lên: "Làm sao quan niệm một sự đồng thuận hoàn toàn hơn sự đồng thuận này ? và làm sao có thể nói rõ hơn cùng một điều ấy, cho dù bằng những từ khác nhau ?"

Trên thực tế, vẫn còn khác biệt giữa hai cách diễn tả mầu nhiệm. Ngày nay người ta có thói quen diễn tả sự khác biệt như sau : những người Hy Lạp và La Tinh khởi đi từ hai phía đối nghịch nhau để định nghĩa Ba Ngôi. Người Hy Lạp đi từ các ngôi vị Thiên Chúa, nghĩa là từ đa số, để đi tới sự duy nhất của bản tính Thiên Chúa ; ngược lại, người La Tinh đi từ sự duy nhất của bản tính, để đi tới ba ngôi vị. Một tác giả người Pháp nghiên cứu lịch sử của tín điều đã viết: “Người La Tinh coi tư cách ngôi vị như một cách hiện hữu của bản tính, người Hy Lạp coi bản tính như nội dung của ngôi vị."

Tôi cho rằng sự khác biệt có thể được giải thích theo cách khác. Cả hai, người La Tinh cũng như người Hy Lạp, khởi đi từ sự duy nhất của Thiên Chúa ; cả kinh tin kính Hy lạp lẫn kinh tin kính La tinh đều bắt đầu bằng "Tôi tin kính một Thiên Chúa." Trừ khi nơi người Latinh, sự duy nhất vẫn còn vô ngôi hoặc tiền-ngôi vị ; chính yếu tính của Thiên Chúa được thực hiện nơi Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, mà dĩ nhiên không được nghĩ như tiền hữu đối với ngôi vị. Trong thần học La tinh, khảo luận De Deo uno về tính đơn nhất của Thiên Chúa luôn đi trước khảo luận De Deo trino, về Ba Ngôi.

Ngược lại, nơi người Hy Lạp, sự duy nhất đã được ngôi vị hóa, vì theo họ, "sự duy nhất chính là Chúa Cha, các ngôi khác được kể từ Người và hướng tới Người". Tín khoản đầu tiên của kinh tin kính Hy lạp cũng đọc: "Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng" (Credo in unum Deum Patrem omnipotentem), ngoại trừ ở đây "Cha toàn năng" không tách khỏi "một Thiên Chúa", như trong kinh tin kính La tinh, nhưng cả hai làm nên một toàn thể. Dấu phẩy không được đặt sau "Thiên Chúa", nhưng sau tính từ "toàn năng". Ý nghĩa là: "Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng". Đối với họ, sự duy nhất của ba ngôi đến từ sự kiện Chúa Con hoàn toàn (theo bản thể) hợp nhất với Chúa Cha, giống như Chúa Thánh Thần cũng hoàn toàn hợp nhất với Chúa Con.

Cả hai cách tiếp cận mầu nhiệm đều hợp pháp, nhưng ngày nay người ta ngày càng có xu hướng thích mô hình Hy lạp hơn. Sự duy nhất nơi Thiên Chúa và Ba Ngôi không thể tách rời, làm thành cùng một mầu nhiệm duy nhất và phát xuất từ cùng một hành vi duy nhất. Đơn giản hơn, chúng ta có thể nói rằng : Chúa Cha là nguồn mạch, nguồn gốc tuyệt đối của chuyển động tình yêu. Chúa Con không thể tồn tại như Con nếu tiên vàn không nhận lãnh từ Chúa Cha tất cả những gì Ngài là. Gioan Đamascênô viết: "Chính vì Chúa Cha - vì Chúa Cha hiện hữu – mà Chúa Con và Chúa Thánh Thần hiện hữu". Chúa Cha là Đấng duy nhất trong lòng Ba Ngôi, tuyệt đối duy nhất, không cần được yêu để có thể yêu. Chỉ trong Chúa Cha mà phương trình hoàn hảo được thực hiện : hiện hữu chính là yêu ; còn những ngôi khác, hiện hữu chính là được yêu.

Chúa Cha là một tương quan tình yêu vĩnh cửu và Người không tồn tại bên ngoài mối tương quan này. Vì thế, người ta không thể quan niệm trước tiên Chúa Cha như là hữu thể tối cao, và sau đó nhận ra nơi Người một tương quan tình yêu vĩnh cửu. Phải nói về Chúa Cha bằng hạn từ hành vi tình yêu vĩnh cửu. Vậy Thiên Chúa duy nhất của người Kitô hữu là Chúa Cha, tuy nhiên, không được quan niệm như có một mình (làm sao gọi Người là cha nếu không phải vì Người có một người con ?), nhưng như luôn đang sinh ra Con và để ban mình cho Con bằng một tình yêu vô biên, một tình yêu hiệp nhất cả hai ngôi và là Chúa Thánh Thần. Sự duy nhất và Ba Ngôi của Thiên Chúa từ đời đời vọt lên từ một hành vi duy nhất, làm nên cùng một mầu nhiệm duy nhất.

Như tôi đã nói, ngày nay nhiều người, cả ở Tây phương nữa, có khuynh hướng thích mô hình Hy lạp hơn (và tôi là một trong số đó) ; nhưng phải nói ngay rằng điều này không có nghĩa là phủ nhận sự đóng góp của thần học La tinh. Nếu thần học Hy lạp đã cung cấp lược đồ đúng đắn, nếu có thể nói được như thế, để nói về Ba Ngôi, thì tư tưởng La tinh, với Augustinô, bảo đảm nội dung nền tảng và linh hồn, tức tình yêu, cho lược đồ đó.

Thánh Augustinô nói về Ba Ngôi dựa trên định nghĩa "Thiên Chúa là tình yêu" (1Ga 4,16). Ngài thấy Chúa Thánh Thần là tình yêu hỗ tương giữa Chúa Cha và Chúa Con, theo bộ ba "Đấng yêu, Đấng được yêu và Tình yêu” mà các môn đệ của ngài ở thời Trung Cổ sẽ làm rõ và biến nó hầu như thành quy tắc. Về bộ ba đó, nhà thần học Herbert Mühlen gần đây đã xây dựng quan niệm của mình về Chúa Thánh Thần như là "Chúng ta" thần linh, là koinonia (sự hiệp thông) được ngôi vị hóa giữa Chúa Cha và Chúa Con trong Ba Ngôi và, theo một cách khác, giữa tất cả những người được rửa tội trong lòng Giáo Hội.

Ở thế kỷ XIV, thánh Grêgoriô Palamas là người đầu tiên trong số những người Đông phương để ý đến sự đóng góp của thần học Latinh, khi cuối cùng chính ngài đã biết đến khảo luận về Ba Ngôi của Thánh Augustinô. Ngài viết: “Thần Khí của Ngôi Lời rất cao xa giống như tình yêu khôn tả của Chúa Cha dành cho Ngôi Lời được sinh ra cách khôn tả. Tình yêu mà Ngôi Lời đồng thời cũng là Chúa Con yêu dấu có với Chúa Cha, với tư cách là Đấng có Thần Khí cùng với Người phát xuất từ Chúa Cha và dựa trên Người, đồng bản tính với Người.”

Ngày nay bước mở đầu của Palamas đã được một nhà thần học chính thống giáo nổi tiếng lấy lại, trong một bối cảnh khác. Ông viết: "Kiểu nói ‘Thiên Chúa là tình yêu’ có nghĩa là Thiên Chúa ‘hiện hữu’ với tư cách Ba Ngôi, như ‘ngôi vị’ chứ không như ‘bản thể’. Tình yêu không phải là hệ quả hay một thuộc tính của bản thể thần linh ... nhưng là cái tạo thành bản thể của Người” (J.D. Zizioulas). Theo tôi, lời giải thích này không phải là không phù hợp với định nghĩa mà thánh Tôma Aquinô, theo bước Augustinô, đã gán cho những ngôi vị Thiên Chúa như là những “tương quan tồn hữu”.

Vả lại, sự khác biệt và bổ túc của hai nền thần học không giới hạn ở cách duy nhất quan niệm hữu thể và những tương quan trong lòng Ba Ngôi. Trừ vài trường hợp (thánh Augustinô nơi những người La Tinh), hiển nhiên người Hy Lạp quan tâm hơn đến Ba Ngôi nội tại, bên ngoài thời gian, trong khi người La Tinh chú ý hơn tới Ba Ngôi nhiệm cục, nghĩa là Ba Ngôi đã được tỏ hiện trong lịch sử cứu độ. Một số, do thiên tài của họ, quan tâm nhiều hơn đến hữu thể và hữu thể học, số khác lại quan tâm hơn đến sự tỏ hiện của Ba Ngôi trong lịch sử. Nhìn từ góc độ này, chúng ta hiểu được người La Tinh có thói quen bắt đầu bài diễn từ của họ về Thiên Chúa bằng khảo luận "Về Thiên Chúa duy nhất". Người ta cũng hiểu những lý do thúc đẩy họ bảo tồn truyền thống này và biến nó thành nguồn phong phú cho mọi người. Quả thực, trong lịch sử cứu độ - như chúng ta sẽ thấy ngay - mạc khải về Thiên Chúa duy nhất đi trước mạc khải về Thiên Chúa Ba Ngôi.

Hai cách trình bầy Ba Ngôi trong ảnh tượng Hy lạp và nghệ thuật Tây phương cho thấy rõ sự khác biệt này trong cách tiếp cận. Bức ảnh thánh (icône) kinh điển của Chính thống giáo, mà Anrê Rublev là đầu tầu, trình bầy Ba Ngôi dưới hình thức ba thiên thần bình đẳng và phân biệt ngồi quanh một cái bàn. Toàn cảnh toát ra cảm giác về một sự tĩnh lặng và hợp nhất siêu nhân. Lịch sử cứu độ không bị bỏ qua, như được nhắc tới trong câu chuyện Abraham tiếp đón ba người khách, và bàn tiệc Thánh Thể mà ba vị ngồi chung quanh, nhưng bàn đó ở hậu cảnh.

Trong nghệ thuật Tây phương, kể từ thời Trung cổ, Ba Ngôi được trình bày hoàn toàn khác nhau. Người ta thấy Chúa Cha giang tay giữ hai đầu của thập giá, và giữa các khuôn mặt của Chúa Cha và Đấng bị đóng đinh là một chim bồ câu bay biểu thị Chúa Thánh Thần. Những ví dụ nổi tiếng nhất là bức tranh Ba Ngôi của Masaccio ở Santa Maria Novella (Firenze, Ý) và bức tranh của Dürer trong Bảo tàng Vienna, Áo. Nhưng người ta cũng thấy nhiều ảnh tượng khác, có tính chất bình dân hay nghệ thuật. Chính là Ba Ngôi như đã được mạc khải cho ta trong lịch sử cứu độ, trong đó thập giá của Đức Kitô là điểm cao nhất.

3. Hai con đường mở ra

Bây giờ, chúng ta tiến thêm một bước và cố gắng hiểu tại sao đức tin Kitô giáo cần hai con đường tiếp cận mầu nhiệm Ba Ngôi mở ra và đứng vững. Nói sơ lược : Giáo Hội cần đón nhận đầy đủ cách tiếp cận Ba Ngôi của Chính thống giáo trong đời sống nội tâm của mình (ad intra), nghĩa là trong việc cầu nguyện, chiêm niệm, phụng vụ, thần bí ; Giáo Hội cần để ý đến cách tiếp cận của La tinh trong sứ mệnh loan báo Tin Mừng ở bên ngoài (ad extra).

Không cần phải chứng minh điểm đầu tiên. Về mặt này, chỉ cần vui mừng đón nhận với lòng biết ơn di sản linh đạo rất phong phú của truyền thống Hy lạp và byzantin và một số nhà thần học chính thống giáo, trong nhiều thập niên sau chiến tranh, đã làm cho công chúng Tây phương có thể tiếp cận được. Một bản văn của thánh Basiliô cho thấy rõ định hướng cơ bản làn nên đặc điểm của nhãn quan chính thống giáo:

"Con đường hiểu biết Thiên Chúa đi từ Thần Khí duy nhất, qua Chúa Con duy nhất, đến Chúa Cha duy nhất ; và theo chiều ngược lại, sự tốt lành thuộc bản tính, sự thánh thiện thuộc bản tính và phẩm giá vương giả từ Chúa Cha, qua Chúa Con duy nhất, đến Thần Khí."

Nói cách khác, trên bình diện hữu thể hoặc sự ra đi của các thụ tạo từ Thiên Chúa, mọi sự bắt đầu từ Chúa Cha, qua Chúa Con và đến với ta trong Thần Khí ; trong trật tự kiến thức hoặc sự trở về của các thụ tạo với Thiên Chúa, mọi sự bắt đầu bằng Chúa Thánh Thần, qua Chúa Con là Đức Giêsu Kitô và trở về với Chúa Cha. Viễn tượng luôn là viễn tượng Ba Ngôi.

Tôi cố gắng cắt nghĩa tại sao ngày nay, hơn bao giờ hết, ở Đông phương cũng như Tây phương, cần biết và thực hành cách người La Tinh tiếp cận mầu nhiệm Thiên Chúa duy nhất và ba ngôi. Trong một bản văn nổi tiếng, thánh Grêgoriô Nadian tóm tắt quá trình dẫn đến việc tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi như thế nào:

"Cựu Ước công khai tuyên bố sự hiện hữu của Chúa Cha và bắt đầu tuyên bố Chúa Con, theo cách che giấu ; Tân Ước công khai tuyên bố sự hiện hữu của Con và hé mở cho thấy thần tính của Chúa Thánh Thần. Hiện nay, Thần Khí hiện diện giữa chúng ta và rõ ràng cho chúng ta thấy Người tỏ hiện. Khi thần tính của Chúa Cha chưa được tuyên tín, thì công khai công bố thần tính của Chúa Cha hẳn là không phải phép, cũng như hẳn là không bảo đảm lắm tự đặt cho mình gánh nặng thần tính của Thần Khí, trong khi thần tính của Chúa Con vẫn chưa được chấp nhận".

Chúng ta thấy đường lối sư phạm này của Thiên Chúa cũng được Đức Giêsu áp dụng, khi Ngài nói mình không thể mạc khải cho các tông đồ tất cả những gì Ngài biết về mình và về  Cha của Ngài, bởi vì họ “không có sức chịu nổi" (Ga 16,12).

Đúng là bây giờ chúng ta đang sống trong thời kỳ Thiên Chúa Ba Ngôi đã mạc khải mình cách đầy đủ và đúng là chúng ta phải sống liên tục dưới "ánh sáng của ba mặt trời" này, theo cách gọi của một số Giáo Phụ đó, mà không mất hút trong việc chiêm ngưỡng một Thiên Chúa là "hữu thể tối cao", gần với Thiên Chúa của các triết gia hơn là Thiên Chúa do Đức Giêsu mạc khải. Nhưng phải nói gì về thế giới không tin, tục hóa và phải tái phúc âm hóa, đang vây quanh chúng ta ? Phải chăng nó không có những điều kiện tương tự như trước khi Đức Kitô đến sao ? Đối với nó, phải chăng chúng ta không được sử dụng phương pháp sư phạm giống như phương pháp Thiên Chúa đã dùng khi Người mặc khải mình cho nhân loại sao ?

Vậy chúng ta cũng phải giúp những người đồng thời của chúng ta tiên vàn khám phá ra Thiên Chúa hiện hữu, đã vì yêu thương mà tác tạo nên ta, là một người cha rất dịu dàng và đã tỏ mình ra cho chúng ta trong Đức Giêsu Nadarét. Chúng ta có thể thành thật bắt đầu cuộc phúc âm hóa của chúng ta bằng cách nói về ba ngôi Thiên Chúa chăng ? Dùng lại hình ảnh của thánh Grêgoriô, đó có phải là đặt trên lưng người ta gánh nặng mà họ không thể mang chăng ?

Có một điều quan trọng cần ghi nhận. Theo Grêgoriô Nadian, Chúa Cha tự mạc khải mình tiên vàn trong Cựu Ước, chưa phải là "Cha của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô", nghĩa là Cha thật của một người con thật ; Người không phải là Thiên Chúa Cha của Ba Ngôi ; mạc khải này chỉ diễn ra với Đức Giêsu. Người vẫn còn là cha theo một nghĩa ẩn dụ, theo nghĩa Người là "cha của Israel dân Người" và đối với những người ngoại giáo, Người là "cha của vũ trụ", "cha trên trời". Cũng theo thánh Grêgoriô, mạc khải về Thiên Chúa bắt đầu bằng "Thiên Chúa duy nhất".

Có một ý nghĩa trong đó danh xưng "Thiên Chúa" có thể và phải được sử dụng để chỉ ra ba ngôi có yếu tố chung ; qua yếu tố chung này, hoặc chúng ta hiểu là bản tính Thiên Chúa, như các Giáo Phụ xưa đã nói tiếp theo Kinh Thánh (theia physis trong 2Pr 1,4), hoặc, cùng với Gioan Zizioulas, chúng ta hiểu là koinonia (sự hiệp thông) nơi Thiên Chúa.

Giáo Hội phải tìm ra cách thức loan báo mầu nhiệm Thiên Chúa duy nhất và ba ngôi bằng những phạm trù thích hợp mà người thời đại ta có thể hiểu. Các Giáo Phụ và các Công đồng xưa đã làm như vậy, và chính ở điểm này mà chúng ta phải bắt chước các ngài. Thật khó để nghĩ là có thể trình bày cho con người hôm nay mầu nhiệm Ba Ngôi với những phạm trù bản thể, hypostase, thuộc tính và các tương quan tồn hữu, cho dù Giáo Hội sẽ không bao giờ có thể từ bỏ việc sử dụng chúng trong thần học và trong những môi trường đào sâu đức tin.

Theo ngôn ngữ của các Giáo Phụ, nếu có điều gì mà kinh nghiệm về việc loan báo cho thấy còn có thể giúp cho con người ngày nay, nếu không phải để cắt nghĩa, ít nhất để có một ý tưởng về Ba Ngôi, thì chính là điều của Augustinô tập trung vào tình yêu. Tình yêu là "hiệp thông" và "tương quan" ; không có tình yêu nếu không có ít nhất hai hoặc ba người. Mọi tình yêu là sự chuyển động của một hữu thể hướng tới một hữu thể khác, kèm theo ước muốn kết hợp. Giữa các thụ tạo con người, sự kết hợp này luôn luôn không đầy đủ và nhất thời, ngay cả trong những tình yêu mãnh liệt nhất ; chỉ có sự kết hợp giữa các ngôi vị Thiên Chúa đạt tới một toàn bộ đến nỗi từ đời đời, nó đã làm cho Ba Ngôi thành một Thiên Chúa duy nhất. Ngôn ngữ này, con người ngày hôm nay có thể hiểu nó.

4. Hợp nhất trong sự thờ phượng Ba Ngôi

Thánh Augustinô gợi ý cho chúng ta cách tốt nhất để kết luận việc tái thiết hai con đường tiếp cận dẫn đến mầu nhiệm Ba Ngôi chí thánh. Theo ngài, khi người ta muốn vượt qua một eo biển, điều quan trọng nhất không phải là căng mắt nhìn xem có gì ở bờ bên kia, nhưng là lên thuyền đi tới đó. Như vậy, điều quan trọng nhất đối với chúng ta không phải là suy ngắm về Ba Ngôi, nhưng ở lại trong đức tin của Giáo Hội là chiếc thuyền chở ta tới Ba Ngôi. Chúng ta không thể ôm lấy đại dương trong vòng tay chúng ta, nhưng có thể đi vào trong nó ; bất chấp mọi nỗ lực của chúng ta, chúng ta không thể "hiểu" được mầu nhiệm Ba Ngôi, nhưng có thể làm điều gì đó còn đẹp hơn : đi vào trong Ba Ngôi !

Có một điểm mà tất cả chúng ta đều đồng ý, nơi không còn sự khác biệt giữa Đông và Tây, đó là nhiệm vụ và nhu cầu phải thờ phượng Ba Ngôi. Chỉ sự thờ phượng mới cho phép thực hành một thứ vô ngôn (apophatisme) với tất cả sự thật, một quy tắc khiêm tốn hạn chế trong cách nói về Thiên Chúa ở chỗ khẳng định bằng cách phủ định. Theo kiểu nói nghịch dụ tuyệt vời của thánh Grêgoriô Nadian, thờ phượng Ba Ngôi là dâng lên Ba Ngôi "một thánh ca im lặng." Thờ phượng là thừa nhận rằng Thiên Chúa là Thiên Chúa và chúng ta là thụ tạo của Thiên Chúa, là "thừa nhận sự khác biệt vô hạn về phẩm chất giữa Đấng Tạo Hóa và loài thụ tạo" ; thừa nhận điều đó một cách tự do, vui mừng, như trẻ em chứ không như nô lệ. Thờ phượng, như thánh Tông Đồ nói, là "chống lại mọi thứ bất chính của những người ngăn cản sự thật” (x. Rm 1,18).

Chúng ta kết luận bằng cách cùng nhau đọc vinh tụng ca Ba Ngôi, một vinh tụng ca, từ những thời kỳ xa xưa nhất, dâng lên Thiên Chúa giống nhau cả bên Đông phương lẫn bên Tây phương: "Sáng danh Đức Chúa Cha, và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần, như đã có trước vô cùng, và bây giờ và hằng có, và đời đời chẳng cùng. Amen.

(lấy ý trong Raniero Cantalamessa, Bài giảng thứ hai Mùa Chay năm 2015, tai Phủ Giáo hoàng)

Lm Micae Trần Đình Quảng


Mục Lục Tĩnh Tâm Giáo Triều