Tông Huấn NIỀM VUI YÊU THƯƠNG (AMORIS
LAETITIA) (6)
Bản Việt ngữ: Lm. Lê
Công Đức (dịch từ bản tiếng Anh)
CHƯƠNG TÁM (tiếp theo)
309.
Thật quí hóa việc
những suy tư này diễn ra trong bối cảnh Năm Thánh Lòng Thương Xót, bởi vì cũng
trong vô vàn hoàn cảnh đang tác động đến các gia đình, “Giáo hội được trao
nhiệm vụ loan báo lòng thương xót của Thiên Chúa, là trái tim sống động của Tin
Mừng, lòng thương xót ấy – bằng cách riêng của nó – phải xuyên thấu vào lòng
trí mỗi người. Tân Nương của Đức Kitô phải noi gương cung cách của Con Thiên
Chúa, Đấng đi ra đến với mọi người không trừ ai”.[1] Giáo
hội biết rằng Đức Giêsu là mục tử của toàn thể một trăm con chiên ấy, không
phải chỉ của chín mươi chín con. Người yêu thương tất cả chúng. Từ nhận thức
này, ta thấy “dầu thơm của lòng thương xót có thể đạt tới mọi người, những
người tin và cả những người ở xa, như một dấu cho thấy rằng Nước Thiên Chúa
đang hiện diện giữa chúng ta”.[2]
310.
Chúng ta không được
quên rằng “thương xót không chỉ là việc của Chúa Cha; nó cũng trở thành tiêu
chuẩn để nhận biết ai là con cái đích thực của Ngài. Nói tắt, chúng ta được mời
gọi thi thố lòng thương xót bởi vì, trước hết, lòng thương xót đã được thi thố
cho chúng ta”.[3] Đây
không phải là màu mè lãng mạn hay là một kiểu đáp trả nửa vời đối với tình yêu
của Thiên Chúa, một tình yêu luôn kiếm tìm điều tốt nhất cho chúng ta, vì kỳ
thực “lòng thương xót là chính nền tảng của đời sống Giáo hội. Tất cả hoạt động
mục vụ của Giáo hội phải in dấu sự dịu hiền mà Giáo hội diễn tả cho các tín
hữu; không có gì trong lời rao giảng và trong chứng tá mà Giáo hội nêu cho thế
giới lại có thể thiếu lòng thương xót”.[4] Quả
thực là có những lúc “chúng ta hành động như những chủ nhân ông của ơn sủng hơn
là như những người hỗ trợ nó. Nhưng Giáo hội không phải là một trạm thu thuế;
Giáo hội là nhà của Chúa Cha, nơi có đủ chỗ cho mọi người, với tất cả những vấn
đề của họ”.[5]
311.
Việc giảng dạy thần
học luân lý không được bỏ qua những lưu ý này, vì cho dù quả đúng là cần phải
quan tâm đến tính toàn vẹn trong giáo huấn luân lý của Giáo hội, nhưng vẫn luôn
phải lưu tâm đặc biệt để nhấn mạnh và thúc đẩy các giá trị cao nhất và cốt yếu
nhất của Tin Mừng,[6] nhất
là địa vị hàng đầu của đức ái xét như sự đáp trả trước quà tặng tình yêu hoàn
toàn nhưng không của Thiên Chúa. Có những lúc chúng ta thấy khó dành chỗ cho
tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa trong hoạt động mục vụ của chúng ta.[7] Chúng
ta đặt ra quá nhiều điều kiện cho lòng thương xót đến độ làm nó mất sạch ý
nghĩa cụ thể và thực sự của nó. Đó là cách tệ hại nhất để làm suy yếu Tin Mừng.
Chẳng hạn, quả thực là lòng thương xót không loại trừ công lý và sự thật, nhưng
trước hết chúng ta phải nói rằng lòng thương xót là sự tròn đầy của công lý, và
là cách thể hiện sáng ngời nhất sự thật của Thiên Chúa. Vì thế, luôn phải xem
là “không thỏa đáng bất cứ quan niệm thần học nào rốt cục nghi ngờ sự toàn năng
của Thiên Chúa và, nhất là, nghi ngờ lòng thương xót của Ngài”.[8]
312.
Điều này cung ứng
cho chúng ta một cái khung và bầu khí giúp ta tránh một nền đạo đức lạnh lùng
quan liêu khi xử lý những vấn đề đặc biệt nhạy cảm. Thay vào đó, nó đặt ta
trong bối cảnh của một sự phân định mục vụ đầy ắp tình yêu và lòng thương xót,
nghĩa là ta luôn sẵn sàng để thông cảm, tha thứ, đồng hành, hy vọng, và nhất là
để hội nhập. Tâm thế này cần phải lan tràn trong Giáo hội và hướng dẫn chúng ta
“mở lòng ra đón nhận những ai đang sống ở những bờ rìa xa nhất của xã hội”.[9] Tôi
khích lệ các tín hữu nào thấy mình đang ở trong những hoàn cảnh phức tạp hãy
tin tưởng chia sẻ với các mục tử của mình, hay với những anh chị em giáo dân
nhiệt tâm dấn thân cho Chúa. Có thể họ không luôn luôn gặp được một sự xác nhận
đối với những ý nghĩ hay mong muốn của mình, nhưng chắc chắn họ sẽ nhận được
ánh sáng nào đó giúp họ hiểu hơn hoàn cảnh của mình và khám phá ra một nẻo
đường cho mình lớn lên. Tôi cũng khích lệ các mục tử của Giáo hội lắng nghe
những người ấy với sự nhạy bén và bình tĩnh, với niềm khao khát chân thành muốn
hiểu cảnh ngộ và quan điểm của họ, để giúp họ sống đời mình tốt hơn và nhận ra
chỗ dành cho mình trong Giáo hội.
[1] Tông Sắc Misericordiae Vultus (11.4.2015),
12: AAS 107 (2015): 407.
[2] Ibid., 5: 402.
[3] Ibid., 9: 405.
[4] Ibid., 10: 406.
[5] Tông Huấn Evangelii Gaudium (24.11.2013),
47: AAS 105 (2013), 1040.
[6] X. ibid., 36-37: AAS 105 (2013), 1035.
[7] Có lẽ do một sự ngần ngại nào đó, được che đậy bởi
nhiệt tâm trung thành với sự thật, một số linh mục đòi hỏi các hối nhân một
quyết tâm sửa chữa rất thiếu tế nhị, đến nỗi làm cho lòng thương xót bị che mờ
bởi sự theo đuổi một công lý được coi là thuần túy. Vì thế, sẽ hữu ích việc
nhắc lại giáo huấn của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, khi ngài tuyên bố rằng
khả năng của một sự sa ngã mới “không nên làm người ta nghi ngờ sự chân thực
của lòng quyết tâm” (Thư gửi Hồng y William W. Baum dịp tổ chức Khóa về Tòa
Trong[22.3.1996], 5: Insegnamenti XIX/1 [1996], 589).
[8] ỦY BAN THẦN HỌC QUỐC TẾ, Hy Vọng Ơn Cứu Độ
Cho Những Trẻ Em Chết Mà Chưa Lãnh Phép Rửa(19.4.2007), 2.
[9] Tông Sắc Misericordiae Vultus (11.4.2015),
15: AAS 107 (2015), 409.