XIX

“NGƯỜI ĐÃ PHÁ ĐỔ

BỨC TƯỜNG NGĂN CÁCH”

 

 

Trong tông thư Ngàn năm thứ ba đang đến, một văn kiện giống như một vì sao hướng dẫn Giáo Hội công giáo hướng về Năm Thánh 2000, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viết:

“Thật chính đáng khi thiên niên kỷ thứ hai của Kitô giáo sắp kết thúc, Giáo Hội nhận trách nhiệm về tội lỗi của các con cái mình với một ý thức sâu sắc… Giáo Hội không thể bước qua ngưỡng cửa ngàn năm mới mà không thúc giục con cái mình lấy lòng thống hối thanh tẩy hết những lỗi lầm, những bất trung, những chệch choạc, những chậm chạp.” (số 33).

Trong số những tội này, nổi bật nhất là tội phạm đến dân Do Thái. Kết thúc cuộc Hội thảo về người Kitô hữu và chủ thuyết bài do thái, tổ chức tại Vatican từ 30 tháng 10 đến 1 tháng 11 năm 1997, Đức Giáo Hoàng quả quyết:

“Trong thế giới Kitô giáo, những cách giải thích sai lầm và bất công của Tân Ước liên quan đến dân Do Thái và tội lỗi của họ đã lưu hành quá lâu, làm nảy sinh những tình cảm thù hận đối với dân này. Chúng đã góp phần nhấn chìm nhiều lương tâm đến nỗi khi làn sóng khủng bố lấy cảm hứng từ chủ nghĩa bài do thái ngoại giáo tràn vào châu Âu […], sự kháng cự tinh thần của nhiều người đã không phải là sự kháng cự mà nhân loại có quyền mong đợi từ các môn đệ của Chúa Kitô.”

Đã từ lâu, những nền tảng thần học cho phép người ta can đảm nhận trách nhiệm này được làm sáng tỏ, mà không làm suy yếu tí nào niềm tin của chúng ta vào Giáo Hội, một Giáo Hội tự nó là “thánh thiện và vô tì tích[1]”.

Nhưng trong những lời cầu xin tha thứ từ phía Giáo Hội, còn có một ý nghĩa thần học mà người ta phải nhận ra. Khi Giáo Hội nhận trách nhiệm về những lầm lỗi mà các phần tử của mình phạm phải, Giáo Hội làm một hành vi có lẽ là đẹp nhất có thể làm trên trái đất: Giáo Hội minh oan cho Thiên Chúa, Giáo Hội công bố Thiên Chúa vô tội, “anaitios o Theos! Thiên Chúa không có tội nào”.; chính chúng ta mới là kẻ có tội. Giáo Hội mượn lời tiên tri xưa mà nói: “Đức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi, quả là Đấng công chính; còn chúng tôi, chúng tôi phải bẽ mặt thì cũng đáng” (Br 1,15)

***

Trải qua các thế kỷ, ngày Thứ Sáu Thánh đã là mảnh đất ưu đãi vun đắp thái độ thiếu hiểu biết và thù nghịch đối với người Do Thái. Thế nên thật chính đáng khi công trình hòa giải và “thanh tẩy ký ức” khởi đi từ ngày Thứ Sáu Thánh.

Thánh Phaolô giải thích cho chúng ta biến cố thập giá:

Chính Người là sự bình an của chúng ta. Người đã liên kết đôi bên, dân Do Thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét […] Như vậy khi thiết lập hòa bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người. Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hòa giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất. Trên thập giá, người đã tiêu diệt sự thù ghét […]. Nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha.” (Ep 2,14-18)

Chắc chắn hai dân này là dân Do Thái và dân ngoại.

Nhãn quan tiên tri này của vị Tông Đồ đã lu mờ rất nhiều trong các sự kiện. Chính trong một bài giảng ngày Thứ Sáu Thánh ở Tiểu Á vào thế kỷ thứ II (chúng ta đã đọc một đoạn trong Phụng vụ Giờ Kinh hôm qua) mà lần đầu tiên Melito Sarđê tố cáo người Do Thái về tội giết Thiên Chúa, không cần úp mở. “Người đã làm gì, hỡi Israel? Người đã giết Chúa của ngươi trong ngày đại lễ. Ngươi hãy lắng nghe tiếng con cháu các dân tộc và hãy nhìn xem. Vua đã bị lăng nhục. Thiên Chúa bị giết chết…bởi tay người Do Thái[2]”.

Chính trong bối cảnh cuộc bút chiến chống Do thái mà loại Thán ca (Impropères hay Reproches), đã có nơi Melito, xuất hiện, sau này cũng xuất hiện trong phụng vụ la tinh tôn thờ thánh giá, Người ta lần lượt kể lại những việc lành Thiên Chúa đã làm cho Israel, và đáp lại là thái độ vô ơn bội bạc của dân. “Chính Người đã đưa ngươi ra khỏi Ai Cập.. Còn ngươi thì trái lại…”

Đúng là trong bản văn này và những bản văn khác tương tự, phải gán phần lớn cho khoa tu từ, cách riêng cho loại văn đả kích rất thịnh hành thời ấy. Nhưng hạt giống đã gieo và sẽ để lại dấu ấn trong phụng vụ (người ta nghĩ tới tính từ nổi tiếng được sử dụng trong lời cầu nguyện cho người Do Thái và đã bị bỏ đi), trong nghệ thuật và thậm chí trong văn hóa dân gian, góp phần vào việc phổ biến kiểu nói khuôn đúc “người Do Thái”.

Linh ảnh byzantin về cảnh đóng đinh hầu như luôn cho thấy hai khuôn mặt phụ nữ dưới chân thập giá. Trong một số trường hợp, cà hai đều quay mặt về thập giá, nhưng rất thường là người thì nhìn thập giá còn người kia thi quay lưng lại, hoặc thậm chí bị thiên thần bắt phải rời xa thập giá. Đó là Giáo Hội và Hội đường. Người ta đã lãng quên lời thánh Phaolô quả quyết rằng Đức Kitô chịu chết trên thập giá để liên kết hai thực tại này chứ không phải để chia rẽ.

Tất cả điều ấy, như Đức Thánh Cha lưu ý, đã khiến cho các Kitô hữu bớt cảnh giác khi mà, trong thế kỷ chúng ta, cơn giận dữ của Đức Quốc Xã đã nổ ra chống lại người Do Thái. Tóm lại, điều ấy đã gián tiếp ủng hộ cho Shoah (Holocauste: người Do Thái bị giết như lễ vật Hy Sinh). Nhưng rất lâu trước khi có sự kết thúc gây tử vong này, cuộc tranh cãi đã được dùng để biện minh cho nhiều sự phiền nhiễu và đã gây ra cho dân Do Thái nhiều đau khổ từ phía dân Kitô giáo và từ chính các tổ chức của Giáo Hội.

Nhưng tôi phải nói đến điều dường như cần phải làm sáng tỏ nhất. Trong cuộc tranh luận mới đây tiếp theo sau Văn kiện “Chúng tôi nhớ” của Hội Đồng giáo hoàng về việc hợp nhất các Kitô hữu được phổ biến, một học giả được nhiều người biết đến đã đưa ra một cách triệt để cho toàn bộ vấn đề. Ông viết nơi trang nhất của một tờ nhật báo lớn:

“Nguồn gốc của mọi chủ trương bài do thái là ở trong Tân Ước, đặc biệt trong các thư thánh Phaolô và sách Khải huyền. Một người con của Israel không thể quên rằng thời các Tổ Phụ, trong đó anh ta đã quen nhìn thấy sự phục hồi của Lề Luật và đỉnh cao của mối tương quan phó thác với Thiên Chúa, được Phaolô đánh giá là một thời kỳ bị tội lỗi và sự chết chi phối. Anh ta không thể chịu được rằng Giêrusalem, nơi thiêng thánh tuyệt vời, được tác giả sách Khải huyền coi là nơi tập trung của sự dữ thể lý và siêu hình, nơi Con Rồng và Con Thú trị vì.”

Tác giả viết tiếp: phương dược duy nhất là “kiểm duyệt thánh Phaolô, kiểm duyệt sách Khải huyền và những đoạn Phúc Âm trong đó tình cảm bài do thái được diễn tả cách mãnh liệt nhất”. Nhưng vì không thể yêu cầu người Kitô hữu làm điều đó (thậm chí là một sự mất đức tin nếu họ làm điều đó), chỉ còn việc là mỗi người học hỏi gốc rễ tôn giáo riêng của mình, trong một tinh thần khoan dung, hướng tới những giá trị phổ quát vượt lên trên mọi tôn giáo và chung cho mọi tôn giáo[3].

Như ta thấy, đây là một tư duy hoàn toàn có thể có. Nhưng tôi thấy ở đó một sự mập mờ căn bản. Phaolô không chỉ coi thời của các Tổ Phụ như “một thời bị tội lỗi và sự chết thống trị”, nhưng cả thời của toàn thể nhân loại trước Đức Kitô. Ngài quả quyết trong thư Rôma: “Do Thái cũng như Hy Lạp đều bị tội lỗi thống trị” (Rm 3,9). Bên trong tình huống chung này của tội lỗi và sự chết, ngài thậm chí công nhận ưu thế rõ ràng của dân Do thái: “Vậy thì người Do thái được gì hơn? Phép cắt bì có ích lợi gì? Nhiều lắm chứ! Về mọi mặt! Trước hết họ đã được Thiên Chúa giao phó lời Người cho họ.” (Rm 3,1-2)

Làm sao ngươi ta có thể tố cáo Phaolô là đã không nhận ra nơi Abraham “tột đỉnh của mối tương quan phó thác nơi Thiên Chúa, trong khi chính vì đó mà ngài gọi ông là “cha của các kẻ tin” (Rm 4,16). Liên quan tới thánh Phaolô, có sự nhầm lẫn lớn nảy sinh từ việc người ta đã buộc tội ngài là đã tranh luận "chống lại người Do Thái", trong khi thực tế, đó là một cuộc bút chiến chống lại "các Kitô hữu gốc Do thái".

Vả lại, những gì Phaolô và Gioan nói về người Do Thái không là gì so với những gì các ngài nói về người ngoại giáo. Những người này được xác định bằng những hạn từ như sau: “Anh em không có Đấng Kitô, không được hưởng quyền công dân Israel, xa lạ với các giao ước dựa trên lời hứa của Thiên Chúa, không có niểm hy vọng, không có Thiên Chúa ở trần gian này.” (Ep 2,12) Và thành Babylon này của sách Khải huyền, nơi ngự trị của Con Thú và Con Rồng, chúng ta biết rõ không được đồng hóa nó tiên vàn với Giêrusalem, nhưng với Rôma ngoại đạo, thành phố có “bảy ngọn đồi” (Kh 17,9).

***

Tôi cho rằng câu trả lời đúng đắn cho vấn đề gợi ra là ở trong những lời của Đức Giáo Hoàng mà tôi vừa nhắc đến: “Trong thế giới Kitô giáo, những cách giải thích sai lạc và bất công đối với Tân Ước liên quan tới dân Do thái và lỗi lầm được gán cho họ đã truyền đi quá lâu.” Chủ trương bài Do thái không phát sinh từ sự trung thành với Kinh Thánh Kitô giáo, nhưng từ sự bất trung đối với sách đó. Theo nghĩa này, tình hình mới mẻ do cuộc đối thoại giữa người Do Thái và người Kitô hữu tạo ra thực sự là có ích để hiểu rõ hơn chính Kinh Thánh của chúng ta. Nó là một dấu chỉ thời đại. Thử xem theo nghĩa nào.

Chúng ta hãy trở lại với ngôn thức đầu tiên của mầu nhiệm vượt qua, tới khởi giảng. Khởi giảng không bao giờ nói người Do Thái gây nên cái chết của Đức Kitô, nhưng “tội lỗi của chúng ta”. “Đức Giêsu chính là Đấng đã bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta, và đã được Thiên Chúa làm cho sống lại để chúng ta được nên công chính.” (Rm 4,25) Ngay cả những Tín biểu có dấu vết tên của Phonxiô Philatô, cũng không bao giờ đề cập người Do Thái khi nói về việc đóng đinh thập giá và cái chết của Đức Kitô.

Chắc chắn một số thủ lãnh Do Thái đã đóng một vai trò tích cực trong việc kết án Đức Giêsu. Trình thuật cuộc Khổ nạn chúng ta vừa nghe nhắc lại cho chúng ta điều đó. Nhưng đây chỉ là những lý do chất thể. Trong mức độ người ta nhấn mạnh những hoàn cảnh cụ thể này, bằng cách gán cho chúng một giá trị thần học và không chỉ là giá trị lịch sử, người ta quên mất tầm quan trọng phổ quát và vũ trụ của cái chết của Đức Kitô. Người ta tầm thường hóa thảm kịch Cứu Chuộc khi coi nó là kết quả của các hoàn cảnh ngẫu nhiên. Gioan viết: “Chính Đức Giêsu Kitô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa” (1Ga 2,2). Của cả thế gian nữa: ngay cả cho những người không biết hoặc không tin!

Người ta quên đi một sự kiện khác trong cuộc bút chiến với người Do Thái: họ đã hành động vì không biết (cho dù điều đó không muốn nói là không có lỗi). Trên thập giá, Đức Kitô nói: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23,34) Sau ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô nói: “Thưa anh em, giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh em” (Cv 3,17; x. Cv 13,27). “Nếu biết, họ đã chẳng đóng đinh Đức Chúa hiển vinh vào thập giá.” (1Cr 2,8)

Chúng ta còn muốn tiếp tục nòi về việc giết Thiên Chúa nữa chăng? Cừ tiếp tục vì, theo Kinh Thánh và tín lý của chúng ta, đã có việc giết Thiên Chúa. Nhưng hãy biết cho rằng người Do Thái không phải là những gười Do Thái phạm tội đó, tất cả chúng ta đều đã phạm.

***

Nhưng nếu “những gốc rễ của sự thù ghét người Do Thái” không có trong Tân Ước, thì chúng ở đâu? Nếp gẫy đã xẩy ra như thế nào và khi nào? Tôi cho rằng khám phá ra chuyện đó không khó. Đức Giêsu, các Tông Đồ, thày phó tế Têphanô (x. Cv 7) đã tranh luận với các thủ lãnh người Do Thái, đôi khi bằng một giọng rất gay gắt. Nhưng các ngài đã làm với tinh thần nào? Khi loan báo Giêrusalem sẽ bị tàn phá, Đức Giêsu đã khóc, giống như Ngài đã khóc trước cái chết của bạn mình là Ladarô. Têphanô trước khi chết còn kêu lên: “Lậy Chúa, xin đừng chấp họ tội này!” (Cv 7,60)

Phaolô, bị cáo chính trong toàn bộ vụ này, còn đi đến chỗ nói lên những lời khiến người ta phải rùng mình: “Có Đức Kitô chứng giám, tôi xin nói sự thật, tôi không nói dối và lương tâm tôi, được Thánh Thần hướng dẫn, cũng làm chứng cho tôi rằng: lòng tôi rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi không ngơi. Quả vậy giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống mà tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Đức Kitô, thì tôi cũng cam lòng.” (Rm 9,1-3) Đối với Phaolô, “sống là Đức Kitô”, vậy mà còn chấp nhận xa lìa Đức Kitô, nếu việc đó giúp cho những anh em theo xác thịt của ngài chấp nhận Đấng Mêsia!

Những con ngươi như vậy nói từ bên trong dân Do Thái, cảm thấy liên đới với dân, vì họ thuộc về cùng một thực tại tôn giáo và nhân văn. Họ có thể nói: “Những người kia là người Do Thái ư? Tôi cũng vậy!” Khi yêu nhau, người ta có thể nói với nhau như thế. Có phải các tiên tri, chính Môsê, đã ít nghiêm khắc đối với Israel? Đôi khi họ đã không nghiêm khắc hơn nhiều đó sao? Chính từ họ mà có những kiểu nói nghiêm khắc nhất của Tân Ước. Nguồn gốc cuối cùng của những bài “Thán ca” là ở đâu, nếu không phải là từ văn thể chất vấn thiêng thánh mà trong Cựu Ước Thiên Chúa dành cho dân mình (x. Đnl 32; Mk 6,3-4; Tv 77 và 105)?

Phải chăng người Do Thái cảm thấy bị Môsê và các tiên tri xúc phạm, và vì đó mà tố cáo các vị này là bài Do Thái? Họ biết rằng trong trường hợp này, Môsê sẵn sàng tự loại mình khỏi Sách Sự Sống hơn là chỉ tự cứu mình thôi mà không có dân của mình. Tự nền tảng, điều đó không khác với điều cũng xẩy ra giữa chúng ta. Dante Alighieri nói với người Ý bằng những lời thóa mạ đến nỗi nếu một người lạ đánh liều nhận những lời đó là của mình, dù chỉ là một phần rất nhỏ, chúng ta sẽ biến chúng thành một thảm kịch. Về phần mình, chúng ta chấp nhận người đó; chúng ta cảm thấy rằng người đó là người của ta, người đó lấy lòng yêu thương mà nói, không phải với giọng khinh miệt.

Ngược lại, điều gì đã xẩy ra khi từ Giáo Hội sơ khai của những Kitô hữu gốc Do Thái chuyển qua Giáo Hội gốc Dân Ngoại? Dân Ngoại coi cuộc tranh luận của Đức Giêsu và của các Tông Đồ chống lại Do Thái giáo là của mình, nhưng không phải tình yêu của các ngài đối với người Do Thái. Cuộc tranh luận thì được chuyển đạt, chứ tình yêu thi không! Khi nói về biến cố hủy hoại thành Giêrusalem, các Giáo Phụ sẽ không khóc khi nói về nó, mà ngược lại!

Gốc rễ của vấn đề hoàn toàn là ở đây: một sự thiếu vắng tình yêu, tức là một thái độ bất trung với lệnh truyền cơ bản của Phúc Âm. Người Kitô hữu chúng ta đã tiếp tục phàn nàn, và phàn nàn đến tận trước ngày Shoah, về sự thù ghét của người Do Thái chống lại người Kitô hữu, về sự chống đối việc truyền bá Phúc Âm (điều rất đúng đặc biệt lúc đầu), nhưng chúng ta đã không nhận ra “cái đà” trong tâm hồn chúng ta!

Đây không phải là đưa ra một vụ kiện tổng quát về quá khứ. Đức Thánh Cha viết trong Ngàn năm thứ ba đang đến: “Để phán xét cho đúng về lịch sử, người ta không thể bỏ qua mà không lưu ý đến những điều kiện về văn hóa của thời kỳ.” Quả thực khi ấy người ta nhất tề nghĩ rằng những quyền của chân lý đi trước những quyền của con người. Thế nên đây không phải là lúc đưa ra một vụ kiện về quá khứ. Tuy vậy, Tông thư viết tiếp, “việc xem xét những tình tiết giảm nhẹ không miễn cho Giáo Hội bổn phận phải hối tiếc sâu sắc về những yếu đuối của rất nhiều con cái mình đã làm méo mó bộ mặt của Giáo Hội, và đã không cho Giáo Hội phản chiếu đầy đủ hình ảnh Chúa chịu đóng đinh của mình, là chứng nhân vô song của tình yêu nhẫn nại và của dịu dàng khiêm nhường” (số 35). Khi Giáo Hội nói về các “con cái” của mình, chúng ta biết Giáo Hội cũng bao gồm trong đó các “người cha” nữa

***

Khi tôi nói về lầm lỗi xúc phạm tới những người anh em Do Thái, tôi không chỉ nghĩ đến lầm lỗi của những người khác, của những thế hệ trước tôi. Tôi còn nghĩ đến lầm lỗi của tôi. Tôi luốn nhớ đến khoảnh khắc tôi bắt đầu hoán cải về vấn đề này. Chuyện đó xẩy ra trong một chuyến bay đưa tôi trở về sau cuộc hành hương đầu tiên của tôi nơi Đất Thánh. Tôi đọc Sách Thánh và lời trong thư Êphêsô đập vào mắt tôi: “Có ai ghét thân xác mình bao giờ” (Ep 5,29). Tôi hiểu rằng câu đó cũng áp dụng cho mối tương quan của Đức Giêsu với dân Ngài. Và những định kiến của tôi, nếu không phải là những thù nghịch của tôi đối với người Do Thái, từ từ thấm nhiễm vào tôi trong suốt những năm tôi được đào tạo, bỗng xuất hiện như một sự xúc phạm tới chính Đức Giêsu.

Ngài đã mặc lấy mọi sự giống ta, trừ ra tội. Nhưng tình yêu đối với tổ quốc của Ngài và sự liên đới với dân tộc Ngài không phải là một tội, chúng là một giá trị. Vậy, do chính việc Nhập Thể, Đức Giêsu – từ đây chúng ta gọi tên Do thái của Ngài là Yeshua – yêu dân tộc Israel. Bằng một tình yêu mạnh mẽ và tinh tuyền mà không một người yêu nước nào trên thế giới đã từng có một tình yêu như vậy đối với tổ quốc. Tội chống lại người Do Thái cũng là một tội chống lại nhân loại.

Tôi đã hiểu rằng tôi phải trở lại với Israel, “Israel của Thiên Chúa”, theo cách gọi của thánh Tông Đồ, một cách gọi không nhất thiết và không hoàn toàn trùng hợp  với Israel chính trị, cho dù người ta cũng không thể tách biệt chúng. Tôi hiểu rằng tình yêu này không phải là một mối đe dọa đối với bất kỳ dân tộc nào khác, rằng nó không hình thành những liên minh hay những khối chống lại ai, bởi vì Đức Giêsu đã dạy chúng ta rằng tâm hồn Kitô giáo của chúng ta phải mở ra cho hết mọi người và giúp chính Israel làm như vậy. “Hay là Thiên Chúa chỉ là Thiên Chúa của người Israel thôi? Thiên Chúa không là Thiên Chúa của các dân ngoại nữa sao?” (Rm 3.29)

***

Tất cả những điều đó làm cho khuôn mặt của Edith Stein trở thành thân ái đối với tôi, nàng Rebecca  mới này mang nơi mình hai quốc gia, hai dân tộc chống lại nhau, Giáo Hội và Hội Đường, và đã đổ máu mình cho cả hai để giải hòa hai bên. Edith Stein là kiểu mẫu của tình yêu Kitô giáo mới dành cho Israel, một tình yêu tìm được nơi Đức Giêsu không phải một vật cản, nhưng là một khích lệ lớn nhất cho nó. Bà viết cho một trong những người bạn thân linh mục của mình: “Cha không thể tin được làm một người con gái của dân tuyển chọn, thuộc về Đức Kitô không những bằng tinh thần mà còn bằng huyết nhục, có ý nghĩa thế nào đối với con.” Cảm thấy cùng một dòng máu với dòng máu Đức Kitô lưu chuyển trong mạch, điều đó làm cho bà đầy tràn xúc động và tự hào.

Những dòng chữ bà viết ngay từ những dấu chỉ đầu tiên của cuộc bách hại Đức Quốc Xã chống lại người Do Thái trở nên nổi tiếng: “Ở đó, dưới bóng thập giá, tôi hiểu số phận dân của Thiên Chúa : những ai biết rằng đây là thập giá Đức Kitô có nhiệm vụ vác nó trên vai, nhân danh mọi người khác.” Khi bà cùng với em gái bị hai người công an dẫn ra khỏi tu viện để đưa đi Auschwitz, một trong số những người có mặt thấy Edith nắm chặt tay em gái và thì thầm bên tai: “Đi nào, chúng ta sắp chết cho dân tộc ta.”

Thế nhưng chúng ta có một gương mẫu lớn hơn Edith Stein, Đức Maria – chúng ta cũng hãy gọi Người bằng danh xưng Do thái mỹ miều, Myriam – Mẹ của Đức Giêsu. Người là “hình bóng của Giáo Hội”, kiểu mẫu của một Giáo Hội chưa bị một tội nào đó chống lại Israel làm cho nhơ bẩn, không bị ảnh hưởng bởi sự thù nghịch. Tình cảm của Đức Maria đối với dân người được diễn tả trong kinh Magnificat: “Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót, dành cho tổ phụ Abraham, và cho con cháu đến muôn đời.”

“Israel, Abraham, tổ phụ chúng ta” : cảm xúc thuộc về dân Giao Ước. “thuộc hàng con cháu đến muôn đời”: giống như nơi thánh Tông Đồ, một sự chắc chắn có tính chất không thể hủy bỏ của lời hứa dành cho Israel.

***

Để kết thúc, chúng ta trở lại với thư gửi tín hữu Ephêsô. Bức tường hận thù, bị thập giá phá vỡ, đã được xây lại và củng cố qua các thế kỷ. Chúng ta lại phải phá vỡ bằng sự thống hối cũng như bằng lời cầu xin Thiên Chúa và các anh em Do Thái tha thứ cho chúng ta. Những cử chỉ và lời nói hòa giải phát xuất từ phẩm trật Giáo Hội không được nằm chết trong các văn kiện, nhưng phải đạt tới tâm hồn của mọi người tín hữu. Tôi đã dám nói ở đây chỉ vì điều đó mà thôi. Ngày xưa, vào các dịp “đại phúc”, người ta đã dựng nên những “giàn thiêu” để thiêu hủy mọi sự hư ảo. Trong ngày Thứ Sáu Thánh hôm nay, chúng ta cũng hãy làm một giàn thiêu để phá hủy mọi thù nghịch của chúng ta. Phá hủy nơi chính chúng ta, chứ không phải sự thù nghịch của những người khác.

Phải, ước muốn của Đức Giêsu là tụ họp mọi con cái của dân Ngài, như gà mẹ ấp ủ con dưới bóng cánh của mình, khi nào thì ước muốn đó được thực hiện? Người Kitô hữu chúng ta có thể đẩy nhanh hay làm chậm lại ngày mà trên các đường phố ở Giêrusalem, người ta lại reo hò như trong ngày Lễ Lá: “Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa!” (x. Lc 13,34-35; 19,38). Ngày Đức Giêsu Nadaret được dân mình thừa nhận, nếu không như Đấng Cứu Thế được trông đợi và Con Thiên Chúa, như trong trường hợp của chúng ta, ít nhất cũng như một trong các đại tiên tri của họ.

Năm nay, do một sự trùng hợp họa hiếm, lễ Vượt Qua Do thái rơi vào chính ngày lễ Vượt Qua của chúng ta. Ngày hôm nay, chúng ta hãy cùng nhau cử hành việc tưởng niệm ơn cứu độ. Vượt Qua là dấu chỉ hữu hình và thể chế của sự tiếp nối giữa Israel và Giáo Hội.

Có một bản văn mà các người Do Thái đã và còn đang đọc trong “Seder” vượt qua. Melito Sarđê biến  bài đó thành của mình và đưa vào phụng vụ Kitô giáo, trong đoạn bài giảng chúng ta đã nghe hôm qua. Ngươi Do Thái và chúng ta cùng nhau đọc hôm nay, trong một tinh thần ca ngợi chúng và tạ ơn Thiên Chúa:

“Ngài đã đưa chúng ta

Từ chỗ nô lệ tới tự do

Từ u sầu đến mừng vui

Từ tang chế đến lễ lạc

Từ bóng tối đến ánh sáng

Từ tôi đòi đến cứu chuộc[4].”

 

Hãy thêm điều này: Ngài đã đưa chúng ta từ thù nghịch đến bạn hữu. Ngài đã phá đổ bức tường ngăn cách giữa chúng ta. Chúng ta có thể chuẩn bị vượt qua ngưỡng cửa của thiên niên kỷ mới, trong tư cách của chững con người được hòa giải.

 

(Raniero Cantalamessa, Nous prêchons un Christ crucifié, EdB, 2018, pp. 213-225)

Lm Micae Trần Đình Quảng

 

 



[1]  x. Lumen Gentium, số 8 : Giáo Hội “sancta simul et semper purificanda” : thánh thiện đồng thời phải luôn được thanh tẩy”.

[2]  Melito Sarđê, Sur la Paque, 73-96, in Sources Chrétiennes 123, p. 102-116

[3]  P. Citati, Le radici dell’odio contro gli ebrei, in “La Republica”, 18.3.1998

[4]  Melito Sarđê, Pesachim X, 5 ; x. Sur la Pâque, 68, in Sources chrétiennes 123, p.96-98.


Mục Lục Tĩnh Tâm Giáo Triều