Bản
dịch Tông huấn Evangelii Gaudium (Niềm vui Tin Mừng) của ĐTC Phanxicô – phần 1
(dongten.net) 02/12/2013
LNĐ – Tông huấn Evangelii Gaudium (Niềm vui Tin Mừng)
của Đức Thánh Cha Phanxicô gửi toàn thể các Giám mục, Giáo
sĩ, Tu sĩ và Tín hữu Giáo dân về việc loan báo Tin Mừng trong thế
giới hôm nay
Tông huấn Evangelii Gaudium của Đức Thánh Cha
Phanxicô ra ngày 24/11/2013 gồm Phần mào đầu [1-18] và năm chương: Chương
I [19-49], Chương II [50-109], Chương III [110-175], Chương
IV [176-258] và Chương V [259-288]. Người dịch xin được chia làm
sáu phần theo như bố cục sẵn có để dần giới thiệu cùng đọc giả. Sau đây là Phần
mào đầu của Tông huấn, chuyển ngữ từ
1. Niềm vui Tin Mừng có sức thỏa lấp bao trái tim và cuộc sống của
tất cả những ai được gặp gỡ Đức Giêsu. Những người đón nhận ơn cứu độ của Ngài
được giải thoát khỏi mọi tội lỗi, nỗi đau cùng sự đơn côi và trống vắng nơi nội
tâm của mình. Cùng hoà nhịp với niềm vui hằng được tái sinh của Đức Kitô, trong
Tông huấn này, cha những ước mong khơi nguồn cho các tín hữu Kitô giáo chúng ta
lật sang một chương mới trong công cuộc loan báo Tin Mừng thắm đượm bản chất của
niềm vui này, trong khi vạch ra những con lộ mới cho chuyến hành trình của Giáo
Hội trong những năm sắp tới.
I. Một niềm vui mỗi ngày được nên mới, một niềm vui luôn được
sẻ chia
2. Mối nguy hại lớn nhất nơi thế giới ngày nay, bị ngập tràn bởi chủ
nghĩa hưởng thụ, chính là tình trạng cô độc và đau khổ, đến từ một trái tim tự
mãn nhưng tham lam, từ việc theo đuổi đến điên dại những thú vui phù phiếm và từ
một lương tâm chai đá. Một khi đời sống nội tâm của chúng ta bị cuốn vào lợi
ích và mối quan tâm riêng cho mình, thì lúc đó sẽ không còn có chỗ cho những người
khác, sẽ không còn có chỗ cho tầng lớp người nghèo. Người ta giờ đây sẽ không
còn có thể nghe được tiếng nói của Chúa, sẽ không còn có thể cảm nếm được niềm
vui êm ấm nơi tình yêu Ngài, cùng nỗi khát vọng muốn làm điều thiện trở nên bị
lu mờ đi. Đây cũng là mối nguy thực sự cho các tín hữu chúng ta nữa. Nhiều tín
hữu đã rơi vào trạng thái đó và cuối cùng đi tới chỗ bực bội, tức tối và chán
chường. Đó không phải là lối sống viên mãn và xứng hợp với phẩm giá con người;
đó không phải là ý muốn của Thiên Chúa dành cho chúng ta, cũng không phải là đời
sống trong Thần Khí mà kín múc nơi thánh tâm của Đức Kitô phục sinh.
3. Cha kêu mời tất cả các Kitô hữu chúng ta, ở khắp mọi nơi ngay
lúc này đây, hãy làm mới lại cuộc gặp gỡ cá vị với Đức Giêsu Kitô, hay ít ra
hãy để lòng mở rộng cho Ngài có thể gặp gỡ; cha xin tất cả chúng con hãy làm điều
này mỗi ngày. Không ai được phép nghĩ rằng lời mời này không là của mình, vì “không
một ai bị loại trừ khỏi niềm vui khởi phát từ Chúa” [1]. Chúa không lấy làm thất
vọng với những ai dám dấn thân vào cuộc mạo hiểm này; bất cứ khi nào chúng ta
thực hiện được một bước tiến đến với Đức Giêsu, thì lúc đó chúng ta sẽ nhận thấy
rằng Ngài đã ở đó, đang giang tay đón chờ chúng ta. Bây giờ chính là lúc để nói
lên với Ngài rằng: “Lạy Chúa, con đã để cho bản thân mình bị dối lừa; ngàn lần
con đã xa lánh tình yêu Chúa, nhưng chính lúc này đây một lần nữa con lại làm
mới giao ước của con với Chúa. Con cần có Chúa. Lạy Chúa, xin lần nữa cứu vớt
con lên, xin lại mang con vào vòng tay cứu chuộc của Chúa.” Ôi, sướng vui sao được
về với Chúa mỗi lần hoang đàng! Cho phép cha lại nói điều này: Thiên Chúa không
bao giờ nản lòng khi thứ tha cho chúng ta; chỉ có chúng ta là nản lòng khi kiếm
tìm lòng thương xót của Chúa. Đức Kitô, Đấng đã dạy chúng ta hãy nên tha thứ
cho nhau “bảy mươi lần bảy” (Mt 18:22), đã cho chúng ta một mẫu gương sinh động:
Ngài đã thứ tha cho chúng ta đến bảy mươi lần bảy. Ngày lại ngày Ngài vẫn mang
chúng ta trên vai. Không ai có thể tước khỏi chúng ta phẩm giá đã được tặng ban
bởi do tình yêu hải hà và không bao giờ vơi cạn này. Cùng với sự dịu ngọt đầy
hy vọng và luôn hoan lạc, Ngài đã khiến chúng ta có thể ngẩng đầu lên để bắt đầu
lại. Chúng ta hãy để mình không còn phải lẩn trốn sự phục sinh của Đức Giêsu,
hãy để mình không bao giờ phải bỏ cuộc, hãy tiến đến những gì sẽ tới. Có lẽ chẳng
có gì truyền cảm hứng nhiều bằng chính đời sống của Ngài, một đời sống thúc
bách chúng ta lao mình tiến về phía trước!
4. Các sách Cựu Ước đã tiên báo niềm vui cứu độ sẽ tràn ngập trong
thời Đấng Cứu Thế. Như tiên tri Isaia đã hân hoan đón chào Đấng Cứu Thế được
ngàn dân mong đợi: “Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm những nỗi
vui mừng cho dân” (9:3). Ông đã khích lệ dân Xion hãy tiến ra gặp Ngài trong điệu
hát cung đàn: “Dân Xion, hãy reo hò mừng rỡ!” ( 12:6). Vị tiên tri này đã thôi
thúc những người đã nhìn thấy Ngài từ cõi xa xăm hãy rao truyền sứ điệp đó cho
những người khác: “Hỡi kẻ loan tin mừng cho Xion, hãy trèo lên núi cao; hỡi kẻ
loan tin mừng cho Giêrusalem, hãy mạnh dạn cất tiếng kêu lên” (40:9). Quả là hết
thảy mọi tạo vật đều được sẻ chia trong niềm vui cứu độ: “Các tầng trời hãy sướng
ca, khắp mặt đất hãy nhảy mừng, và non đoài hãy bật tiếng hò reo! Vì Đức Chúa ủi
an dân Ngài tuyển chọn và chạnh lòng thương đén những kẻ nghèo khổ của Mình”
(49:13).
Dacaria, trong nỗi ngóng chờ ngày Chúa đến, đã kêu mời dân Chúa ngợi
ca vị vua đến trong “khiêm tốn cưỡi trên lưng một con lừa”: “Nào thiếu nữ Xion,
hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng hò reo! Vì kìa Đức
Vua của ngươi đang đến với ngươi: Ngài là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng”
(9:9).
Có lẽ lời kêu mời thú vị nhất là của tiên tri Xôphônia, ông đã giới
thiệu Thiên Chúa với dân Ngài ở giữa một lễ hội tràn ngập niềm vui cứu độ. Tôi
nhận thấy thật kỳ thú khi đọc lại lời của bản văn sau: “Đức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng. Vì ngươi,
Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi,
Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội” (3:17).
Đây là niềm vui mà chúng ta kinh nghiệm mỗi ngày, giữa những điều
nho nhỏ của cuộc sống, như là một sự đáp trả lời gọi mời thân thương của Thiên
Chúa là Cha chúng ta: “Con ơi, hãy làm cho đời mình được tốt đẹp với những gì
là của con… Đừng chối từ không hưởng một ngày vui” (Hc 14:11,14). Quả là tình
yêu phụ tử thật dịu ngọt đang âm vang trong những lời như thế!
5. Tin Mừng, rạng ngời vinh quang thập giá của Đức Kitô, liên tục gọi
mời chúng ta hãy vui lên. Một vài ví dụ trưng dẫn sẽ đủ minh chứng cho điều đó.
Thoạt đầu là lời chào mời của sứ thần nói với Đức Maria “Mừng vui lên!” (Lc
1,28). Kế đó là chuyến thăm của Đức Maria đến với người chị họ là bà
6. Có những Kitô hữu sống đẫm tinh thần Mùa Chay mà lại không sống
đượm tinh thần Phục Sinh. Dĩ nhiên, tôi nhận thấy rằng niềm vui không phải lúc
nào cũng được thể hiện khuôn đúc như nhau trong đời sống, đặc biệt trong những
thời khắc đầy cam go thử thách. Niềm vui khiến người ta thích nghi và đổi thay,
nhưng nó luôn đòi hỏi một sự chịu đựng, tuy chỉ là một cái nháy sáng từ niềm
xác tín cá nhân rằng, chúng ta chỉ sống dạt dào tình yêu khi được thanh thoát
trong lời nói và việc làm. Tôi hiểu nỗi đau của những người phải chịu đựng đau
khổ, nhưng dần dà chắc chắn rằng chúng ta phải để cho niềm vui của đức tin dần
được hồi sinh thành một sự tin tưởng thầm lặng nhưng đầy mạnh mẽ, cả trong những
lúc khổ đau nhất: “Hồn con vơi cạn lòng bình an thư thái, đã quên bén mùi hạnh
phúc thuở nào… Nhưng đây là điều con suy đi gẫm lại, nhờ thế mà con mới vững dạ
cậy trông: Lượng từ bi Đức Chúa đâu đã cạn, lòng thương xót của Người vẫn mãi
không vơi; sáng nào Người lại chẳng ban ân huệ mới. Lòng trung tín của Người
cao cả lắm thay… Biết lặng thinh đợi chờ, chờ đợi ơn cứu độ của Đức Chúa, đó quả
là một điều hay” (Ac 3:17,21-23,26).
7. Thi thoảng chúng ta bị cám dỗ tìm đủ mọi lý do để phàn nàn, hành
động như thể mình chỉ có thể có hạnh phúc nếu như mọi điều kiện được đáp ứng.
Điều này chỉ xảy ra trong một mức độ nào đó thôi bởi lẽ “xã hội tân thời của
chúng ta chỉ có thể giúp gia tăng cơ hội hoan lạc cho mọi người, nhưng lại khó
có thể kiến tạo được niềm vui cho chính họ” [ 2 ]. Cha có thể nói rằng những
biểu hiện đẹp nhất và bản chân nhất của niềm vui mà cha tìm thấy được trong đời
mình chính là ở nơi những người nghèo, những người rất ít khi nào có thể giữ
riêng cho họ được điều gì. Cha cũng nghĩ đến những niềm vui thực sự thể hiện ra
trên những con người khác, những người mà cả trong những hoàn cảnh nghiệp vụ đầy
áp lực vẫn có thể bảo toàn một con tim tràn đầy niềm tin, trong sự gắn kết đơn
sơ, giản dị. Dù theo cách thức nào đi nữa thì tất cả những niềm vui trên đã
tuôn chảy từ một tình yêu vô biên của Thiên Chúa, Đấng đã mặc khải chính Ngài
cho chúng ta nơi Đức Giêsu Kitô. Cha sẽ không bao giờ cảm thấy chán chường khi
phải lặp đi lặp lại những lời của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, những lời khả thể
dẫn đưa chúng ta đến trọng tâm của Tin Mừng: “Là một người Kitô hữu không phải
là kết quả đến từ một sự lựa chọn đạo đức hay một ý tưởng cao siêu nào, nhưng
đúng hơn là đến từ một cuộc gặp gỡ với biến cố, với con người mà qua đó đã mang
đến cho cuộc sống một chân trời mới và một hướng đi quyết định đời mình” [3].
8. Chỉ nhờ vào cuộc gặp gỡ tình yêu của Thiên Chúa này thôi – cuộc
gặp gỡ có sức biến đổi, cuộc gặp gỡ làm nở rộ tình bằng hữu phong nhiêu mà
chúng ta được giải thoát khỏi tính hạn hẹp ích kỷ và mê mải theo đuổi hình bóng
chính mình. Chúng ta nên người vẹn tròn khi chúng ta thành người hơn, khi chúng
ta để cho Thiên Chúa đưa mình vượt qua bản thân để đạt tới sự thật trọn vẹn nhất
của con người chúng ta. Nơi đây chúng ta sẽ tìm thấy suối nguồn cảm hứng cho hết
thảy những nỗ lực loan báo Tin Mừng của mình. Vì nếu chúng ta đã nhận được nơi
tình yêu làm hồi phục ý nghĩa cho đời mình thì làm sao chúng ta lại có thể
không sẻ chia một tình yêu như thế cho những người khác được?
II. Niềm vui thích ủi an của việc loan báo Tin Mừng
9. Sự thiện hảo luôn có sức lan toả. Mỗi một kinh nghiệm đích thực
về chân lý và sự thiện hảo, tự bản chất nó mưu cầu sự lớn lên trong con người
chúng ta, và bất kỳ những ai đã trải qua kinh nghiệm tự do sâu xa đều trở nên
nhạy cảm hơn với các nhu cầu của người khác. Khi lan toả, sự thiện hảo bén rễ
sâu và lớn lên. Nếu chúng ta muốn sống một cuộc sống tốt đẹp và tròn đầy, chúng
ta phải hướng tới những người khác và tìm thấy nơi họ sự thiện hảo. Dưới nhãn
quan này, lời Thánh Phaolô nói sẽ không khiến chúng ta lấy làm ngạc nhiên:
“Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng ta” (2 Cr 5:14); “Khốn cho tôi nếu tôi không
loan báo Tin Mừng” (1 Cr 9:16).
10. Tin Mừng cho chúng ta cơ hội sống ở bình diện cao hơn, nhưng
không kém phần mãnh liệt: “Cuộc sống có lớn lên là nhờ sự cho đi, và trở nên yếu
nhược trong sự cô lập và an nhàn sung túc. Quả vậy, những ai đang vui hưởng cuộc
sống trọn vẹn nhất lại là những người dám cởi bỏ sự an toàn của bản thân mà
hăng say với sứ vụ thông truyền sự sống cho người khác.” Khi kêu mời các Kitô hữu
mang lấy sứ vụ loan báo Tin Mừng, Giáo Hội đơn thuần nhắm đến nguồn cội trọn vẹn
đích thực của cá nhân mỗi người. Vì “ở đấy chúng ta khám phá ra được một quy luật
thực tại thẳm sâu: một cuộc sống như thế chỉ có thể đạt được và lớn lên khi nó
được hiến dâng để đem lại sự sống cho người khác. Đây chắc chắn là là những gì
mà sứ vụ loan báo Tin Mừng muốn nhắm đến.” Do đó, một người loan báo Tin Mừng
không bao giờ được mang hình thái của một kẻ vừa mới trở về từ một tang lễ!
Chúng ta hãy phục hồi và cắm sâu bầu nhiệt huyết của mình, cũng như “niềm vui
thích và an ủi của việc loan báo Tin Mừng, ngay cả khi chúng ta phải gieo trong
lệ sầu… Và thế giới đương thời này đây, trong khắc khoải, đớn đau và hy vọng,
đôi khi lại có thể nhận được Tin Mừng mà không phải đến từ những người loan báo
trong thất vọng, chán chường, thiếu kiên trung hay âu lo, nhưng đến từ những thừa
tác viên Tin Mừng mà cuộc sống nơi họ chiếu toả cả bầu nhiệt huyết, đó là những
người đầu tiên đã nhận được niềm vui của Đức Kitô.”
Một điều mới lạ hằng hữu
11. Một sự canh tân trong phương cách giảng dạy có thể đem lại cho
các tín hữu, cũng như những ai đang nguội lạnh buông bỏ, một niềm vui mới trong
đức tin và những hoa lợi nơi công việc loan báo Tin Mừng. Trọng tâm của sứ điệp
loan báo luôn là như nhau: Đó là Thiên Chúa đã mặc khải tình yêu hải hà của
Mình nơi Đức Kitô chịu nạn và phục sinh. Thiên Chúa không ngừng đổi mới bất cứ
những ai cậy trông vào Ngài: “Họ sẽ tung cánh như thể chim bằng, chạy mãi hoài
mà không mỏi mệt, đi mãi mà chẳng thể chùn chân” (Is 40:31). Chính Đức Kitô là
“Tin Mừng hằng hữu” (Kh 14:6), Ngài “cũng là hôm qua, hôm nay và mãi mãi” (Dt
13:8), nhưng sự phong nhiêu và vẻ tuyệt đẹp của Ngài là vô tận. Ngài mãi là chất
nguồn mới lạ và trường sinh. Giáo Hội không bao giờ không hết ngạc nhiên trước
“sự phong nhiêu, khôn ngoan và thấu suốt thẳm sâu của Thiên Chúa” (Rm 11:33).
Thánh Gioan Thánh Giá đã từng nói lên rằng “bụi cây khôn ngoan và thấu suốt của
Thiên Chúa quá thẳm sâu và rộng trải đến nỗi tuy có biết về nó nhiều đến đâu đi
nữa, linh hồn vẫn mãi có thể thâm nhập sâu hơn vào bên trong nó.” Hay như Thánh
Irênê đã từng viết: “Khi đến thế gian, Đức Kitô đã mang nơi Mình tất cả điều mới
lạ.” Với điều mới lạ này, Ngài luôn có thể canh tân đời sống chúng ta và cộng
đoàn chúng ta, và ngay cả khi sứ điệp Kitô giáo có được biết đến ngay trong thời
đại tăm tối và yếu đuối của Giáo Hội đi chăng nữa thì nó vẫn sẽ không bao giờ
úa mòn đi. Đức Giêsu có năng lực vượt qua mọi đêm dày mà chúng ta đã bủa vây
Ngài và hằng khiến chúng ta phải ngạc nhiên vì tính sáng tạo thần thiêng của
Ngài. Chỉ khi nào chúng ta nỗ lực trở về nguồn cội và phục hồi được sự tươi mới
thuở ban đầu của Tin Mừng thì chính lúc đó con lộ mới sẽ xuất hiện, những con lộ
mới lạ của sự sáng tạo sẽ được mở ra, với những hình thái biểu lộ khác nhau, với
những dấu chỉ và lời nói hùng hồn hơn mang một ý nghĩa mới lạ cho thế giới ngày
nay. Bởi lẽ, mọi hình thức loan báo Tin Mừng đích thực đều luôn là “mới lạ”.
12. Mặc dù đúng là sứ vụ loan báo cần đòi hỏi sự quảng đại của mỗi
người chúng ta, nhưng sẽ sai lầm nếu chỉ xem nó như là một hành động cá nhân
anh hùng, vì đó trước nhất và trên hết là công việc của Chúa, vượt trên những
gì mà chúng ta có thể cảm nếm và hiểu được. Chính Đức Giêsu là “thừa tác viên loan
báo Tin Mừng tiên khởi và vĩ đại nhất.” Trong mọi hoạt động loan báo Tin Mừng,
tính ưu việt mãi luôn thuộc về Thiên Chúa là Đấng đã kêu gọi chúng ta hãy cộng
tác với Ngài và dẫn dắt chúng ta bằng sức mạnh của Thần Khí. Sự mới lạ đích thực
này là sự mới lạ mà chính Thiên Chúa đã âm thầm mang lại và truyền cảm hứng cho
chúng ta, đã thúc bách, dẫn đưa và đồng hành cùng chúng ta trong nhiều cách thức
khác nhau. Đời sống của Giáo Hội phải luôn minh chứng rằng Thiên Chúa đã thực
thi sáng kiến “yêu thương chúng ta ngay từ thuở đầu” (1 Ga 4:19) và chỉ Mình
Ngài là Đấng “làm cho mọi sự được lớn lên” (1 Cr 3:7). Chính niềm xác tín này
khiến chúng ta có thể giữ được cho mình tinh thần vui tươi ngay giữa một sứ vụ
quá đỗi đòi hỏi và thách đố đến nỗi chiếm lấy toàn bộ cuộc sống bản thân. Thiên
Chúa đòi hỏi mọi điều nơi chúng ta, nhưng đồng thời Ngài cũng lại tặng ban cho
chúng tôi hết thảy mọi thứ.
13. Chúng ta cũng không nên xem cái mới lạ nơi sứ vụ này như điều dẫn
đến việc loại bỏ hay lãng quên đi lịch sử sống động đã phủ vây và hướng ta tiến
về phía trước. Ký ức chính là một chiều kích của đức tin mà chúng ta có thể gọi
nó như một bộ “đệ nhị quy điển”, giống như ký ức của chính dân Do thái vậy.
Chính Đức Giêsu đã để lại cho chúng ta Bí Tích Thánh Thể để Giáo Hội hàng ngày
tưởng nhớ và sẻ chia sâu sắc biến cố Vượt Qua của Người (x. Lc 22,19). Niềm vui
loan báo Tin Mừng luôn được phát xuất từ lòng biết ơn tưởng nhớ đến Ngài: đó là
ân sủng mà chúng ta cần phải không ngừng cầu xin. Các tông đồ không bao giờ
quên đi cái thời khắc khi Đức Giêsu chạm đến con tim của họ: “Đó là khoảng bốn
giờ chiều” (Ga 1:39). Cùng với Đức Giêsu, việc tưởng nhớ này đã làm hiện diện nơi
chúng ta “một vầng mây nhân chứng” (Dt 12:1), vài người trong số các tín hữu chứng
nhân này mà chúng ta nhớ lại với niềm hoan hỉ lớn lao: “Anh em hãy nhớ đến những
người lãnh đạo đã loan báo lời Chúa cho anh em” (Dt 13:7). Vài người trong số họ
lại là những người rất đỗi bình thường đã sống gần gũi với chúng ta và dẫn dắt
chúng ta đến đời sống đức tin: “Tôi nhớ lại lòng tin chân thành của anh, lòng
tin đã có nơi bà ngoại anh là cụ Lôis và nơi mẹ anh là bà Êunikê” (2 Tm 1:5).
Người tín hữu thực chất là “một người hồi tưởng.”
III. Tân phúc âm hoá cho sứ vụ truyền bá đức tin
14. Lắng nghe sự thôi thúc của Chúa Thánh Thần là Đấng giúp ta cùng
đọc ra các dấu chỉ của thời đại, Đại hội thường niên lần thứ XIII của Thượng Hội
Đồng Giám Mục diễn ra từ ngày 7 đến ngày 28 tháng 10 năm 2012 đã thảo luận chủ
đề: Tân Phúc Âm Hoá cho sứ vụ truyền bá Đức tin Kitô giáo. Thượng Hội Đồng đã
tái khẳng định rằng việc tân phúc âm hoá là một lời kêu gọi gửi đến toàn thể mọi
người và được thực hiện trong ba chiều kích chính yếu.
15. Ở chiều kích thứ nhất, chúng ta có thể đề cập đến lĩnh vực mục
vụ thông thường được “tràn đầy sức sống nhờ ngọn lửa Thánh Linh soi tỏ, làm
bùng cháy ngọn lửa nơi trái tim của các tín hữu, những người thường xuyên tham
gia các lễ nghi phụng tự chung và tụ họp quanh nhau vào ngày của Chúa đề được dưỡng
nuôi bằng lời Ngài và bằng bánh hằng sống.” Nơi chiều kích này, chúng ta cũng
nhớ đến những tín hữu còn giữ một niềm tin đơn thành sâu sắc được thể hiện ra
qua những cách thức khác nhau tuy ít khi tham gia những lễ nghi phụng tự. Mục vụ
thông thường nhằm giúp các tín hữu lớn lên trong đời sống thiêng liêng để họ có
thể đáp lại tình yêu Thiên Chúa ngày một trọn hảo hơn trong đời sống của họ.
Chiều kích thứ hai là chiều kích hướng đến “những ai đã được rửa tội
nhưng đời sống của họ chưa phản ánh thực chất những đòi hỏi của Bí tích Rửa tội,”
đó là những người thiếu vắng tương quan có ý nghĩa đối với Giáo Hội và không
còn trải nghiệm ơn an ủi có được nhờ đức tin. Giáo Hội với lòng từ mẫu của một
người mẹ đã cố gắng giúp họ có được kinh nghiệm hoán cải mà khiến cho con tim họ
có lại được niềm vui của đức tin và gợi hứng họ dấn thân cho Tin Mừng.
Sau hết, chúng ta không thể quên một điều rằng trước nhất và trên hết
Phúc Âm hóa chính là công cuộc loan báo Tin Mừng cho những người không biết đến
Đức Giêsu Kitô hay những người vẫn luôn từ chối Ngài. Nhiều người trong số họ vẫn
đang âm thầm kiếm tìm Thiên Chúa, được thôi thúc bởi một nỗi khát khao được
nhìn thấy khuôn mặt Ngài, ngay cả trong những quốc gia có truyền thống Kitô
giáo lâu đời. Tất cả họ đều có quyền được đón nhận Tin Mừng. Người Kitô hữu
chúng ta phải có trách vụ loan báo Tin Mừng cho hết thảy mọi người mà không được
phép loại trừ bất kỳ ai. Thay vì xem điều đó như một nghĩa vụ áp đặt mới thì họ
nên như những người muốn sẻ chia niềm vui của mình, như những người chỉ ra một
chân trời tốt đẹp và như những người gọi mời người khác cùng chung vui dự tiệc
với mình. Không phải nhờ truyền đạo mà Giáo Hội được lớn lên, nhưng Giáo hội được
lớn lên “nhờ sức lan toả” nơi chính mình.
Đức Gioan Phaolô II đã từng kêu mời chúng ta nhận ra một điều rằng
“không được làm thui chột đi động lực loan báo Tin Mừng” cho những người còn
đang ở xa Đức Kitô, “bởi đây chính là nhiệm vụ trước nhất của Giáo Hội.” Thật vậy,
“ hoạt động loan báo Tin Mừng ngày nay vẫn còn là thách đố lớn nhất đối với
Giáo Hội” và “ sứ vụ loan báo ấy phải tiếp tục được đặt lên hàng đầu.” Điều gì
sẽ xảy đến nếu như chúng ta xem trọng những lời nói này? Chúng ta sẽ nhận thấy
công cuộc loan báo Tin Mừng là mẫu thức chung cho hết thảy mọi hoạt động của
Giáo hội. Theo đó, các giám mục Mỹ châu La tinh đã khẳng khái nêu lên rằng
chúng ta “không thể thụ động và an lòng ngồi chờ nơi các thánh đường của mình được”;
chúng ta cần phải can đảm bỏ đi “lối mục vụ truyền thống kiểu bảo trì để dứt
khoát chuyển sang kiểu mục vụ truyền giáo cách đích thực.” Sứ vụ này vẫn còn là
một suối nguồn niềm vui bất tận cho Giáo Hội: “Vì thế, tôi nói cho các ông hay:
trên trời ai nấy sẽ mừng vui vì một người tội lỗi ăn năn sám hối hơn là vì chín
mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15:07).
Phạm vi và những hạn định của Tông huấn
16. Cha lấy làm vui mừng khi tiếp nhận lời thỉnh nguyện của các nghị
phụ trong Thượng Hội Đồng để viết nên tông huấn này. Làm như vậy, cha đang gặt
hái thành quả lao tác phong phú nơi Thượng Hội Đồng. Thêm nữa, cha đã tham khảo
nhiều lời khuyên từ một số người hữu trách và muốn tỏ bày mối quan tâm của cha
về tiến trình cụ thể trong sứ vụ loan báo Tin Mừng của Giáo Hội cho thế giới
hôm nay. Vô vàn các vấn đề liên quan đến sứ vụ này có thể sẽ được đem ra bàn thảo
ở đây, nhưng cha không muốn thái quá khi để mình lấn sâu vào các vấn đề mà đòi
hỏi cần có nhiều thời gian để suy tư nghiên cứu thêm nữa. Cũng như cha không
tin rằng người ta lại có thể mong đợi nơi giáo huấn của Đức Giáo Hoàng một câu
trả lời dứt khoát và trọn vẹn cho mọi vấn đề đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến Giáo Hội
và thế giới ngày nay. Sẽ không minh mẫn chút nào khi Đức Giáo Hoàng lại thay thế
các giám mục địa phương trong việc nhận định mọi vấn đề phát sinh trong lãnh thổ
của các ngài. Thế nên, cha ý thức được lợi ích cần thiết phải đi đến việc “phân
quyền” cho Tông huấn này.
17. Trong Tông huấn này, cha đã chọn trình bày một số chỉ dẫn mà có
thể khích lệ và hướng dẫn toàn thể Giáo Hội trong một giai đoạn mới của công cuộc
loan báo Tin Mừng, một giai đoạn đầy sức sống và bầu nhiệt huyết. Trong bối cảnh
như thế, và dựa trên nền giáo huấn của Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, cha
đã quyết định, trong số các chủ đề khác nhau, đặt quan tâm bàn thảo sâu hơn về
các vấn đề sau:
a) Công cuộc cải tổ Giáo Hội hướng đến sứ vụ truyền giáo;
b) Những cám dỗ mà những người đang làm công tác mục vụ phải đối mặt;
c) Vấn đề Giáo Hội, hiểu như toàn thể Dân Chúa trong công cuộc loan
báo Tin Mừng;
d) Bài giảng lễ và cách thức chuẩn bị;
e) Việc mở lòng đón lấy người nghèo trong xã hội;
f) Vấn đề hòa bình và đối thoại trong xã hội;
g) Những động lực thiêng liêng cho sứ vụ truyền giáo.
18. Cha đã bàn thảo khá chi tiết về các chủ đề này mà đôi khi xem ra
có vẻ là nặng nề. Tuy nhiên, cha đã làm như vậy, không phải với mục đích cung cấp
một khảo luận xứng tầm nhưng chỉ đơn giản là một cách cho thấy ý nghĩa thực tiễn
quan trọng của sứ vụ loan báo Tin Mừng của Giáo Hội nơi thế giới hôm nay. Tất cả
những vấn đề trên cho phép chúng ta định hình được một phong thái loan báo Tin
Mừng mà cha đòi hỏi chúng con hãy áp dụng trong mọi hoạt động mà các con đang
thực hiện. Bằng cách này, chúng ta có thể thực hiện được trong những nỗ lực
hàng ngày của mình lời khuyên Kinh Thánh sau: “Anh em hãy vui luôn trong niềm
vui của Chúa. Tôi nhắc lại: hãy vui lên anh em!” ( Ph 4:4)
js.tuannguyen.sj
(còn tiếp)
[1] PHAOLÔ VI, Tông huấn Gaudete in Domino (9/5/1975),
22: AAS 67 (1975), 297.
[2] Ibid. 8: AAS 67 (1975), 292.
[3] Thông điệp Deus Caritas Est (25/12/2005), 1: AAS
98 (2006), 217.
[4] CÔNG NGHỊ V CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC MỸ CHÂU LATINH VÀ VÙNG
CARIBBÊ, Văn kiện Aparecida (29/6/2007), 360.
[5] Ibid.
[6] PHAOLÔ VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi (8/12/1975
), 80: AAS 68 (1976), 75.
[7] Bài ca tâm linh, 36, 10.
[8] Adversus Haereses, IV, c. 34, n. 1: PG 7, pars prior,
1083: “Omnem novitatem attulit, semetipsum afferens”.
[9] PHAOLÔ VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi (8/12/1975
), 7: AAS 68 (1976), 9.
[10] Cf. Propositio 7.
[11] BÊNÊĐICTÔ XVI , Bài giảng trong Thánh Lễ Bế Mạc của Thượng Hội
Đồng Giám Mục (28/10/2012): AAS 104 (2102 ), 890.
[12] Ibid.
[13] BÊNÊĐICTÔ XVI , Bài giảng trong Thánh Lễ Khai Mạc Công Nghị V
của Hội Đồng Giám Mục Mỹ Châu Latinh và vùng Caribbê (13/5/2007) ,
[14] Thông điệp Redemptoris Missio (7/12/1990 ), 34: AAS
83 (1991), 280.
[15] Ibid., 40: AAS 83 (1991), 287.
[16] Ibid., 86: AAS 83 (1991), 333.
[17] CÔNG NGHỊ V CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC MỸ CHÂU LATINH VÀ VÙNG
CARIBBÊ, Văn kiện Aparecida (29/6/2007), 548.
[18] Ibid., 370.
[19] Cf. Propositio 1.