Một số nhận định về tông huấn Evangelii Gaudium của Đức Phanxicô
Vũ Văn An
1. Phẩm giá của những người yếu thế
Trên tạp chí Công Giáo America ngày 27 tháng Mười Một, Meghan
Clarke, giáo sư thần học luân lý tại Đại Học St John, khi trích dẫn câu “Phẩm
giá con người nhân bản và thiện ích chung được xếp cao hơn tiện nghi của những
người từ khước không chịu từ bỏ các đặc ân của họ” (218) trong tông huấnEvangelii Gaudium của Đức Phanxicô, đã cho rằng:
trong một câu đơn giản, ngài đã tóm tắt được nền tảng của học thuyết xã hội
Công Giáo: nhân phẩm, thiện ích chung và ưu tiên chọn người nghèo và người yếu
thế. Dù ngài cho rằng “Evangelii Gaudium” không phải là một văn kiện xã hội,
nhưng nó quả đã đưa ra một nền linh đạo có thể nối kết giáo huấn xã hội với
việc phúc âm hóa, vì “Đức tin của chúng ta vào Chúa Kitô, Đấng đã trở nên nghèo
và luôn gần gũi với người nghèo và người bị ruồng bỏ, là căn bản cho các quan
tâm của ta đối với việc phát triển toàn diện các thành viên bị quên lãng nhất
của xã hội” (185). Dài 85 trang, tông huấn này bàn nhiều tới nghèo đói qua các
chủ đề như loại trừ, bất bình đẳng, nghèo đói và bạo lực, cơ cấu kinh tế bất
công và việc thờ tiền bạc… Tất cả các vấn đề này được nhấn mạnh vì sứ mệnh hàng
đầu của phúc âm hóa là tin mừng, mà tin mừng chính là tình yêu Thiên Chúa dành
cho mọi người.
Ngài viết rõ hơn: “Làm thế nào lại có chuyện không coi là tin tức
khi một người cao niên vô gia cư chết ngoài trời, trong khi thị trường chứng
khoán chỉ mất 2 điểm đã đưa tin rối rít? Đây quả là một thứ loại trừ. Liệu ta
có thể cứ tiếp tục bàng quan khi thực phẩm bị ném bỏ trong lúc người người chết
đói? Đây quả là chuyện bất bình đẳng” (53). Như ngài vốn thường làm, Đức
Phanxicô thách thức ngài và thách thức ta nhìn vào tấm gương soi. Tại
Nghèo đói là bị loại trừ và “những ai bị loại trừ không còn là
những người dưới lề hay bên lề hay ngoài lề xã hội nữa, họ không còn là thành
phần của xã hội. Người bị loại trừ không còn là kẻ ‘bị bóc lột’ mà là kẻ bị
ruồng bỏ, ‘một thứ dư thừa’” (53). Vi phạm tối hậu tới nhân phẩm là không coi
người ta như một con người nhân bản nữa. Đáp ứng thái độ đó tất nhiên phải là
bao gồm và tham dự. Trong bài diễn văn trước nhóm làm việc của Liên Hiệp Quốc
về việc phát triển hợp lý, Đức TGM Chullikatt nhấn mạnh rằng “bao gồm có nghĩa
là mời người nghèo tham dự vào các hệ thống kinh tế, xã hội, chính trị và văn
hóa như những người hợp tác đầy đủ, vun đắp các khả năng của họ ngõ hầu họ có
thể xứng đáng được một chỗ ngồi tại bàn ăn dành cho mọi người, như những người
ngang hàng…”. Do đó, Đức Phanxicô kêu gọi phải triệt để tái lượng giá các cơ
cấu kinh tế và trở về với nền đạo đức học lấy con người làm trung tâm để lên
sinh khí cho các cơ cấu này.
Công lý, nền tảng của tham gia, lên sinh khí cho sứ mệnh xã hội của
Giáo Hội, một sứ mệnh được sống thực từ nơi giáo xứ tới việc cổ vũ nó tại Liên
HIệp Quốc. Và đây là trách nhiệm của mọi người chúng ta. “Tôi ưa thích một Giáo
Hội bị bầm tím, bị thương tích, và vấy bẩn vì sống ở đường phố, hơn là một Giáo
Hội không khỏe khoắn vì bị giam hãm và bám chặt vào cảnh an toàn riêng” (49).
Như thế, “Evangelii Gaudium” đã đặt Chiến Dịch Công Giáo Chiến Đấu
Cho Sự Phát Triển Con Người và Sở Cứu Trợ Công Giáo làm trung tâm cho việc phúc
âm hóa. Làm như thế, tất cả chúng ta được mời sống thực “một đức tin chân chính
tức một đức tin không bao giờ thoải mái hay hoàn toàn cá nhân, nhưng luôn bao
gồm một hoài mong sâu xa muốn thay đổi thế giới, muốn thông truyền các giá trị,
muốn để lại một thế giới phần nào tốt đẹp hơn lúc ta thấy nó” (183).
2. Trên đường lữ hành của ta
Amanda C. Osheim, giáo sư thần học thực tiễn tại Cao Đẳng Loras ở
Tiếp nhận và đáp ứng, nhập thân và văn hóa: đó là nẻo đường của
truyền thống sống động luôn được dân lữ hành của Thiên Chúa bước đi. Tiếp nhận
Chúa Thánh Thần trong Phép Rửa, mỗi tín hữu đồng thời cũng tiếp nhận cảm thức
đức tin như một hồng ân. Không hề là hàn thử biểu thụ động của đức tin, cảm
thức này giúp ta “biện phân điều thực sự thuộc về Thiên Chúa” (số 119). Sự sống
trong Chúa Thánh Thần luôn luôn sinh động, đòi hỏi thời gian, chú tâm và lớn
mạnh.
Sự biện phân của đức tin không phải là một việc tư riêng, nhưng
đúng hơn đòi một đối thoại. Qua đối thoại và qua nhau, ta biện phân được cách
đáp lại Thiên Chúa, cả theo nghĩa bản thân lẫn theo nghĩa cộng đoàn. Đức
Phanxicô cho thấy: mọi người đã chịu phép rửa đều là “các môn đệ truyền giáo”
và “tác nhân của phúc âm hóa” (số 120). Lời đáp trả được ơn thánh tác động của
ta là một trách nhiệm tập thể. Nếu Giáo Hội, giống như Chúa Kitô, được sai tới
thế gian, thì ta phải có khả năng biện phân ra tình yêu Thiên Chúa dành cho thế
gian ấy. Thiếu khả năng nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa, Giáo Hội sẽ
không bao giờ có khả năng đáp trả Thiên Chúa cả; sự tham dự có tính cộng đoàn
của ta vào sứ vụ của Thiên Chúa cũng chết theo.
Cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô và việc tiếp nhận Chúa Thánh Thần biến
đổi tín hữu thành chứng nhân của Tin Mừng. Nhờ cảm thức đức tin, Giáo Hội trở
thành bí tích cứu rỗi cho thế gian. Đức Phanxicô nói rằng “ơn thánh giả thiết
văn hóa, và Thiên Chúa trở nên xác thân trong nền văn hóa của những ai tiếp
nhận ơn thánh” (số 115). Sứ mệnh chúng ta đã được nhập thân vào lịch sử. Khi
tiếp nhận được Chúa Thánh Thần và biện phân được Thiên Chúa qua cảm thức đức
tin, ta cũng được lớn lên trong khôn ngoan, một khôn ngoan giúp ta nhập thể
được Tin Mừng. Thiên Chúa là duy nhất, nhưng các tác nhân của phúc âm hóa học
hỏi cách làm truyền giáo của mình trong nhiều ngữ cảnh khác nhau; những ngữ
cảnh này tạo nên “tính Công Giáo chân thực” (số 116). Ở bên ngoài văn hóa,
người ta không thể biết được Tin Mừng. Và cảm thức đức tin là điều chủ yếu để
chỉ cho Giáo Hội thấy “các khía cạnh mới mẻ của mạc khải và đem lại cho Giáo
Hội một khuôn mặt mới” (số 116). Chính nhờ các nền văn hóa đa dạng, chứ không
phải nhờ tách xa các nền văn hóa ấy, ta biện phân được sự hiện diện của Thiên
Chúa và đưa đáp ứng của ta vào hành động.
Khi cảm thức đức tin đã nhập thân vào văn hóa rồi, thì truyền thống
của Giáo Hội không còn là một đền đài đứng yên một chỗ nữa, mà là một hành
trình tín trung bên trong lịch sử. Con đường này không hề dễ dàng, nó rất có
thể làm ta “bị bầm tím, bị thương tích và vấy bẩn” (số 49). Ấy thế nhưng ta vẫn
khám phá ra niềm vui khi cùng nhau biện phân được lời Thiên Chúa mời gọi ta
tiến bước dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, dự phần vào sứ mệnh yêu thương
nhân từ của Chúa Kitô dành cho thế gian.
3. Một viễn kiến mới cho Giáo Hội
Linh mục James Martin, SJ, thì cho rằng chưa bao giờ lại có một văn
kiện giáo hoàng khiến người ta phải suy nghĩ, ngạc nhiên và lên tinh thần bằng
tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng”.
Theo ngài, tông huấn của Đức Phanxicô nêu lên 3 câu hỏi hết sức gắn
bó với nhau. Thứ nhất, tại sao không nhìn sự việc từ một viễn ảnh mới? Thứ hai,
tại sao không thực hiện sự việc theo lối mới? Và thứ ba, tại sao không có một
viễn kiến mới về Giáo Hội? Nhưng viễn kiến của Đức Phanxicô về Giáo Hội là gì?
Là một cộng đồng hân hoan gồm các tín hữu hoàn toàn không sợ thế
giới hiện đại, hoàn toàn không sợ thay đổi và hoàn toàn không sợ thách đố.
Không phải ai ai cũng thích Tông Huấn “Evangelii Gaudium”. Một số người còn
thấy nó đáng sợ nữa. Vì nó đặt ra nhiều thách thức dữ dằn đối với nguyên trạng.
Ngài viết minh nhiên trong phần gọi là “Cuộc Canh Tân Giáo Hội” rằng “Trong bí
quyết truyền giáo, thừa tác mục vụ luôn tìm cách từ bỏ thái độ tự mãn, một thái
độ cho rằng ‘chúng tôi đã luôn làm cách đó rồi’”.
Sứ điệp toàn bộ của Tông Huấn là người Công Giáo đừng nên sợ những
cách thế mới trong việc công bố Tin Mừng và những cách thế mới trong việc suy
nghĩ về Giáo Hội. Thực vậy, các cách thế mới này là điều chủ yếu nếu ta muốn
truyền bá Tin Mừng. Điều này nghe như sao lại nguyên văn mà người ta cho rằng
một văn kiện về “Tân Phúc Âm Hóa” hay vướng phải. Tuy nhiên, không phải như
thế. Vì trong Tông Huấn này, Đức Phanxicô nhận diện nhiều phạm vi ngưng đọng
trong Giáo Hội, những phạm vi ngài muốn thấy có thay đổi thực sự.
Điều trên không có nghĩa “Evangelii Gaudium” tìm cách thay đổi các
giáo huấn cổ truyền của Giáo Hội. Thay vào đó, nó tìm cách thay đổi cung cách
hành động của ta, và thay đổi một cách không sợ hãi. Thí dụ, dù tái khẳng định
chính sách không truyền chức cho phụ nữ làm linh mục, ngài vẫn mời gọi Giáo Hội
suy nghĩ về vị thế của họ trong Giáo Hội một cách mới mẻ, tưởng nghĩ ra “vai
trò có thể có của phụ nữ trong việc đưa ra quyết định ở các lãnh vực khác nhau
trong đời sống Giáo Hội”.
Đức Phanxicô rất nhiều lần lên án những cản trở lâu đời khiến Giáo
Hội không phát triển, như “tự mãn” (complacency), “chủ nghĩa giáo sĩ trị quá
trớn”, và cả những người Công Giáo hành xử “mặt mày cau có khó coi”
(sourpusses, một kiểu nói trong tiếng Anh). Về cản trở sau cùng vừa nói, ngài
cho rằng có những Kitô hữu sống như “Mùa Chay Mà Không Có Phục Sinh”.
Đức Phanxicô cũng không đủ nhẫn nại đối với những người luôn “muốn
đi tìm xin lỗi và khiếu nại”. Trong yếu tính, ngài muốn tương phản cái nét u
sầu và bi quan đó với niềm vui sống cuộc sống lấy Chúa Kitô làm trung tâm và
tập chú vào niềm trông cậy phục sinh. Đây quả là một cái nhìn đầy hy vọng, tích
cực và đầy năng lực về một Giáo Hội tích cực dấn thân với đời.
"Evangelii Gaudium" rất khó để tóm tắt, vì nó có phạm vi
khá rộng. Oái oăm thay, một điều thoạt nhìn xem ra có vẻ chỉ là một chủ đề nhỏ
hẹp, làm thế nào để truyền bá Tin Mừng vào lúc này, thực thực ra, đã cung cấp
cho Đức Phanxicô một không gian thật rộng để ngài bàn về nhiều chủ đề trong
phong thái cởi mở hết sức đặc trưng của ngài. Tông huấn nhẹ nhàng di chuyển từ
việc nói tới niềm vui như một điều kiện của phúc âm hóa, qua việc phải đối
thoại bản thân ra sao để mời gọi người ta tiến tới đức tin, nỗi khó khăn làm
một Giáo Hội như thế nào khi người Công Giáo “gây chiến” lẫn nhau, việc các
linh mục và phó tế phải có những bài giảng tốt hơn ra sao, tới việc phải quan
tâm thế nào đối với người nghèo trên thế giới, và điều sau cùng được Đức
Phanxicô lưu ý hơn cả.
Để đạt các mục đích trên, ai cũng ngạc nhiên khi thấy Đức Phanxicô
cổ vũ một ý niệm mà gần đây ít còn ai ưa thích nữa, đó là việc Giáo Hội “ưu
tiên chọn” người nghèo. Ngài viết: “Trái tim Thiên Chúa có một chỗ đặc biệt
dành cho người nghèo”. Nhưng chỉ nói rằng Thiên Chúa yêu thương người nghèo
cách đặc biệt, rồi để đó, thì không đủ. Ta cũng phải năng nổ trong việc chăm
sóc và biện hộ cho họ nữa. Ngài cho rằng ai cũng phải làm điều đó. “Không ai
trong chúng ta có thể nghĩ rằng mình được miễn chước việc quan tâm tới người
nghèo và tới công bằng xã hội”.
Và sợ rằng có người hiểu lầm chăng, nên sau khi phê phán việc tôn
thờ tiền bạc như một ngẫu thần và nền kinh tế loại trừ, Đức Phanxicô nói rõ:
“Đức Giáo Hoàng yêu thương mọi người, cả người giầu lẫn người nghèo, nhưng,
nhân danh Chúa Kitô, ngài bắt buộc phải nhắc nhở mọi người rằng người giầu phải
giúp đỡ, tôn trọng và thăng tiến người nghèo. Tôi khuyên nhủ anh chị em hãy có
tình liên đới đại lượng và hướng kinh tế cũng như tài chánh về một phương thức
hợp đạo đức có lợi cho con người nhân bản”.
Tuy nhiên, đấy không hẳn chỉ có nghĩa là chăm sóc người nghèo mà
thôi, đúng hơn nó còn có nghĩa phải giải quyết các cơ cấu hiện đang giam hãm
con người trong cảnh nghèo: “ta không thể trì hoãn việc cần phải giải quyết các
nguyên nhân có tính cơ cấu của cảnh nghèo”.
Niềm vui và niềm tin tưởng cần thiết để đương đầu với các thách đố
trên, cả bên trong lẫn bên ngoài Giáo Hội, bắt nguồn và đặt cơ sở trên mối liên
hệ sâu xa với Chúa Giêsu Kitô. Không có cuộc gặp gỡ bản thân với Chúa Giêsu
này, cố gắng loan truyền Tin Mừng chỉ là điều vô ích. Ta phải có được điều Đức
Giáo Hoàng gọi là “một kinh nghiệm luôn đổi mới trong việc vui hưởng tình bạn
của Chúa Kitô và sứ điệp của Người”.
Phần lớn người Công Giáo hăng hái đọc tông thư này. Nhưng vẫn có
một số người cho rằng Đức Giáo Hoàng đang cố gắng thay đổi quá nhiều trong Giáo
Hội, dù chưa thay đổi gì về tín lý. Một số người Công Giáo không những chỉ chỉ
trích, thậm chí còn sợ ngài nữa. Thay đổi hình như lúc nào cũng đáng sợ cả,
thậm chí kể cả thay đổi cho tốt hơn! Nhưng muốn lớn mạnh, Giáo Hội cần thay
đổi, không thay đổi trong các tín điều nòng cốt, nhưng trong cung cách sống và
chia sẻ các tín điều ấy.
Thiển nghĩ người Công Giáo nên đọc trọn bản văn Tông Huấn. Hãy để
nó phấn chấn mình và cầu nguyện với nó, nhất là mở lòng mình ra trước lời kêu
gọi của Đức Thánh Cha “Lên thuyền đi vào một trang phúc âm hóa mới đánh dấu
bằng niềm vui, trong khi chỉ ra những nẻo đường mới cho cuộc lữ hành của Giáo
Hội trong những năm sắp tới”
Cuối cùng, như lời Chúa Giêsu dạy, “các con đừng sợ”. Ta có thể
thay đổi cung cách hành động của ta trong Giáo Hội. Việc loan truyền Tin Mừng
đòi ta phải làm điều đó. Nên ta phải tin tưởng rằng chính Thiên Chúa muốn thấy
Giáo Hội lớn mạnh và thay đổi. Vả lại, như Đức Phanxicô viết trong Tông Thư
“Không ai lên đường ra trận tuyến mà lại không hoàn toàn tin chắc vào chiến
thắng trước mặt”.
4. Làm mọi sự ra mới và bắt đầu lại
Daniel P. Horan, OFM, một biên tập viên của tạp chí America, thì
lưu ý tới đoạn kết thúc của Tông Huấn trong đó, Đức Phanxicô trích dẫn Sách
Khải Huyền rằng “Chính Chúa Kitô Sống Lại đã dạy ta, với một sức mạnh làm ta
tràn trề tin tưởng và hy vọng không nao núng: ‘Này đây Ta đổi mới mọi sự’” (Kh
21:5).
Sứ điệp của Đức Phanxicô không chỉ nhằm kêu gọi người khác sống lối
sống mới, mà còn kêu gọi chính ngài cởi mở hơn đối với thay đổi, hồi hướng. “Vì
tôi được mời gọi đem ra thực hành điều tôi yêu cầu người khác, nên tôi cũng
phải nghĩ tới việc hồi hướng chính ngôi vị giáo hoàng. Nhiệm vụ làm giám mục
Rôma của tôi là phải cởi mở đối với các gợi ý giúp làm cho việc thi hành thừa
tác vụ của tôi trung thành hơn với ý nghĩa mà Chúa Giêsu Kitô từng muốn đưa lại
cho nó và với các nhu cầu hiện nay của việc phúc âm hóa”. Cử tọa của tông huấn
vì thế quả không phải chỉ là “anh chị em” mà là “chúng ta”.
Việc làm mới này không chỉ áp dụng cho việc phúc âm hóa: tân phúc
âm hóa, mà áp dụng vào chính chúng ta, như những cá nhân và như là Giáo Hội:
chính ta là người cần được làm mới lại, cần bắt đầu lại, “trong mọi hành động
đảm trách”. Sự mới mẻ này là sự mới mẻ trong tâm hồn, trong quan điểm, trong
cung cách liên hệ với những người ta gặp.
Là Giáo Hội, ta “đang có những cơ cấu gây trở ngại cho việc phúc âm
hóa”. Cả thừa tác mục vụ cũng cần được làm mới lại. “Vấn đề lớn nhất là khi sứ
điệp ta giảng dạy xem ra chỉ đồng nhất với những khía cạnh phụ thuộc, dù là
quan trọng, nhưng tự chúng không chuyên chở được tâm điểm sứ điệp Chúa Kitô”.
Tâm điểm ấy chính là niềm vui vì cuộc đời, sự chết và sự phục sinh của Chúa
Giêsu Kitô, được trình bày không phải như những tín lý rời rạc mang ra áp đặt,
mà dựa vào các thực tại và hoàn cảnh của toàn bộ Nhiệm Thể Kitô, trong đó, có
những chi thể đau đớn, nghèo nàn và bị cho ra rìa.
Vũ Văn An (http://danchuausa.net)