TÔNG HUẤN HẬU THƯỢNG HỘI ĐỒNG
GIÁM MỤC
SACRAMENTUM
CARITATIS
CỦA ĐỨC GIÁO
HOÀNG BÊNÊĐICTÔ XVI
GỬI CÁC GIÁM
MỤC, LINH MỤC, PHÓ TẾ VÀ GIÁO DÂN
VỀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ NGUỒN MẠCH VÀ ĐỈNH CAO CỦA ĐỜI SỐNG VÀ SỨ MỆNH CỦA GIÁO
Dẫn nhập [1]
Lương thực sự thật [2]
Sự phát triển của nghi lễ Thánh Thể [3]
Thượng Hội Đồng Giám Mục và Năm Thánh Thể [4]
Mục đích của Tông huấn [5]
PHẦN MỘT: BÍ
TÍCH THÁNH THỂ, MỘT MẦU NHIỆM ĐỂ TIN
Đức tin vào Thánh Thể của Giáo Hội [6]
Chúa Ba Ngôi và Bí Tích Thánh Thể
Bánh từ trời xuống [7]
Một ơn ban không của Chúa Ba Ngôi [8]
Thánh Thể: Chúa Giêsu Chiên Hiến Tế đích thực
Giao ước mới và vĩnh cửu trong máu Con Chiên [9]
Lập Bí Tích Thánh Thể [10]
Hình bóng biến thành sự thật (Figura transit in veritatem) [11]
Chúa Thánh Thần và Bí Tích Thánh Thể
Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần [12]
Chúa Thánh Thần và việc cử hành Thánh Thể [13]
Bí Tích Thánh Thể và Giáo Hội
Bí tích Thánh Thể, nguyên lí tác thành Giáo Hội [14]
Bí tích Thánh Thể và sự hiệp thông Giáo Hội [15]
Bí tích Thánh Thể và các Bí tích khác
Tính Bí tích của Giáo Hội [16]
I. Bí Tích Thánh
Thể và Sự Khai tâm Kitô giáo
Bí tích Thánh Thể, sự hoàn bị của việc khai tâm Kitô giáo
[17]
Trình tự các bí tích khai tâm [18]
Việc khai tâm, cộng đồng giáo hội và gia đình [19]
II. Bí tích
Thánh Thể và Bí tích Hoà Giải
Mối liên hệ sâu xa [20]
Một số quan tâm mục vụ [21]
III. Bí tích
Thánh Thể và Bí tích Xức Dầu bệnh nhân [22]
IV. Bí tích
Thánh Thể và Bí Tích Truyền Chức Thánh
In persona Christi capitis (nhân danh Chúa Kitô là đầu) [23]
Bí tích Thánh Thể và sự độc thân linh mục [24]
Sự thiếu linh mục và mục vụ ơn gọi [25]
Sự biết ơn và niềm hi vọng [26]
V. Bí tích Thánh
Thể và Bí tích Hôn Phối
Thánh Thể, một bí tích hôn ước [27]
Bí tích Thánh Thể và tính duy nhất của hôn nhân [28]
Bí tích Thánh Thể và tính bất khả phân li của hôn nhân [29]
Bí tích Thánh Thể và cánh chung học
Thánh Thể: một ơn thiêng cho con người trên đường lữ hành [30]
Bàn tiệc cánh chung [31]
Cầu nguyện cho người chết [32]
Bí tích Thánh Thể và Đức Trinh Nữ Maria [33]
PHẦN HAI: BÍ
TÍCH THÁNH THỂ, MỘT MẦU NHIỆM ĐỂ CỬ HÀNH
Luật cầu nguyện và luật đức tin (Lex orandi et lex credendi) [34]
Cái Đẹp và Phụng vụ [35]
Cử hành Thánh Thể, công việc của “trọn vẹn Chúa Kitô” (Christus Totus)
Christus totus in capite et in corpore (Trọn vẹn Chúa Kitô đầu và thân mình)
[36]
Bí tích Thánh Thể và Chúa Kitô phục sinh [37]
Ars celebrandi (Quy tắc cử hành) [38]
Giám mục, vị chủ tế cao nhất [39]
Tôn trọng các sách phụng vụ và sự phong phú của các dấu chỉ [40]
Nghệ thuật phục vụ việc cử hành [41]
Thánh ca [42]
Cơ cấu của việc cử hành Bí tích Thánh Thể [43]
Tính duy nhất nội tại của hành vi phụng vụ [44]
Phụng vụ Lời Chúa [45]
Bài giảng [46]
Dâng của lễ [47]
Kinh nguyện Thánh Thể [48]
Chúc bình an [49]
Việc trao và rước Thánh Thể [50]
Lời giải tán: “Lễ xong, hãy đi” (Ite, missa est) [51]
Sự tham dự linh động (Actuosa participatio) [52]
Sự tham dự đích thực [53]
Sự tham dự và thừa tác vụ linh mục [53]
Cử hành Thánh Thể và sự hội nhập văn hoá [54]
Những điều kiện cá nhân cho “actuosa participatio” [55]
Sự tham dự của các Kitô hữu không phải Công Giáo [56]
Tham dự qua những phương tiện truyền thông [57]
Việc tham dự sống động của những người đau yếu [58]
Quan tâm đến các tù nhân [59]
Di dân và sự tham dự Bí tích Thánh Thể [60]
Những cuộc đồng tế đại trào [61]
Tiếng La tinh [62]
Những cuộc cử hành Thánh Thể trong những nhóm nhỏ [63]
Sự tham dự nội tâm vào việc cử hành
Giáo lí khai tâm [64]
Lòng tôn kính đối với Bí tích Thánh Thể [65]
Sự Tôn Thờ và Lòng sùng kính Thánh Thể
Tương quan nội tại giữa việc cử hành và sự tôn thờ [66]
Sự thực hành việc chầu Thánh Thể [67]
Những hình thức sùng kính Thánh Thể [68]
Vị trí của nhà tạm [69]
PHẦN BA: BÍ TÍCH
THÁNH THỂ, MỘT MẦU NHIỆM ĐỂ SỐNG
Mô thức Thánh Thể của đời sống Kitô
Sự thờ phượng tinh thần – logiké latreía (Rm 12, 1) [70]
Hiệu quả bao trùm của sự thờ phượng Thánh Thể [71]
Những cộng đoàn cử hành ngày Chúa Nhật thiếu vắng linh mục [72]
Một hình thức Thánh Thể của đời sống Kitô, thuộc về Giáo Hội [73]
Linh đạo và văn hoá Thánh Thể [74]
Bí tích Thánh Thể và sự rao giảng Tin Mừng cho các nền văn hoá [75]
Bí tích Thánh Thể và đời sống thánh hiến [76]
Bí tích Thánh Thể và sự biến đổi luân lí [77]
Tính công khai của Bí tích Thánh Thể [78]
Bí tích Thánh Thể, một mầu nhiệm để loan truyền [79]
Bí tích Thánh Thể và truyền giáo [80]
Bí tích Thánh Thể và việc làm chứng [81]
Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc duy nhất [82]
Tự do thờ phượng [83]
Bí tích Thánh Thể, một mầu nhiệm để loan truyền
Bí tích Thánh Thể và truyền giáo [84]
Bí tích Thánh Thể và việc làm chứng [85]
Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc duy nhất [86]
Tự do thờ phượng [87]
Bí tích Thánh Thể, một mầu nhiệm để trao cho thế giới
Thánh Thể, tấm bánh bẻ ra cho sự sống trần gian [88]
Những ràng buộc xã hội của mầu nhiệm Thánh Thể [89]
Lương thực sự thật và nhu cầu của con người [90]
Giáo huấn xã hội của Giáo Hội [91]
Thánh hoá trần gian và bảo vệ tạo vật [92]
Sự ích lợi của một cuốn sách toát yếu về Bí tích Thánh Thể [93]
KẾT LUẬN [94]
DẪN NHẬP
1. Bí tích tình yêu, (1) Thánh Thể là hồng ân mà chính Chúa Giêsu Kitô thiết
lập, mặc khải cho chúng ta tình yêu vô biên của Thiên Chúa dành cho mọi người.
Bí tích kì diệu này biểu lộ tình yêu “cao cả nhất”, tình yêu đã thúc đẩy Người
“hi sinh mạng sống mình vì bạn hữu” (Ga 15, 13). Qủa thật, Chúa Giêsu đã yêu họ
“cho đến cùng” (Ga 13, 1). Qua những lời đó, vị Thánh Sử giới thiệu hành vi
khiêm hạ thẳm sâu của Chúa Kitô: trước khi chết cho chúng ta trên Thánh Giá,
Người cuốn một tấm khăn và rửa chân cho các môn đệ. Cũng vậy, trong Bí tích
Thánh Thể, Chúa Giêsu tiếp tục yêu chúng ta “cho đến cùng”, đến độ ban mình và
máu Người cho chúng ta. Thật là một điều sửng sốt các Tông Đồ hẳn đã được cảm
nhận khi chứng kiến Chúa hành động và thổ lộ trong bữa Tiệc Li ấy! Thật là điều
kì diệu mà Mầu nhiệm thánh thể khơi lên trong tâm hồn chúng ta.
Lương thực sự thật
2. Trong Bí tích của bàn thờ, Chúa gặp gỡ chúng ta, trở nên bạn đồng hành của
chúng ta, những con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và giống Người
(x. St 1, 27). Trong Bí tích này Chúa thực sự trở nên lương thực cho chúng ta,
thoả mãn cơn đói khát sự thật và tự do của chúng ta. Vì chỉ có sự thật mới có
thể giải thoát chúng ta (x. Ga 8, 32), nên Chúa Kitô trở nên lương thực sự thật
cho chúng ta. Với một sự hiểu biết sâu xa, thánh Augustinô đã trình bày thật rõ
ràng cách thế chúng ta thường dễ cảm động, bất cứ khi nào chúng ta gặp thấy một
điều gì lôi cuốn và đáng yêu mà không bị ép buộc. Ngài tự hỏi điều gì có thể
làm chúng ta cảm khái nhất, vị thánh Giám mục thốt lên: “Tâm hồn chúng ta còn
tha thiết khao khát điều gì hơn sự thật?”(2) Mỗi người chúng ta đều chất chứa
một niềm khao khát tiềm ẩn và bất khả kiềm chế đối với sự thật hiển nhiên và
sau cùng. Chúa Giêsu, “con đường, sự thật và sự sống”(Ga 14, 6) ngỏ với cõi
lòng lữ hành, cháy khát của chúng ta, cõi lòng ước muốn nguồn sự sống, cõi lòng
khát khao sự thật. Chúa Giêsu Kitô là Sự Thật nguyên vị, lôi kéo thế giới đến
với Người. “Chúa Giêsu là ngôi sao mai chỉ đường cho tự do của nhân loại: không
có Người, tự do sẽ mất định hướng, bởi vì nếu không có sự hiểu biết về sự thật,
tự do sẽ mất giá trị, sẽ lạc hướng, và rơi vào độc đoán trống rỗng. Với Người,
tự do sẽ khai mơ.”(3) Trong Bí tích Thánh Thể Chúa Giêsu tỏ bày cho chúng ta
một cách đặc biệt sự thật về tình yêu, là bản tính của Thiên Chúa. Chính sự
thật phúc âm này thách thức mỗi người và toàn thể con người chúng ta. Vì lí do
đó, Giáo Hội khi tìm thấy Thánh Thể là trung tâm đời sống của mình, không ngừng
quan tâm công bố cho mọi người, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện
(x. 2 Tm 4, 2) rằng Thiên Chúa là tình yêu. (4) Chính bởi Chúa Kitô đã trở nên
lương thực sự thật cho chúng ta mà Giáo Hội hướng về mọi người, mời gọi họ tự
do đón nhận hồng ân của Thiên Chúa.
Sự phát triển nghi thức thánh thể
3. Nếu tìm hiểu lịch sử hai nghìn năm Giáo Hội của Chúa, được hướng dẫn bởi sự
khôn ngoan của Chúa Thánh Thần, chúng ta phải thán phục với lòng biết ơn sự
phát triển trật tự những hình thức nghi lễ mà trong đó chúng ta tưởng niệm biến
cố cứu độ. Từ những hình thái đa dạng của những thế kỉ đầu, vẫn còn tỏa sáng
trong những lễ nghi của các Giáo Hội Đông Phương Cổ Kính, cho đến khi nghi lễ
Rôma lan rộng; từ những chỉ dẫn minh thị của Công Đồng Trentô và nghi thức
Thánh Lễ của Thánh Piô V cho đến việc canh tân phụng vụ do Công Đồng Vatican
khởi xướng: vào mỗi thời điểm của lịch sử Giáo Hội, việc cử hành thánh thể như
là nguồn mạch và đỉnh cao của đời sống và sứ mệnh Giáo Hội, luôn sáng chói
trong nghi lễ phụng vụ với tất cả sự phong phú và đa dạng của nó. Phiên Họp
Khoáng Đại của Thượng Hội Đồng Giám Mục, diễn ra từ ngày 2 đến 23 tháng Mười
2005 tại Vatican cũng đã hết lòng tri ân cảm tạ sự hướng dẫn của Chúa Thánh
Thần trong giai đoạn lịch sử phong phú này. Một cách đặc biệt, các Nghị Phụ đã
nhìn nhận và tái khẳng định ảnh hưởng tốt đẹp mà việc canh tân phụng vụ do Công
Đồng Vatican II khởi xướng đã đem đến cho đời sống Giáo Hội (5). Thượng Hội
Đồng Giám Mục đã có thể đánh giá việc tiếp nhận sự canh tân trong những năm sau
Công Đồng. Đã có nhiều cách lượng định. Những khó khăn và ngay cả những lạm
dụng cũng đã được ghi nhận, điều đó cho thấy chúng không thể khe khuất những
lợi ích và tính hữu hiệu của cuộc canh tân phụng vụ mà những điều phong phú còn
chưa được khám phá hết. Một cách cụ thể, những thay đổi mà Công Đồng khai xướng
cần phải được tìm hiểu trong tính duy nhất chung của sự phát triển lịch sử của
chính nghi thức, chứ không phải đưa vào đó sự gián đoạn giả dối. (6)
Thượng Hội Đồng Giám Mục và Năm Thánh Thể
4. Chúng tôi cũng nhấn mạnh tương quan giữa Thượng Hội Đồng Giám Mục mới đây về
Bí Tích Thánh Thể và những biến cố đã xảy ra trong đời sống Giáo Hội những năm
qua. Trước tiên chúng ta cùng nhớ lại Năm Thánh 2000, năm mà vị Tiền Nhiệm đáng
kính của tôi, Người Tôi Tớ Chúa, Đức Gioan Phaolô II, đã dẫn dắt Giáo Hội bước
vào Nghìn Năm thứ ba. Năm Thánh đó thật sự mang một chiều kích Thánh Thể đầy ý
nghĩa. Chúng ta cũng không quên Thượng Hội Đồng Giám Mục đã được định trước, và
theo một nghĩa nào đó, được chuẩn bị bằng Năm Thánh Thể mà Đức Gioan Phaolô II
với sự tiên liệu, đã muốn cho toàn thể Giáo Hội cử hành. Năm đó cũng là năm
khai mạc Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế tại Guadalajara vào tháng Mười 2004 và kết
thúc ngày 23 tháng 10, cùng vào dịp bế mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục lần thứ XI
với lễ phong thánh cho năm vị có lòng sùng kính Thánh Thể một cách đặc biệt: đó
là Đức Giám mục Jósef Bilczewski, các linh mục Gaetano Catanoso, Zygmunt
Gorazdowski và Alberto Hurtado Cruchaga và tu sĩ dòng capucinô Felice da
Nicosia. Nhờ những giáo huấn do Đức Gioan Phaolô II đề ra trong Tông thư Mane
Nobiscum Domine (7) cùng với những gợi ý trợ lực cho Bộ Phụng Tự và Kỉ Luật các
Bí Tích, (8) nhiều sáng kiến đã được các Giáo Phận và những nhóm giáo hội địa
phương thực hiện nhằm đánh thức và gia tăng đức tin vào Thánh Thể, nhằm tăng
cường phẩm chất của việc cử hành Thánh Thể, nhằm đề cao việc tôn thờ Thánh Thể
cũng như cổ vũ mối liên đới thực tế liên kết cả với những người nghèo túng,
khởi đi từ Bí Tích Thánh Thể. Sau hết, cần phải đề cập đến ý nghĩa Thông Điệp
Ecclesia de Eucharistia (9) sau cùng của vị Tiền Nhiệm đáng kính của tôi, trong
đó ngài để lại cho chúng ta huấn dụ vững chắc của Giáo Huấn Giáo Hội về Bí Tích
Thánh Thể và như một chứng tá sau hết về vị trí trọng tâm mà Bí tích cực thánh
này đã chiếm ngự trong suốt cuộc đời của ngài.
Mục đích của Tông huấn
5. Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục này nhằm khơi lại sự phong phú cùng
nhiều suy tư và những đề xuất đa dạng đã được đưa ra trong Phiên Họp Khoáng Đại
của Thượng Hội Đồng Giám Mục mới đây – Từ Lineamenta đến Propositiones, hiệp
nghị qua Instrumentum Laboris, những Relationes ante và Post- disceptationes,
những ý kiến đóng góp của các Nghị Phụ, những auditores và những vị đại diện
thân hữu- nhằm cung cấp những hướng dẫn căn bản để làm sống dậy một đà tiến mới
cho lòng sùng kính và mến yêu Bí Tích Thánh Thể trong Giáo Hội. Ý thức về gia
sản bao la của tín lí và kỉ luật chứa đựng qua nhiều thế kỉ liên quan đến Bí
tích này, (10) ở đây tôi muốn chứng nhận lòng tha thiết của các Nghị Phụ (11)
bằng cách khích lệ dân Kitô giáo hãy đào sâu việc tìm hiểu mối tương quan giữa
mầu nhiệm Thánh Thể, việc cử hành phụng vụ và lòng sùng kính mới xuất phát từ
Bí Tích Thánh Thể như là Bí tích tình yêu. Do vậy, tôi cũng muốn đặt Tông Huấn
này cùng với Thông Điệp đầu tiên của tôi, Deus Caritas Est, trong đó tôi thường
nhắc đến Bí Tích Thánh Thể và nhấn mạnh tương quan của Bí tích này với tình yêu
Kitô giáo, đối với Chúa và cả với tha nhân: “Thiên Chúa nhập thể lôi kéo tất cả
chúng ta đến với Người. Do đó, chúng ta có thể hiểu agapè (tình yêu) đã trở
thành một từ ngữ đối với Bí tích Thánh Thể như thế nào: trong Thánh Thể, agapè
của Thiên Chúa đã đến với chúng ta trong hình hài thể xác để tiếp tục công
trình của Người trong và qua chúng ta ”(12).
PHẦN MỘT
BÍ TÍCH THÁNH THỂ, MẦU NHIỆM
ĐỂ TIN
“Việc cuả Thiên Chúa, chính là các ông tin vào Đấng Người đã sai đến” (Ga 6,
29)
Đức tin vào Thánh Thể của Giáo Hội
6. “Đây là mầu nhiệm đức tin !”Những lời này được xướng ngay sau lời truyền
phép, linh mục công bố mầu nhiệm được cử hành và bày tỏ sự sửng sốt của ngài
trước sự biến đổi bản thể của bánh và rượu nên Mình và Máu Chúa Giêsu, một thực
tại vượt qúa sự hiểu thấu của con người. Bí tích Thánh Thể là một “mầu nhiệm
đức tin” cách tuyệt hảo: là “sự tổng hợp và tóm kết đức tin của chúng ta.” (13)
Đức tin của Giáo Hội tự nền tảng là đức tin vào Thánh Thể, và đức tin dó được
nuôi dưỡng một cách đặc biệt tại bàn tiệc Thánh Thể. Đức tin và các bí tích là
hai khía cạnh bổ túc cho nhau trong đời sống Giáo Hội. Được đánh thức bằng việc
giảng dạy Lời Chúa, đức tin được nuôi dưỡng và tăng triển trong sự gặp gỡ đầy
tràn ân sủng với Chúa Phục Sinh, diễn ra trong việc cử hành các bí tích: “đức
tin được diễn đạt trong nghi lễ, nghi lễ lại tăng cường và củng cố đức tin.”
(14) Do đó, Bí tích của Bàn Thờ luôn là trọng tâm của đời sống Giáo Hội: “nhờ
Thánh Thể, Giáo Hội được tái sinh và đổi mới không ngừng!”(15) Đức tin vào
Thánh Thể của Dân Chúa càng sống động thì việc tham dự vào đời sống Giáo Hội
càng sâu xa hơn trong việc kiên cường dấn thân cho công cuộc truyền giáo đã
được Chúa Kitô ủy thác cho các môn đệ của Người. Chính lịch sử của Giáo Hội làm
chứng điều đó. Mỗi một cuộc cải cách lớn lao, cách nào đó, lại được tiếp nối
bằng một sự tái khám phá niềm tin vào sự hiện diện Thánh Thể của Chúa ở giữa
dân Người.
Chúa Ba Ngôi và Bí Tích Thánh Thể
Bánh từ trời xuống
7. Yếu tố đầu tiên của đức tin vào Thánh Thể là mầu nhiệm về chính Thiên Chúa,
là tình yêu Chúa Ba Ngôi. Trong cuộc đàm thoại giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô,
chúng ta tìm được sự diễn tả rõ ràng về vấn đề này: “Thiên Chúa yêu thế gian
đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng
được sống muôn đời. Qủa vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không
phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu
độ ” (Ga 3, 16-17). Những lời này tỏ rõ nguồn mạch sâu thẳm về ân sủng của
Thiên Chúa. Chúa Giêsu trong Thánh Thể không ban cho ta một “vật,” nhưng ban
chính Người; Người ban chính mình Người và tuôn đổ chính máu Người. Như vậy,
Người ban cho chúng ta trọn vẹn sự sống Người và mặc khải nguồn cội tối hậu của
tình yêu này. Người là Con Một đời đời, được Chúa Cha trao ban cho chúng ta.
Trong Tin Mừng, chúng ta nghe Chúa Giêsu, sau khi đã hóa bánh và cá ra nhiều
nuôi đám đông dân chúng, nói với những người đã theo Người đến hội đường
Caphácnaum: “Chính Cha tôi cho các ông bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh
Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh ban sự sống cho thế gian”(Ga 6, 32-
33), và người tự đồng hóa, chính thịt máu Người với bánh ấy: “ Tôi là bánh hằng
sống từ trời xuống; ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời; và bánh tôi sẽ ban
tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6, 51). Như vậy,
Chúa Giêsu chứng tỏ rằng Người là bánh sự sống mà Cha vĩnh cửu ban cho nhân loại.
Một ơn ban không của Chúa Ba Ngôi
8. Bí tích Thánh Thể mặc khải chương trình yêu thương hướng dẫn toàn bộ lịch sử
cứu độ (x. Ep 1, 10; 3, 8- 11). Trong Thánh Thể, Deus Trinitas (Chúa Ba Ngôi),
mà bản tính là tình yêu (x. 1 Ga 4, 7-8), trở nên trọn vẹn một phần tử trong
thân phận con người. Trong hình bánh và rượu Chúa Kitô tự hiến cho chúng ta
trong bữa ăn vượt qua (x. Lc 22, 14- 20; 1Cr 11, 23- 26), nguyên vẹn sự sống
của Thiên Chúa hội nhập chúng ta và tham dự vào chúng ta dưới hình thức Bí tích.
Thiên Chúa là sự hiệp thông tình yêu trọn hảo giữa Cha, Con và Thánh Thần. Ngay
trong công trình tạo dựng, con người đã được gọi chia sẻ một phần nào đó vào
hơi thở sự sống của Thiên Chúa (x. St 2, 7). Nhưng chính trong Chúa Kitô, chết
và sống lại và lúc tuôn đổ Thần Khí, được ban cách vô ngần vô hạn (x. Ga 3, 34)
mà chúng ta được trở nên những người tham dự vào sự sống sâu thẳm của Thiên
Chúa. (16) Chúa Giêsu Kitô, Đấng “nhờ Thánh Thần hằng hữu đã tự hiến như lễ vật
vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa” (Dt 9, 14), chuyển thông cho chúng ta trong hồng
ân Thánh Thể chính sự sống thần linh. Đây là một ơn tuyệt đối nhưng không, một
sự thực hiện những lời hứa của Thiên Chúa vựơt khỏi mọi giới hạn. Giáo Hội đón
nhận, cử hành và tôn thờ ân sủng này trong sự tuân phục tín trung. “Mầu nhiệm
đức tin”, do vậy là một mầu nhiệm của tình yêu Ba Ngôi, một mầu nhiệm mà trong
đó nhờ ân sủng, chúng ta được kêu gọi tham dự. Vậy thì, cùng với thánh
Augustinô chúng ta cũng phải kêu lên: “Nếu bạn nhìn thấy tình yêu bạn cũng thấy
Chúa Ba Ngôi.” (17)
Thánh Thể: Chúa Giêsu Chiên Hiến Tế đích thực
Giao ước mới và vĩnh cửu trong
máu Con Chiên
9. Sứ mệnh Chúa Giêsu đến ở giữa chúng ta đã được hoàn tất trong Mầu Nhiệm Vượt
Qua. Trên Thánh Giá, nơi Chúa kéo mọi người đến với Người (x. Ga 12, 32), ngay
trước khi “trao Thần Khí”, Người thốt lên: “Thế là đã hoàn tất” (Ga 19, 30).
Trong mầu nhiệm của việc Chúa Kitô vâng phục cho đến chết, dẫu chết trên Thập
Giá (x. Pl 2, 8) giao ước mới và vĩnh cửu đã được thực hiện. Trong thân xác
chịu đóng đinh của Người, tự do của Thiên Chúa và tự do của con người đã gặp
nhau cách trọn vẹn qua một hiệp ước không thể loại bỏ, có hiệu lực một cách
vĩnh viễn. Tội lỗi con người cũng được cứu chuộc một lần cho tất cả nhờ Con
Chúa (Dt 7, 27; 1 Ga 2, 2; 4, 10). Như tôi đã có lần khẳng định, “Cái chết của
Chúa Kitô trên Thánh Giá là đỉnh cao của việc Thiên Chúa quay lại chống đối
chính mình, trong đó Thiên Chúa tự hiến chính mình để nâng con người lên và cứu
độ họ. Đó là tình yêu trong hình thái triệt để nhất.” (18) Trong Mầu Nhiệm Vượt
Qua, sự giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết đã được thực hiện. Khi lập
Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đã nói về “giao ước mới và vĩnh cửu” được ghi dấu
bằng máu của Người (x. Mt 26, 28; Mc 14, 24; Lc 22, 20). Cùng đích sứ mệnh của
Người đã hiện rõ ngay từ khởi điểm cuộc đời công khai của Người. Thật vậy, trên
dòng kênh Giođan, khi Gioan Tẩy Giả thấy Chúa Giêsu đến với mình đã kêu lên:
“Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian” (Ga 1, 29). Thật là ý nghĩa
khi cùng những lời đó đã được lặp lại trong mỗi lần cử hành Thánh Lễ, lúc linh
mục mời gọi chúng ta tiến đến bàn thờ: “Đây Chiên Thiên Chúa Đấng xoá tội trần
gian. Phúc cho ai được mời đến dự bữa tiệc của Người.” Chúa Giêsu là con chiên
vượt qua đích thực đã tự nguyện hiến mình để cứu chuộc chúng ta, và vì thế đã
thực hiện giao ước mới và vĩnh cửu. Bí Tích Thánh Thể chứa đựng tính mới mẻ
trọn vẹn được ban cho chúng ta mỗi khi cử hành. (19)
Lập Bí Tích Thánh Thể
10. Điều này hướng chúng ta
suy tư về việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể trong Bữa Tiệc Li. Việc thiết lập
này diễn ra trong nghi thức bữa ăn tưởng niệm biến cố nền tảng của dân tộc
Israel: Việc giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập. Đây là nghi thức bữa ăn, liên
quan đến việc sát tế con chiên (x. Xh 21, 1- 28, 43- 51), là một việc hồi tưởng
qúa khứ, nhưng đồng thời cũng là một sự hồi tưởng có tính tiên tri, loan báo về
một sự giải thoát sắp đến. Thật vậy, dân đã nhận ra rằng việc giải phóng trước
không mang tính quyết định, bởi vì lịch sử của họ vẫn tiếp tục được ghi vết bởi
nô lệ và tội lỗi. Việc tưởng nhớ cuộc giải phóng xa xưa như vậy đã mở ra cho
ước nguyện và sự chờ mong một ơn cứu độ sâu xa hơn, triệt để hơn, phổ quát và
dứt khoát hơn. Đây là bối cảnh mà trong đó Chúa Giêsu đưa vào tính mới mẻ của
sự trao hiến của Người. Trong kinh ca ngợi, Berakah, Người không chỉ cảm tạ
Chúa Cha vì những biến cố xảy ra trong qúa khứ, nhưng còn để “tán dương” chính
Người. Khi thiết lập Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu báo trước và kiện toàn hi tế
Thập Giá và sự chiến thắng của biến cố phục sinh. Đồng thời Người mặc khải
chính Người là con chiên hiến tế, đã được dự liệu trong kế hoạch của Chúa Cha
ngay từ khi tạo thành thế giới, như được ghi trong Thư Thứ Nhất của Thánh Phêrô
(x. 1, 18- 20). Khi đặt sự trao ban của Người trong bối cảnh này, Chúa Giêsu tỏ
rõ ý nghĩa cứu độ của sự chết và sự phục sinh của Người, mầu nhiệm canh tân
lịch sử và toàn thể vũ trụ. Qủa thật, việc thiết lập Bí tích Thánh Thể chứng tỏ
rằng cái chết của Chúa Giêsu, dẫu tự nó là bạo lực và vô nghĩa, thì trong Người
đã trở nên một hành vi của tình yêu cao cả và là sự giải thoát dứt khoát nhân
loại khỏi tội lỗi.
Hình bóng biến thành sự thật (Figura transit in veritatem)
11. Bằng cách đó, Chúa Giêsu
đưa novum (tính mới mẻ) triệt để của Người vào bữa ăn hiến tế Do Thái cổ xưa.
Đối với chúng ta, bữa ăn đó không còn cần phải lặp lại. Các Giáo phụ nói rất
chính xác, figura transit in veritatem: hình bóng mở đường cho chính sự thật.
Nghi lễ cổ xưa đã kết thúc trọn vẹn và đã được vượt qua một cách dứt khoát bởi
việc trao ban đầy tình thương Con của Thiên Chúa nhập thể. Lương thực sự thật,
chính là Chúa Kitô hiến tế vì chúng ta, dat figuris terminum (trao giới hạn làm
hình bóng). (20) Bằng lệnh truyền của Người “hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”
(Lc 22, 19; 1 Cr 11, 25), Người đòi hỏi chúng ta đáp lại ơn ban của Người và
tái hiện một cách bí tích. Qua những lời này, Chúa bày tỏ ước muốn của Người,
như có thể nói, Giáo Hội được khai sinh từ hi tế của Người, sẽ nhận lãnh hồng
ân này để triển khai hình thức phụng vụ của bí tích, dưới sự hướng dẫn của Chúa
Thánh Thần. Việc tưởng nhớ ân huệ hoàn hảo này không hệ tại chỉ đơn điệu lặp
lại Bữa Tiệc Li, nhưng là cử hành chính Bí tích Thánh Thể, nghĩa là trong sự
mới mẻ triệt để của sự thờ phượng Kitô giáo. Như vậy, Chúa Giêsu để lại cho chúng
ta phận vụ là đi vào “giờ ” của Người. “Bí tích Thánh Thể lôi kéo chúng ta vào
trong chính hành vi tự hiến của Chúa Giêsu. Không phải chỉ đón nhận Ngôi Lời
nhập thể một cách tĩnh tại, chúng ta còn đi vào chính đông năng việc tự hiến
của Người.” (21) Chúa “lôi kéo chúng ta đến với Người.” (22) Sự biến đổi bản
thể bánh và rượu thành Thịt và Máu Người dẫn đưa vào trong thụ tạo nguyên lí
của một sự biến đổi trọn vẹn, một kiểu “hạch phân nguyên tử”, như từ ngữ ngày
nay chúng ta quen dùng, thẩm nhập vào trung tâm của mọi hữu thể, một sự biến
đổi có mục đích khởi động một tiến trình biến đổi thực tại, một tiến trình mà
chung cuộc sẽ dẫn đến việc thay đổi toàn bộ thế giới, đạt tới mức Thiên Chúa sẽ
là tất cả cho mọi người (x. 1 Cr 15, 28).
Chúa Thánh Thần và Bí Tích Thánh Thể
Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần
12. Bằng lời nói và với bánh
và rượu, chính Chúa đã trao cho chúng ta những yếu tố nền tảng của sự thờ
phượng mới. Giáo Hội, Tân Nương của Người, được kêu gọi cử hành tiệc thánh thể
hằng ngày để kính nhớ Người. Như vậy, Giáo Hội làm cho hi tế cứu độ của Tân
Lang trở thành một phần của lịch sử nhân loại, và làm cho nó hiện diện một cách
bí tích trong mọi nền văn hoá. Mầu nhiệm cao cả này được cử hành trong hình thức
phụng vụ mà Giáo Hội, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, triển khai trong thời
gian và không gian. (23) Chúng ta cần một nhận thức mới về vai trò quyết định
mà Chúa Thánh Thần nắm giữ trong sự tiến hoá của hình thức phụng vụ cũng như
trong việc tìm hiểu thấu đáo các mầu nhiệm thánh. Chúa Thánh Thần, ơn huệ khởi
đầu của Chúa Kitô cho những người tin, (24) đã hoạt động ngay từ lúc Tạo Dựng
(x. 1, 2) hiện diện xuyên suốt trong cuộc đời của Ngôi Lời nhập thể: Chúa Giêsu
Kitô được thụ thai bởi Đức Nữ Đồng Trinh Maria do quyền năng Chúa Thánh Thần
(x. Mt 1, 18; Lc 1, 35); vào lúc bắt đầu sứ mệnh công khai, trên bờ kênh
Giođan, Người nhìn thấy Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Người với hình chim bồ
câu (x. Mt 3, 16- 17); Người hành động, nói năng và mừng vui trong Chúa Thánh
Thần (x. Lc 10, 21), và Người đã tự hiến trong Chúa Thánh Thần (x. Dt 9, 14).
Trong phần được gọi là “diễn từ li biệt” do Gioan tường thuật, Chúa Giêsu minh
thị liên kết việc trao ban sự sống của Người trong mầu nhiệm vượt qua với ân
huệ của Chúa Thánh Thần dành cho những kẻ thuộc về Người (x. Ga 16, 7). Một khi
đã sống lại, dẫu còn mang trên thân xác những dấu tích của cuộc khổ nạn, Người
vẫn có thể tuôn đổ Thánh Thần trên họ (x. Ga 20, 22), cho họ được chia sẻ sứ
mệnh của chính Người (x.Ga 20, 21). Lúc đó, Chúa Thánh Thần sẽ dạy các môn đệ
mọi sự và giúp họ nhớ lại tất cả những gì Chúa Kitô đã nói với họ (x. Ga 14,
26), bởi vì Người ngự đến như Thần Chân Lí (x.Ga 15, 26) để hướng dẫn các môn
đệ đi vào sự thật toàn vẹn (x. 16, 13). Theo trình thuật của sách Công Vụ Tông
Đồ, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ cùng nhau quy tụ và cầu nguyện
với Đức Maria vào ngày Hiện Xuống (x. 2, 1- 4) và thôi thúc họ thực hiện sứ
mệnh loan báo Tin Mừng cho mọi dân tộc. Như vậy, chính qua hoạt động của Chúa Thánh
Thần mà Chúa Kitô tiếp tục hiện diện và hoạt động trong Giáo Hội của Người,
khởi đi từ tâm điểm sinh động là Bí tích Thánh Thể.
Chúa Thánh Thần và việc cử
hành Thánh Thể
13. Trên cái nền đó, chúng ta có thể hiểu rõ vai trò Chúa Thánh Thần nắm giữ
trong việc cử hành Thánh Thể, đặc biệt liên quan đến sự biến thể. Các Giáo phụ
ý thức rất điều này rrất rõ. Trong Sách Giáo Lí của mình, Thánh Cyrilô thành
Giêrusalem nhắc nhở rằng chúng ta “nài xin Chúa thương sai Chúa Thánh Thần
xuống trên các lễ vật đã được dọn ra, và biến bánh thành mình Chúa Kitô, rượu
thành máu Chúa Kitô. Những gì Chúa Thánh Thần chạm vào đều được thánh hoá và
được biến đổi trọn vẹn” (25). Thánh Gioan Kim Khẩu cũng ghi nhận rằng linh mục
kêu cầu Chúa Thánh Thần khi cử hành hi tế: (26) như Êlia, thừa tác viên xin
Chúa Thánh Thần xuống để “như hồng ân xuống trên tế vật và mọi tâm hồn nhờ đó
được bừng cháy”(27). Đời sống thiêng liêng của các tín hữu có thể hưởng nhờ ơn
ích lớn lao từ ý thức sâu xa hơn về sự phong phú của kinh nguyện thánh thể; kèm
theo những lời Chúa Kitô thổ lộ trong bữa Tiệc Li, còn có lời cầu xin Chúa
Thánh Thần, kinh nài xin Chúa Cha ban xuống ơn Thánh Thần để bánh và rượu sẽ
trở nên mình và máu Chúa Giêsu Kitô, và để “toàn thể cộng đoàn trở nên thân
mình Chúa Kitô hơn” (28). Thánh Thần mà chủ tế cầu xin ngự xuống trên lễ vật là
bánh rượu trên bàn thờ cũng chính là Thánh Thần quy tụ các tín hữu “thành một
thân thể” và biến đổi họ thành của lễ thiêng liêng đẹp lòng Chúa Cha (29).
Bí Tích Thánh Thể và Giáo Hội
Bí tích Thánh Thể, nguyên lí
tác thành Giáo Hội
14. Qua Bí tích Thánh Thể Chúa
Giêsu lôi kéo mọi tín hữu đi vào “giờ” của Người; Người tỏ bày cho chúng ta mối
liên hệ mà Người muốn thiết lập giữa Người và chúng ta, giữa bản thân Người và
Giáo Hội. Thật vậy, trong hi tế Thập Giá Chúa Kitô sinh ra Giáo Hội như là Hiền
Thê của Người và như chính mình Người. Các Giáo phụ thường suy niệm về mối
tương quan giữa nguồn gốc từ Evà, xuất phát từ xương sườn của Ađam đang ngủ (x.
St 2, 21- 23) với nguồn gốc từ Evà mới, là Giáo Hội, xuất phát từ cạnh sườn
Chúa Kitô, bị vùi trong giấc ngủ của sự chết: Gioan thuật lại, từ cạnh sườn
Chúa Kitô bị đâm thâu, nước và máu chảy ra (x. Ga 19, 34), biểu trưng của các
bí tích (30). Một cái nhìn chiêm niệm “Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19, 37) sẽ dẫn
chúng ta suy tư về mối liên hệ tác thành giữa hi tế của Chúa Kitô, Bí tích
Thánh Thể và Giáo Hội. Giáo Hội “kín múc sự sống từ Thánh Thể” (31). Bởi vì Bí
Tích Thánh Thể làm cho hi tế cứu độ của Chúa Kitô tái hiện, chúng ta phải khởi
đi từ nhận thức rằng “có một ảnh hưởng tác thành của Bí tích Thánh Thể ở ngay
chính cội nguồn của Giáo Hội” (32). Thánh Thể là chính Chúa Kitô, Đấng tự hiến
cho chúng ta và là Đấng tiếp tục xây dựng chúng ta như thân thể của Người. Do
đó, trong mối liên hệ hỗ tương giữa Thánh Thể xây dựng Giáo Hội, và chính Giáo
Hội “làm nên” Thánh Thể (33), nguyên nhân tính đệ nhất được diễn tả trong công
thức trước tiên này: Giáo Hội chỉ có thể cử hành và tôn thờ mầu nhiệm Chúa Kitô
hiện diện trong Thánh Thể chính bởi trước hết Chúa Kitô đã tự hiến cho Giáo Hội
làm lễ hi sinh trên Thánh Giá. Khả năng của Giáo Hội “làm nên” Thánh Thể hoàn
toàn bắt nguồn từ hành vi tự hiến của Chúa Kitô cho Giáo Hội. Ở đây chúng ta có
thể hiểu ý nghĩa những lời của Thánh Gioan rõ ràng hơn: “Người yêu chúng ta trước”(1
Ga 4, 19). Do đó, mỗi khi cử hành Thánh Thể, chúng ta hãy tuyên xưng vai trò ưu
tiên của ân huệ của Chúa Kitô. Ảnh hưởng tác thành của Thánh Thể đối với nguồn
gốc của Giáo Hội biểu tỏ một cách dứt khoát tính ưu tiên cả về trật tự thời
gian lẫn về mặt hữu thể học của sự kiện chính Chúa Kitô đã yêu chúng ta
“trước.” Từ đời đời, Người vẫn là Đấng yêu chúng ta trước.
Bí tích Thánh Thể và sự hiệp
thông Giáo Hội
15. Như vậy, Thánh Thể làm nên
căn tính và hoạt động của Giáo Hội. Đó là lí do tại sao các Kitô hữu ngày xưa
đã dùng cùng một cụm từ, Corpus Christi, để chỉ thân xác Chúa Kitô được sinh ra
bởi Đức Nữ Đồng Trinh Maria, Thánh Thể, và thân mình Giáo Hội Người. (34) Dữ
kiện hiển nhiên về truyền thống đó giúp chúng ta hiểu rõ đặc tính bất khả phân
li giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Chúa Giêsu khi tự hiến làm lễ hi sinh cho chúng
ta, thì trong sự trao ban đó, đã thật sự hướng về mầu nhiệm Giáo Hội. Thật là ý
nghĩa trong Kinh Nguyện Thánh Thể II, khi cầu nguyện Chúa Thánh Thần, lời kinh
sử dụng công thức để cầu cho sự hiệp nhất trong Giáo Hội: “xin cho tất cả chúng
con khi thông phần mình và máu Chúa Kitô được quy tụ nên một nhờ Chúa Thánh
Thần.” Những lời này giúp chúng ta thấy rõ hơn res (công việc) của Bí tích
Thánh Thể là sự hiệp nhất các tín hữu trong sự hiệp thông Giáo Hội. Như vậy, từ
cội nguồn của Giáo Hội, Thánh Thể được coi như mầu nhiệm của sự hiệp thông
(35).
Tương quan giữa Thánh Thể và
sự hiệp thông đã được tôi tớ Chúa là Đức Gioan Phaolô II chỉ ra trong Thông
điệp của ngài, Ecclesia de Eucharistia. Ngài trình bày về việc tưởng niệm Chúa
Kitô như là “sự thể hiện mang tính bí tích cao cả nhất về mối hiệp thông trong
Giáo Hội”(36). Sự duy nhất trong mầu nhiệm hiệp thông giáo hội được thể hiện
một cách cụ thể trong các cộng đồng Kitô giáo, và được canh tân khi cử hành
Thánh Thể, hiệp nhất họ lại đồng thời phân xuất họ thành những Giáo Hội địa
phương, “in quibus et ex quibus una et unica Ecclesia catholica exsistit”
(trong đó và từ đó xuất hiện một Giáo Hội công giáo duy nhất)(37). Sự kiện chỉ
có một Bí tích Thánh Thể được cử hành tại mỗi Giáo phận quy tụ quanh Đức Giám
mục giúp chúng ta hiểu rõ mỗi Giáo Hội địa phương tồn tại trong và từ Giáo Hội
Mẹ thế nào. Thật vậy, “tính duy nhất và bất khả phân của Thánh Thể Chúa hàm
chứa tính duy nhất trong nhiệm thể Người, là Giáo Hội duy nhất và bất khả phân.
Từ tâm điểm Thánh Thể, sự mở rộng cần thiết được thực hiện cho mỗi cộng đoàn cử
hành, cho từng Giáo Hội địa phương. Khi tự cho mình được lôi cuốn vào vòng tay
rộng mở của Chúa, chúng ta được tháp nhập vào Thân Mình Người, duy nhất và bất
khả phân.” (38) Do đó, khi cử hành Bí tích Thánh Thể, mỗi cá nhân người tín hữu
nhận thấy họ thuộc về Giáo hội của họ, nghĩa là, thuộc về Giáo Hội của Chúa
Kitô. Từ hướng nhìn về Thánh Thể như thế, và nếu được tìm hiểu thích đáng thì
sự hiệp thông giáo hội được coi như bản chất đối với người công giáo (39). Một
sự nhấn mạnh vào nền tảng thánh thể của mối hiệp thông giáo hội cũng có thể
đóng góp rất nhiều cho sự đối thoại đại kết đối với các Giáo Hội và những Cộng
Đồng Giáo Hội địa phương chưa hiệp thông trọn vẹn với Toà Phêrô. Thật vậy, một
cách khách quan, Bí tích Thánh Thể kiến tạo một mối liên kết mạnh mẽ về sự hiệp
nhất giữa Giáo Hội Công Giáo và các Giáo Hội Chính Thống, cả hai vẫn duy trì
bản chất đích thực và toàn vẹn về mầu nhiệm Thánh Thể. Đồng thời, nhấn mạnh vào
đặc tính giáo hội của Bí tích Thánh Thể có thể trở nên yếu tố quan trọng cho
cuộc đối thoại với những Cộng Đồng theo truyền thống Cải Cách (40).
Bí tích Thánh Thể và các Bí
tích khác
Tính Bí tích của Giáo Hội
16. Công Đồng Vatican II đã nhắc nhở rằng “mọi bí tích, cũng như các thừa tác
vụ trong Giáo Hội và các hoạt động tông đồ đều gắn liền với Bí Tích Thánh Thể
và quy hướng về đó. Thật vậy, Phép Thánh Thể chí thánh chứa đựng tất cả kho
tàng thiêng liêng của Giáo Hội, đó chính là Chúa Kitô; Người là mầu nhiệm Phục
Sinh của chúng ta; Người là Bánh Hằng Sống, ban sự sống cho nhân loại bằng
chính thịt của Người, thịt đã được sống động nhờ Chúa Thánh Thần và làm cho
người ta được sống. Như thế, người mời gọi và dẫn đưa con người hiến dâng chính
mình, dâng những vất vả của mình, và mọi tạo vật làm một với Người.” (41) Tương
quan chặt chẽ giữa Bí tích Thánh Thể với các bí tích khác cũng như đời sống
Kitô hữu có thể được hiểu đầy đủ nhất khi chúng ta chiêm ngắm mầu nhiệm của
chính Giáo Hội như một bí tích. (42) Về vấn đề này Công Đồng xác quyết rằng
“Giáo Hội, trong Chúa Kitô, chính là một bí tích – một dấu chỉ và khí cụ- của
sự hiệp thông với Thiên Chúa cũng như của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại.”(43)
Như lời thánh Cyprianô nói, cũng như “một dân được quy tụ thành một do bởi sự
hiệp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần,” (44) Giáo Hội cũng là bí
tích của sự thông hiệp ba ngôi như vậy.
Sự kiện Giáo Hội là “Bí tích
cứu độ phổ quát”(45) tỏ rõ phương thế nhiệm cục bí tích sau cùng xác định cách
thức mà Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc duy nhất, qua Chúa Thánh Thần dùng để đi vào
cuộc sống của chúng ta trong những hoàn cảnh cụ thể. Giáo Hội đón nhận và đồng
thời thể hiện mình trong bảy bí tích mà qua đó ơn Chúa tác động một cách cụ thể
trên đời sống các tín hữu, để toàn bộ cuộc sống của họ, được Chúa Kitô cứu
chuộc trở nên sự thờ phượng dâng lên Thiên Chúa. Theo cái nhìn đó, tại đây tôi
muốn hướng sự chú ý vào một số yếu tố đã được các Nghị Phụ trong Thượng Hội
Đồng Giám mục đưa ra, hầu giúp cho chúng ta hiểu rõ mối tương quan của mỗi bí
tích đối với mầu nhiệm Thánh Thể.
I. Bí Tích Thánh Thể và Sự
Khai tâm Kitô giáo
Bí tích Thánh Thể, sự hoàn bị
của việc khai tâm Kitô giáo
17. Nếu Bí tích Thánh Thể thật
sự là nguồn mạch và đỉnh cao của đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội thì đương
nhiên tiến trình khai tâm Kitô giáo phải thường xuyên hướng về việc đón nhận bí
tích này. Như các Nghị Phụ đã trình bày, chúng ta cần phải tự hỏi là trong các
cộng đồng Kitô giáo của chúng ta mối liên kết chặt chẽ giữa Bí tích Thánh Tẩy,
Bí tích Thêm sức, và Bí tích Thánh Thể đã được nhận thức đầy đủ chưa. (46)
Chúng ta đừng quên rằng được rửa tội và được thêm sức là để đón nhận Thánh Thể.
Do đó, việc thực hành mục vụ của chúng ta phải phản ánh một sự nắm vững hơn đăc
tính thống nhất của tiến trình khai tâm Kitô giáo. Bí tích Thánh Tẩy, mà qua đó
chúng ta được kết hợp với Chúa Kitô, (47) được gia nhập Giáo Hội và được làm
con Chúa, là cửa mở đi vào các bí tích. Bí tích Thánh Tẩy làm cho chúng ta nên
chi thể trong Thân Mình Chúa Kitô (x. 1 Cr 12, 13), một dân tư tế. Tuy nhiên,
chính việc tham dự vào hiến tế Thánh Thể mới kiện toàn trong chúng ta những
hồng ân của Bí tích Thánh Tẩy mà chúng ta đã lãnh nhận. Ân huệ của Chúa Thánh
Thần được ban để kiến tạo Thân Mình Chúa Kitô (1 Cr 12) và để làm chứng nhiệt
thành hơn cho việc rao giảng Tin Mừng trong thế giới. (48) Như vậy, Bí tích
Thánh Thể đưa việc khai tâm Kitô giáo đi đến hoàn chỉnh và chiếm vị trí trung
tâm cũng như mục tiêu cho tất cả đời sống bí tích. (49)
Trình tự các bí tích khai tâm
18. Liên quan đến vấn đề này,
chúng ta cần quan tâm đến trình tự các bí tích khai tâm. Hiện có nhiều truyền
thống khác nhau trong Giáo Hội. Có sự khác biệt rõ rệt, một mặt, giữa truyền
thống Giáo Hội Đông Phương (50) và việc thực hành bên Phương Tây liên quan đến
việc khai tâm cho người lớn, (51) và mặt khác, những nghi thức áp dụng cho trẻ
em. (52) Tuy nhiên, những khác biệt này hoàn toàn không thuộc về tín lí, mà chỉ
thuộc lãnh vực mục vụ. Một cách cụ thể là cần phải xem xét những cách thực hành
nào giúp người tín hữu một cách hiệu dụng hơn trong việc đăt Bí tích Thánh Thể
vào tâm điểm, như mục tiêu của toàn bộ tiến trình khai tâm. Trong khi cộng tác
một cách chặt chẽ với những văn phòng hữu trách của Giáo triều Rôma, Những Hội
Đồng Giám Mục cần phải nghiên cứu tính hiệu dụng của những phương thức hiện tại
đối với việc khai tâm Kitô giáo, để các Kitô hữu có thể được trợ giúp, vừa để
trưởng thành qua việc huấn giáo nhận được trong các cộng đồng của chúng ta, lại
vừa giúp cho đời sống họ hướng về Thánh Thể một cách đích thực, để họ có thể
làm chứng cho niềm hi vọng của họ một cách phù hợp với thời đại chúng ta (x. 1
Pr 3, 15).
Việc khai tâm, cộng đồng giáo
hội và gia đình
19. Cần phải ghi nhớ rằng toàn
bộ việc khai tâm Kitô giáo là một tiến trình hoán cải được thực hiện với sự trợ
giúp của ơn Chúa, và sự liên đới thường trực với cộng đồng giáo hội, vừa trong
trường hợp những người lớn tìm cách xin gia nhập Giáo Hội như thường xảy ra
trong những nơi mới được rao giảng Tin Mừng cũng như những miền đã bị tục hoá,
và vừa trong hoàn cảnh các cha mẹ xin cho con cái được lãnh các bí tích. Về vấn
đề này, tôi muốn mời gọi mọi người quan tâm đến tương quan giữa việc khai tâm
Kitô giáo và gia đình. Trong công tác mục vụ, việc đặt gia đình tham gia vào
tiến trình khai tâm luôn là một điều quan trọng. Lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy,
Bí tích Thêm sức và Rước Lễ Lần đầu là những thời điểm trọng đại, không chỉ đối
với cá nhân người lãnh nhận, nhưng còn cho cả gia đình, vốn luôn cần được giúp
đỡ trong vai trò giáo dục bằng những nhân tố khác nhau trong cộng đồng giáo
hội. (53) Ở đây tôi cũng muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc Rước Lễ Lần
Đầu. Đối với nhiều tín hữu, ngày này vẫn là ngày đáng nhớ, dẫu chỉ có tính cách
khơi mào, thì đó vẫn là ngày đầu tiên họ cảm nhận tầm quan trọng được gặp gỡ cá
nhân với Chúa Giêsu. Những chương trình mục vụ giáo xứ cần hết sức đề cao ngày
giờ ý nghĩa đó.
II. Bí tích Thánh Thể và Bí tích Hoà Giải
Mối liên hệ sâu xa
20. Các Nghị phụ đã xác quyết
một cách đúng đắn rằng lòng sùng kính đối với Bí tích Thánh Thể sẽ dẫn đến việc
gia tăng sự quý trọng đối với Bí tích Hoà giải. (54) Do bởi mối tương quan giữa
hai bí tích này, một nội dung giáo lí đích thực về ý nghĩa của Thánh Thể phải
bao hàm lời kêu gọi đi vào con đường thống hối (x. 1 Cr 11, 27- 29). Chúng ta
biết rằng các tín hữu đang bị nhấn chìm trong một nền văn hoá có khuynh hướng
loại bỏ cảm thức tội lỗi (55) và đề cao một thái độ hời hợt nhằm bỏ qua việc
thiết yếu là phải sống trong tình trạng ân sủng để có thể đi đến việc hiệp
thông bí tích một cách xứng đáng. (56) Mất ý thức về tội luôn kéo theo một thái
độ nông cạn nào đó trong việc cảm nhận tình yêu Chúa. Trình bày những yếu tố
trong nghi thức Thánh Lễ giúp thống hối tội lỗi, đồng thời bày tỏ lòng nhân từ
của Thiên Chúa có thể giúp ích rất nhiều cho các tín hữu. (57) Ngoài ra, tương
quan giữa Bí tích Thánh Thể và Bí tích Hoà Giải nhắc nhở chúng ta rằng tội
không bao giờ chỉ là vấn đề thuần tuý cá nhân; nó luôn gây tổn hại cho sự hiệp
thông giáo hội mà chúng ta được kết liên qua Bí tích Thánh Tẩy. Vì lẽ đó, các
Giáo Phụ đã nói rằng Bí tích Hoà Giải phải qua Bí tích Thánh Tẩy dụng công gắng
sức (laboriosus quidam baptismus) (58) và như vậy các ngài có ý nhấn mạnh rằng
kết quả của công việc hoán cải cũng là giúp khôi phục trọn vẹn mối hiệp thông
giáo hội, được biểu lộ trong việc đến với Bí tích Thánh Thể. (59)
Một số quan tâm mục vụ
21. Thượng Hội Nghị đã nhắc
nhở các Giám mục về trách nhiệm mục vụ là phải phát huy trong giáo phận của các
ngài một nội dung sư phạm giáo lí hướng vào việc hoán cải, phát sinh từ đòi hỏi
của Bí tích Thánh Thể, đồng thời cổ động việc năng xưng tội nơi các tín hữu.
Mọi linh mục cần phải quảng đại hi sinh, dấn thân và dành mọi khả năng cho việc
cử hành bí tích Hoà Giải. (60) Liên quan đến vấn đề này thì điều quan trọng là
chính các cha giải tội trong các nhà thờ phải thể hiện tính cách hệ trọng của
bí tích này. Tôi cũng mời gọi các mục tử phải cẩn trọng trong việc cử hành Bí
tích Hoà Giải, và chỉ giới hạn việc xá giải chung cho những trường hợp đã được
phép, (61) bởi vì việc xá giải riêng là hình thức duy nhất vẫn thường dùng.
(62) Trước nhu cầu tái khám phá ơn tha thứ, cần đặt một Phòng Hoà Giải tại mỗi
Giáo phận. (63) Sau cùng, việc xin ân xá nếu thực hành một cách quân bình và đúng
đắn, cho chính mình cũng như cho người chết, có thể giúp ích cho một ý thức mới
về tương quan giữa Bí tích Thánh Thể và Bí tích Hoà Giải. Nhờ phương thế này,
người tín hữu nhận được “ơn tha thứ trước mặt Chúa, thoát khỏi hình phạt tạm do
tội, vì tội đã được tha.” (64) Việc sử dụng ân xá giúp chúng ta ý thức rằng cậy
vào nỗ lực riêng, chúng ta không thể bù đắp sự sai phạm đã gây ra, và tội của
mỗi cá nhân đều gây thiệt hại cả cộng đoàn. Hơn nữa, việc thực hành ân xá không
chỉ liên quan đến tín điều về công trạng vô biên của Chúa Kitô, mà còn về tín
điều các thánh thông công, nhắc nhở chúng ta rằng “chúng ta hiệp nhất khắng
khít với nhau chặt chẽ như thế nào trong Chúa Kitô...cũng như đời sống thiêng
liêng của mỗi người có thể giúp người khác ra sao.”(65) Vì những điều kiện để
đón nhận ân xá đòi phải xưng tội và rước lễ, thì việc thực hành này có thể tích
cực giúp các tín hữu trên hành trình hoán cải và tái khám phá đặc tính trung
tâm của Bí tích Thánh Thể trong đời sống Kitô hữu.
III. Bí tích Thánh Thể và Bí
tích Xức Dầu bệnh nhân
22. Chúa Giêsu không chỉ sai
các môn để ra đi chữa lành bệnh nhân (x. Mt 10, 8; Lc 9, 2, 10, 9); Người còn
thiết lập một bí tích đặc biệt: Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân. (66) Thư Thánh
Giacôbê xác nhận sự có mặt của bí tích này trong Cộng Đồng Kitô hữu tiên khởi
(x. 5, 14- 16). Nếu Bí tích Thánh Thể trình bày những đau khổ và cái chết của
Chúa Kitô biến thành tình yêu như thế nào thì Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân, một
cách riêng, lại nối kết những bệnh nhân với sự hi sinh ban ơn cứu độ cho mọi
người của Chúa Kitô, để cả họ nữa trong mầu nhiệm các thánh thông công, họ có
thể dự phần vào việc cứu chuộc thế giới. Mối tương quan giữa hai bí tích này
trở nên hiển nhiên trong những hoàn cảnh lâm trọng bệnh: “Ngoài việc Xức Dầu
Thánh, Giáo Hội còn ban cho người sắp lìa trần Thánh Thể như của ăn đàng.” (67)
Trên đường về nhà Cha, rước Mình và Máu Chúa Kitô nên như hạt giống của sự sống
đời đời và như sức mạnh của sự phục sinh: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì
có sự sống đời đời và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6, 5). Bởi
vì của ăn đàng giúp cho bệnh nhân nhìn thấy trước toàn bộ Mầu Nhiệm Vượt Qua,
nên việc cử hành phải được luôn sẵn sàng đáp ứng. (68) Việc quan tâm săn sóc
mục vụ dành cho những người đau bệnh mang lại lợi ích thiêng liêng cho toàn thể
cộng đoàn, bởi vì bất cứ điều gì chúng ta làm cho một trong những người anh chị
em bé nhỏ nhất là chúng ta làm cho chính Chúa Giêsu (x. Mt 25, 40)
IV. Bí tích Thánh Thể và Bí
Tích Truyền Chức Thánh
In persona Christi capitis
(nhân danh Chúa Kitô là đầu)
23. Tương quan nội tại giữa Bí
tích Thánh Thể và Bí tích Truyền Chức xuất phát từ chính lời Chúa Giêsu tại
Phòng Trên: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (Lc 22, 19). Vào đêm trước khi
chịu chết, Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể và đồng thời thiết lập chức
tư tế của Giao Ước Mới. Người là linh mục, là của lễ và bàn thờ: trung gian
giữa Thiên Chúa Cha và dân Người (x. Dt 5, 5- 10), lễ vật đền tội (x. 1 Ga 2,
2; 4, 10) Đấng tự hiến trên bàn thờ Thập Giá. Không ai có thể nói “Này là mình
thầy” và “này là máu thầy” mà không nhân danh và thay cho Chúa Kitô, tư tế tối
cao của Giao Ước mới và vĩnh cửu (x. Dt 8- 9). Những cuộc họp trước đây của
Thượng Hội Đồng Giám Mục đã bàn đến vấn đề chức linh mục thừa tác, vừa liên
quan đến bản chất của sứ vụ (69) vừa trong lãnh vực đào tạo ứng sinh. (70) Ở
đây, trong ánh sáng của cuộc thảo luận đã diễn ra trong thời gian họp Thượng
Hội Đồng, tôi thấy cần phải nhắc lại nhiều điểm quan trọng về tương quan giữa
Bí tích Thánh Thể và Bí tích Truyền Chức. Trước hết, chúng ta cần phải một lần
nữa nhấn mạnh rằng liên hệ giữa Bí tích Truyền Chức và Bí tích Thánh Thể được
nhận thấy rõ rệt nhất trong Thánh Lễ, khi Giám mục hay linh mục chủ tế nhân
danh Chúa Kitô là đầu.
Giáo Hội dạy rằng việc thụ
phong linh mục là yếu tố thiết yếu cho việc cử hành Bí tích Thánh Thể thành sự.
(71) Thật vậy, “để phục vụ Giáo Hội trong thừa tác viên thánh chức, chính Chúa
Kitô hiện diện trong Giáo Hội của Người như là Đầu Thân Thể, là Mục Tử đoàn
chiên, là Tư Tế Tối Cao của hi tế cứu chuộc.” (72) Chắc chắn vị tư tế thừa tác
cũng hành động “nhân danh toàn thể Giáo Hội khi dâng lên Thiên Chúa lời cầu
nguyện của Giáo Hội, và trên hết là khi dâng hi tế Thánh Thể.” (73) Do vậy, các
linh mục phải ý thức việc này là trong khi thi hành chức vụ họ không được đăt
chính họ hay những ý kiến cá nhân họ lên trên, mà đăt chính Chúa Giêsu Kitô.
Bất cứ ý đồ nào muốn làm cho mình trở thành trung tâm của cử hành phụng vụ đều
mâu thuẫn với chính căn tính linh mục của họ. Linh mục trước hết là đầy tớ của
mọi người, và phải luôn hành động để là một dấu chỉ quy hướng về Chúa Kitô, một
khí cụ ngoan ngoãn trong bàn tay của Chúa. Điều này được nhận thấy rõ nhất
trong việc ngài khiêm tốn hướng dẫn cộng đoàn phụng vụ, trong sự tuân thủ nghi
thức, đặt hết tâm trí vào đó, đồng thời tránh tất cả những gì tạo ra cảm tưởng
ngài nhấn mạnh thái quá đến con người của mình. Tôi khích lệ các giáo sĩ là hãy
luôn coi việc cử hành Thánh Thể như là một việc phục vụ khiêm hạ dâng lên Chúa
Kitô và Giáo Hội Người. Chức linh mục, như thánh Augustinô nói, là amoris
officium (công việc của lòng yêu mến), (74) đó là công việc của vị tư tế tốt,
người hi sinh mạng sống cho đàn chiên (x. 10, 14-15).
Bí tích Thánh Thể và sự độc
thân linh mục
24. Các Nghị phụ Thượng Hội
Đồng Giám Mục muốn nhấn mạnh rằng chức linh mục thừa tác, qua việc truyền chức
đòi phải trở nên đồng hình đồng dạng trọn vẹn với Chúa Kitô. Trong khi tôn
trọng truyền thống và cách thực hành của các Giáo Hội Đông Phương, thì cần phải
tái khẳng định ý nghĩa sâu xa của việc độc thân linh mục, vẫn được nhìn nhận
một cách đúng đắn như một kho tàng vô giá. Sự lựa chọn độc thân về phía linh
mục, diễn tả một cách thế đặc biệt sự hiến dâng để nên giống Chúa Kitô, cũng
như việc hoàn toàn dâng hiến cho Nước Thiên Chúa. (75) Sự kiện chính Chúa Kitô,
vị linh mục vĩnh cửu, sống sứ mệnh của Người đến độ hi sinh trên Thập Giá trong
tình trạng khiết tịnh, làm nên một điểm quy chiếu vững chắc để hiểu rõ ý nghĩa
của truyền thống Giáo Hội La tinh. Chỉ hiểu độc thân linh mục theo chức năng
của những hạn từ là không đủ. Độc thân thật sự là một phương thế đặc biệt để
khuôn hợp chính mình với chính đường lối của Chúa Kitô. Sự lựa chọn này trước
hết và trên hết mang ý nghĩa hôn ước; đó là nên đồng dạng với con tim của Chúa
Kitô, là Tân Lang hi sinh sự sống mình cho Tân Nương. Kế tục truyền thống cao
qúy của Giáo Hội, cùng với Công Đồng Vatican II (76) và với những vị tiền nhiệm
của tôi trong các triều giáo hoàng, (77) tôi tái khẳng định vẻ cao đẹp cũng như
sự quan trọng của cuộc sống linh mục trong bậc độc thân như một dấu chỉ diễn tả
sự toàn hiến cho Chúa Kitô, cho Giáo Hội và cho Nước Thiên Chúa, và do đó, tôi
tái khẳng định vẫn duy trì độc thân linh mục trong truyền thống La tinh. Sống
đời độc thân linh mục trong sự trưởng thành, hân hoan và hi sinh là một phúc ân
trọng đại cho Giáo Hội và cho cả xã hội nữa.
Sự thiếu linh mục và mục vụ ơn
gọi
25. Trong ánh sáng của tương
quan giữa Bí tích Truyền Chức Thánh và Bí tích Thánh Thể, Thượng Hội Đồng Giám
Mục đã nhìn nhận những khó khăn phát sinh trong nhiều Giáo Phận khác nhau: phải
đối phó với việc thiếu linh mục. Điều này không chỉ xảy ra trong những miền mới
được rao giảng Tin Mừng, nhưng cũng còn trong những quốc gia có truyền thống
Kitô giáo lâu đời. Chắc chắn nếu có một cuộc phân bổ giáo sĩ một cách hài hoà
thì sẽ giúp giải quyết vấn đề. Cần phải có những nỗ lực giúp cổ vũ ý thức thực
hiện vấn đề này trong mọi cấp độ. Các Giám mục nên liên hệ với các Dòng Tu và
những nhóm giáo hội phục vụ trong những nhu cầu mục vụ đa dạng, tuy vẫn tôn
trọng những đặc sủng của các dòng tu này, mời gọi các giáo sĩ mở rộng hơn việc
phục vụ Giáo Hội bất cứ đâu cần đến, cho dẫu phải hi sinh. (78) Thượng Hội Đồng
Giám Mục cũng đề cập đến những sáng kiến mục vụ nhằm phát huy, đặc biệt trong
giới trẻ, một thái độ mở rộng tâm hồn cho ơn gọi làm linh mục. Tình hình không
thể giải quyết bằng những quyết định có tính cách thuần tuý thực tiễn. Các Giám
mục không được bằng bất cứ giá nào, ứng phó trước những day dứt thực tế và quá
rõ về tình trạng thiếu linh mục, mà không thực hiện việc phân định ơn gọi một
cách thích ứng, hoặc chấp nhận một sự giáo dục tại chủng viện cũng như phong
chức các ứng sinh thiếu những phẩm chất thiết yếu cho sứ vụ linh mục (79). Một
giáo sĩ được huấn luyện không đầy đủ, được chấp thuận thụ phong mà không có sự
biện phân cần thiết, thì sẽ khó trình bày một chứng tá khả dĩ khơi lên nơi
người khác ước muốn quảng đại đáp lại tiếng gọi của Chúa Kitô. Mục vụ ơn gọi
cần lôi kéo toàn thể cộng đồng Kitô giáo trong mọi lãnh vực đời sống của nó.
(80) Hẳn nhiên, công việc mục vụ này trên mọi bình diện cũng phải bao gồm cả
việc khám phá những vấn đề trong gia đình, như sự dửng dưng cũng như cả sự
chống lại ý tưởng ơn gọi làm linh mục. Các gia đình phải quảng đại đón nhận
hồng ân sự sống và giáo dục con cái biết mở rộng tâm hồn thực hiện ý Chúa. Nói
tóm lại, các gia đình phải có can đảm đặt trước người trẻ sự chọn lựa dứt khoát
bước theo Chúa Kitô, và cho họ thấy điều đó chuốn hút chừng nào.
Sự biết ơn và niềm hi vọng
26. Sau cùng, chúng ta cần
phải có đức tin và đức cậy vững vàng hơn vào Thiên Chúa quan phòng. Dù có thiếu
linh mục tại một số nơi, chúng ta không bao giờ để mất niềm tin tưởng rằng Chúa
Kitô tiếp tục kêu gọi những người bỏ mọi sự lại đằng sau trọn vẹn, dâng hiến
đời mình để cử hành các mầu nhiệm thánh, rao giảng Tin Mừng và chăm sóc đàn
chiên. Về điểm này, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn đối với toàn thể Giáo Hội vì
các Giám mục và linh mục thi hành sứ vụ của mình với lòng trung thành, tận tuỵ,
và nhiệt thành. Đương nhiên Giáo Hội cũng biết ơn đối với các phó tế, những
người nhận sự đặt tay “không phải vì chức linh mục mà để phục vụ.” (81) Như
Thượng Hội Đồng Giám mục khuyến nghị, tôi bày tỏ lời cảm ơn đặc biệt đối với
Hồng Ân Đức Tin (Fidei Donum) là các linh mục đang làm việc một cách trung
thành và quảng đại để xây dựng cộng đồng bằng việc loan báo lời Thiên Chúa và
bẻ Bánh Sự Sống, hiến trọn năng lực của mình để phục vụ sứ mệnh của Giáo Hội.
(82) Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì các linh mục đó đã chịu đau khổ, dẫu phải hi
sinh sự sống mình để phục vụ Chúa Kitô. Tấm gương của các ngài làm chứng một
cách hùng hồn sống đời linh mục trọn vẹn nghĩa là gì. Những mẫu gương ấy là
những chứng tá cảm động có thể thôi thúc nhiều bạn trẻ bước theo Chúa Kitô,
trải rộng đời mình cho tha nhân, và như vậy họ khám phá ra sự sống đích thực.
V. Bí tích Thánh Thể và Bí
tích Hôn Phối
Thánh Thể, một bí tích hôn ước
27. Thánh Thể, Bí tích của đức
ái, có một tương quan đặc biệt với tình yêu của người nam và người nữ kết hợp
trong bí tích hôn phối. Đào sâu mối tương quan này là cần thiết trong thời đại
hiện nay. (83) Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thường nói về tính cách hôn ước
của Bí tích Thánh Thể và tương quan đặc biệt của Bí tích này với Bí tích Hôn
Phối: “Thánh Thể là bí tích của ơn cứu chuộc chúng ta. Đó là Bí tích của Tân
Lang và Tân Nương.” (84) Hơn nữa, “ toàn thể đời sống Kitô hữu mang dấu ấn tình
yêu phu phụ của Chúa Kitô và Giáo Hội. Ngay trong Bí tích Thánh Tẩy, cửa ngõ đi
vào Dân Thiên Chúa, là một mầu nhiệm hôn ước; có thể nói đó là một sự tắm rửa
có tính hôn lễ diễn ra trước lễ hôn phối, là Bí tích Thánh Thể.” (85) Bí tích
Thánh Thể tăng cường một cách vô giới hạn sự kết hợp bất khả phân li và tình
yêu của mỗi cuộc hôn nhân Kitô giáo. Nhờ hiệu lực của Bí tích này, dây hôn phối
liên kết một cách sâu nhiệm với sự kết hợp mang đặc tính Thánh Thể của Chúa
Kitô là Tân Lang với Tân Nương của Người là Giáo Hội (x. Ep 5, 31- 32). Sự ưng
thuận mà vợ chồng tỏ bày trong Chúa Kitô, kiến tạo họ thành một cộng đồng tình
yêu và sự sống, cũng có một chiều kích thánh thể. Thật vậy, trong thần học
Thánh Phaolô, tình yêu vợ chồng là một dấu chỉ bí tích của tình yêu Chúa Kitô
đối với Giáo Hội của Người, một tình yêu đạt đỉnh cao trên Thánh Giá, một sự
diễn tả cuộc “hôn phối” của Người với nhân loại và đồng thời nói lên nguồn mạch
và tâm điểm của Bí tích Thánh Thể. Vì lí do đó, Giáo Hội bày tỏ sự gần gũi
thiêng liêng đặc biệt với tất cả những ai đã xây dựng gia đình trên nền tảng Bí
tích Hôn phối. (86) Gia đình- Giáo Hội tại gia (87) là một môi trường ưu tiên
của đời sống Giáo Hội, nhất là vì vai trò quyết định của nó trong việc giáo dục
Kitô đối với trẻ em. (88) Trong bối cảnh này, Thượng Hội Đồng Giám Mục cũng kêu
gọi mọ người cần nhận thức sứ mệnh duy nhất của người nữ trong gia đình và
trong xã hội, một sứ mệnh cần phải bảo vệ, phải che chở và đề cao. (89) Hôn
nhân và chức làm mẹ biểu thị những thực tại nền tảng không bao giờ được hạ
thấp.
Bí tích Thánh Thể và tính duy
nhất của hôn nhân
28. Trong ánh sáng của mối
tương quan nội tại giữa hôn nhân, gia đình và Bí tích Thánh Thể, chúng ta có
thể chú trọng tới một số vấn đề mục vụ. Sợi dây trung thành, độc nhất và bất
khả phân nối kết Chúa Kitô và Giáo Hội tìm thấy sự diễn tả mang tính bí tích
trong mầu nhiệm Thánh Thể, liên quan đến dữ kiện nhân loại học nền tảng, qua đó
một người nam kết hợp một cách tự nhiên với một người nữ và ngược lại (x. St 2,
24, Mt 19, 5). Trên nền tảng suy tư đó, các Giám Mục trong Thượng Hội Đồng đã
nhắc đến vấn đề thực hành mục vụ liên quan đến những người được nghe giảng Tin
Mừng từ những nền văn hoá còn thực hành chế độ đa thê. Những người sống trong
hoàn cảnh đó mở rộng tâm hồn đón nhận đức tin Kitô giáo, cần được giúp đỡ để
hội nhập quy trình- đời sống của họ với tính mới mẻ triệt để của Chúa Kitô.
Trong thời gian dự tòng, Chúa Kitô gặp gỡ họ trong chính hoàn cảnh đặc thù của
họ và mời gọi họ đón nhận trọn vẹn sự thật về tình yêu, thực hiện bất cứ hi
sinh nào cần thiết để đạt đến sự hiệp thông giáo hội trọn vẹn. Giáo Hội đồng
hành với họ trong sự quan tâm mục vụ, thật nhẹ nhàng nhưng cương quyết, (90) mà
trên hết, tỏ cho họ thấy ánh sáng chiếu toả trên tự nhiên và tình yêu con người
qua các mầu nhiệm Kitô giáo.
Bí tích Thánh Thể và tính bất
khả phân li của hôn nhân
29. Nếu Bí tích Thánh Thể diễn
tả đặc tính bất khả phế bỏ tình yêu của Chúa Kitô đối với Giáo Hội của Người
thì chíng ta hiểu được tại sao tình yêu ấy, liên quan đến Bí tích Hôn Phối, hàm
chứa đặc tính bất khả phân li gắn liền với mọi tình yêu chân chính. (91) Có một
lí do trong việc quan tâm mục vụ mà Thượng Hội Đồng Giám Mục dành cho những
hoàn cảnh đau khổ qua đó một số tín hữu phải cam chịu khi họ đã cử hành Bí tích
Hôn Phối, nhưng lại li dị và tái hôn. Điều này tỏ rõ một vấn đề mục vụ phiền
toái và phức tạp, cũng thực là một sự giáng phạt cho xã hội đương đại, và là
một vấn đề càng ngày càng ảnh hưởng tới cả cộng đồng Công Giáo. Những mục tử
của Giáo Hội, ngoài lòng mộ mến sự thật, bó buộc phải cứu xét những hoàn cảnh
khác biệt nhau một cách cẩn thận, để có thể đưa ra sự hướng dẫn thiêng liêng
thích hợp cho những tín hữu liên quan. (92) Thượng Hội Đồng Giám Mục xác định
việc thực hành của Giáo Hội, dựa trên Kinh Thánh (Mc 10, 2- 12), không chấp
nhận cho những người li dị và tái hôn đón nhận các bí tích, bởi vì tình trạng
và điều kiện đời sống của họ mâu thuẫn một cách khách quan với sự kết hợp yêu
thương giữa Chúa Kitô và Giáo Hội, được biểu thị và tái hiện trong Bí tích
Thánh Thể. Tuy nhiên, những người li dị và tái hôn vẫn thuộc về Giáo Hội, Giáo
Hội luôn đồng hành với họ trong sự quan tâm đặc biệt và khuyến khích họ hết sức
sống đời sống Kitô hữu bằng việc thường xuyên tham dự Thánh Lễ, dẫu không được
rước lễ, lắng nghe Lời Chúa, chầu Thánh Thể, cầu nguyện, tham gia vào đời sống
cộng đồng, đối thoại tin tưởng với một linh mục hay một vị linh hướng, nhiệt
thành với việc bác ái và thực hành việc thống hối, dấn thân vào việc giáo dục
con em của họ.
Khi những nghi ngờ chính đáng
nêu ra về tính hợp pháp của Bí tích Hôn Nhân trước, việc điều tra cẩn thận phải
được tiến hành để xác định xem những nghi ngờ này có nền tảng vững chắc không.
Do đó, cần phải bảo đảm sự có mặt của các toà án Giáo Hội địa phương, phải hoàn
toàn tuân theo giáo luật, những đặc tính mục vụ, cùng hoạt động phù hợp và mau
chóng của những toà án này (94). Mỗi Giáo Phận phải có đủ số người được chuẩn
bị cần thiết để các toà án Giáo Hội có thể hoạt động một cách hiệu quả. Tôi
nhắc lại rằng “đưa hoạt động thuộc về quy chế của Giáo Hội càng ngày càng gần
hơn với người tín hữu là một trách vụ nặng nề” (95). Đồng thời, không được chăm
sóc mục vụ nếu có điều gì đó đi ngược lại với luật lệ. Đúng hơn, chúng ta phải
khởi đi bằng cách giả định rằng điểm căn bản gặp gỡ giữa lề luật và chăm lo mục
vụ là lòng yêu mến sự thật: sự thật chẳng bao giờ là thuần tuý trừu tượng,
nhưng là “một phần của hành trình Kitô giáo và nhân linh của mỗi tín hữu” (96).
Cuối cùng, khi mà sự vô hiệu hoá dây hôn phối không được công bố và những hoàn
cảnh khách quan không thể nào giúp chấm dứt sự chung sống này thì Giáo Hội
khuyến khích những thành phần tín hữu đó cam kết sống mối tương quan của ho
trong sự trung thành với những đòi hỏi của luật Chúa, như thể bạn hữu, như anh
và chị em; như vậy họ có thể được trở lại với bàn tiệc Thánh Thể, khi họ chú
tâm giữ việc thực hành đã được thiết lập và chuẩn nhận trong Giáo Hội liên quan
về vấn đề này. Một đường hướng như thế, nếu khả thi và đem lại ích lợi, phải
được các mục tử hỗ trợ bằng những sáng kiến thích hợp trong Giáo Hội. Thực hành
này không bao giờ bao hàm việc chúc lành những mối tương quan này kẻo gây ra
những hiểu lầm nơi các tín hữu, bởi liên quan đến giá trị đích thực của hôn
nhân (97).
Đứng trước bối cảnh văn hoá
phức tạp mà Giáo Hội phải ứng phó trong nhiều quốc gia, Thượng Hội Đồng Giám
Mục cũng góp ý cần dành sự quan tâm mục vụ tối đa để huấn luyện các cặp vợ
chồng chuẩn bị hôn phối, và để nắm rõ trước những xác quyết của họ liên quan
đến những bó buộc đòi hỏi cho tính hợp pháp của Bí tích Hôn Phối. Một sự phân
định nghiêm túc trong vấn đề này sẽ giúp tránh được những tình huống mà những
quyết định nông nổi hoặc những lí do phiến diện dẫn hai người trẻ bước vào đảm
nhận những trách nhiệm mà họ không thể thực tâm gánh nổi. (98) Sự thiện hảo mà
Giáo Hội cũng như xã hội xét như toàn thể, chờ mong nơi hôn nhân và gia đình
xây dựng trên đó thật lớn lao đến nỗi cần nhờ đến một sự dấn thân toàn diện
trong mục vụ cho lãnh vực đặc biệt này. Hôn nhân và gia đình là những tổ chức
cần phải được đề cao và bảo vệ khỏi bất cứ một sự sai lạc nào trong bản chất
đích thực của nó, bởi vì bất cứ điều gì làm tổn thương đến hôn nhân gia đình
thì cũng làm tổn hại cho chính xã hội.
Bí tích Thánh Thể và cánh
chung học
Thánh Thể: một ơn thiêng cho
con người trên đường lữ hành
30. Nếu thật sự các Bí tích là
một phần thực tại của Giáo Hội lữ hành tiến bước trong lịch sử (99), hướng về
sự biểu dương trọn vẹn vinh quang của Chúa Kitô phục sinh, thì cũng là thật,
đặc biệt trong phụng vụ Bí tích Thánh Thể, các Bí tích cho chúng ta thật sự
hưởng trước sự viên mãn chung cuộc mà mỗi người và mọi thụ tạo đều hướng đến
(x. Rm 8, 19 tt.). Con người được tạo dựng để hưởng hạnh phúc đích thực và vĩnh
cửu mà chỉ tình yêu của Thiên Chúa mới có thể trao ban. Nhưng tự do đã bị
thương tổn của chúng ta sẽ lạc hướng nếu nó đã không cảm nhận được điều gì của
sự viên thành tương lai đó. Hơn nữa, để bước đi đúng hướng, tất cả chúng ta cần
được hướng dẫn tiến về cùng đích của chúng ta. Đích điểm đó là chính Chúa Kitô,
Đấng chiến thắng tội lỗi và sự chết, là Đấng hiện diện với chúng ta theo một
cách thế đặc biệt trong cử hành Thánh Thể. Dù chúng ta vẫn còn là “khách lạ và
lữ hành” trong trần gian này (1 Pr 2, 11) thì qua đức tin, chúng ta đã được
tham dự trọn vẹn vào sự sống lại. Mở ra chiều kích cánh chung một cách mạnh mẽ,
Bàn tiệc Thánh Thể trợ giúp sự tự do của chúng ta khi chúng ta tiếp tục cuộc lữ
hành.
Bàn tiệc cánh chung
31. Suy tư về mầu nhiệm này, chúng
ta có thể nói rằng sự xuất hiện của Chúa Giêsu đã đáp ứng một sự chờ mong hiển
hiện trong dân Israel, trong toàn thể nhân loại và cuối cùng trong chính thụ
tạo. Bằng việc tự hiến, Người đã chính thức khai mở thời đại cánh chung. Chúa
Kitô đến để quy tụ Dân Thiên Chúa đã bị tản lạc (Ga 11, 52) và công khai bày tỏ
ý muốn của Người là quy tụ toàn thể cộng đồng giao ước, để thực hiện trọn vẹn
những lời Thiên Chúa đã hứa cho cha ông (Gr 23, 3; Lc 1, 55, 70). Khi gọi Nhóm
Mười Hai, được coi như liên hệ tới mười hai chi tộc Israel, và theo lệnh truyền
Người chỉ thị cho họ trong Bữa Tiệc Li trước cuộc khổ hình ban ơn cứu chuộc, để
tưởng nhớ đến Người, Chúa Giêsu đã tỏ cho thấy rằng Người muốn chuyển giao cho
toàn thể cộng đồng mà Người đã thiết lập, qua dòng lịch sử, trở nên dấu chỉ và
khí cụ của sự quy tụ cánh chung đã khởi sự trong Người. Bởi đó, mỗi cuộc cử
hành Thánh Thể đều hoàn tất một cách bí tích cuộc quy tụ cánh chung của Dân
Chúa. Đối với chúng ta, bữa tiệc cánh chung thật sự là một sự hưởng nếm trước bữa
tiệc sau cùng mà các tiên tri báo trước (x. Is 25, 6- 9) cũng như được trình
bày trong Tân Ước như “hôn lễ Con Chiên” (Kh 19, 7- 9), được cử hành trong niềm
hân hoan của sự hiệp thông các thánh (100).
Cầu nguyện cho người chết
32. Cử hành Thánh Thể, chúng
ta loan truyền Chúa đã chịu chết và sống lại, và sẽ lại đến, là một bảo chứng
cho vinh quang mai sau, khi thân xác chúng ta được vinh hiển. Cử hành việc
tưởng niệm ơn cứu độ tăng cường niềm hi vọng của chúng ta vào sự phục sinh thân
xác, cũng như vào điều có thể được gặp lại, mặt đối mặt, những người đã ra đi
trước chúng ta, đã được ghi dấu đức tin. Trong bầu khí đó, cùng với các Nghị
Phụ, tôi muốn nhắc lại cho toàn thể tín hữu về sự quan trọng của việc cầu
nguyện cho người chết, nhất là dâng Thánh Lễ cho họ, để một khi đã được thanh
tẩy, họ có thể được vào hưởng nhan Chúa. (101) Việc tái khám phá chiều kích
cánh chung tiềm ẩn trong Bí tích Thánh Thể, được cử hành và tôn thờ sẽ giúp
nâng đỡ chúng ta trên con đường lữ hành và khích lệ chúng ta trong niềm hi vọng
được hưởng phúc vinh quang (Rm 5, 2; Tt 2, 13).
Bí tích Thánh Thể và Đức Trinh
Nữ Maria
33. Từ mối tương quan giữa Bí
tích Thánh Thể và những Bí tích riêng biệt, và từ ý nghĩa cánh chung của những
mầu nhiệm thánh, hiện lên toàn cảnh đời sống của người Kitô hữu, một cuộc sống
được kêu gọi trong mọi nơi mọi lúc trở thành một hành vi thờ phượng, một của lễ
đẹp lòng dâng lên Thiên Chúa. Dù chúng ta vẫn còn đang hành hương tiến về niềm
hi vọng thành toàn, điều này không có nghĩa là chúng ta không được diễm phúc
nhận ra rằng những hồng ân Thiên Chúa ban cho chúng ta đã được thấy hoàn thành
nơi Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa cùng là Mẹ chúng ta. Xác hồn Mẹ Maria
được lên trời là một dấu chỉ vững chắc cho chúng ta, bởi vì nó tỏ cho chúng ta,
khi chúng ta đang hành hương trong thời gian, mục tiêu tối hậu của điều mà Bí
tích Thánh Thể đã cho chúng ta, ngay từ bây giờ hưởng nếm trước.
Nơi Mẹ Maria chí thánh, chúng
ta cũng thấy phương thức “nhiệm tích” đã được Thiên Chúa thực hiện cách trọn
hảo để xuống gặp gỡ các thụ tạo của Người hầu thực hiện công trình cứu chuộc.
Từ Truyền Tin cho đến Hiện Xuống, Mẹ Maria miền Nazareth xuất hiện như một
người mà sự tự do hoàn toàn hướng mở về ý muốn Thiên Chúa. Sự thụ thai vô nhiễm
nguyên tội của Mẹ được mặc khải chính ngay tại sự tuân phục vô điều kiện của Mẹ
đối với Lời Thiên Chúa. Niềm tin vâng phục đáp trả việc Chúa làm khuôn đúc cuộc
đời Mẹ trong mọi lúc. Là một trinh nữ lắng tâm nghe lời Chúa, Mẹ sống hoàn toàn
thuận theo ý muốn của Người; Mẹ tích chứa trong lòng những lời đến với Mẹ từ
Thiên Chúa, đan dệt lại như một bức tranh khảm, Mẹ học để hiểu sâu xa hơn những
lời ấy (Lc 2, 19, 51); Mẹ Maria là một Tín Hữu tuyệt vời, đặt mình một cách tín
thác trong bàn tay Thiên Chúa, buông theo ý muốn của Người. (102) Mầu nhiệm này
lại sâu khuất hơn khi Mẹ hết lòng cộng tác vào sứ mệnh cứu độ của Chúa Giêsu.
Theo cách diễn tả của Công Đồng Vatican II, “Đức Trinh Nữ đã tiến bước trong
cuộc lữ hành đức tin, trung thành hiệp nhất với Con cho đến bên thập giá, giữ
vững kế hoạch của Thiên Chúa (Ga 19, 25), Mẹ đã đau đớn chịu khổ cực với Con
một của mình và dự phần vào hi lễ của Con, với tấm lòng của một người mẹ hết
tình ưng thuận hiến tế lễ vật do lòng mình sinh ra. Và cuối cùng, chính Chúa Giêsu
Kitô khi hấp hối trên thập giá đã trối Ngài làm Mẹ của môn đệ qua lời này: ‘
Thưa Bà, này là Con Bà’” (x. Ga 19, 26- 27) (103). Từ Truyền Tin cho đến Thập
Giá, Mẹ Maria là Đấng đã đón nhận Ngôi Lời trở thành xác phàm trong lòng Mẹ và
đã giữ thinh lặng cho đến chết. Sau cùng, chính Mẹ đã ôm trong vòng tay Mẹ thân
xác bất động của Đấng đã thật sự yêu “cho đến cùng” (Ga 13, 1).
Vì lẽ đó, mỗi lần chúng ta đến
gần Mình và Máu Chúa Kitô trong phụng vụ Thánh Thể, chúng ta cũng hướng về Mẹ
là Đấng mà bằng sự trung tín trọn hảo đã đón nhận hi tế của Chúa Kitô thay cho
toàn thể Giáo Hội. Các Nghị Phụ tuyên bố một cách đúng đắn rằng “Mẹ Maria khai
mào sự tham dự của Giáo Hội trong hiến tế của Đấng Cứu Chuộc.” (104) Mẹ là Đấng
Vô Nhiễm, Đấng đã đón nhận ân huệ của Thiên Chúa một cách vô điều kiện và kết
hiệp với công trình cứu chuộc của Người. Đức Maria thành Nazareth, hình tượng
của Giáo Hội khai sinh, mẫu mực cho mỗi người chúng ta, được gọi để đón nhận
hồng ân mà Chúa Giêsu dâng hiến trong Bí tích Thánh Thể.
PHẦN HAI:
BÍ TÍCH THÁNH THỂ, MỘT MẦU
NHIỆM ĐỂ CỬ HÀNH
“Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi rời
đâu; chính Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực” (Ga 6, 32)
Luật cầu nguyện và luật đức tin (Lex orandi et lex credendi)
34. Các
Nghị Phụ suy tư nhiều về tương quan nội tại giữa đức tin đối với Thánh Thể và
việc cử hành Thánh Thể khi chỉ ra sự liên kết giữa luật cầu nguyện (lex orandi)
và luật đức tin (lex credendi), đồng thời nhấn mạnh vai trò ưu tiên của hành vi
phụng vụ. Bí tích Thánh Thể phải được cảm nhận như một mầu nhiệm của đức tin,
được cử hành một cách xác thực cùng với ý thức rõ ràng rằng “ trí khôn dựa vào
đức tin (intellectus fidei) trước tiên phải đặt tương quan vào hành vi phụng vụ
của Giáo Hội.” (105) Suy tư thần học trong lãnh vực này không được cắt rời khỏi
trật tự bí tích mà chính Chúa Kitô đã lập. Mặt khác, hành vi phụng vụ không bao
giờ được coi như phái sinh, tách rời khỏi mầu nhiệm đức tin. Đức tin của chúng
ta và phụng vụ Thánh Thể cả hai cùng có chung một nguồn cội, trong cùng một
biến cố: sự tự hiến của Chúa Kitô trong Mầu Nhiệm Vượt Qua.
Cái
Đẹp và Phụng vụ
35. Mối
quan hệ giữa đức tin và phụng tự lộ rõ một cách đặc biệt trong chiều kích thần
học và phụng vụ về cái đẹp. Cũng như phần còn lại của Mặc Khải Kitô giáo, phụng
vụ có một mối liên hệ sâu xa với cái đẹp: nó là vẻ rạng ngời của chân lí
(veritatis splendor). Phụng vụ là sự biểu tỏ sáng ngời về mầu nhiệm phục sinh,
trong đó Chúa Kitô lôi kéo chúng ta đến với Người và kêu gọi chúng ta đi vào
hiệp thông. Như Thánh Bônaventura đã nói, trong Chúa Giêsu chúng ta chiêm ngắm
vẻ đẹp và sự sáng ngời tại chính nguồn cội của nó. (106) Đây không chỉ thuộc về
thẩm mĩ học, nhưng còn là cách thế cụ thể trong đó sự thật về tình yêu của
Thiên Chúa trong Chúa Kitô gặp gỡ chúng ta, lôi cuốn chúng ta và làm chúng ta
say mê, giúp chúng ta vượt thoát khỏi chính mình và hướng chúng ta về ơn gọi
đích thực của chúng ta, là tình yêu. (107) Thiên Chúa tự để cho mình được nhìn
thấy trước trong thụ tạo, trong cái đẹp và sự hài hoà của vũ trụ (Kn 13, 5; Rm
1, 19- 20). Trong Cựu Ước chúng ta nhận thấy nhiều dấu chỉ về sự uy hùng của
quyền năng Thiên Chúa khi Người biểu dương vinh quang Người trong những việc lạ
lùng giữa Tuyển Dân (Xh 14; 16, 10; 24, 12- 18; Ds 14, 20- 23). Trong Tân Ước
sự hiển dương vẻ đẹp này đạt đến sự toàn vẹn sau cùng nơi mặc khải của Thiên
Chúa trong Chúa Giêsu Kitô: (108) Chúa Kitô là sự hiển dương toàn mãn về vinh
quang Thiên Chúa. Trong sự tôn vinh Chúa Con, vinh quang của Chúa Cha toả rạng
và được thông đạt (Ga 1, 14; 8, 54; 12, 28; 17, 1). Tuy nhiên nét đẹp này không
chỉ là sự hài hoà về tính cân đối và hình thể; “giữa thế nhân ngài vô song
tuyệt mĩ” (Tv 45 [44], 3), nhưng một cách huyền nhiệm, còn là “đấng chẳng còn
dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì
khiến chúng ta ưa thích” (Is 53, 2). Chúa Giêsu Kitô tỏ cho chúng ta thấy sự
thật về tình yêu có thể biến đổi cả bí ẩn về sự chết thành ánh sáng rạng ngời
của sự sống lại. Ở đây vẻ rạng ngời của vinh quang Thiên Chúa vượt quá mọi vẻ
đẹp trần gian. Vẻ đẹp chính thực nhất là tình yêu của Thiên Chúa, đã được mặc
khải trọn vẹn cho chúng ta trong mầu nhiệm vượt qua.
Vẻ đẹp
của phụng vụ là một phần của mầu nhiệm này; nó là sự diễn tả cao siêu nhất về
vinh quang Thiên Chúa, và theo một nghĩa nào đó, là cái nhìn thoáng về Nước
Trời ngay trên trần gian. Cuộc tưởng niệm hi tế cứu độ của Chúa Giêsu hàm chứa
một chút nào đó vẻ đẹp ấy, vẻ đẹp mà các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan chứng nhận
khi Thầy, trên đường lên Giêrusalem đã biến hình trước mắt các ông (Mc 9, 2). Do
đó, cái đẹp không chỉ là nét trang trí, nhưng còn hơn thế, là yếu tố cơ bản của
hành vi phụng vụ, bởi vì nó là một thuộc tính của Thiên Chúa và mặc khải của
Người. Những nhận định này sẽ giúp chúng ta quan tâm đúng mực để hành vi phụng
vụ phản chiếu vẻ rạng ngời sâu thẳm của nó.
Cử hành Thánh Thể, công việc của “trọn vẹn Chúa Kitô” (Christus Totus)
Christus totus in capite et in
corpore (Trọn vẹn Chúa Kitô đầu và thân mình)
36. “Chủ thể” của vẻ đẹp sâu
xa của phụng vụ là chính Chúa Kitô, phục sinh và vinh quang trong Chúa Thánh
Thần, Đấng bao quát Giáo Hội trong công trình của Người. (109) Ở đây chúng ta
có thể nhớ lại một câu nói đầy ý nghĩa của Thánh Augustinô diễn tả một cách rõ
nét động năng của đức tin thích hợp với Bí tích Thánh Thể. Vị Giám Mục vĩ đại
thành Hippo, khi trình bày đặc biệt về mầu nhiệm Thánh Thể, nhấn mạnh sự kiện
Chúa Kitô đồng hoá chúng ta với chính Người: “Bánh mà bạn thấy trên bàn thờ,
được thánh hoá bởi lời Thiên Chúa, là mình Chúa Kitô. Chén thánh, hay đúng hơn,
chất thể mà chén thánh chứa đựng, được thánh hoá bởi lời Chúa, là máu Chúa
Kitô. Qua những dấu chỉ này, Chúa Kitô muốn kí thác cho chúng ta mình và máu
Người đã đổ ra để tha thứ tội lỗi chúng ta. Nếu các bạn đón nhận cách chính
đáng, chính các bạn là những gì các bạn đã đón nhận.” (110) Do đó, “chúng ta
không chỉ trở nên các Kitô hữu, mà còn trở nên chính Chúa Kitô.” (111) Qua đó,
chúng ta có thể chiêm ngắm công việc mầu nhiệm của Thiên Chúa, đang tạo ra một
sự hiệp nhất sâu xa giữa chúng ta và Chúa Giêsu: “Chúa Kitô không ở đầu mà
không ở trong thân thể; Người trọn vẹn ở trong đầu cũng như trong thân thể.”
(112)
Bí tích Thánh Thể và Chúa Kitô
phục sinh
37. Bởi phụng vụ Thánh Thể tự
nền tảng là công việc của Thiên Chúa (actio Dei), đưa dẫn chúng ta vào trong
Chúa Kitô qua Chúa Thánh Thần, nên cơ cấu nền tảng của nó không phải là điều gì
trong năng quyền của chúng ta có thể thay đổi, cũng không thể theo những trào
lưu hiện đại. Cũng ở đây một phát biểu không thể phản bác của Thánh Phaolô được
áp dụng: “không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là
Đức Giêsu Kitô” (1 Cr 3, 11). Thêm nữa, chính vị Tông Đồ Dân Ngoại xác quyết
với chúng ta rằng, liên quan đến Bí tích Thánh Thể, ngài không trình bày giáo
huấn của ngài nhưng điều chính ngài đã đón nhận (x.1 Cr 11, 23). Việc cử hành
Thánh Thể tiềm ẩn và hàm chứa Truyền Thống sống động. Giáo Hội cử hành hi tế
Thánh Thể trong sự tuân phục lệnh truyền của Chúa Kitô, dựa trên cảm nhận của
mình về Chúa Phục Sinh và sự tuôn trào Chúa Thánh Thần. Vì lí do đó, từ khởi
đầu, cộng đồng Kitô đã quy tụ để bẻ bánh (fractio panis) vào Ngày của Chúa. Chủ
Nhật, ngày Chúa trỗi dậy từ trong kẻ chết, cũng là ngày đầu tuần, ngày mà truyền
thống Cựu Ước nhìn nhận như là khởi đầu công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Từ
nay, ngày tạo dựng trở thành ngày “tạo dựng mới,” ngày giải thoát chúng ta khi
chúng ta tưởng niệm Chúa Kitô, Đấng đã chết và sống lại (113).
Ars celebrandi (Quy tắc cử hành)
38. Trong thời gian diễn ra
Thượng Hội Đồng, các Giám Mục nhấn mạnh nhiều đến nhu cầu cần phải tránh bất cứ
phản đề nào xảy ra giữa quy tắc cử hành (Ars celebrandi), là nguyên tắc cử hành
chính thực với việc tham dự trọn vẹn, linh động và hiệu quả của mọi tín hữu.
Đường lối ưu tiên để nuôi dưỡng sự tham dự của Dân Chúa vào nghi thức thánh ở
tại việc cử hành đúng chính các nghi lễ. Quy tắc cử hành (ars celebrandi) là
một phương thể tối hảo để bảo đảm sự tham dự sinh động (actuosa participati)
của họ. (114) Quy tắc cử hành là kết quả của sự gắn bó trung thành với luật
phụng vụ trong tất cả sự phong phú của nó; thật vậy, trải qua hai nghìn năm,
phương thức cử hành này đã nâng đỡ đời sống đức tin của tất cả tín hữu, được
mời gọi để cử hành như Dân Thiên Chúa, trong chức tư tế vương giả, như một dân
tộc thánh (1 Pr 2, 4-5, 9) (115)
Giám mục, vị chủ tế cao nhất
39. Nếu thực sự là toàn thể
Dân Chúa đều tham dự vào phụng vụ Thánh Thể thì quy tắc cử hành đúng cần phải
có sự phân nhiệm riêng biệt cho những người đã lãnh nhận Bí tích Truyền Chức
Thánh. Giám mục, linh mục, và phó tế, mỗi vị tuỳ theo phẩm chức của riêng mình,
phải coi việc cử hành phụng vụ như chính phận vụ của mình (116). Trên hết, điều
này đúng thực với đức Giám mục Giáo phận: như “người đứng đầu quản lí những mầu
nhiệm của Thiên Chúa trong một Giáo Hội địa phương được uỷ thác cho sự chăm sóc
của ngài, ngài là vị chủ qủan, vị đề khởi, và người canh giữ toàn thể đời sống
phụng vụ của Giáo phận” (117) Điều này là thiết yếu cho đời sống của Giáo Hội địa
phương, không chỉ bởi vì sự hiệp thông với đức Giám mục được luật lệ đòi hỏi
đối với các việc cử hành trong phạm vi địa hạt của ngài, mà còn bởi chính ngài
là vị chủ tế cao nhất trong phạm vi Giáo phận của ngài (118). Chính ngài có
trách nhiệm bảo đảm sự duy nhất và đồng bộ trong các việc cử hành diễn ra tại
lãnh địa của ngài. Do đó, Giám mục phải “quyết chí để các linh mục, phó tế và
giáo dân Kitô hữu hiểu rõ ngày càng sâu đậm ý nghĩa xác thực của các nghi lễ
cũng như của các bản văn phụng vụ, để nhờ đó được hướng dẫn để cử hành Bí tích
Thánh Thể một cách sống động và hiệu qủa” (119). Tôi mong muốn rằng cần phải
làm hết sức có thể để bảo đảm cho các lễ nghi phụng vụ mà đức Giám mục cử hành
trong nhà thờ Chính Toà của ngài thể hiện sự tôn trọng trọn vẹn ars celebrandi,
để các nghi thức phụng vụ đó được coi như mẫu mực cho toàn thể giáo phận (120).
Tôn trọng các sách phụng vụ và
sự phong phú của các dấu chỉ
40. Nhấn mạnh tầm quan trọng
của quy tắc cử hành cũng dẫn đến việc đề cao quy luật phụng vụ. (121) Quy tắc
cử hành phải nuôi dưỡng cảm thức thánh thiện và việc sử dụng những dấu chỉ bên
ngoài giúp tăng cường cảm thức này, chẳng hạn, sự hoà hợp của nghi lễ, y phục
phụng vụ, cách sắp đăt cũng như không gian thánh. Việc cử hành Thánh Thể sẽ
được sinh động khi linh mục và những người hướng dẫn phụng vụ nỗ lực giúp thông
hiểu các bản văn cũng như quy luật phụng vụ đang sử dụng, soi tỏ sự phong phú
bao trùm trong Huấn Thị Tổng Quát của Sách Lễ Rôma cũng như Sách Các Bài Đọc.
Có lẽ chúng ta thường cho rằng cộng đồng tín hữu chúng ta đã hiểu thấu và nắm
rõ các nguồn nội dung này, tuy nhiên không phải luôn luôn như vậy. Những bản
văn này chứa đựng sự phong phú đã tồn tại lâu đời cũng như diễn tả đức tin và
cảm nghiệm của Dân Chúa trải qua hơn hai-nghìn-năm- lịch sử. Cũng quan trọng
cho một ars celebrandi đúng đắn là việc quan tâm đến những loại hình ngôn ngữ
khác nhau mà phụng vụ sử dụng: lời ca và âm nhạc, cử điệu và sự thinh lặng,
việc đi lại, mầu sắc của y phục phụng vụ. Bằng chính bản chất của nó, phụng vụ
hoạt động trên những mức độ truyền đạt khác nhau giúp đi vào toàn thể con
người. Sự giản dị của các cử điệu cũng như sự sử dụng chừng mực các dấu chỉ nối
tiếp nhau giúp thông đạt và khơi gợi hơn bất cứ sự pha phôi gò bó mà không
thích hợp nào. Quan tâm và trung thành với cơ cấu đặc thù của nghi lễ vừa nói
lên sự nhìn nhận bản chất của Bí tích Thánh Thể là một hồng ân, và về phần thừa
tác viên, là thái độ rộng mở ngoan ngoãn đón nhận hồng ân vô biên này.
Nghệ thuật phục vụ việc cử
hành
41. Mối liên hệ sâu xa giữa
cái đẹp và phụng vụ phải thúc giục chúng ta quan tâm đến các công trình nghệ
thuật nhằm vào việc cử hành. (122) Chắc chắn, một yếu tố quan trọng của nghệ
thuật thánh là kiến trúc thánh đường, (123) nó phải nêu bật sự thống nhất của
việc sắp đặt cung thánh, gồm bàn thờ, tượng chịu nạn, nhà tạm, bục đọc sách
thánh, ghế chủ toạ. Ở đây cần phải ghi nhớ rằng mục đích của nghệ thuật thánh
là giúp cho Giáo Hội có một không gian thích hợp để cử hành các mầu nhiệm đức
tin, nhất là Bí tích Thánh Thể. (124) Bản chất của thánh đường Kitô giáo được
chính phụng vụ xác định, nghĩa là một cuộc họp nhau của những tín hữu
(ecclesia), là những viên đá sống động của Giáo Hội (x. Pr 2, 5).
Nguyên tắc thống nhất này cũng
đúng cho nghệ thuật thánh tổng quát, nhất là hội hoạ và điêu khắc, nơi mà những
hình tượng tôn giáo cần phải hướng đến sự khai tâm về các bí tích. Một vốn tri
thức chắc chắn về lịch sử nghệ thuật thánh thật là hữu ích để giúp cho các vị
hữu trách hướng dẫn giới nghệ sĩ và kiến trúc sư sáng tạo những tác phẩm nghệ
thuật dùng trong phụng vụ. Vì vậy thật là thiết yếu để chương trình đào tạo
chủng sinh và linh mục có việc nghiên cứu lịch sử nghệ thuật, đối chiếu với
những công trình kiến trúc thánh có liên quan đến những quy tắc về phụng vụ.
Tất cả những gì liên quan đến Bí tích Thánh Thể cần phải được trình bày bằng
nét đẹp. Cũng phải quan tâm và tôn trọng đặc biệt đến các lễ phục, những đồ
dùng, những bình chậu thánh, để nhờ sự sắp đặt một cách trật tự và hài hoà,
những vật dụng này sẽ nuôi dưỡng lòng kính tôn đối với mầu nhiệm Thiên Chúa,
diễn tả sự thống nhất của đức tin và tăng cường lòng đạo đức. (125)
Thánh ca
42. Trong ars celebrandi,
thánh ca chiếm một vị trí nổi bật. (126) Thánh Augustinô có lí khi ngài xác
quyết trong một bài giảng nổi tiếng: “Con người mới biết hát một bài hát mới.
Ca hát là cách diễn đạt niềm vui, mà nếu chúng ta suy nghĩ sâu xa hơn, là thể
hiện tình yêu” (127). Dân Chúa họp nhau cử hành phụng vụ hát lời ca ngợi Chúa.
Trong dòng lịch sử hai nghìn năm, Giáo Hội đã sáng tác và vẫn còn sáng tác âm
nhạc, và những bài hát để biểu tỏ một gia sản đức tin và tình yêu quá phong
phú, không thể bị mai một. Những kiểu ứng tác tầm thường hoặc việc đề xuất
những thể loại âm nhạc không tôn trọng ý nghĩa phụng vụ thì cần phải tránh. Để
thể hiện một yếu tố phụng vụ, bài hát phải được đăt vào trong toàn bộ buổi cử
hành (128). Do đo, tất cả- lời ca, âm nhạc, cách trình tấu- phải phù hợp với ý
nghĩa của mầu nhiệm đang được cử hành, của cấu trúc của lễ nghi và mùa phụng vụ
(129). Sau cùng, trong khi vẫn tôn trọng những thể loại đa dạng cùng những
truyền thống khác vẫn được đề cao, tôi vẫn muốn, thể theo lời đệ đạt của các
Nghị Phụ, rằng thánh ca Grêgorian phải được đánh giá đúng mức và được sử dụng
như thánh ca thích hợp cho phụng vụ Rôma (131).
Cơ cấu của việc cử hành Bí
tích Thánh Thể
43. Sau khi nhắc lại những yếu
tố nền tảng của ars celebrandi được nêu ra trong suốt thời gian làm việc của
Thượng Hội Đồng Giám Mục, tôi muốn hướng đến một số điểm đặc thù của cơ cấu cử
hành Bí tích Thánh Thể, cần được quan tâm một cách đặc biệt trong thời điểm
hiện nay, để chúng ta vẫn trung thành với ý hướng nền tảng trong việc canh tân
phụng vụ mà Công Đông Vatican II đã khởi xướng, tiếp nối truyền thống bao la
của Giáo Hội.
Tính duy nhất nội tại của hành
vi phụng vụ
44. Trước hết, cần phải suy tư
về tính duy nhất nội tại của nghi thức Thánh Lễ. Cả trong giáo lí và trong cách
cử hành hiện tại, chúng ta phải tránh tạo ra cảm tưởng rằng hai phần của nghi
thức chỉ được đặt kế cạnh nhau. Phụng vụ Lời chúa và phụng vụ Thánh Thể, với
những nghi thức dẫn nhập và kết thúc, “liên kết chặt chẽ với nhau đến nỗi tạo
thành một hành vi phụng thờ độc nhất.”(132) Có một sợi dây liên kết nội tại
giữa Lời Chúa và Thánh Thể. Khi lắng nghe Lời Chúa, đức tin được sinh ra hoặc
được tăng cường (x. Rm 10, 17); trong Bí tích Thánh Thể Lời trở thành xác phàm
tự hiến cho chúng ta làm lương thực thiêng liêng. (133) Như thế, “từ hai bàn
tiệc: Lời Chúa và Mình Chúa, Giáo Hội đón nhận và trao ban cho các tín hữu bánh
sự sống.”(134) Do đó, cần phải luôn ghi nhớ rằng Lời Chúa được Giáo Hội đọc và
công bố trong phụng vụ dẫn đến Bí tích Thánh Thể như kết điểm đương nhiên vậy.
Phụng vụ Lời Chúa
45. Cùng với Thượng Hội Đồng
Giám Mục, tôi mong muốn Lời Chúa luôn luôn được chuẩn bị và được cử hành một
cách cẩn thận. Do vậy tôi tha thiết nhắc nhở rằng phải hết sức cố gắng để bảo
đảm cho việc công bố Lời Chúa được trao cho những người đọc đã được chuẩn bị kĩ
lưỡng. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng “khi Kinh Thánh được đọc trong Giáo Hội,
chính Thiên Chúa ngỏ lời với dân Người, và Chúa Kitô, hiện diện trong chính lời
của Người, công bố Tin Mừng”(135). Khi hoàn cảnh cho phép, có thể dùng một ít
lời dẫn nhập để tập trung chú ý của các tín hữu. Để có thể hiểu Lời Chúa một
cách đúng đắn, chúng ta phải lắng nghe và đón nhận trong tinh thần hiệp thông
với Giáo Hội và trong ý thức sáng tỏ về sự duy nhất giữa Lời Chúa và Bí tích
Thánh Thể. Thật vậy, lời được công bố và đón nhận là Lời đã thành xác phàm (x.
Ga 1, 14); lời ấy liên kết chặt chẽ với con người Chúa Kitô và theo hình thái
bí tích của sự hiện diện trường cửu của Người giữa chúng ta. Chúa Kitô không
nói trong quá khứ, nhưng trong hiện tại, cho dù Người hiện diện qua hành vi
phụng vụ. Trong bối cảnh bí tích của mặc khải Kitô giáo, (136) tri thức cũng
như việc học hỏi Lời Chúa giúp chúng ta hiểu rõ hơn để cử hành và sống Bí tích
Thánh Thể. Cũng tại đây, chúng ta thấy câu “không biết Kinh Thánh là không biết
Chúa Kitô” thật đúng biết bao (137)
Trong mục đích đó, các tín hữu
cần được giúp đỡ để hiểu rõ kho tàng phong phú của Sách Thánh chứa đựng trong
các bài đọc, nhờ những sáng kiến mục vụ, việc cử hành Lời Chúa và đọc sách
thiêng liêng (lectio divina). Cũng cần phải cổ vũ những hình thức cầu nguyện đã
được truyền thống chứng nhận, như Phụng vụ Giờ Kinh, nhất là Kinh Sáng, Kinh
Chiều và Kinh Tối, cũng như những buổi cử hành canh thức cầu nguyện. Khi cầu
nguyện bằng Thánh Vịnh, bằng các Bài Đọc Sách Thánh cũng như các bài đọc trích
từ truyền thống sâu xa chứa đựng trong Kinh Thần Vụ, chúng ta có thể cảm thấu
rõ ràng hơn biến cố- Chúa Kitô và nhiệm cục cứu chuộc, mà cuối cùng lại giúp
chúng ta hiểu rõ và tham dự vào việc cử hành Thánh Thể một cách phong phú hơn
(138).
Bài giảng
46. Liên quan đến tầm quan
trọng của Lời Chúa, cần phải gia tăng phẩm chất của bài giảng. Giảng là “một
phần của hành vi phụng vụ” (139), và có mục đích nuôi dưỡng sự hiểu biết Lời
Chúa sâu xa hơn để Lời Chúa có thể sinh hoa trái trong đời sống người tín hữu.
Bởi vậy, những thừa tác viên có chức thánh phải “chuẩn bị bài giảng một cách
cẩn thận, dựa trên sự hiểu biết xứng hợp về Sách Thánh”(140). Cần phải tránh
những bài giảng quá sơ lược và trừu tượng. Một cách đặc biệt, tôi yêu cầu các
thừa tác viên này phải giảng thế nào để bài giảng liên quan chặt chẽ với việc
công bố Lời Chúa trong việc cử hành Bí tích (141) cũng như đời sống cộng đoàn
để Lời Chúa thật sự trở nên sự bồi bổ và nâng đỡ cho Giáo Hội (142). Cũng không
được quên mục đích huấn giáo và khuyến thiện của bài giảng. Trong chu kì năm
phụng vụ, thật thích hợp để trình bày cho các tín hữu, một cách khôn ngoan và
dựa trên nền tảng các bài đọc xoay vòng ba năm, những bài giảng “chủ đề” đề cập
đến những đề tài quan trọng của đức tin Kitô giáo, dựa trên những gì đã được
Huấn Quuyền chính thức đề ra trong bốn “trụ cột” của Sách Giáo Lí Hội Thánh
Công Giáo và Sách Toát Yếu mới đây: tuyên xưng đức tin, cử hành mầu nhiệm Kitô
giáo, đời sống trong Chúa Kitô và kinh nguyện Kitô giáo (143)
Dâng của lễ
47. Các Nghị Phụ cũng chú
trọng tới việc dâng của lễ. Việc này không được xem chỉ như một thứ “tạm nghỉ”
giữa phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể. Nghĩ như thế, ít nhất cũng làm
yếu đi cảm thức về một nghi thức duy nhất gồm bởi hai phần liên kết với nhau.
Cử chỉ khiêm tốn và đơn sơ này thật sự rất có ý nghĩa: qua bánh và rượu mà
chúng ta đem đến bàn thờ, tất cả thụ tạo được Chúa Kitô Đấng Cứu Chuộc đón
nhận, được biến đổi và tiến dâng lên Chúa Cha. (144) Theo tinh thần đó chúng ta
cũng đem đến bàn thờ mọi đau khổ của thế giới, với niềm xác tín rằng mọi sự đều
có giá trị trước mặt Chúa. Ý nghĩa đích thực của cử chỉ này có thể được diễn tả
thật rõ ràng mà không cần nhấn mạnh thêm hoặc tạo những phức tạp không cần
thiết. Việc dâng của lễ giúp chúng ta hiểu rõ cách thế Thiên Chúa mời gọi con
người tham gia vào việc hoàn thiện công việc của Người, và như thế, tạo cho lao
động của con người có một ý nghĩa đích thực, bởi vì qua việc cử hành Thánh Thể,
lao động ấy được kết hợp với hiến lễ cứu chuộc của Chúa Kitô.
Kinh nguyện Thánh Thể
48. Kinh nguyện Thánh Thể là
“tâm điểm và đỉnh cao của tất cả việc cử hành” (145). Tầm quan trọng của phần
này phải được nhấn mạnh một cách xứng hợp. Các Kinh Nguyện Thánh Thể khác nhau
ở trong Sách Lễ đã được truyền lại cho chúng ta bởi truyền thống sống động của
Giáo Hội và rất đáng lưu tâm vì sự phong phú về thần học và thiêng liêng vô hạn
của nó. Các tín hữu cần được giúp đỡ để nắm rõ tính phong phú đó. Ở đây Huấn
Thị Tổng Quát về Sách Lễ Rôma có thể hữu ích khi liệt kê những yếu tố cơ bản
của mỗi Kinh Nguyện Thánh Thể: Tạ ơn, tung hô, kinh khẩn cầu, lời thiết lập và
truyền phép, kinh kính nhớ, lời tiến dâng, lời cầu khẩn và vinh tụng ca kết
thúc. (146) Đặc biệt, linh đạo Thánh Thể và suy tư thần học sẽ thêm phong phú
nếu chúng ta chiêm niệm, trong Kinh nguyện Thánh Thể, tính duy nhất sâu xa giữa
lời nguyện xin Chúa Thánh Thần và lời thiết lập (147), nơi “hoàn tất hiến lễ mà
chính Chúa Kitô thiết lâp tại Bữa Tiệc Li” (148). Thật vậy, “Giáo Hội cầu xin
quyền năng Chúa Thánh Thần để lễ vật do tay con người dâng được thánh hoá,
nghĩa là trở nên Mình và Máu Chúa Kitô, và để Lễ Vật không tì vết được đón nhận
trong phần rước lễ trở thành ơn cứu độ cho tất cả những ai sắp dự vào”. (149)
Chúc bình an
49. Tự bản chất Bí tích Thánh
Thể là Bí tích của sự bình an. Trong Thánh lễ chiều kích này của mầu nhiệm
Thánh Thể tìm được cách diễn tả đặc thù trong việc chúc binh an. Chắc chắn cử
chỉ này có một giá trị cao đẹp (x. Ga 14, 27). Trong thời đại chúng ta, bị đè
nặng bởi những sợ hãi và xung đột, thì cử chỉ này nói lên rất nhiều ý nghĩa,
nhất là khi Giáo Hội càng ngày càng ý thức hơn về trách nhiệm phải cầu nguyện
không ngừng cho ơn hoà bình và hiệp nhất cho chính mình cũng như cho toàn thể
gia đình nhân loại. Chắc chắn mỗi người đều ấp ủ trong tâm hồn mình một lòng
khao khát mãnh liệt ơn bình an. Giáo Hội cất tiếng khơi lên niềm hi vọng ơn
bình an và hoà giải xuất phát từ mọi người thiện chí, hướng nó về Đấng là “Sự
Bình An của chúng ta” (Ep 2, 14) và là Đấng có thể đem lại bình an cho mỗi
người cũng như cho các dân tộc khi mọi nỗ lực của con người đều thất bại. Như
thế, chúng ta có thể hiểu được cảm xúc thường cảm nhận được khi chúc bình an
trong cử hành phụng vụ. Dẫu vậy, trong khi họp Thượng Hội Đồng Giám Mục, những
bàn luận cũng được đưa ra để có một sự giới hạn thích đáng đối với cử chỉ này,
nghĩa là nó có thể đi đến hơi quá và gây ra chia trí tong cộng đoàn ngay trước
khi rước lễ. Cần ghi nhớ rằng ý nghĩa của nó không hề giảm đi khi việc chúc
bình an được thực hiện một cách vừa phải, duy trì trong bầu khí thích hợp của
buổi cử hành, chẳng hạn chỉ làm với những người ở gần nhất (150).
Việc trao và rước Thánh Thể
50. Giây phút khác của cuộc cử
hành cần được nhắc đến, đó là việc trao và Rước Lễ. Tôi yêu cầu mọi người, nhất
là các thừa tác viên có chức thánh và những người đã được chuẩn bị xứng hợp cho
nhu cầu chính đáng này, đã được cho phép để thực hiện việc trao Thánh Thể, phải
hết sức cố gắng bảo đảm cho hành vi đơn thuần này duy trì được tầm mức quan
trọng của nó, như thể đó là một sự gặp gỡ cá nhân với Chúa Giêsu trong Bí tích
này. Đối với những quy luật bảo đảm cho việc thực thi này đúng đắn, tôi muốn
tham chiếu những tài liệu mới được phổ biến liên quan đến vấn đề này. (151) Mọi
cộng đồng Kitô hữu phải tuân thủ những quy luật hiện hành một cách trung thành,
hãy nhận ra ở đó một sự thể hiên đức tin và tình yêu mà tất cả chúng ta phải có
đối với Bí tích cao trọng này. Lại nữa, chúng ta cũng không được bỏ qua thời
gian quý báu của việc cám ơn sau rước lễ: ngoài việc hát một bài thánh ca thích
hợp, việc hồi tâm thinh lặng thật là hữu ích. (152)
Về vấn đề này, tôi muốn hướng
chú ý vào một vấn đề mục vụ thường gặp trong hoàn cảnh hiện nay. Tôi muốn nhắc
đến sự thể là trong một số trường hợp- chẳng hạn, Lễ cưới, Lễ an táng, hoặc
những dịp tương tự- ngoài những người Công Giáo tham dự còn có những người khác
hiện diện, những người đã lâu không còn tham dự Thánh Lễ hoặc những người đang
sống trong tình trạng không được phép chịu các Bí tích. Hoặc thỉnh thoảng cũng
có những tín đồ thuộc các giáo hội Kitô giáo khác và cả những người thuộc tôn
giáo khác cũng có mặt. Những trường hợp tương tự cũng có thể diễn ra trong
những nhà thờ thường được thăm viếng, nhất là tại những địa điểm du lịch. Trong
tất cả những trường hợp này, cần phải tìm một phương thế vắn gọn và trong sáng
để nhắc nhớ cho những người có mặt về ý nghĩa của việc hiệp thông bí tích, cùng
những điều kiện đòi buộc của việc tiếp nhận này. Bất cứ những trường hợp nào
không thể bảo đảm cho việc duy trì ý nghĩa thích đáng của Bí tích Thánh Thể,
thì nên xem xét để thay thế việc cử hành Thánh Lễ bằng phụng vụ Lời Chúa. (153)
Lời giải tán: “Lễ xong, hãy đi”
(Ite, missa est)
51. Sau cùng, tôi muốn nói
thêm một cách vắn tắt về những nhận định của các Nghị Phụ liên quan đến lời
giải tán vào cuối buổi cử hành Thánh Thể. Sau phép lành, phó tế hoặc linh mục
giải tán dân chúng bằng câu: Lễ xong, hãy đi (Ite, missa est). Những lời này
giúp chúng ta hiểu rõ mối tương quan giữa Thánh Lễ vừa được cử hành và sứ mệnh
của Kitô hữu trong trần gian. Vào thời xưa, missa chỉ có nghĩa là “giải tán.”
Tuy nhiên theo cách dùng Kitô giáo, nó dần dần mang một ý nghĩa sâu xa hơn. Từ
“giải tán” đó đã bao hàm một “sứ mệnh.” Những lời ngắn ngủi này diễn tả một
cách cô đọng bản chất truyền giáo của Giáo Hội. Dân Chúa cần phải được giúp đỡ
để hiểu rõ hơn chiều kích nền tảng này của đời sống Giáo Hội, coi việc ra đi
như một khởi điểm. Trong bầu khí ấy, thật là hữu ích để soạn thảo những bản văn
mới, được chính thức chuẩn nhận, để cầu nguyện trên dân chúng và ban phép lành
cuối lễ, hầu làm cho mối liên quan này được sáng tỏ (154).
Sự tham dự linh động (Actuosa
participatio)
Sự tham dự đích thực
52. Công Đồng Vatican II đã
nhấn mạnh một cách đúng đắn về việc tham dự một cách linh động, trọn vẹn và
hiệu quả của toàn thể Dân Chúa vào việc cử hành Thánh Thể (155). Chắc chắn,
việc canh tân được thực hiện trong những năm qua đã đem lại những tiến triển
đáng kể trong việc hoàn thiện những ước nguyện của các Nghị Phụ Công Đồng. Tuy
nhiên chúng ta không được bỏ qua sự kiện là một số hiểu lầm đôi khi xảy ra liên
quan đến ý nghĩa đích thực của việc tham dự này. Cần phải nói một cách rõ ràng
rằng từ “tham dự” không chỉ nói đến những hoạt động bên ngoài trong buổi cử
hành. Thật vậy, việc tham dự linh động mà Công Đồng mong muốn phải được hiểu
theo những hạn từ mang ý nghĩa bản thể hơn, dựa trên nền tảng của việc hiểu rõ
hơn mầu nhiệm đang được cử hành và tương quan của nó với cuộc sống thường ngày.
Hiến chế Phụng vụ, Sacrosanctum Concilium khuyến giục các tín hữu tham dự vào
phụng vụ Thánh Thể không phải như “những người bàng quan hoặc những khán giả
câm lặng” nhưng như những người tham dự “vào hành vi thánh thiêng, ý thức rõ
điều họ đang thực hiện, một cách sống động và thành kính” (156). Lời hối thúc
này không hề mất đi sức mạnh của nó. Công Đồng tiếp tục bày tỏ rằng các tín hữu
“ được đào tạo bởi Lời Chúa, được nuôi dưỡng nơi bàn tiệc Mình Chúa. Họ phải
cảm tạ Chúa. Và trong khi dâng Lễ Vật tinh tuyền, không chỉ nhờ tay linh mục mà
còn kết hiệp với Người, họ tập dâng chính mình. Ngày qua ngày, nhờ Chúa Kitô
Đấng Trung gian, họ được lôi kéo để đi vào sự kết hiệp hoàn hảo hơn với Thiên
Chúa và với nhau” (157).
Sự tham dự và thừa tác vụ linh
mục
53. Cái đẹp và sự hoà hợp của
phụng vụ tìm được sự biểu đạt mạnh mẽ trong vai trò mà qua đó mỗi người được
kêu gọi để tham dự một cách linh động. Điều này bao gồm một sự hiểu rõ các phần
vụ liên quan đến việc cử hành. Thật hữu ích để nhắc nhớ rằng việc tham dự linh
động tự nó không tương ứng với việc thi hành một sứ vụ riêng nào. Việc tham dự
linh động của giáo dân không được thuận lợi nếu có sự lẫn lộn xuất phát từ một
tình trạng không biết phân định, trong việc hiệp thông Giáo Hội, những phận vụ
riêng của mỗi người. (158) Thật rất cần thiết phải phân định những phận vụ đặc
thù của linh mục. Chỉ linh mục, chứ không phải người nào khác, theo truyền
thống Giáo Hội xác định, chủ sự toàn bộ việc cử hành Thánh Thể, từ lời chào mở
đầu cho đến phép lành kết thúc. Do bởi Thánh Chức mà ngài đã nhận, linh mục đại
diện Chúa Giêsu Kitô, đầu của Giáo Hội, và, một cách đặc biệt, cũng đại diện
chính Giáo Hội. (159) Quả thật, mọi việc cử hành Thánh Thể đều được điều khiển
bởi Đức Giám mục, “hoặc chính ngài, hoặc qua các linh mục là những cộng sự viên
của ngài.” (160) Ngài được phụ giúp nhờ một phó tế, có những phận vụ đặc biệt
trong lúc cử hành: phó tế dọn bàn thờ, phụ giúp các linh mục, công bố Lời Chúa,
đôi khi giảng, đọc các ý chỉ Lời Nguyện Tín Hữu, và trao Thánh Thể cho các tín
hữu. (161) Cộng tác với những thừa tác vụ liên quan đến Bí tích Truyền Chức
Thánh, còn có những thừa tác vụ khác để giúp phụng vụ, được thi hành một cách
tốt đẹp do các tu sĩ và giáo dân đã được huấn luyện. (162)
Cử hành Thánh Thể và sự hội
nhập văn hoá
54. Trên nền tảng những xác
quyết của Công Đồng Vatican II, các Nghị phụ Thượng Hội Đồng Giám Mục thường
xuyên nhấn mạnh đến sự tham dự linh động của các tín hữu vào hi tế Thánh Thể.
Để làm tăng triển sự tham dự này, việc đề ra một số các điều chỉnh thích hợp
theo những bối cảnh và văn hoá khác nhau đã được thực hiện. (163) Sự kiện có
một số lạm dụng xảy ra không làm suy giảm nguyên tắc minh thị này, vốn phải
được tuân thủ theo những nhu cầu thực tế của Giáo Hội, khi Giáo Hội sống và cử
hành một mầu nhiệm duy nhất về Chúa Kitô, trong một hoàn cảnh đa dạng về văn
hoá. Trong mầu nhiệm Nhập Thể, Chúa Giêsu, sinh bởi một người nữ và như một
người trọn vẹn (x. Gl 4, 4) đã đi thẳng vào tương quan không chỉ với những sự
chờ mong hiện thực trong Cựu Ước, nhưng còn theo sự đợi trông của mọi dân tộc.
Như thế Người tỏ cho thấy rằng Thiên Chúa muốn gặp gỡ chúng ta trong chính hoàn
cảnh cụ thể của chúng ta. Một sự tham dự hiệu quả hơn của các tín hữu vào những
mầu nhiệm thánh, do vậy, sẽ thuận lợi nếu có một tiến trình hội nhập văn hoá
đối với việc cử hành Thánh Thể, trong khi phải xét đến những khả năng thích ứng
đã được trình bày trong Huấn Thị Tổng Quát về Sách Lễ Rôma, (164) và được giải
thích trong ánh sáng của những tiêu chí đã được đăt định bởi Huấn Thị Thứ Bốn
của Bộ Phụng Tự và Kỉ Luật Bí Tích Varietates legitimae ngày 25 tháng Giêng
1994, (165) và những chỉ dẫn của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong các Tông
Huấn Hậu Thương Hội Đồng Gíam Mục, Ecclesia in Africa, Ecclesia in America,
Ecclesia in Asia, Ecclesia in Oceania, và Ecclesia in Europa (166). Trong mục
tiêu này, tôi mong muốn các Hội Đồng Giám Mục cố gắng duy trì một sự quân bình
đúng mức giữa những tiêu chí và những chỉ dẫn đã được ban hành và những đổi mới
(167) luôn phù hợp với Tông Toà.
Những điều kiện cá nhân cho
“actuosa participatio”
55. Khi tìm hiểu actuosa
participatio của tín hữu trong phụng vụ, các Nghị phụ Thượng Hội Đồng Giám Mục
cũng thảo luận về những điều kiện cá nhân cần phải có cho việc tham dự hiệu quả
về phần mỗi người. (168) Một trong những điều kiện này chắc chắn là tinh thần
thường xuyên hoán cải, cần phải thể hiện trong đời sống của mọi tín hữu. Tham
dự linh động vào phụng vụ Thánh Thể khó có thể đạt được nếu người ta tiếp nhận
một cách hời hợt, không có sự kiểm điểm đời sống mình. Khả năng nội tâm này có
thể được gia tăng, thí dụ, bằng việc hồi tâm và thinh lặng tối thiểu một ít
phút trước khi bắt đầu cử hành phụng vụ, bằng ăn chay, và nếu cần bằng việc
xưng tội. Một tâm hồn hoà giải với Chúa mới có thể giúp cho việc tham dự đích
thực. Các tín hữu cần được nhắc nhở rằng không thể có actuosa participatio vào
các mầu nhiệm thánh nếu không đi kèm theo nỗ lực tham dự một cách tích cực vào
đời sống của Giáo Hội nói chung, gồm cả việc dấn thân truyền giáo để đem tình
yêu Chúa vào đời sống xã hội.
Chắc chắn rằng việc tham dự
trọn vẹn vào Bí tích Thánh Thể được thực hiện khi bản thân người tín hữu đến
bàn thờ để rước lễ. (169) Tuy nhiên, cũng cần phải ý tứ thêm kẻo nhiều tín hữu
nghĩ rằng chỉ duy việc họ hiện diện trong nhà thờ suốt buổi phụng vụ thì họ có
quyền hoặc có bổn phận phải tiến đến bàn tiệc Thánh Thể. Dẫu có những trường
hợp không thể được rước lễ, việc tham dự Thánh Lễ vẫn cần thiết, vẫn quan trọng,
thật ý nghĩa và ích lợi. Trong những trường hợp như thế, sẽ thật hữu ích nếu
nuôi dưỡng lòng ước muốn kết hiệp với Chúa Kitô qua việc rước lễ thiêng liêng,
được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khuyến khích (170).
Sự tham dự của các Kitô hữu
không phải Công Giáo
56. Chủ đề tham dự Bí tích
Thánh Thể không thể không nêu lên vấn đề của những Kitô hữu thuộc về các Giáo
Hội hoặc những Cộng Đồng Giáo Hội không hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công
Giáo. Về điểm này, cần phải nói rằng mối kiên kết sâu xa giữa Bí tích Thánh Thể
và sự hiệp nhất Giáo Hội thúc đẩy chúng ta mong ước một ngày nào đó được cử
hành Bí tích Thánh Thể cùng với mọi người tin vào Chúa Kitô, và như vậy diễn tả
một cách hữu hình sự hiệp nhất trọn vẹn mà Chúa Kitô muốn nơi các môn đệ của
Người (x. Ga 17, 21). Mặt khác, sự tôn kính mà chúng ta phải có đối với bí tích
Mình và Máu Chúa Kitô ngăn cản chúng ta không được coi đó chỉ như một “phương
tiện”, được sử dụng một cách cẩu thả để đạt được sự hiệp nhất. (172)Thật vậy,
Bí tích Thánh Thể không chỉ bày tỏ sự hiệp thông cá nhân của chúng ta với Chúa
Giêsu Kitô, nhưng còn bao hàm sự hiêp thông (communio) trọn vẹn với Giáo Hội.
Đây là lí do tại sao, dẫu thật đáng buồn nhưng không mất niềm hi vọng, chúng
tôi yêu cầu các Kitô hữu không phải là Công Giáo hiểu rõ và tôn trọng niềm xác
tín của chúng tôi đã được bắt nguồn từ Kinh Thánh và Truyền Thống. Chúng tôi
cho rằng sự hiệp thông Thánh Thể và sự hiệp thông Giáo Hội liên kết chặt chẽ
với nhau đến nỗi, đối với những Kitô hữu không-Công Giáo không thể đón nhận
điều trước mà không vui hưởng điều sau. Sẽ mất hết ý nghĩa nếu thật sự cử hành
chung với các thừa tác viên của các Giáo Hội hay những Cộng Đồng Giáo Hội không
hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo. Tuy nhiên vẫn còn đúng khi, vì ơn
cứu chuộc đời đời của họ, cá nhân những Kitô hữu không-Công Giáo có thể được
nhận Bí tích Thánh Thể, Bí tích Hoà Giải và Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân. Tuy
nhiên đây chi là những trường hợp đặc biệt, ngoại thường và đòi hỏi phải đáp
ứng thoả đáng những điều kiện được xác định (172). Những điều này được chỉ dẫn
trong Sách Giáo Lí Giáo Hội Công Giáo (174) cũng như Sách Toát Yếu (175). Mọi
người phải trung thành tuân giữ những quy luật này.
Tham dự qua những phương tiện truyền thông
57. Nhờ sự phát triển phi
thường của những phương tiện truyền thông, từ “tham dự” đã mang một ý nghĩa
rộng hơn trong những thập kỉ vừa qua. Tất cả chúng ta cùng vui mừng nhìn nhận
rằng truyền thông cũng đã mở ra những khả năng mới cho việc cử hành Bí tích
Thánh Thể. (176) Điều này đòi hỏi một sự chuẩn bị đặc biệt cũng như một cảm
thức bén nhạy về phía những nhân viên mục vụ làm việc trong lãnh vực này. Khi
Thánh Lễ được phát trên truyền hình thì Thánh Lễ đó chắc hẳn được coi như một
mẫu mực. Do đó, cần phải đặc biệt quan tâm để bảo đảm việc cử hành tôn trọng
những quy luật của phụng vụ, và diễn ra trong những nơi chốn thích hợp, được
chuẩn bị chu đáo.
Sau cùng, liên quan đến giá
trị của việc tham dự Thánh Lễ qua những phương tiện truyền thông, những người
nghe hoặc xem những chương trình này cần ý thức rằng trong những hoàn cảnh bình
thường, họ chưa chu toàn luật buộc dự Lễ. Những hình ảnh thị giác có thể biểu
thị thực tại nhưng nó không tạo ra thực tại ấy một cách hiện thực. (177) Trong
khi người ta khuyến khích những người già cả và đau ốm tham dự Thánh Lễ Chủ
Nhật qua truyền thanh và truyền hình, thì điều đó không thể cho phép một số
người nghĩ rằng những chương trình như thế sẽ miễn chước cho họ khỏi đến nhà
thờ để tham dự việc cử hành Thánh Thể cùng với một cộng đoàn Giáo Hội sống
động.
Việc tham dự sống động của
những người đau yếu
58. Trong khi nghĩ đến những
người không thể tham dự ở những nơi thờ phụng vì lí do sức khoẻ hay cao tuổi,
tôi muốn kêu gọi toàn thể Cộng Đồng Giáo Hội quan tâm đến sự quan trọng có tính
mục vụ của việc đáp ứng sự trợ giúp thiêng liêng cho những người đau ốm, cả
những người sống tại nhà riêng cũng như những người trong bệnh viện. Tình cảnh
của họ đã được thường xuyên nhắc đến trong Thượng Hội Đồng Gíam Mục. Những anh
chị em này cần phải có cơ hội được rước lễ một cách thường xuyên. Như thế, họ
có thể tăng cường sự kết hợp với Chúa Kitô chịu đóng đinh và sống lại, và cảm
thấy được dự phần trọn vẹn vào đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội qua việc dâng
những đau khổ kết hiệp với hiến tế của Chúa Giêsu. Và cần quan tâm đặc biệt đến
những người tật nguyền. Khi điều kiện của họ như thế, cộng đồng Kitô giáo phải
giúp đỡ để họ có thể tham dự tại nơi thờ phượng. Những công trình xây dựng phải
được thiết kế thế nào để giúp những người tật nguyền đi lại dễ dàng. Cuối cùng,
bất cứ khi nào có thể, việc đón nhận Thánh Thể có thể được trao ban cho những
người thiểu năng tâm thần, nếu họ đã được rửa tội và thêm sức: họ rước Thánh
Thể trong đức tin của gia đình họ hay của cộng đoàn đồng hành với họ. (178)
Quan tâm đến các tù nhân
59. Truyền thống thiêng liêng
của Giáo Hội, dựa trên chính lời Chúa Kitô (x. 25, 36) đã coi việc thăm viếng
các tù nhân như là một trong những công việc thương xót mang tính thể lí. Các
tù nhân có một nhu cầu đặc biệt để được Chúa ngự trong Bí tích Thánh Thể đích
thân thăm viếng. Cảm nhận sự gần gũi với cộng đồng Giáo Hội, được tham dự Bí
tích Thánh Thể và rước lễ trong giai đoạn khó khăn và đau khổ chắc chắn giúp
tạo nên chất liệu cho hành trình đức tin của một tù nhân và giúp tái hội nhập
đầy đủ vào đời sống xã hội. Nhắc lại lời nhắn nhủ của Thượng Hội Đồng Giám Mục,
tôi mong mỏi các Giáo phận hãy làm tất cả những gì có thể, để bảo đảm những
hoạt động trợ giúp mục vụ được góp vào việc chăm sóc thiêng liêng cho các tù
nhân. (179)
Di dân và sự tham dự Bí tích
Thánh Thể
60. Giờ đây hướng về những
người mà vì những lí do khác nhau phải rời bỏ quê hương của mình, các Nghị Phụ
bày tỏ lòng biết ơn đặc biệt đối với những người đã dấn thân chăm lo mục vụ cho
những người di dân. Cần phải quan tâm đặc biệt đối với những người di dân thuộc
các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương; ngoài việc phải xa dời nhà cửa họ còn gặp
khó khăn vì không thể tham dự vào phụng vụ Thánh Thể trong chính nghi lễ của
họ. Vì lí do đó, bất cứ khi nào có thể, họ phải được các linh mục giúp cử hành
nghi lễ của họ. Trong mọi trường hợp tôi xin các Đức Giám Mục hãy đón nhận
những anh chị em này với tình yêu của Chúa Kitô. Những tiếp xúc giữa các tín
hữu thuộc những nghi lễ khác nhau có thể chứng tỏ một nguồn mạch phong phú lẫn
cho nhau. Đặc biệt, tôi cũng đang nghĩ đến những lợi ích xuất phát từ sự hiểu
biết những truyền thống khác nhau, nhất là đối với các giáo sĩ. (180)
Những cuộc đồng tế đại trào
61. Thượng Hội Đồng Giám Mục
đã cứu xét phẩm chất việc tham dự trong trường hợp của những cuộc cử hành đại trào,
được tổ chức trong những hoàn cảnh đặc biệt, bao gồm không chỉ một số đông các
tín hữu giáo dân, mà còn có nhiều linh mục đồng tế. (181) Môt mặt, chúng ta rất
dễ cảm nhận sự quan trọng của những giờ phút đó, nhất là khi chính Đức Giám Mục
cử hành, cùng có các linh mục và các phó tế quy tụ chung quanh ngài. Mặt khác,
trong những trường hợp như thế thật không dễ bày tỏ phân minh tính duy nhất của
linh mục đoàn, nhất là trong khi đọc Kinh Nguyện Thánh Thể và việc trao Thánh
Thể. Cần phải có nhiều cố gắng kẻo những cuộc đồng tế đại trào mất đi sự tập
trung chính thực của nó. Điều này có thể thực hiện được bằng sự phối hợp khít
khao và bằng sự sắp xếp vị trí cử hành để các linh mục và giáo dân thực sự có
thể tham dự một cách trọn vẹn. Tuy nhiên, cần phải luôn ghi nhớ rằng ở đây
chúng ta đang nói tới những cuộc đồng tế khác thường, giới hạn trong những hoàn
cảnh đặc biệt.
Tiếng La tinh
62. Không có những nhận định
nào vừa đề cập có thể tạo nghi ngờ về tầm quan trọng của việc cử hành phụng vụ
đại trào. Ở đây tôi đang nghĩ một cách đặc biệt đến những cuộc cử hành trong
những buổi gặp gỡ quốc tế, mà ngày nay được tổ chức thường xuyên hơn. Trong
những cơ hội này cần phải hoạt động tối đa. Để diễn tả một cách rõ ràng hơn
tính duy nhất và phổ quát của Giáo Hội, tôi cũng tán thành đề nghị của các Nghị
Phụ Thượng Hội Đồng Gíam Mục, và hợp theo những chỉ dẫn của Công Đồng Vatican
II (182), là trừ ra các bài đọc, bài giảng và lời nguyện tín hữu, những buổi
phụng vụ như thế có thể được cử hành bằng tiếng La tinh. Một cách tương tự,
những kinh đã quá quen thuộc trong truyền thống Giáo Hội cũng nên đọc bằng
tiếng La tinh, và nếu có thể thì nên hát những bài trong hợp tuyển thánh ca
Grêgôrian. Nói một cách tổng quát hơn, tôi mong muốn các linh mục tương lai,
trong thời gian ở chủng viện, cần được chuẩn bị để hiểu và cử hành Thánh Lễ
bằng tiếng La tinh, cũng như có thể sử dụng các bản văn bằng tiếng La tinh và
hát thánh ca Grêgôrian; và cũng đừng quên rằng các tín hữu có thể được chỉ dạy
để đọc những kinh quen thuộc bằng tiếng La tinh cũng như có thể hát những phần
phụng vụ bằng những bài thánh ca Grêgôrian. (184)
Những cuộc cử hành Thánh Thể
trong những nhóm nhỏ
63. Có một trường hợp rất khác
biệt nảy sinh khi, vì để tạo cho một sự tham dự ý thức hơn, linh động hơn và
hiệu quả hơn, thì cần tạo những hoàn cảnh mục vụ thuận lợi để cử hành cho những
nhóm nhỏ. Trong khi nhìn nhận giá trị giáo huấn của phương thức này thì cũng
cần phải xác định rằng những cuộc cử hành như thế phải luôn luôn phù hợp với
hoạt động mục vụ chung của Giáo Phận. Những việc cử hành đó thật sự sẽ mất giá
trị huấn giáo của nó nếu những cuộc cử hành ấy cho người ta cảm nhận như là để
đối lập hoặc để cạnh tranh với đời sống của Giáo Hội địa phương. Về vấn đề này
Thượng Hội Đồng Giám Mục đã đề ra một vài tiêu chuẩn cần thiết: những nhóm nhỏ
phải phục vụ để hiệp nhất cộng đoàn, chứ không được phân rẽ cộng đoàn; những
lợi ích cần phải được chứng minh rõ ràng; những nhóm này phải thúc đẩy sự tham
dự hiệu quả vào toàn thể cộng đoàn, và duy trì hết sức có thể sự hiệp nhất của
đời sống phụng vụ trong mỗi gia đình. (185)
Sự tham dự nội tâm vào việc cử
hành
Giáo lí khai tâm
64. Truyền thống phụng vụ lâu
đời của Giáo Hội dạy chúng ta rằng việc tham dự hiệu quả vào phụng vụ đòi hỏi
người ta phải được uốn nắn một cách cá nhân đối với mầu nhiệm được cử hành,
bằng việc dâng hiến đời sống của họ cho Thiên Chúa, kết hiệp với hiến tế của
Chúa Kitô để cứu chuộc toàn thể thế giới. Vì lí do đó, các Nghị Phụ mong muốn
rằng các tín hữu phải được giúp đỡ để tạo cho nội tâm họ hợp với cử chỉ và lời
nói của họ. Tuy nhiên, mặt khác các việc cử hành phụng vụ của chúng ta cần phải
được trù liệu và thực hiện thế nào kẻo rơi vào nguy cơ biến thành một chủ
thuyết duy nghi lễ nào đó. Bởi vậy cần phải giáo dục đức tin vào Thánh Thể để
giúp cho người tín hữu sống một cách cá nhân những gì họ cử hành. Đối với việc
quan trọng thiết yếu của việc tham dự (participatio) một cách cá nhân và ý
thức, những phương pháp huấn luyện nào cần có? Về vấn đề này, các Nghị Phụ nhất
trí cho rằng, phương thức khai tâm giáo lí sẽ giúp các tín hữu hiểu sâu xa hơn
những mầu nhiệm đang được cử hành. (186) Một cách đặc biệt, chẳng hạn tương
quan chặt chẽ giữa ars celebrandi và actuosa participatio, trước tiên cần xác
định rằng “giáo lí tốt nhất về Bí tích Thánh Thể là chính Bí tích Thánh Thể
được cử hành một cách chu đáo.” (187) Thật vậy, bằng chính bản chất của nó, về
mặt sư phạm phụng vụ có thể hữu hiệu trong việc giúp cho các tín hữu bước sâu
hơn vào mầu nhiệm đang được cử hành. Đó là lí do tại sao theo truyền thống cổ
kính nhất của Giáo Hội, tiến trình huấn giáo Kitô luôn mang đặc điểm trải
nghiệm. Trong khi không coi thường một sự hiểu biết có tính hệ thống về nội
dung của đức tin, thì tiến trình trên tập chú vào sự gặp gỡ sống động và xác
tín đối với Chúa Kitô, như được công bố bởi những chứng nhân đích thực. Trước
hết và trên hết, chính các chứng nhân sẽ dẫn người khác đi vào các mầu nhiệm.
Đương nhiên, sự gặp gỡ đầu tiên này cần đạt được chiều sâu qua giáo lí và tìm
được nguồn mạch cũng như đỉnh cao của nó trong việc cử hành Bí tích Thánh Thể.
Cơ cấu nền tảng của kinh nghiệm Kitô giáo cần nhờ đến một tiến trình khai tâm,
phải luôn thoả mãn ba yếu tố này:
a) Đó là việc cắt nghĩa các
nghi thức theo ánh sáng của các biến cố cứu chuộc, phù hợp với truyền thống
sống động của Giáo Hội. Việc cử hành Bí tích Thánh Thể, trong sự phong phú bất
tận của nó giúp quy chiếu thường xuyên vào lịch sử cứu độ. Trong Chúa Kitô chịu
đóng đinh và sống lại, chúng ta thật sự cử hành Đấng đã nối kết mọi sự vào
trong Người (x. Ep 1, 10). Từ khai nguyên, cộng đồng Kitô giáo đã giải thích
các biến cố về cuộc đời Chúa Giêsu, và nhất là Mầu Nhiệm Vượt Qua, trong tương
quan với toàn bộ lịch sử Cựu Ước.
b) Giáo lí khai tâm phải quan
tâm trình bày ý nghĩa của các dấu chỉ chứa đựng trong các nghi thức. Điều này
đặc biệt quan trọng trong thời đại kĩ nghệ cao như thời đại của chúng ta, một
thời đại có nguy cơ mất khả năng hiểu rõ các dấu chỉ và biểu tượng. Không chỉ
là truyền đạt các thông tin, giáo lí khai tâm phải giúp cho tín hữu cảm nhận
hơn đối với ngôn ngữ của các dấu chỉ và cử điệu, mà cùng với lời nói, làm nên
nghi thức.
c) Sau cùng, giáo lí khai tâm
phải quan tâm đưa ý nghĩa của nghi thức liên quan đến đời sống Kitô đi vào mọi
chiều kích của nó- làm việc và dấn thân, tư duy và cảm xúc, hoạt động và nghỉ
ngơi. Một phần của tiến trình khai tâm cần phải tỏ cho thấy những mầu nhiệm
được cử hành trong nghi lễ liên quan với bổn phận truyền giáo của người tín hữu
như thế nào. Kết quả sau cùng của việc khai tâm là ý thức rằng cuộc sống của họ
đang tuần tự được biến đổi bởi những mầu nhiệm thánh đang được cử hành. Hơn
thế, mục tiêu của giáo dục Kitô giáo là huấn luyện người tín hữu có một đức tin
trưởng thành, làm cho họ trở nên một “tạo vật mới”, có khả năng làm chứng trong
môi trường của họ niềm hi vọng Kitô đã tác động họ.
Muốn thực hiện thành công công
tác giáo dục đó trong các cộng đồng Giáo Hội của chúng ta, những người có trách
nhiệm đào tạo phải được chuẩn bị một cách tương xứng. Thật thế, toàn thể dân
Chúa phải cảm thấy liên đới với việc đào tạo này. Mỗi cộng đồng Kitô giáo được
kêu gọi để trở thành một nơi mà dân chúng có thể được dạy dỗ về các mầu nhiệm
được cử hành trong đức tin. Về vấn đề này, các Nghị Phụ mời gọi sự tham gia
rộng rãi hơn của các cộng đồng tu sĩ, các phong trào và các nhóm, mà nhờ các
đặc sủng riêng có thể tạo nên động lực mới cho việc giáo dục Kitô giáo. (188)
Cũng trong thời đại chúng ta, Chúa Thánh Thần rộng rãi ban phát các ơn của
Người để nâng đỡ sứ mệnh tông đồ của Giáo Hội, được uỷ nhiệm để loan truyền đức
tin và giúp nó đạt đến mức trưởng thành. (189)
Lòng tôn kính đối với Bí tích
Thánh Thể
65. Một chỉ dấu thuyết phục
của tính hữu hiệu của giáo lí về Thánh Thể chắc chắn là sự gia tăng cảm thức về
mầu nhiệm Thiên Chúa hiện diện giữa chúng ta. Điều này có thể được diễn đạt
bằng những dấu chỉ cụ thể bên ngoài của lòng tôn kính đối với Bí tích Thánh Thể
mà tiến trình khai tâm đã dẫn khởi nơi người tín hữu. (190) Tôi nghĩ một cách
tổng quát đến sự quan trọng của các cử chỉ và tư thế, như quỳ gối trong suốt
thời gian trọng tâm của Kinh Nguyện Thánh Thể. Trong sự đa dạng theo luật định
về các dấu chỉ được dùng trong bối cảnh các nền văn hoá khác nhau, mỗi người có
thể cảm nhận và diễn đạt ý thức rằng trong mỗi cuộc cử hành, chúng ta đứng
trướcThiên Chúa uy nghiêm cao cả, Đấng đến cùng chúng ta trong những dấu chỉ
khiêm tốn của Bí tích.
Sự Tôn Thờ và Lòng sùng kính
Thánh Thể
Tương quan nội tại giữa việc
cử hành và sự tôn thờ
66. Một trong những giờ phút
cảm động nhất của Thượng Hội Đồng Giám Mục diễn ra khi chúng tôi họp nhau trong
Đền Thờ Thánh Phêrô, cùng với một số tín hữu để chầu Thánh Thể. Qua hành vi cầu
nguyện này, Hội Đồng Giám Mục, không chỉ bằng lời nói, tỏ cho thấy tương quan
nội tại giữa việc cử hành Thánh Thể và lòng tôn sùng Thánh Thể. Một sự gia tăng
tìm hiểu những khía cạnh mang nhiều ý nghĩa của đức tin Giáo Hội là một phần
quan trọng trong kinh nghiệm của chúng ta, vào những năm tiếp theo sau sự canh
tân phụng vụ của Công Đồng Vatican II. Trong suốt giai đoạn đầu của cuộc cải
cách, tương quan sâu xa giữa Thánh Lễ và chầu Thánh Thể đã không được nhìn nhận
một cách rõ ràng. Thí dụ, đã có một sự phản bác, lan rộng một thời, cho rằng
bánh Thánh Thể được trao ban cho chúng ta không phải để nhìn ngắm, mà để ăn.
Tuy nhiên, trong ánh sáng kinh nghiệm của kinh nguyện Giáo Hội, điều này bị xem
như là không có nền tảng. Như Thánh Augustinô đã nói: “không ai ăn thịt ấy mà
trước đó đã không tôn thờ; chúng ta sẽ phạm tội nếu chúng ta không tôn thờ thịt
ấy.” (nemo autem illam carnem manducat, nisi prius adoraverit; peccemus non
adorando ) (191). Trong Bí tích Thánh Thể, Con Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta
và ước muốn nên một với chúng ta; chầu Thánh Thể chỉ là hậu kết tự nhiên của cử
hành Thánh Thể, mà đó chính là hành vi cao cả nhất của việc tôn thờ của Giáo Hội.
(192) Rước Thánh Thể có nghĩa là tôn thờ Đấng mà chúng ta đón nhận. Chỉ như thế
chúng ta mới trở nên một với Người, và được hưởng nếm trước, nếu có thể nói như
thế, vẻ đẹp của phụng vụ trên trời. Hành vi thờ phượng ngoài Thánh Lễ kéo dài
và tăng cường tất cả những gì đã được thực hiện trong chính lúc cử hành phụng
vụ. Đúng vậy, “chỉ trong hành vi tôn thờ thì sự đón nhận sâu xa và đích thực
mới có thể chín mùi. Và chính sự gặp gỡ cá nhân với Chúa mới tăng cường sứ mệnh
xã hội hàm ẩn trong Thánh Thể, và sẽ phá đổ không chỉ những bức tường ngăn cách
Chúa với chúng ta, mà nhất là những bức tường chia cách chúng ta với nhau.”
(193)
Sự thực hành việc chầu Thánh
Thể
67. Bởi đó, cùng với Thượng
Hội Đồng Giám Mục, tôi tha thiết nhắc nhở các mục tử của Giáo Hội và Dân Thiên
Chúa hãy thực hành việc chầu Thánh Thể, một cách cá nhân cũng như trong cộng
đoàn. (194) Những lợi ích to lớn sẽ phát sinh nhờ một nội dung giáo lí thích
hợp giải thích tầm quan trọng của hành vi thờ phượng này, giúp cho các tín hữu
cảm nhận việc cử hành phụng vụ đầy đủ hơn và kết quả hơn. Trong điều kiện có
thể, và nếu thấy thích hợp, nhất là ở những nơi đông người cư trú, hãy lập
riêng những nhà thờ hay nhà nguyện để chầu Thánh Thể liên tục. Ngoài ra, tôi
cũng thêm rằng, trong việc huấn giáo, và nhất là trong khi chuẩn bị cho việc
Rước Lễ Lần Đầu, các trẻ em phải được dạy về ý nghĩa và sự cao đẹp khi dành
thời giờ ở với Chúa Giêsu, đồng thời giúp vun trồng một cảm thức kính yêu trước
sự hiện diện của Chúa trong Thánh Thể.
Ở đây tôi muốn bày tỏ lòng cảm
mến và sự nâng đỡ đối với những Hội Dòng có những người dành nhiều thời gian để
chầu Thánh Thể. Như thế, họ nêu cho chúng ta mẫu gương về một đời sống để cho
mình được biến đổi bởi sự hiện diện đích thực của Chúa. Tôi cũng muốn khích lệ
những hiệp hội các tín hữu cũng như những nhóm thân hữu có lòng tôn thờ Thánh
Thể đặc biệt; họ phục vụ như một nắm men chiêm niệm cho toàn thể Gíao Hội và
như một lời hiệu triệu gửi đến các cá nhân và các cộng đồng hãy đăt Chúa Kitô
làm trọng tâm cho đời mình.
Những hình thức sùng kính
Thánh Thể
68. Tương quan cá nhân mà mỗi
tín hữu thiết lập với Chúa Giêsu Thánh Thể thường xuyên thúc đẩy họ vươn ra đi
vào hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội cũng như nuôi dưỡng nơi họ ý thức đầy đủ
hơn về sự thuộc về Thân Thể Chúa Kitô. Vì lí do này, ngoài việc khích lệ các
tín hữu hãy dành thời giờ để cầu nguyện riêng trước Bí tích của Bàn Thờ, tôi
cảm thấy cần thiết phải hối thúc các giáo xứ và những nhóm giáo hội khác hãy
dành riêng thời giờ để chầu Thánh Thể chung. Hẳn nhiên, những hình thức sùng
kính Thánh Thể vẫn có sẽ giữ nguyên giá trị của nó. Chẳng hạn, tôi nghĩ đến các
cuộc kiệu Thánh Thể, nhất là cuộc kiệu truyền thống vào Ngày Lễ Trọng kính Mình
Máu Thánh Chúa Kitô (Corpus Christi), việc thực hành đạo đức Bốn Mươi Giờ chầu,
Những Đại Hội Thánh Thể địa phương, quốc gia và quốc tế, và những sáng kiến
tương tự khác. Nếu được canh tân và thích ứng đúng mức theo hoàn cảnh địa
phương, những hình thức sùng kính này hôm nay vẫn đáng được thực hành. (195)
Vị trí của nhà tạm
69. Liên quan đến tầm quan
trọng của việc lưu giữ Thánh Thể và chầu Thánh Thể, cũng như sự kính tôn đối
với Bí tích của Hi tế Chúa Kitô, Thượng Hội Đồng Giám Mục cũng thảo luận vấn đề
về sự sắp đặt nhà tạm trong các nhà thờ của chúng ta. (196) Vị trí đúng đắn của
nhà tạm giúp cho việc nhận rõ sự hiện diện thực của Chúa Kitô trong Bí tích
Thánh Thể. Bởi đó, vị trí mà Mình Thánh Chúa được lưu giữ, phải được thắp một
ngọn đèn để cho tất cả những ai bước vào trong nhà thờ đều có thể dễ dàng nhìn
thấy. Chính vì thế cần phải nghiên cứu kiến trúc của ngôi nhà thánh: trong các
nhà thờ mà không có phòng Thánh Thể, và nơi vẫn còn đặt bàn thờ chính cùng với
nhà tạm, thì tiếp tục duy trì sử dụng cấu trúc này thật thích hợp để lưu giữ và
chầu Thánh Thể, nhưng lưu ý đừng đặt ghế chủ toạ ở phía trước. Trong các nhà
thờ mới, đặt phòng Thánh Thể kế cận cung thánh là điều tốt; nơi nào mà điều này
không thể thực hiện thì nên đặt nhà tạm trong cung thánh, ở một vị trí đủ cao,
giữa phía trực hậu, hoặc ở một chỗ có thể nhìn thấy rõ. Cần quan tâm dành sự
kính trọng xứng đáng cho nhà tạm, luôn phải được chăm sóc, cả về mặt nghệ thuật
nữa. Về vấn đề này, hẳn nhiên cần tuân theo những điều trình bày trong Huấn Thị
Tổng Quát về Sách Lễ Rôma. (197) Trong bất cứ trường hợp nào, quyết định cuối cùng
về những vấn đề này thuộc về Đức Giám Mục Địa Phận.
PHẦN BA
BÍ TÍCH THÁNH THỂ, MỘT MẦU
NHIỆM ĐỂ SỐNG
“Như chúa Cha là Đấng hằng
sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ
tôi mà được sống như vậy” (Ga 6, 57)
Mô thức Thánh Thể của đời sống
Kitô
Sự thờ phượng tinh thần –
logiké latreía (Rm 12, 1)
70. Chúa Giêsu, Đấng đã trở
nên cho chúng ta lương thực sự thật và tình yêu, nói về ân huệ sự sống của
Người và bảo đảm với chúng ta rằng “ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga
6, 51). “Sư sống vĩnh cửu” này trong chúng ta bắt đầu ngay từ bây giờ, nhờ sự
biến đổi được thực hiện trong chúng ta nhờ hồng ân Thánh Thể: “Kẻ ăn tôi sẽ nhờ
tôi mà được sống” (Ga 6, 57). Những lời Chúa Giêsu nói giúp chúng ta hiểu rõ mầu
nhiệm “để tin” và “để cử hành” chứa đựng một sức mạnh nội tại làm cho nó trở
thành nguyên lí của sự sống mới trong chúng ta và thành mô thức đời sống Kitô
của chúng ta. Khi rước mình và máu Chúa Giêsu Kitô, chúng ta trở nên những
người thông dự vào sự sống thần linh, mỗi ngày mỗi trưởng thanh và ý thức hơn.
Cũng tại đây, chúng ta có thể áp dụng lời của Thánh Augustinô, trong sách “Tự
thuật” của ngài về Logos trường cửu như lương thực cho linh hồn chúng ta. Khi
nhấn mạnh bản chất mầu nhiệm của lương thực này, Thánh Augustinô tưởng tượng
Chúa đang nói với ngài: “Cha là lương thực của những bậc siêu phàm; con cũng
trở nên siêu phàm khi con ăn cha, con sẽ không biến đổi cha ở trong con như
lương thực của xác thân, chính ở trong con mà con sẽ được biến đổi trong cha.”
(198) Không phải lương thực thánh Thể được biến đổi thành chúng ta, nhưng chính
chúng ta được biến đổi một cách mầu nhiệm nhờ Thánh Thể. Chúa Kitô dưỡng nuôi
chúng ta bằng cách kết liên chúng ta với Người; “Người lôi kéo chúng ta đến với
Người” (199)
Ở đây cử hành Thánh Thể xuất
hiện như nguồn mạch và đỉnh cao của đời sống Giáo Hội trong tất cả sức mạnh của
nó, bởi vì nó đồng thời vừa là khởi điểm và là sự hoàn tất của việc thờ phượng
mới và dứt khoát, logiké latreía. (200) Lời nhắc nhở của Thánh Phaolô cho dân
thành Rôma về vấn đề này là một sự diễn tả cụ thể cách thế Bí tích Thánh Thể
làm cho toàn bộ đời sống chúng ta trở nên sự thờ phượng làm đẹp lòng Thiên
Chúa: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em
hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên
Chúa, đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người” (Rm 12, 1). Qua
những lời này sự thờ phượng mới xuất hiện như một sự tự hiến trọn vẹn được thực
hiện trong sự hiệp thông với toàn thể Giáo Hội. Lời kêu nài của vị Tông Đồ về
việc hiến dâng thân mình nhấn mạnh đến tính chất cụ thể việc thờ phượng của con
người, thật sự không có gì là xa rời. Về vấn đề này, vị Giám Mục thành Hippone
còn khuyến giục chúng ta rằng “Hiến lễ của chúng ta, những Kitô hữu, tuy nhiều,
nhưng chúng ta chỉ là một thân mình trong Chúa Kitô. Giáo Hội cử hành mầu nhiệm
này trong Bí tích của bàn thờ, như các tín hữu nhận biết, và Giáo Hội cho họ
thấy rõ rằng, qua những gì được dâng hiến, đó là chính Giáo Hội được hiến dâng.”(201)
Thật vây, tín điều Công Giáo xác quyết rằng Bí tích Thánh Thể, hiến lễ của Chúa
Kitô, cũng chính là hiến lễ của Giáo Hội, và của mọi tín hữu. (202) Sự nhấn
mạnh đến hiến lễ- “được thánh hiến”- diễn tả tất cả chiều sâu hiện sinh bao hàm
trong sự biến đổi thực tại nhân sinh mà Chúa Kitô nhận lấy (x. Pl 3, 12)
Hiệu quả bao trùm của sự thờ
phượng Thánh Thể
71. Sự thờ phượng mới của Kitô
giáo bao quát và biến đổi mọi khía cạnh của đời sống: “Dù ăn hay uống, hay làm
bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Chúa” (1Cr 10, 31). Trong mọi
hoạt động của mình, người Kitô hữu được mời gọi hiến dâng lên Thiên Chúa sự thờ
phượng đích thực. Chính tại đó, bản tính mầu nhiệm Thánh Thể của đời sống Kitô
bắt đầu hình thành. Thánh Thể, do bởi nó bao trùm cuộc sống cụ thể đời thường
của tín hữu có thể tạo nên một sự biến đổi tuần tự từng ngày cho tất cả những
người được mời gọi nhờ ơn thánh để phản chiếu hình ảnh của Con Thiên Chúa (x.
Rm 8, 29). Không có gì thật sự thuộc về con người- tư tưởng và tình cảm, lời
nói và hành động- lại không tìm thấy trong Bí tích Thánh Thể hình thái thích
hợp để sống một cách tràn đầy. Ở đây chúng ta có thể nhận thấy trọn vẹn giá trị
nhân linh của tính mới mẻ triệt để do Chúa Kitô mang đến trong Bí tích Thánh
Thể: sự thờ phượng Thiên Chúa trong đời sống chúng ta không được giới hạn vào
những gì riêng tư và cá nhân, nhưng do bản tính của nó phải thấm nhập vào mọi
khía cạnh của đời sống chúng ta. Như thế, sự thờ phượng làm đẹp lòng Thiên Chúa
trở thành cách thế mới để sống toàn bộ cuộc sống chúng ta, mỗi giờ phút trong
cuộc sống đó được nâng lên, bởi vì nó được sống như một phần của một cuộc tương
quan với Chúa Kitô như một hiến lễ dâng lên Thiên Chúa. Vinh quang Thiên Chúa
là con người sống (x. 1Cr 10, 31). Và sự sống của con người là được nhìn thấy
Thiên Chúa. (203)
“Iuxta dominicam viventes” –
sống theo Ngày của Chúa
72. Ngay từ buổi đàu các Kitô
hữu đã nhận thức rõ tính mới mẻ triệt để mà Bí tích Thánh Thể đem lại cho đời
sống con người. Người tín hữu nhận ngay ra ảnh hưởng sâu đậm của việc cử hành
Thánh Thể trên lối sống của họ. Thánh Ignatio thành Aniôkia đã diễn tả sự thật
đó khi ngài gọi các Kitô hữu là “những người đã đạt được niềm hi vọng mới,” và
ngài đã nói về họ như “những người sống theo Ngày của Chúa” (Iuxta dominicam
viventes). (204) Câu nói của vị Đại Thánh Tử Đạo thành Antiôkia nêu bật tương
quan giữa thực tại của Bí tích Thánh Thể và đời sống thường ngày của người Kitô
hữu. Sự quy tụ đã thành thói quen của người Kitô hữu vào ngày thứ nhất sau ngày
Sabát để cử hành sự phục sinh của Cúa Kitô- theo tường thuật của Thánh Justinô
Tử Đạo (205)- cũng xác định thể thức của một đời sống được đổi mới nhờ gặp gỡ
Chúa Kitô. Câu nói của Thánh Ignatiô – “sống theo Ngày của Chúa”- ngày thánh
này trở thành kiểu mẫu cho những ngày khác trong tuần. Thật vậy, ngày đó không
được định nghĩa chỉ bởi sự tạm ngừng các sinh hoạt hằng ngày, một thứ chèn vào
giữa nhịp điệu thường ngày. Các Kitô hữu đã luôn cảm nhận ngày này như ngày thứ
nhất trong tuần, bởi vì ngày này tưởng nhớ tính mới mẻ triệt để do Chúa Kitô
mang đến. Do đó, chủ nhật là ngày mà các Kitô hữu nhìn nhận lại mô thức Thánh
Thể mà cuộc sống của họ đã nhận lấy. “Sống theo Ngày của Chúa” nghĩa là sống
một cách ý thức về sự giải phóng mà Chúa Kitô mang đến và làm cho cuộc sống chúng
ta trở nên lễ hiến dâng không ngừng dâng lên Thiên Chúa, để vinh quang của
Người được mặc khải trọn vẹn cho toàn thể nhân loại qua một đời sống được hoàn
toàn đổi mới.
Sống luật buộc ngày Chúa Nhật
73. Ý thức nguyên lí mới về sự
sống mà Bí tích Thánh Thể đem lại cho các Kitô hữu, các Nghị Phụ tái khẳng định
tầm quan trọng của luật buộc ngày Chúa Nhật cho mọi tín hữu, coi đó như nguồn
gốc của sự tự do đích thực giúp họ sống mỗi ngày theo những gì họ đã cử hành
trong “Ngày của Chúa.” Đời sống đức tin bị lâm nguy khi chúng ta để mất lòng
ước ao tham dự cử hành Bí tích Thánh Thể và cuộc tưởng niệm chiến thắng vượt
qua. Tham dự cộng đoàn phụng vụ ngày Chúa Nhật cùng với anh chị em chúng ta, mà
với họ chúng ta họp thành một thân thể trong Chúa Giêsu Kitô, được đòi hỏi bởi
lương tâm Kitô hữu của chúng ta, đồng thời việc tham dự ấy cũng hình thành
lương tâm Kitô. Đánh mất cảm thức về ngày Chúa Nhật như Ngày của Chúa, một ngày
được thánh hoá, là triệu chứng của sự đánh mất cảm thức đích thực về tự do của
người Kitô hữu, sự tự do được làm con Thiên Chúa. (206) Ở đây một số nhận định
của vị tiền nhiệm đáng kính của tôi là Đức Gioan Phaolô II trong Tông Thư Dies
Domini (207) vẫn còn giá trị quý báu. Nói đến những chiều kích khác nhau của
việc cử hành ngày Chúa Nhật, ngài nói rằng đó là Ngày của Chúa (Dies Domini)
liên quan đến công trình sáng tạo, Dies Domini (Ngày của Chúa) như ngày của
công trình sáng tạo mới và của ân huệ của Chúa Thánh Thần, Dies Ecclesiae (Ngày
của Giáo Hội) như là ngày mà cộng đoàn Kitô hữu họp nhau để cử hành, và Dies
hominis (Ngày của con người) như là ngày của niềm vui, của sự nghỉ ngơi và bác
ái.
Như thế, Chúa Nhật xuất hiện
như ngày thánh nguyên thuỷ khi tất cả những tín hữu, dù bất cứ ở đâu đều có thể
trở thành những người loan báo và gìn gữ ý nghĩa đích thực của thời gian. Ngày
đó khơi lên ý nghĩa Kitô giáo về sự sống cũng như cách thế mới để trải nghiệm
thời gian, những tương quan, lao động, sự sống và sự chết. Do vậy, vào Ngày của
Chúa, thật thích hợp để các cộng đoàn Giáo Hội tổ chức, trong Thánh Lễ Chúa
Nhật, những sinh hoạt của Cộng đoàn Kitô giáo: gặp gỡ thân tình, những chương
trình giáo dục đức tin cho thiếu nhi, cho bạn trẻ và người lớn, hành hương,
công việc bác ái, và những giờ cầu nguyện. Vì những giá trị quan trọng như thế-
dù vẫn biết rằng buổi chiều ngày Thứ Bảy, bắt đầu Kinh Chiều, đã thuộc về Chúa
Nhật và luật buộc ngày Chúa Nhật có thể được thực hiện- thì chúng ta cần nhớ
rằng chính ngày Chúa Nhật phải được thánh hoá để nó không kết thúc như một ngày
“vắng bóng Thiên Chúa.” (208)
Ý nghĩa của sự nghỉ ngơi và
lao động
74. Sau cùng, thật là điều
khẩn thiết trong thời đại hôm nay khi nhắc nhớ rằng ngày của Chúa cũng là một
ngày nghỉ ngơi, tách khỏi công việc. Chúng ta tha thiết hi vọng rằng điều đó
cũng sẽ được xã hội dân sự nhìn nhận, để mỗi người có thể tự do tạm ngắt khỏi
công việc mà không bị phạt. Quả thật, các Kitô hữu, khi đối chiếu với ý nghĩa
ngày Sabát trong truyền thống Do Thái, đã luôn coi Ngày của Chúa như một ngày
nghỉ ngơi, thoát khỏi công việc thường ngày. Đây là điều thật có ý nghĩa vì nó
tương đối hoá lao động và hướng nó về chính con người: lao động vì con người
chứ không phải con người vì lao động. Thật dễ nhận thấy điều này bảo vệ mọi
người như thế nào, khi giải thoát họ tình trạng có thể sa vào một hình thái nô
lệ. Như tôi đã có dịp đề cập, “lao động rất quan trọng hoàn thành con người
cũng như để phát triển xã hội. Như thế, lao động phải luôn được tổ chức và thực
hiện trong sự tôn trọng đầy đủ phẩm giá con người và phải luôn luôn phục vụ
thiện ích chung. Đồng thời con người dứt khoát không để cho mình bị nô lệ bởi
lao động hoặc thần tượng hoá nó, cho như là tìm thấy ở đó ý nghĩa quyết định và
tối hậu của cuộc đời.” (209) Chính trong ngày thánh hiến cho Thiên Chúa mà con
người hiểu ra ý nghĩa cuộc đời cũng như công việc của họ. (210)
Những cộng đoàn cử hành ngày
Chúa Nhật thiếu vắng linh mục
75. Việc khám phá thêm ý nghĩa
của việc cử hành ngày Chúa Nhật đối với đời sống của các Kitô hữu cũng dẫn đến
việc nhìn nhận vấn đề của những cộng đồng Kitô hữu thiếu linh mục, do đó không
thể cử hành Thánh Lễ vào Ngày của Chúa. Về vấn đề này phải nói rằng hiện nay có
rất nhiều hoàn cảnh khác biệt nhau. Trước tiên Thượng Hội Đồng Gíam Mục nhắn
nhủ rằng các tín hữu phải đến một trong các nhà thờ của Giáo Phận mình, nơi chắc
chắn có một linh mục, cho dù điều này đòi hỏi một sự hi sinh nào đó. (211) Khi
vì khoảng cách xa xôi mà thật sự không thể tham dự Bí tích Thánh Thể Ngày Chúa
Nhật thì việc quan trọng còn lại là các cộng đồng Kitô hữu phải họp nhau để ca
tụng Chúa và tưởng niệm Ngày được dành riêng cho Người. Tuy nhiên, điều này
phải được kèm theo sự chỉ dẫn thích đáng về sự khác biệt giữa Thánh Lễ và Cộng
Đoàn họp nhau Ngày Chúa Nhật khi thiếu vắng một linh mục. Sự chăm sóc mục vụ
của Giáo Hội phải được nói đến trong trường hợp này, là duy trì cử hành phụng
vụ Lời Chúa, được hướng dẫn bởi một phó tế hay một vị lãnh đạo cộng đoàn mà tác
vụ này được năng quyền chính thức uỷ nhiệm, và được thi hành theo một nghi thức
riêng do các Hội Đồng Giám Mục soạn thảo và chuẩn nhận cho mục đích đó. (212)
Tôi lặp lại rằng chỉ các vị Thường Quyền mới được cho phép việc trao mình Chúa
trong những buổi phụng vụ như thế, trong khi cẩn thận cứu xét sự cần thiết phải
chọn lựa như thế nào đó. Hơn nữa, cần phải chắc chắn rằng những cộng đoàn này không
gây ra sự hiểu lầm về vai trò thiết yếu của linh mục cũng như các bí tích trong
đời sống Giáo Hội. Tầm quan trọng của vai trò người giáo dân rất đáng tạ ơn vì
lòng quảng đại phục vụ các cộng đoàn của họ, nhưng không bao giờ được che khuất
sứ mệnh thiết yếu của linh mục trong đời sống của Giáo Hội. (213) Bởi đó cần
phải quan tâm bảo đảm rằng những cộng đoàn thiếu vắng linh mục như thế không
gây ra những quan điểm giáo hội học không phù hợp với sự thật Tin Mừng và
truyền thống Giáo Hội. Đúng hơn, họ hãy dành riêng những giờ cầu nguyện với
Chúa, xin Người gửi các linh mục thánh thiện theo lòng Người thương xót. Về
điểm này, thật là xúc động khi đọc những lời Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
trong Thư gửi các Linh mục của ngài vào Thứ Năm Tuần Thánh năm 1979, nhắc đến
những nơi mà các tín hữu, do bởi chế đọ độc tài, không có linh mục, đã gặp nhau
trong một nhà thờ hay một phòng thánh, đặt trên bàn thờ một dây các phép mà họ
còn giữ được, rồi cùng đọc kinh phụng vụ Thánh Thể, dừng lại trong thinh lặng
“ở chỗ liên quan đến sự biến thể” như một dấu chỉ “họ tha thiết ước ao chừng
nào được nghe những lời mà chỉ môi miệng linh mục mới có thể đọc lên một cách
thành sự.” (214) Nhớ mãi điều này, cũng như xét đến những lợi ích vô song phát
sinh từ việc cử hành Bí tích thánh Thể, tôi mong muốn tất cả các linh mục hãy
sẵn lòng và hết sức thường xuyên có thể thăm viếng các cộng đoàn đã được trao
cho các ngài chăm sóc, kẻo họ phải chờ đợi quá lâu mà không được đón nhận Bí
tích tình yêu.
Một mô thức Thánh Thể của đời
sống Kitô, thuộc về Giáo Hội
76. Sự quan trọng của Chúa
Nhật như Ngày của Giáo Hội (Dies Ecclesiae) đưa chúng ta trở lại với tương quan
nội tại giữa sự chiến thắng của Chúa Giêsu trên tội lỗi và sự chết, và địa vị
chúng ta thuộc về thân thể Giáo Hội của Người. Vào Ngày của Chúa, mỗi Kitô hữu
lại khám phá thấy chiều kích cộng đoàn của đời sống họ như một đời sống đã được
cứu chuộc. Tham dự vào phụng vụ và rước Mình và Máu Chúa Kitô tăng cường và đào
sâu địa vị của chúng ta thuộc về Đấng đã chết cho chúng ta (x. 1 Cr 6, 19; 7,
23). Thật thế, kẻ ăn Chúa Kitô phải sống cho Người. Mầu nhiệm Thánh Thể giúp
chúng ta hiểu rõ ý nghĩa của sự hiệp thông các thánh (communio sanctorum). Hiệp
thông bao giờ cũng mang cả hai nghĩa, chiều dọc và chiều ngang, không tách
biệt: hiệp thông với Chúa và hiệp thông với anh chị em chúng ta. Cả hai chiều
kích này hội tụ một cách mầu nhiệm trong hồng ân Thánh Thể. “Ở đâu mất sự hiệp
thông với Chúa, nghĩa là hiệp thông với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần,
thì nguồn gốc và nguồn mạch cho sự hiệp thông của chúng ta với người khác cũng
tiêu tan. Và ở đâu chúng ta không sống hiệp thông với nhau, thì sự hiệp thông
với Thiên Chúa Ba Ngôi cũng mất sinh khí và vô thực.” (215) Được kêu gọi để trở
thành phần tử của Chúa Kitô và phần tử của nhau (x. 1 Cr 12, 27), chúng ta hợp
thành một thực thể được xây dựng một cách huyền nhiệm trên Bí tích Thánh Tẩy và
được nuôi dưỡng bởi Bí tích Thánh Thể, một thực thể đòi phải có sự thể hiện hữu
hình trong đời sống cộng đoàn của chúng ta.
Mô thức Thánh Thể của đời sống
Kitô chắc chắn là hình thức giáo hội và cộng đoàn. Qua Giáo phận và giáo xứ, là
những cơ cấu căn bản của Giáo Hội trong một lãnh thổ riêng, mỗi người tín hữu
cảm nhận một cách cụ thể được là thành viên của Thân Mình Chúa Kitô nghĩa là
gì. Những hội đoàn, những phong trào Giáo Hội và những cộng đồng mới – với
những đặc sủng đầy sức sống do Chúa Thánh Thần ban xuống cho nhu cầu của thời
đại chúng ta- cùng với các Dòng Tu, đều có trách nhiệm riêng để gíup cho người
tín hữu ý thức rằng họ thuộc về Chúa (x. Rm 14, 8). Phong trào tục hoá, mà đặc
tính của nó là nhấn mạnh vào chủ thuyết cá nhân, đã gây ra những hệ quả tiêu
cực nhất trên các cá nhân, làm cho họ sống tách biệt vì mất ý thức thuộc về.
Kitô giáo, ngay từ lúc khai nguyên, luôn mang ý nghĩa của tính đồng liêu, một
sự kết nối các tương quan thường xuyên được củng cố qua việc lắng nghe Lời Chúa
và tham dự vào Bí tích thánh Thể, và được thêm sức sống nhờ Chúa Thánh Thần.
Linh đạo và văn hoá Thánh Thể
77. Một cách thật có ý nghĩa,
các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng Gíam Mục phát biểu rằng “người tín hữu Kitô cần
hiểu rõ hơn tương quan giữa Bí tích Thánh Thể và cuộc sống thường ngày của họ.
Linh đạo Thánh Thể không chỉ là tham dự Thánh Lễ và viếng Thánh Thể. Nó bao
trùm toàn bộ đời sống.” (216) Nhận định này thật là thấu suốt đối với hoàn cảnh
của chúng ta hôm nay. Cần phải nhận thức rằng một trong những ảnh hưởng nghiêm
trọng nhất của sự tục hoá vừa đề cập đến là nó giới hạn đức tin Kitô giáo vào
bờ rìa của cuộc sống như thể không liên quan gì đến cuộc sống cụ thể hằng ngày.
Sự vô dụng của một lối sống “như thể Thiên Chúa không hiện hữu” ngày nay đã quá
hiển nhiên đối với chúng ta. Ngày hôm nay cần phải nhìn nhận lại rằng Chúa
Giêsu Kitô không chỉ là sự xác tín cá nhân hay một ý tưởng trừu tượng, nhưng là
một người thực, mà việc Người trở nên thành phần của lịch sử nhân loại có khả
năng đổi mới mọi người. Bởi đó, Bí tích Thánh Thể, nguồn mạch và đỉnh cao của
đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội phải được diễn giải trong một linh đạo, thành
đời sống sống “theo Thánh Thần” (Rm 8, 4 tt; x. Gl 5, 16, 25). Thât là ý nghĩa
khi Thánh Phaolô, trong một đoạn của Thư gửi Tín Hữu Rôma mời gọi các thính giả
của ngài sống sự thờ phượng mới theo tinh thần, ngài cũng nói đến sự cần thiết
phải thay đổi cách sống và cách suy nghĩ của họ: “Anh em đừng rập theo đời này,
nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần anh em, hầu có
thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì
hoàn hảo” (12, 2). Bằng cách đó, vị Tông Đồ Dân Ngoại nhấn mạnh đến sự liên hệ
giữa sự thờ phượng đích thật theo tinh thần và sự cần thiết phải có một cách
thế mới để thấu hiểu và sống cuộc sống của mình. Một phần hoàn chỉnh của mô
thức Thánh Thể của đời sống Kitô là một cách thế suy nghĩ mới: “để chúng ta sẽ
không còn là những trẻ nhỏ bị sóng đánh trôi giạt theo mọi chiều gió đạo lí”
(Ep 4, 14).
Bí tích Thánh Thể và sự rao
giảng Tin Mừng cho các nền văn hoá
78. Từ những gì đã được nói
đến trên đây thì hiển nhiên là mầu nhiệm Thánh Thể đặt chúng ta vào cuộc đối
thoại với những nền văn hoá khác nhau, nhưng cũng theo một nghĩa nào đó, thách
đố chúng. (217) Đặc tính liên văn hoá của sự thờ phượng mới này, logiké
latreía, cần phải được nhận biết. Sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô và sự tuôn
đổ Chúa Thánh Thần là những biến cố có khả năng thu hút mọi thực tại văn hoá và
đưa vào đó men Tin Mừng. Tiếp theo là chúng ta phải dấn thân xúc tiến công cuộc
Tin mừng hoá các nền văn hoá, với ý thức rằng chính Chúa Kitô là sự thật cho
mọi người, và cho toàn thể lịch sử nhân loại. Bí tích Thánh Thể trở thành một
tiêu chuẩn để chúng ta đánh giá tất cả những gì mà Kitô giáo gặp thấy trong
những nền văn hoá khác nhau. Trong tiến trình phân định quan trọng này, chúng
ta phải hiểu rõ ý nghĩa lời thúc giục của Thánh Phaolô trong Thư Thứ Nhất gửi
Tín Hữu Thessalônica, “hãy cân nhắc mọi sự; điều gì tốt thì giữ” (5, 21).
Bí tích Thánh Thể và tín hữu
giáo dân
79. Trong Chúa Kitô, Đầu của
Giáo Hội là Thân Mình Người, mọi Kitô hữu là “một giống nòi được tuyển chọn, là
hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền
những kì công của Người” (1 Pr 2, 9). Bí tích Thánh Thể, như một mầu nhiệm để
sống, được trao ban cho mỗi người chúng ta như chúng ta đang là, làm cho cuộc
sống cụ thể của chúng ta trở thành một nơi mà hằng ngày chúng ta cảm nghiệm
được tính mới mẻ triệt để của đời sống Kitô. Hi tế Thánh Thể nuôi dưỡng và tăng
cường nơi chúng ta tất cả những gì chúng ta đã nhận lãnh trong Bí tích Thánh
Tẩy, mà qua đó chúng ta được mời gọi nên thánh, (218) và điều này phải được thể
hiện một cách trong suốt trong những hoàn cảnh mà mỗi Kitô hữu sống cuộc sống
của mình. Hằng ngày chúng ta trở nên “một sự thờ phượng đẹp lòng Thiên Chúa”
bằng cách sống đời sống của chúng ta như một ơn gọi. Bắt đầu từ cộng đoàn phụng
vụ, chính Bí tích Thánh Thể thúc giục chúng ta, trong cuộc sống thường ngày,
làm mọi sự vì vinh quang Thiên Chúa.
Và bởi vì trần thế này là
“cánh đồng” (Mt 13, 38) trong đó Thiên Chúa gieo trồng con cái Người như hạt
giống tốt, là người giáo dân Kitô, qua Bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức đã lãnh
nhận, họ được thêm sức mạnh nhờ Bí tích Thánh Thể và được kêu gọi để sống tính
mới mẻ triệt để mà Chúa Kitô mang đến, ở bất cứ đâu họ hiện diện. (219) Họ phải
vun trồng một niềm ao ước rằng Thánh Thể phải tạo được hiệu qủa sâu xa hơn vào
trong cuộc sống thường ngày của họ, làm cho họ trở thành những chứng nhân
thuyết phục trong môi trường làm việc cũng như trong tất cả môi trường xã hội.
(220) Tôi khuyến khích các gia đình hãy đặc biệt kín múc niềm cảm hứng và sức
mạnh trong Bí tích này. Tình yêu giữa người nam và người nữ, sự rộng mở đón
nhận sự sống, và việc giáo dục con cái là những nơi chốn ưu tiên Bí tích Thánh
Thể có thể tỏ lộ quyền năng biến đổi và đem đến cho nó ý nghĩa tròn đầy. (221)
Các mục tử của Giáo Hội phải không ngừng đỡ nâng, hướng dẫn cũng như khích lệ
các tín hữu giáo dân sống trọn vẹn ơn gọi nên thánh của họ trong thế giới này,
thế giới mà Thiên Chúa tha thiết yêu thương đến nỗi đã sai Con của Người đến
cứu chuộc nó.
Bí tích Thánh Thể và linh đạo
linh mục
80. Hình thái Thánh Thể của
đời sống Kitô được thể hiện một cách rất đặc biệt trong chức linh mục. Linh đạo
linh mục tự bản chất là Thánh Thể. Những hạt mầm của nền linh đạo này đã được
nhận thấy rõ trong những lời mà Đức Giám Mục nói trong phụng vụ Bí tích Truyền
Chức: “Con hãy nhận lễ vật của dân thánh mà dâng lên Thiên Chúa. Con hãy ý thức
việc con làm, noi theo điều con thực hiện, và rập đời sống con theo mầu nhiệm
Thánh Giá Chúa.” (222) Để đem lại một mô thức Thánh Thể rõ nét hơn cho cuộc đời
mình, linh mục, ngay từ những năm còn trong chủng viện phải xây dựng đời sống
thiêng liêng của mình như một ưu tiên cao nhất. Ngài được kêu gọi để tìm kiếm
Thiên Chúa một cách liên lỉ, trong khi vẫn hằng quan tâm hướng về các anh chị
em của mình. Một đời sống thiêng liêng mãnh liệt sẽ giúp ngài đi vào hiệp thông
sâu xa hơn với Chúa, đồng thời giúp ngài để cho mình được tình yêu của Thiên
Chúa chiếm hữu, hầu làm chứng cho tình yêu ấy qua mọi thời gian, dẫu gặp những
lúc đen tối nhất và khó khăn nhất. Trong chủ đích đó, tôi hợp với các Nghị Phụ
để nhắc nhở linh mục “cử hành Thánh Lễ mỗi ngày, dù khi không có tín hữu tham
dự.” (224) Lời nhắn nhủ này phù hợp một cách khách quan với giá trị vô biên của
mỗi cuộc cử hành Bí tích Thánh Thể, và còn được thôi thúc bởi hiệu quả thiêng
liêng duy nhất của Thánh Lễ. Nếu được cử hành một cách chăm chú và với đức tin
sống động, Thánh Lễ xây dựng đời sống thiêng liêng theo nghĩa sâu xa nhất của
từ ngữ, bởi vì Thánh Lễ nuôi dưỡng sự rập khuôn theo Chúa Kitô của linh mục
đồng thời củng cố ơn gọi của ngài.
Bí tích Thánh Thể và đời sống
thánh hiến
81. Tương quan giữa Bí tích
Thánh Thể với những ơn gọi khác nhau trong Giáo Hội được nhìn thấy một cách đặc
biệt sống động trong “chứng tá tiên tri của các tu sĩ nam nữ, những người tìm
thấy trong việc cử hành Bí tích Thánh Thể và trong việc tôn sùng Thánh Thể sức
mạnh thiết yếu cho ơn gọi bước theo Chúa Kitô một cách triệt để, vâng phục,
thanh bần, và khiết tịnh.” (225) Dù phục vụ trong nhiều lãnh vực khác nhau như
đào tạo nhân sự và chăm sóc người nghèo, giáo dục và y tế, các tu sĩ nam nữ đều
nhận biết rằng cứu cánh cuộc đời họ là “chiêm ngắm những sự thiêng liêng và kết
hợp liên lỉ với Chúa trong cầu nguyện.” (226) Sự đóng góp chủ yếu mà Giáo Hội
chờ mong nơi những tu sĩ ấy, là để hiện diện hơn là để hành động. Ở đây tôi
muốn tái khẳng định sự quan trọng của chứng tá về đức trinh khiết, đích thực
liên quan đến mầu nhiệm Thánh Thể. Ngoài việc liên hệ đến sự độc thân linh mục,
mầu nhiệm Thánh Thể cũng liên hệ một cách nội tại với đức khiết tịnh của tu sĩ,
bởi vì nó diễn tả sự dâng hiến trọn vẹn của Giáo Hội cho Chúa Kitô, Đấng mà
Giáo Hội đón nhận như Hôn Phu của mình với lòng trung tín triệt để, dạt dào.
(227) Trong Bí tích Thánh Thể, đức khiết tịnh của tu sĩ tìm được nguồn cảm hứng
cũng như dưỡng chất cho sự toàn hiến dành cho Chúa Kitô. Hơn nữa, từ Bí tích
Thánh Thể, đức khiết tịnh kín múc được ơn can đảm và sức mạnh để trở thành dấu
chỉ tình yêu ban không và dạt dào của Thiên Chúa dành cho nhân loại, trong
chính thời đại của chúng ta. Cuối cùng, bởi chứng tá đặc thù của nó, đời sống
thánh hiến trở thành một dấu chỉ hiển nhiên và tiên báo về “tiệc cưới của Con
Chiên” (Kh 19, 7- 9), là chung điểm của toàn bộ lịch sử cứu chuộc. Theo nghĩa này,
đức khiết tịnh hướng về chân trời cánh chung, mà nơi đó, mỗi con người phải
định hướng cho những chọn lựa và những quyết định liên quan đến cuộc đời mình.
Bí tích Thánh Thể và sự biến
đổi luân lí
82. Khi khám phá thấy vẻ đẹp
của mô thức Thánh Thể của đời sống Kitô, chúng ta cũng được tiến dẫn để suy tư
về năng lực luân lí do Bí tích Thánh Thể hoạt động để nâng đỡ sự tự do đích
thực của con cái Thiên Chúa. Ở đây tôi muốn lấy lại sự thảo luận đã diễn ra
trong Thượng Hội Nghị về tương quan giữa mô thức Thánh Thể của đời sống và sự
cải đổi luân lí. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cho rằng đời sống luân lí “có
giá trị của một ‘sự thờ phượng thiêng liêng’ (Rm 12, 1; x. Pl 3, 3), khơi nguồn
và được nuôi dưỡng bởi nguồn suối bất tận của sự thánh thiện và vinh quang của
Thiên Chúa, có sẵn trong các Bí tích, nhất là trong Bí tích Thánh Thể: bằng
cách tham dự vào hiến tế Thập Giá, các Kitô hữu thông phần vào tình yêu tự hiến
của Chúa Kitô, họ được trang bị và thôi thúc để sống đức ái duy nhất đó trong
tất cả suy nghĩ và hành động của mình” (228). Tắt một lời, “ chính sự ’thờ
phượng’, sự hiệp thông Thánh Thể, bao gồm một thực tại vừa được yêu và vừa có
bổn phận yêu thương tha nhân. Một Bí tích Thánh Thể mà không quy về việc thực
hành yêu thương thực tiễn thật sự chỉ là vụn vặt” (229).
Lời nhắc nhở về giá trị luân
lí của sự thờ phượng trong tinh thần không được diễn giải chỉ theo cách thức
luân lí. Trên tất cả mọi sự thì đó là một sự khám phá đầy vui mừng về tình yêu
đang hoạt động nơi tâm hồn những người mà khi đón nhận ơn Chúa, đã từ bỏ chính
mình cho Người và tìm được tự do đích thực. Sự biến đổi luân lí hàm ẩn trong sự
thờ phượng mới do Chúa Kitô thiết lập là một khao khát nung nấu muốn đáp lại
tình Chúa yêu với tất cả con người mình, dù vẫn luôn ý thức về sự yếu đuối của
mình. Sau khi đón Chúa vào nhà mình, người thu thuế hoàn toàn được biến đổi:
ông quyết định bố thí môt nửa tài sản của mình cho người nghèo và đền trả gấp
bốn lần những người ông đã tước đoạt. Sự thúc bách về luân lí xuất phát từ cuộc
đón tiếp Chúa Giêsu đi vào đời sống chúng ta là kết quả của lòng biết ơn vì đã
cảm nghiệm được ở gần cận Chúa Giêsu mà chúng ta chẳng bao giờ xứng đáng.
Tích công khai của Bí tích
Thánh Thể
83. Ở đây thật là quan trọng
để nêu ra điều mà các Nghị Phụ đã gọi là tính công khai của Bí tích Thánh Thể,
một phẩm chất mà cuộc đời chúng ta được kêu gọi môt cách thực sự để đảm nhận.
Sự thờ phượng đẹp lòng Thiên Chúa chẳng bao giờ là một chuyện riêng tư mà không
tạo ra những hệ quả đối với những tương quan của chúng ta với người khác: nó
đòi hỏi chứng ta công khai cho đức tin của chúng ta. Hẳn nhiên, điều này là xác
đáng cho tất cả những người đã được rửa tội, tuy nhiên điều này đăt ra trách
nhiệm đặc biệt đối với những người mà do vai trò xã hội và chính trị của họ,
phải đưa ra những quyết định nền tảng, chẳng hạn việc tôn trọng sự sống con
người, phải bảo vệ từ lúc thụ thai cho đến cái chết tự nhiên, gia đình xây dựng
trên hôn nhân một người nam và một người nữ, sự tự do giáo dục con cái và việc
cổ xuý thiện ích chung trong mọi hình thức (230). Những giá trị này là không
thể thoả hiệp. Do đó, các chính trị gia và luật gia Công Giáo, ý thức trách
nhiệm nặng nề của mình trước xã hội, phải cảm thấy bị ràng buộc, trên nền tảng
của một lương tâm đã được huấn luyện một cách chính đáng, phải đưa ra cũng như
ủng hộ những luật được phát động bởi những giá trị đặt trên bản tính con người
(231). Điều đó có liên hệ khách quan với Bí tích Thánh Thể (x. 1 Cr 11, 27-
29). Các Đức Giám Muc có trách nhiệm thường xuyên nhắc nhớ các giá trị này như
một phần trách nhiêm của mình đối với đoàn chiên đã được uỷ thác cho các ngài
(232).
Bí tích Thánh Thể, một mầu
nhiệm để loan truyền
Bí tích Thánh Thể và truyền
giáo
84. Trong bài giảng dịp cử
hành Thánh Thể long trọng để khai mạc sứ vụ Tông Toà của tôi, tôi đã nói rằng
“không có gì tốt đẹp hơn được ngạc nhiên bởi Tin Mừng, nhờ gặp gỡ Chúa Kitô.
Không có gì tốt đẹp hơn được biết Người cũng như được nói cho người khác biết
về tình bằng hữu của chúng ta với Người.” (233) Tình yêu chúng ta cử hành trong
Bí tích không phải là một điều gì đó chúng ta có thể giữ riêng cho riêng mình.
Bởi chính bản chất của nó, tình yêu đòi được chia sẻ với mọi người. Điều mà thế
giới cần chính là tình yêu của Thiên Chúa; thế giới cần gặp Chúa Kitô và tin
vào Người. Như thế, Bí tích Thánh Thể là nguồn mạh và đỉnh cao không chỉ cho
đời sống của Giáo Hội, nhưng còn cho công cuộc truyền giáo của Giáo Hội nữa:
“Một Giáo Hội cử hành Thánh Thể là một Giáo Hội truyền giáo.” (234) Chúng ta
cũng phải có thể nói với anh chị em chúng ta rằng: “Điều chúng tôi đã thấy và
đã nghe chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp
thông với chúng tôi” (1 Ga 1, 3). Thật vậy, không có gì tốt đẹp hơn là biết
Chúa Kitô và làm cho người khác nhận biết Người. Việc thiết lập Bí tích Thánh
Thể, vì lẽ đó, báo trước chính con tim truyền giáo của Chúa Giêsu: Người là
Đấng được Chúa Cha sai đến để cứu chuộc trần gian (x. Ga 3, 16- 17; Rm 8, 32).
Trong Bữa Tiệc Li, Chúa Giêsu trối lại cho các môn đệ của Người Bí tích mà
Người hiện tại hoá hiến tế của Người, để cứu chuộc tất cả chúng ta, trong sự
tuân phục ý Chúa Cha. Chúng ta không thể tiến đến bàn tiệc Thánh Thể mà không
bị cuốn lôi vào việc truyền giáo, mở đầu từ chính Trái Tim của Thiên Chúa, nhằm
đến với mọi người. Như thế, hoạt động truyèn giáo là một phần thiết yếu của mô
thức Thánh Thể của đời sống Kitô hữu.
Bí tích Thánh Thể và việc làm
chứng
85. Sứ mệnh trước tiên và nền
tảng mà chúng ta nhận được từ các mầu nhiệm thánh chúng ta cử hành, là làm
chứng bằng đời sống của chúng ta. Sự sửng sốt mà chúng ta cảm nghiệm trước hồng
ân Thiên Chúa đã ban cho chúng ta trong Chúa Kitô tạo động lực mới cho cuộc đời
chúng ta, cũng như thúc giục chúng ta trở nên chứng nhân cho tình yêu của
Người. Chúng ta trở nên chứng nhân khi qua hành động, lời nói và cách sống của
chúng ta, Một Người Khác được hiện diện. Việc làm chứng có thể được diễn tả như
một phương thế mà qua đó sự thật về tình yêu của Thiên Chúa đến với con người
trong lịch sử, mời gọi họ tự do đón nhận tính mới mẻ triệt để. Qua việc làm
chứng, chúng ta có thể nói, Thiên Chúa để cho chính Người mở ra trước mối nguy
của sự tự do của con người. Chính Chúa Giêsu là chứng nhân trung thành và chính
thực (x. Kh 1, 5; 3, 14), là Đấng đã đến để làm chứng cho sự thật (x. Ga 18,
37). Tại đây tôi muốn suy nghĩ về một quan niệm rất thân thương đối với các
Kitô hữu thời sơ khai, nhưng cũng nói cho chúng ta hôm nay một cách rất hùng
hồn: đó là, làm chứng đến độ hi sinh chính sự sống mình, đến mức tử đạo. Trải
qua lịch sử Giáo Hội, điều này đã luôn được nhìn nhận như là đỉnh cao của sự
thờ phượng mới: “Hãy hiến dâng thân mình anh em” (Rm 12, 1). Chẳng hạn, người
ta có thể suy nghĩ về trình thuật cuộc tử đạo của Thánh Pôlycarpô thành Smyrna,
một đồ đệ của Thánh Gioan: tất cả bi kịch được mô tả như một buổi phụng vụ, mà
chính vị tử đạo ước muốn trở nên bánh Thánh Thể. (235) Chúng ta cũng có thể gợi
lại những hình ảnh của Bí tích Thánh Thể mà thánh Ignatiô thành Antiôkia dùng
để nói về sự tử đạo của chính ngài: ngài coi mình như “hạt lúa mì của Chúa” và
ước muốn qua ơn tử đạo, được trở nên “bánh tinh tuyền của Chúa Kitô.” (236)
Kitô hữu hiến dâng sự sống mình để chịu tử đạo, được hiệp thông trọn vẹn với
cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu Kitô và như vậy, trở nên Thánh Thể cùng Người.
Ngày hôm nay cũng thế, Giáo Hội không thiếu những vị tử đạo đã làm chứng cao
nhất cho tình yêu Thiên Chúa. Dù sự thử thách của ơn tử đạo không đòi hỏi chúng
ta, chúng ta biết rằng sự thờ phượng đẹp lòng Thiên Chúa buộc chúng ta chuẩn bị
tâm hồn cho điều đó. (237) Sự thờ phượng như thế vươn đến một chứng tá sống
động và thuyết phục về một đời sống Kitô kiên cường, bất cứ đâu Chúa mời gọi
chúng ta làm chứng nhân cho Người.
Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu
Chuộc duy nhất
86. Nhấn mạnh đến tương quan
giữa Bí tích Thánh Thể và truyền giáo cũng dẫn đến một sự tái khám phá về nội
dung căn bản của việc loan báo của chúng ta. Tình yêu đối với Bí tích Thánh Thể
trong tâm hồn dân Kitô giáo càng nồng nàn, họ sẽ càng nhận thức một cách rõ rệt
rằng mục đích của truyền giáo là đem Chúa Kitô đến cho người khác. Đó không phải
chỉ là một lí thuyết hay một cách sống được Chúa Kitô khơi dậy, nhưng là một ơn
ban chính Người. Ai không chia sẻ sự thật về tình yêu với anh chị em của mình
thì chưa cho đi đủ. Bí tích Thánh Thể, Bí tích của ơn cứu chuộc chúng ta, chắc
chắn nhắc nhở chúng ta về tính duy nhất của Chúa Kitô và ơn cứu chuộc của Người
thực hiện cho chúng ta nhờ máu Người. Mầu nhiệm Thánh Thể, để tin và để cử hành
đòi phải thường xuyên dạy giáo lí cho mọi người về việc dấn thân truyền giáo mà
trọng tâm là loan báo về Chúa Giêsu như Đấng Cứu Chuộc duy nhất. (238) Điều đó
sẽ giúp chúng ta tránh được một sự hiểu biết giản lược và có tính cách thuần
tuý xã hội về việc thăng tiến con người bao hàm trong mỗi tiến trình rao giảng
Tin Mừng đích thực.
Tự do thờ phượng
87. Trong tinh thần đó, tôi
muốn nhắc lại những quan tâm đã được các Nghị Phụ bày tỏ về những khó khăn
nghiêm trọng đè nặng trên công cuộc truyền giáo cho những cộng đồng Kitô giáo
trong những miền mà người Kitô chỉ là thiểu số hoặc họ không được công nhận tự
do tôn giáo. (239) Chắc chắn chúng ta phải tạ ơn Chúa vì các Giám Mục, linh
mục, tu sĩ và giáo dân hi sinh bản thân một cách quảng đại để rao giảng Tin
Mừng và thực hành đức tin cho dẫu sự sống bị lâm nguy. Chẳng phải ít nơi trên
thế giới, chỉ việc đi đến nhà thờ cũng đã tỏ ra là một chứng tá anh hùng bởi vì
điều đó có thể dẫn tới việc bị đặt ra ngoài rìa hoặc bị xâm hại. Ở đây tôi muốn
tái khẳng định sự liên đới của toàn thể Giáo Hội với những người bị khước từ tự
do thờ phượng. Như chúng ta biết, ở bất cứ đâu thiếu tự do tôn giáo thì con
người sẽ thiếu sự tự do ý nghĩa nhất đối với mọi sự, bởi vì chính qua đức tin
mà con người bày tỏ quyết định sâu xa nhất của ý nghĩa tối hậu về cuộc đời họ.
Bởi đó, chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi quốc gia có tự do tôn giáo rộng rãi
hơn, để các Kitô hữu cũng như những tín đồ của các tôn giáo khác, có thể tự do
bày tỏ các xác tín của họ, cả về mặt cá nhân và cộng đồng.
Bí tích Thánh Thể, một mầu
nhiệm để trao cho thế giới
Thánh Thể, tấm bánh bẻ ra cho
sự sống trần gian
88. “Bánh tôi sẽ ban chính là
thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6, 51). Qua những lời này, Chúa
mặc khải ý nghĩa đích thực của việc trao hiến sự sống của Người cho hết thảy
mọi người. Những lời này cũng tỏ lộ lòng cảm thương sâu xa của Người cho mỗi
con người. Các sách Tin Mừng thường nói đến cảm xúc của Chúa Giêsu đối với con
người, nhất là đối với những ai đau khổ và tội lỗi (x. Mt 20, 34; Mc 6, 34; Lc
19 41). Qua tình cảm rất con người như thế, Người tỏ bày ý muốn cứu chuộc của
Thiên Chúa cho mọi người- để họ có sự sống đích thực. Mỗi cuộc cử hành Thánh
Thể hiện tại hoá một cách bí tích ân huệ mà Chúa chịu đóng đinh thực hiện bằng
sự sống của Người cho chúng ta và cho toàn thế giới. Trong Bí tích Thánh Thể
Chúa Giêsu cũng làm cho chúng ta trở nên chứng nhân của lòng thương xót của
Thiên Chúa đối với tất cả anh chị em chúng ta. Như thế, mầu nhiệm Thánh Thể
khơi dậy lòng bác ái đối với tha nhân, vốn “hệ tại chính điều này là, trong
Thiên Chúa và cùng với Thiên Chúa, tôi yêu người thân cận cả khi tôi không
thích hoặc không biết người đó. Điều này chỉ có thể xảy ra từ cuộc gặp gỡ thâm
sâu với Thiên Chúa, một sự gặp gỡ trở thành hiệp thông ý muốn và tác động vào
tình cảm. Bấy giờ tôi học cách nhìn người khác không phải chỉ bằng con mắt và
tình cảm của riêng tôi, nhưng từ nhãn giới của Chúa Giêsu.” (240) Trong những
người tôi gặp, tôi nhận ra anh chị em là những người mà Chúa đã hi sinh sự sống
của Người khi yêu họ “cho đến cùng” (Ga 13, 1). Khi cử hành Bí tích Thánh Thể,
những cộng đồng của chúng ta phải càng ngày càng ý thức rằng hiến tế của Chúa
Kitô là cho mọi người, và như thế, Bí tích Thánh Thể thúc đẩy mọi kẻ tin vào
Người trở thành “bánh được bẻ ra” cho người khác, và nỗ lực để xây dựng một thế
giới công bằng hơn, huynh đệ hơn. Suy niệm về phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều,
chúng ta cần phải tâm niệm rằng, ngày nay Chúa Kitô vẫn còn hối thúc các môn đệ
của Người đích thân nhập cuộc: “Chính anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14, 16). Mỗi
người chúng ta thật sự được kêu gọi cùng với Chúa Giêsu trở thành tấm bánh được
bẻ ra cho sự sống trần gian.
Những ràng buộc xã hội của mầu
nhiệm Thánh Thể
89. Kết hiệp với Chúa Kitô
trong Bí tích Thánh Thể cũng mang đến cho những tương quan xã hội một sự mới
mẻ: “‘huyền nhiệm’ Bí tích” này mang một đặc tính xã hội.” Thật vậy, “kết hiệp
với Chúa Kitô cũng là sự liên kết với tất cả những ai mà Người đã tự hiến cho,
hoặc những ai sẽ trở nên những kẻ thuộc về Người.” (214) Bí tích Thánh Thể là
Bí tích của sự hiệp thông giữa các anh chị em, những người để cho mình được hoà
giải trong Chúa Kitô, Đấng đã kết hợp những người Do Thái và dân ngoại nên một
dân tộc, khi phá bỏ bức tường của sự thù hận ngăn cách họ (x. Ep 2, 14). Chỉ
thường xuyên hướng về hoà giải mới giúp chúng ta tham dự một cách xứng đáng vào
Mình và Máu Chúa Kitô (Mt 5, 23- 24). (242) Khi tưởng niệm hiến tế của Chúa,
Người củng cố tình hiệp thông huynh đệ của chúng ta, và một cách đặc biệt, hối
thúc những ai còn đang xung đột, hãy mau hoà giải bằng cách mở rộng lòng ra để
đối thoại và dấn thân phục vụ công lí. Chắc chắn, sự tái lập công lí, hoà giải
và tha thứ là những điều kiện cho việc xây dựng một nền hoà bình đích thực.
(243) Qua việc chu toàn trách nhiệm này một cách thiết thực, Bí tích Thánh Thể
sẽ trở nên trong đời sống điều mà bí tích này hàm chứa trong việc cử hành. Như
tôi đã có dịp nhắc đến, Giáo Hội không có phận sự riêng phải hết sức có thể dấn
thân vào hoạt động chính trị để xây dựng một xã hội công bằng; tuy nhiên, Giáo
Hội không thể và không được đứng ngoài rìa trong cuộc tranh đấu cho công bằng.
Giáo Hội “phải đóng vai trò của mình bằng con đường lí luận dựa theo lí trí và
phải đánh thức sức mạnh tinh thần, mà nếu không có sức mạnh đó thì sự công
bằng, vốn luôn đòi hỏi sự hi sinh, không thể được thực thi và phát triển.”
(244)
Trong khi thảo luận về trách
nhiệm xã hội của mọi Kitô hữu, các Nghị Phụ ghi nhận rằng sự tự hiến của Chúa
Kitô là một mầu nhiệm giải phóng luôn thôi thúc chúng ta. Bơi vậy tôi thúc giục
mọi tín hữu hãy trở thành những người xây dựng hoà bình và công lí đích thực:
“Mọi người tham dự vào Bí tích Thánh Thể phải dấn thân xây dựng hoà bình trong
thế giới chúng ta, một thế giới đã bị bầm dập vì bạo lực và chiến tranh, và đặc
biệt ngày nay, do chủ nghĩa khủng bố, tham nhũng kinh tế và nạn khai thác tình
dục.” (245) Tất cả những vấn nạn này đến lượt nó, lại khơi ra những vấn đề khác
không kém nhiễu nhương và nhẫn tâm. Chúng ta biết rằng không thể giải quyết
những vấn đề này một cách phiến diện. Chính bởi mầu nhiệm chúng ta cử hành mà
chúng ta phải tố giác những hoàn cảnh đi ngược lại với phẩm giá của con người,
mà vì họ, Chúa Kitô đã đổ máu mình ra để khẳng định giá trị cao vượt của mỗi
con người.
Lương thực sự thật và nhu cầu
của con người
90. Chúng ta không thể cứ mãi
thụ động trước những tiến trình toàn cầu hoá vốn luôn tạo ra sự cách biệt giàu
nghèo trên tầm mức quốc tế. Chúng ta phải tố giác những kẻ hoang phí của cải
trên trái đất, tạo ra những bất bình đẳng đã thấu tới trời (x. Gc 5, 4). Chẳng
hạn, không còn có thể câm lặng trước “những hình ảnh nhức nhối về những xóm
trại khổng lồ rải rác khắp nơi trên thế giới tập trung người di cư và người tị
nạn, những người đang sống trong tình trạng tạm cư để thoát khỏi số phận tệ hại
hơn, cần đến những nhu cầu khẩn cấp. Những người này lại không phải là anh chị
em của chúng ta hay sao? Các con cái của họ sinh ra trong thế giới này không có
cùng những hoài bão chính đáng là được hưởng hạnh phúc như các trẻ em khác hay
sao?” (246) Chúa Giêsu, tấm bánh của sự sống vĩnh cửu thúc giục chúng ta quan
tâm đến những hoàn cảnh của tình trạng nghèo đói cùng cực, nơi một số đông nhân
loại vẫn còn đang sống: đây là những tình trạng mà trách nhiệm đương nhiên đòi
mọi người phải bức xúc đảm nhận. Quả thật, “trên căn bản những dữ kiện thống kê
hiện có, người ta có thể khẳng định rằng gần một nửa số tiền khổng lồ dành cho
việc vũ trang trên toàn cầu dư đủ để giải phóng những khối đông dân nghèo thoát
khỏi cảnh cùng cực. Điều này thách thức lương tâm nhân loại. Đối với những
người sống dưới mức nghèo khổ, là do hệ quả của những tình hình liên quan đến
những tương quan chính trị, kinh tế và văn hoá quốc tế hơn là do những hoàn
cảnh không kiểm soát được, sự dấn thân chung của chúng ta cho sự thật phải mang
lại cho họ một niềm hi vọng mới” (247).
Lương thực sự thật đòi hỏi
chúng ta phải tố giác những tình trạng vô nhân đạo trong đó nhiều người phải
chết đói do những bất công và bóc lột, và lương thực ấy đem lại cho chúng ta
sức mạnh mới và sự can đảm để không ngừng phục vụ cho nền văn minh tình thương.
Ngay từ lúc khai nguyên, các Kitô hữu đã quan tâm chia sẻ của cải mình (x. Cv
4, 42) và gíup đỡ những người nghèo túng (x. Rm 15, 26). Những của bố thí thu
góp trong các cộng đoàn phụng vụ là một điều nhắc nhớ rất rõ về việc đó, những
của từ thiện đó cũng thật cần thiết để đáp ứng những nhu cầu hiện tại. Những tổ
chức bác ái của Giáo Hội, đặc biệt Caritas đã thực hiện công tác cứu giúp những
người thiếu thốn nghèo túng ở những cấp độ khác nhau. Được gợi hứng từ Thánh
Thể, Bí tích tình yêu, họ trở nên một sự diễn tả cụ thể tình yêu ấy; họ được
tán dương và cổ vũ vì dấn thân phục vụ sự liên đới trong thế giới của chúng ta.
Giáo huấn xã hội của Giáo Hội
91. Mầu nhiệm Thánh Thể khơi
gợi và thúc đẩy chúng ta dấn thân một cách can đảm vào trong thế giới của chúng
ta để đem đến một sự đổi mới các tương quan, sự đổi mới ấy đón nhận nguồn mạch
bất tận từ ân huệ của Thiên Chúa. Lời kinh mà chúng ta lặp lại trong mỗi Thánh
Lễ: “Xin cho chúng con lương thực hằng ngày,” buộc chúng ta phải làm mọi sự có
thể, hợp tác với các tổ chức quốc tế, quốc gia và tư nhân, để chấm dứt hoặc ít
nhất làm giảm sự ô nhục của nghèo đói và suy dinh dưỡng ảnh hưởng đến rất nhiều
triệu người trong thế giới chúng ta, nhất là tại những quốc gia đang phát
triển. Một cách đặc biệt, các Kitô hữu giáo dân được đào tạo tại trường học
Thánh Thể, được kêu gọi để đảm nhận những trách nhiệm chính trị và xã hội đặc
biệt của mình. Để chu toàn các bổn phận đó, họ cần được chuẩn bị một cách thích
hợp thông qua việc giáo dục thực tiễn trong công bằng và bác ái. Bởi vậy,
Thượng Hội Đồng Giám Mục nhìn nhận rằng các Giáo Phận và các cộng đồng Kitô
giáo cần phải dạy và đề xuất học thuyết xã hội của Giáo Hội. (248) Trong di sản
quý giá xuất phát từ truyền thống Giáo Hội lâu đời, chúng ta tìm thấy những yếu
tố của sự khôn ngoan cao vời hướng dẫn các Kitô hữu đối diện với những vấn đề xã
hội nóng bỏng hôm nay. Giáo huấn này, kết quả của toàn bộ lịch sử của Giáo Hội,
nổi bật do tính thực tế và sự dung hoà; nó có thể giúp tránh được những sự thoả
hiệp lẫm lẫn hoặc những điều không tưởng giả dối.
Thánh hoá trần gian và bảo vệ
tạo vật
92. Sau cùng, muốn phát triển
một nền linh đạo Thánh Thể thâm sâu, có thể tác động một cách ý nghĩa vào cơ
cấu xã hội, dân Kitô giáo khi cảm tạ Chúa qua Bí tích Thánh Thể, phải ý thức
rằng họ hành động như thế nhân danh toàn thể tạo vật, để như thế, thánh hoá trần
gian và nhiệt tâm làm việc cho mục tiêu đó. (249) Chính Bí tích Thánh Thể chiếu
soi lịch sử nhân loại và toàn thể vũ trụ một cách mạnh mẽ. Trong cái nhìn Thánh
Thể như vậy, ngày qua ngày chúng ta học biết rằng mỗi biến cố Giáo Hội là một
dấu chỉ qua đó Thiên Chúa tỏ hiện chính Người và thách thức chúng ta. Như thế,
mô thức Thánh Thể của đời sống có thể gíup chúng ta tạo dưỡng một sự thay đổi
thật sự trong cách tiếp cận lịch sử và tiếp cận thế giới. Chính phụng vụ dạy
chúng ta điều này, khi vào lúc dâng tiến lễ vật, linh mục dâng lên Chúa một lời
kinh tạ ơn, lời khẩn cầu trên bánh và rượu “hoa màu ruộng đất”, “sản phẩm của
cây nho” và “lao công của con người.” Với những lời này, nghi thức không chỉ
bao gồm việc tiến dâng lên Thiên Chúa mọi nỗ lực và hoạt động của con người, mà
còn giúp chúng ta nhìn thế giới như là tạo vật của Thiên Chúa, đem lại cho
chúng ta những gì chúng ta cần cho sự sinh tồn. Thế giới không phải là một cái
gì trung tính, một sản phẩm thô để chúng ta cứ sử dụng theo như mình thích. Đúng
hơn, nó là một phần của kế hoạch của Thiên Chúa, trong đó tất cả chúng ta được
kêu gọi để trở nên con trai và con gái trong Con duy nhất của Thiên Chúa, là
Chúa Giêsu Kitô (x. Ep 1, 4- 12). Sự quan tâm chính đáng về những hiểm họa liên
quan đến môi trường diễn ra tại rất nhiều nơi trên thế giới, được gia tăng bởi
niềm hi vọng KItô giáo, thúc đẩy chúng ta hành động một cách trách nhiệm để bảo
vệ tạo vật. (250) Mối tương quan giữa Bí tích Thánh Thể và vũ trụ giúp chúng ta
nhìn sự duy nhất trong chương trình của Thiên Chúa, và hiểu rõ tương quan sâu
xa giữa tạo vật và “tạo vật mới” đã được khai mở trong sự phục sinh của Chúa
Kitô, Ađam mới. Và ngay từ bây giờ chúng ta tham dự vào tạo vật mới ấy nhờ Bí
tích Thánh Tẩy (Cl 2, 12 tt). Đời sống Kitô của chúng ta, được nuôi dưỡng bằng
Thánh Thể, giúp chúng ta thoáng nhìn về thế giới mới ấy- trời mới và đất mới-
nơi thành Giêrusalem mới từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, “sẵn sàng như tân
nương trang điểm để đón tân lang” (Kh 21, 2).
Sự ích lợi của một cuốn sách toát
yếu về Bí tích Thánh Thể
93. Vào lúc kết thúc những suy
tư này, trong đó tôi đã trưng dẫn những đề tài được nêu ra tại Thượng Hội Đồng
Giám Mục, tôi cũng muốn tiếp nhận lời đề nghị mà các Nghị Phụ đã đưa ra như một
phương thế để giúp các Kitô hữu tin, cử hành và sống trọn vẹn hơn mầu nhiệm
Thánh Thể. Những văn phòng có trách nhiệm liên quan của Giáo Triều Rôma sẽ ấn
hành một cuốn sách Toát Yếu, tập hợp các bản văn từ Sách Giáo Lí Giáo Hội Công
Giáo, các kinh nguyện, các lời dẫn giải về Các Kinh Nguyện Thánh Thể trong Sách
Lễ Rôma cùng những cách thế tiện ích giúp hiểu rõ, cử hành và tôn sùng Bí tích
của Bàn Thờ. Tôi hi vọng rằng cuốn sách này sẽ giúp cho việc tưởng niệm Lễ Vượt
Qua của Chúa càng ngày càng trở nên nguồn mạch và đỉnh cao của đời sống và sứ
mệnh của Giáo Hội. Điều này sẽ thôi thúc mỗi người tín hữu xây dựng cuộc đời
của mình trở thành một sự thờ phượng thiêng liêng đích thực.
KẾT LUẬN
94. Anh chị em thân mến, Bí
tích Thánh Thể là căn nguyên của mọi hình thái thánh thiện, và mỗi người chúng ta
được mời gọi đạt đến sự sống viên mãn trong Chúa Thánh Thần. Đã có biết bao vị
thánh tiến xa trên con đường toàn thiện nhờ lòng sùng kính Thánh Thể! Từ Thánh
Ignatiô thành Antiôkia đến Thánh Augustinô, từ Thánh Antôn Tu Viện Trưởng đến
Thánh Bênêđictô, từ Thánh Phanxicô thành Assisi đến Thánh Tôma Aquinô, từ Thánh
Clara thành Assisi đến Thánh Catharina thành Siena, từ Thánh Paschal Baylon đến
Thánh Phêrô Julianô Eymard, từ Thánh Alphonsô Liguori đến Chân Phước Charles de
Foucauld, từ Thánh Gioan Maria Vianney đến Thánh Têrêxa thành Lisieux, từ Thánh
Piô Pietrelcina đến Chân Phước Têrêxa thành Calcutta, từ Chân Phước Piergiorgio
Frassati đến Chân Phước Ivan Mertz, đó là chỉ nêu lên một số ít, sự thánh thiện
đã luôn tìm thấy tiêu điểm của nó trong Bí tích Thánh Thể.
Như thế, mầu nhiệm cực thánh
này cần phải được tin một cách vững chắc, được cử hành một cách sốt sắng và
được nhiệt tâm sống trong Giáo Hội. Sự tự hiến của Chúa Giêsu trong Bí tích
tưởng niệm cuộc vượt qua của Người chứng thực cho chúng ta rằng, sự thành công
của cuộc đời chúng ta được tìm thấy trong việc tham dự vào sự sống của Chúa Ba
Ngôi, được ban cho chúng ta một cách đích thực và hiệu quả trong Người. Cử hành
và tôn sùng Thánh Thể giúp chúng ta tiến đến gần tình yêu của Thiên Chúa và gắn
bó trong tình yêu ấy cho đến khi chúng ta được nên một với Chúa là Đấng chúng
ta yêu mến. Sự phó dâng cuộc đời của chúng ta, dâng thân bằng quyến thuộc cùng
toàn thể cộng đoàn những người tín hữu, cũng như tất cả những người liên đới
với chúng ta là những khía cạnh nền tảng của logiké latreía, sự thờ phượng
thiêng liêng, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa (x. Rm 12, 1), giúp biến đổi
mọi khía cạnh của cuộc đời chúng ta để làm vinh danh Thiên Chúa. Bởi đó, tôi
khẩn khoản mời gọi các mục tử đừng ngại tốn công để phát huy một nền linh đạo
Thánh Thể Kitô giáo xác thực. Các linh mục, phó tế và tất cả những người thi
hành tác vụ Thánh Thể phải luôn có khả năng tìm được trong việc phục vụ này,
vốn phải được ân cần tập luyện và luôn được tăng bổ, sức mạnh và hứng cảm cần
thiết trên con đường thánh hoá bản thân cũng như cộng đoàn. Tôi khuyên nhủ
người tín hữu giáo dân, đặc biệt các gia đình, hãy luôn tìm thấy lại trong bí
tích tình yêu của Chúa Kitô, một năng lực cần thiết để biến cuộc đời của họ
thành một dấu chỉ đích thực về sự hiện diện của Chúa Phục Sinh. Tôi mời gọi các
nam nữ tu sĩ hãy thể hiện, qua đời sống Thánh Thể của họ, sự sáng ngời và vẻ
đẹp được trọn vẹn thuộc về Chúa.
95. Vào đầu thế kỉ thứ bốn,
việc thờ phượng Kitô giáo vẫn còn bị các chính quyền đế quốc cấm cách. Một số
các Kitô hữu ở Bắc Phi, những người cảm thấy bị thôi thúc phải cử hành Ngày của
Chúa, đã thách thức sự cấm đoán đó. Họ đã chịu tử đạo khi tuyên bố rằng họ
không thể sống mà không có Thánh Thể, lương thực của Chúa: sine dominico non
possumus.(252) Xin các thánh tử đạo miền Abitinae, trong sự hiệp thông với tất
cả các thánh cũng như các chân phước, những vị đã dành cho Bí Tích Thánh Thể vị
trí trung tâm của cuộc đời mình, xin các ngài bầu cử cho chúng ta và dạy chúng
ta trung thành gặp gỡ Chúa Kitô Phục Sinh. Chúng ta cũng không thể sống mà
không tham dự vào Bí tích của ơn cứu chuộc chúng ta; chúng ta cũng ước ao iuxta
dominicam viventes (sống theo ngày của Chúa) để phản chiếu trong đời sống chúng
ta những gì chúng ta cử hành trong Ngày của Chúa. Ngày đó là ngày giải thoát
thực sự của chúng ta. Vậy thì có đáng ngạc nhiên chăng nếu chúng ta ước muốn
sống mỗi ngày trong sự sống mới mà Chúa Kitô đem lại cho chúng ta trong mầu
nhiệm Thánh Thể?
96. Nguyện xin Mẹ Maria Chí
Thánh, Đấng Đồng Trinh Vô Nhiễm, hòm bia của giao ước mới và vĩnh cửu, đồng
hành cùng chúng ta trên con đường đi gặp Chúa, Đấng đang đến. Trong Mẹ, chúng
ta tìm thấy bản tính của Giáo Hội được thực hiện một cách trọn hảo nhất. Giáo
Hội nhìn thấy nơi Mẹ Maria- “Người Phụ Nữ Thánh Thể” như đã được tôn xưng bởi
Tôi Tớ Chúa là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (253)- như chính hình mẫu tuyệt
hảo của mình, và Giáo Hôi chiêm ngắm Đức Maria như mẫu gương độc nhất về đời
sống Thánh Thể. Vì lí do đó, khi đứng trước chính Xác Thể sinh ra từ Đức Đồng
Trinh Maria (verum Corpus de Maria Virgine) tại bàn thờ và nhân danh cộng đoàn
phụng vụ, linh mục đọc những lời trong lễ quy: “Chúng con kính nhớ Đức Maria
trọn đời đồng trinh, Mẹ Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa và là Chúa chúng con.”
(254) Thánh danh của Mẹ cũng được kêu cầu và tôn kính trong lễ quy của các
truyền thống Kitô Đông Phương. Các tín hữu, về phần mình, “hãy phó dâng cho Mẹ
Maria, Mẹ Giáo Hội, cuộc sống và lao công do bàn tay mình. Hãy cố gắng sống
những tâm tình như Mẹ Maria, hãy giúp toàn thể cộng đoàn trở nên lễ dâng sống
động đẹp lòng Chúa Cha.” (255) Mẹ là Đấng Tuyệt Mỹ (tota pulchra), vì nơi mẹ
ánh hào quang của vinh quang Thiên Chúa toả rạng. Từ nơi Mẹ Maria chúng ta phải
học trở nên những người nam nữ của Bí tích Thánh Thể và của Giáo Hội, và như
thế thể hiện con người chúng ta, theo lời của Thánh Phaolô, “thánh thiện và
tinh tuyền” trước mặt Chúa như Người muốn từ thuở đời đời (x. Cl 1, 22; 1, 4).
(256)
97. Qua lời bầu cử của Thánh
Nữ Đồng Trinh Maria, Xin Chúa Thánh Thần khơi lên trong chúng ta lòng sốt sắng
mà các môn đệ trên đường đi Emmaus đã trải nghiệm (x. Lc 24, 13- 15) và đổi mới
“lòng sửng sốt Thánh Thể” của chúng ta qua vẻ sáng ngời và vẻ đẹp toả ra từ
nghi thức phụng vụ, là dấu chỉ hữu hiệu của vẻ đẹp vô biên trong mầu nhiệm thánh
của Thiên Chúa. Những môn đệ ấy đã đứng dạy và hối hả trở lại Giêrusalem để
chia sẻ niềm vui với anh chị em của mình trong đức tin. Thật vậy, niềm vui đích
thực là nhận biết rằng Chúa vẫn ở với chúng ta, là người bạn đồng hành trung
tín của chúng ta trên đường đi. Thánh Thể giúp chúng ta khám phá ra rằng, Chúa
Kitô, sống lại từ cõi chết, là người đương thời của chúng ta trong mầu nhiệm
Giáo Hội, Thân Mình Người. Chúng ta hãy trở nên những chứng nhân cho mầu nhiệm
tình yêu này. Chúng ta hãy khích lệ lẫn nhau hân hoan sánh bước, lòng đầy ngạc
nhiên, đến gặp Thánh Thể để có thể cảm nhận cũng như loan báo cho người khác sự
thật về những lời Chúa Giêsu đã nói khi Người từ biệt các môn đệ: “Này đây,
Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20).
Ban hành tại Rôma, cạnh Đền
Thờ Thánh Phêrô, vào ngày 22 tháng Hai, năm 2007,
Lễ Kính Tông Toà Phêrô,
vào năm thứ hai triều Giáo
Hoàng của tôi.
BÊNÊĐICTÔ PP. XVI
(Linh mục Giuse Ngô Quang Trung chuyển
ngữ)
Chú thích:
1)
x. Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae III, q. 73, a. 3.
(2) Thánh Augustinô, In Iohannis Evangelium Tractatus, 26,5: PL 35, 1609.
(3) ĐGH Bênêđictô XVI, Diễn văn cho các Tham Dự viên Khoá Họp Khoáng Đại của Bộ
Giáo Lí Đức Tin (10 February 2006): AAS 98 (2006), 255.
(4) ĐGH Bênêđictô XVI, Diễn văn cho Hội Đồng Thư kí Thương Trực của Thượng Hội
Đồng Giám Mục (1 June 2006): L'Osservatore Romano, 2 June 2006, p. 5.
(5) x. Bản đề nghị 2.
(6) I am referring here to the need for a hermeneutic of continuity also with
regard to the correct interpretation of the liturgical development which
followed the Second Vatican Council: x. ĐGH Bênêđictô XVI, Diễn văn cho Giáo
Triều Rôma (22 December 2005): AAS 98 (2006), 44-45.
(7) x.. AAS 97 (2005), 337-352.
(8) Năm Thánh Thể: Những Gợi Ý và Những Đề Nghị (15 October 2004):
L'Osservatore Romano, 15 October 2004, Supplement.
(9) x. AAS 95 (2003), 433-475. Xem thêm, Huấn Thị của Bộ Phụng Tự và Kỉ Luật Bí
Tích Redemptionis Sacramentum (25 March 2004): AAS 96 (2004), 549-601,
expressly desired by ĐGH Gioan Phaolô II.
(10) Chỉ đưa ra một số tài liệu quan trọng: Công Đồng Trento, Doctrina et
canones de ss. Missae sacrificio, DS 1738-1759; ĐGH Leo XIII, Thông Điệp Mirae
Caritatis (28 May 1902): ASS (1903), 115-136; Pius XII, Thông Điệp Mediator Dei
(20 November 1947): AAS 39 (1947), 521-595; Paul VI, Thông Điệp Mysterium Fidei
(3 September 1965): AAS 57 (1965), 753-774; ĐGH Gioan Phaolô II, Thông Điệp
Ecclesia de Eucharistia (17 April 2003): AAS 95 (2003), 433-475; Bộ Phụng Tự và
Kỉ Luật Bí Tích, Huấn Thị Eucharisticum Mysterium (25 May 1967): AAS 59 (1967),
539-573; Huấn Thị Liturgiam Authenticam (28 March 2001): AAS 93 (2001),
685-726.
(11) x. Bản đề nghị 1.
(12) No. 14: AAS 98 (2006), 229.
(13) Sách Giáo Lí Giáo Hội Công Giáo, 1327.
(14) x. Bản đề nghị 16.
(15) ĐGH Bênêđictô XVI, Bài giảng trong Thánh Lễ khai mạc sứ vụ (7 May 2005):
AAS 97 (2005), 752.
(16) x. Bản đề nghị 4.
(17) De Trinitate, VIII, 8, 12: CCL 50, 287.
(18) Thông Điệp Deus Caritas Est (25 December 2005), 12: AAS 98 (2006), 228.
(19)
x. Bản đề nghị 3.
(20) Sách Nguyện Rôma, Hymn for the Office of Readings of the Solemnity of
Corpus Christi.
(21) ĐGH Bênêđictô XVI, Thông Điệp Deus
Caritas Est (25 December 2005), 13: AAS 98 (2006), 228.
(22) ĐGH Bênêđictô XVI, Bài giảng tại Marienfeld Esplanade (21 August 2005):
AAS 97 (2005), 891-892.
(23) x. Bản đề nghị 3.
(24) x. Sách Lễ Rôma, Kinh Nguyện Thánh Thể IV.
(25) Cat. XXIII, 7: PG 33, 1114ff.
(26) x. De Sacerdotio, VI, 4: PG 48, 681.
(27) Ibid., III, 4: PG 48, 642.
(28) x. Bản đề nghị 22.
(29)
x. Bản đề nghị 42: "This eucharistic encounter takes place in the Holy
Spirit, who transforms and sanctifies us. He re- awakens in the disciple the
firm desire to proclaim boldly to others all that he has heard and experienced,
to bring them to the same encounter with Christ. Thus the disciple, sent forth
by the Church, becomes open to a mission without frontiers."
(30) x. Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lí về Giáo Hội Lumen Gentium, 3; một
thí dụ, x.: Thánh Gioan Kim Khẩu, Catechesis 3, 13-19: SC 50, 174-177.
(31) ĐGH Gioan Phaolô II, Thông Điệp Ecclesia de Eucharistia (17 April 2003),
1: AAS 95 (2003), 433.
(32) Ibid., 21: AAS 95 (2003), 447.
(33) x. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông Điệp Redemptor Hominis (4 March 1979), 20:
AAS 71 (1979), 309-316; Tông thư Dominicae Cenae (24 February 1980), 4: AAS 72
(1980), 119-121.
(34) x. Bản đề nghị 5.
(35) x. Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae, III, q. 80, a. 4.
(36) No. 38: AAS 95 (2003), 458.
(37) Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lí về Giáo Hội Lumen Gentium, 23.
(38) Bộ Giáo Lí Đức Tin, Letter on Some Aspects of the Church Understood as
Communion Communionis Notio (28 May 1992), 11: AAS 85 (1993), 844-845.
(39) x. Bản đề nghị 5: "The term ‘catholic' expresses the universality
deriving from the unity that the Eucharist, celebrated in each Church, fosters
and builds up. The particular Churches in the universal Church thus have, in
the Eucharist, the duty to make visible their own unity and diversity. This
bond of fraternal love allows the trinitarian communion to become apparent. The
Councils and Synods express in history this fraternal aspect of the
Church."
(40) x. ibid.
(41) Sắc Lệnh về Sứ vụ và Đời Sống Linh MụcPresbyterorum Ordinis, 5.
(42) Cf. x. Bản đề nghị 14.
(43) Hiến Chế Tín Lí về Giáo Hội Lumen Gentium, 1.
(44) De Orat. Dom., 23: PL 4, 553.
(45 Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lí về Giáo Hội Lumen Gentium, 48, cf.
ibid., 9.
(46) x. Bản đề nghị 13.
(47) x. Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lí về Giáo Hội Lumen Gentium, 7.
(48) Cf. ibid., 11; Công Đồng Vatican II, Decree on the Church's Missionary
Activity Ad Gentes, 9, 13.
(49) x. ĐGH Gioan Phaolô II, Tông Thư Dominicae Cenae (24 February 1980), 7:
AAS 72 (1980), 124-127; Công Đồng Vatican II, Sắc Lệnh về Sứ vụ và Đời Sống
Linh Mục Presbyterorum Ordinis, 5.
(50) x. Giáo Luật các Giáo Hội Đông Phương, can. 710.
(51) x. Nghi thức ga nhập Kitô giáo người lớn, Dẫn nhập tổng quát, 34-36.
(52) x. Nghi thức rửa tội trẻ nhỏ, Dẫn nhập, 18-19.
(53) x. Bản đề nghị 15.
(54) Cf. Bản đề nghị 7; ĐGH Gioan Phaolô II, Thông Điệp Ecclesia de Eucharistia
(17 April 2003), 36: AAS 95 (2003), 457-458.
(55) x. ĐGH Gioan Phaolô II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục
Reconciliatio et Paenitentia (2 December 1984), 18: AAS 77 (1985), 224-228.
(56) x. Sách Giáo Lí Giáo Hội Công Giáo, 1385.
(57) For example, the Confiteor, or the words of the priest and people before
receiving Communion: "Lord, I am not worthy to receive you, but only say
the word and I shall be healed." Not insignificantly does the liturgy also
prescribe certain very beautiful prayers for the priest, handed down by
tradition, which speak of the need for forgiveness, as, for example, the one
recited quietly before inviting the faithful to sacramental communion: "By
the mystery of your body and blood, free me from all my sins and from every
evil. Keep me always faithful to your teachings and never let me be parted from
you."
(58) x. Thánh Gioan Damascênô, Exposition of the Faith, IV, 9: PG 94, 1124C;
Thánh Grêgôrô Nazianzen, Oratio 39, 17: PG 36, 356A; Công Đồng Trento, Doctrina
de sacramento paenitentiae, Chapter 2: DS 1672.
(59) x. Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lí về Giáo Hội Lumen Gentium, 11;
John Paul II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Reconciliatio et
Paenitentia (2 December 1984), 30: AAS 77 (1985), 256-257.
(60) x. Bản đề nghị 7.
(61) x. ĐGH Gioan Phaolô II, Tự Sắc Misericordia Dei (7 April 2002): AAS 94
(2002), 452-459.
(62) Together with the Synod Fathers I wish to note that the non-sacramental
penitential services mentioned in the ritual of the sacrament of Reconciliation
can be helpful for increasing the spirit of conversion and of communion in
Christian communities, thereby preparing hearts for the celebration of the
sacrament: x. Bản đề nghị 7.
(63) x. Giáo Luật, can. 508.
(64) Phaolô VI, Tông Hiến Indulgentiarum Doctrina (1 January 1967), Norms, No.
1: AAS 59 (1967), 21.
(65) Ibid., 9: AAS 59 (1967), 18-19.
(66) x. Sách Giáo Lí Giáo Hội Công Giáo, 1499-1532.
(67) Ibid., 1524.
(68) x. Bản đề nghị 44.
(69) x. Thượng Hội Đồng Giám Mục, Phiên họp Khoáng Đại lần II, Document on the
Ministerial Priesthood Ultimis Temporibus (30 November 1971): AAS 63 (1971),
898-942.
(70) x. ĐGH Gioan Phaolô II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Pastores
Dabo Vobis (25 March 1992), 42-69: AAS 84 (1992), 729-778.
(71) x. Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lí về Giáo Hội Lumen Gentium, 10; Bộ
Giáo Lí Đức Tin, Letter on Certain Questions Concerning the Minister of the
Eucharist Sacerdotium Ministeriale (6 August 1983): AAS 75 (1983), 1001-1009.
(72) Sách Giáo Lí Giáo Hội Công Giáo, 1548.
(73) Ibid., 1552.
(74) x. In Iohannis Evangelium Tractatus, 123, 5: PL 35, 1967.
(75) x. Bản đề nghị 11.
(76) x. Sắc Lệnh về Sứ vụ và Đời Sống Linh Mục, Presbyterorum Ordinis, 16.
(77) x. ĐGH Gioan XXIII, Thông Điệp Sacerdotii Nostri Primordia (1 August
1959): AAS 51 (1959), 545-579; ĐGH Phaolô VI, Thông Điệp Sacerdotalis
Coelibatus (24 June 1967): AAS 59 (1967), 657-697; ĐGH Gioan Phaolô II, Tông
Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Pastores Dabo Vobis (25 March 1992), 29: AAS
84 (1992), 703-705; Benedict XVI, Address to the Roman Curia (22 December
2006): L'Osservatore Romano, 23 December 2006, p. 6.
(78) x. Bản đề nghị 11.
(79) x. Công Đồng Vatican II, Sắc Lệnh về Đào Tạo Linh mục, Optatam Totius, 6;
Giáo Luật, can. 241, § 1 và can. 1029; Code of Canons of the Eastern Churches,
can. 342 § 1 and can. 758; ĐGH Gioan Phaolô II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng
Giám Mục Pastores Dabo Vobis (25 March 1992), 11, 34, 50: AAS 84 (1992),
673-675; 712-714; 746-748; Bộ Giáo Sĩ, Directory for the Ministry and Life of
Priests Dives Ecclesiae (31 March 1994), 58; Bộ Giáo Duc Công Giáo, Instruction
Concerning the Criteria for the Discernment of Vocations with regard to Persons
with Homosexual Tendencies in view of their Admission to the Seminary and to
Holy Orders (4 November 2005): AAS 97 (2005), 1007-1013.
(80) x. Bản đề nghị 12; ĐGH Gioan Phaolô II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám
Mục Pastores Dabo Vobis (25 March 1992), 41: AAS 84 (1992), 726-729.
(81) Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lí về Giáo Hội Lumen Gentium, 29.
(82) x. Bản đề nghị 38.
(83) x. ĐGH Gioan Phaolô II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Familiaris
Consortio (22 November 1981), 57: AAS 74 (1982), 149-150.
(84) Tông Thư Mulieris Dignitatem (15 August 1988), 26: AAS 80 (1988),
1715-1716.
(85) Sách Giáo Lí Giáo Hội Công Giáo, 1617.
(86) x. Bản đề nghị 8.
(87) x. Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lí về Giáo Hội Lumen Gentium, 11.
(88) x. Bản đề nghị 8.
(89) x. ĐGH Gioan Phaolô II, Tông Thư Mulieris Dignitatem (15 August 1988): AAS
80 (1988), 1653-1729; Bộ Giáo Lí Đức Tin, Letter to the Bishops of the Catholic
Church on the Collaboration of Men and Women in the Church and in the World (31
May 2004): AAS 96 (2004), 671-687.
(90) x. Bản đề nghị 9.
(91) x. Sách Giáo Lí Giáo Hội Công Giáo, 1640.
(92) x. ĐGH Gioan Phaolô II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Familiaris
Consortio (22 November 1981), 84: AAS 74 (1982), 184- 186; Bộ Giáo Lí Đức Tin,
Letter to the Bishops of the Catholic Church concerning the Reception of Holy
Communion by Divorced and Remarried Members of the Faithful Annus
Internationalis Familiae (14 September 1994): AAS 86 (1994), 974-979.
(93) x. Pontifical Council for Legislative Texts, Instruction on the Norms to
be Observed at Ecclesiastical Tribunals in Matrimonial Proceedings Dignitas
Connubii (25 January 2005), Vatican City, 2005.
(94) x. Bản đề nghị 40.
(95) ĐGH Bênêđictô XVI, Bài giảng cho Toà Hoà Giải Rôma nhân Khai mạc Năm Pháp
Lí (28 January 2006): AAS 98 (2006), 138.
(96) x. Bản đề nghị 40.
(97) Cf. ibid.
(98) Cf. ibid.
(99) x. Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lí về Giáo Hội Lumen Gentium, 48.
(100) x. Bản đề nghị 3.
(101) Here I would recall the words filled with hope and consolation found in
Eucharistic Prayer II: "Remember our brothers and sisters who have gone to
their rest in the hope of rising again. Bring them and all the departed into
the light of your presence."
(102) x. ĐGH Bênêđictô XVI, Bài giảng (8 December 2005): AAS 98 (2006), 15-16.
(103) Hiến Chế Tín Lí về Giáo Hội Lumen Gentium, 58.
(104) x. Bản đề nghị 4.
(105) Relatio post disceptationem, 4: L'Osservatore Romano, 14 October 2005, p.
5.
(106) x. Serm. 1, 7; 11, 10; 22, 7; 29, 76: Sermones dominicales ad fidem
codicum nunc denuo editi, Grottaferrata, 1977, pp. 135, 209ff., 292ff.; 337;
ĐGH Bênêđictô XVI, Message to Ecclesial Movements and New Communities (22 May
2006): AAS 98 (2006), 463.
(107) x. Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Mục vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Ngày
Nay, Gaudium et Spes, 22.
(108) x. Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lí về Mặc Khải của Thiên Chúa Dei
Verbum, 2, 4.
(109) x. Bản đề nghị 33.
(110) Sermo 227, 1: PL 38, 1099.
(111) In Iohannis Evangelium Tractatus, 21, 8: PL 35, 1568.
(112) Ibid., 28, 1: PL 35, 1622.
(113) x. Bản đề nghị 30. Weekday Masses, which the faithful are encouraged to
attend, find their proper form on the day of the Lord, the day of Christ's
resurrection; x. Bản đề nghị 43.
(114) x. Bản đề nghị 2.
(115) x. Bản đề nghị 25.
(116) x. Bản đề nghị 19. Bản đề nghị 25 trình bày: "An authentic
liturgical action expresses the sacredness of the eucharistic mystery. This
should be evident from the words and actions of the priest who celebrates, as
he intercedes to God the Father both with the faithful and on their
behalf."
(117) Huấn Thị Tổng Quát về Sách Lễ Rôma, 22; Công Đồng Vatican II, Hiến Chế về
Phụng Vụ Thánh Sacrosanctum Concilium, 41; x. Bộ Phụng Tự và Kỉ Luật Bí Tích,
Huấn thị Redemptionis Sacramentum (25 March 2004), 19-25: AAS 96 (2004),
555-557.
(118) x. Công Đồng Vatican II, Sắc Lệnh về Nhiệm vụ Mục vụ của các Giám Mục
trong Giáo Hội Christus Dominus, 14; Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh Sacrosanctum
Concilium, 41.
(119) Huấn Thị Tổng Quát về Sách Lễ Rôma, 22.
(120) x. ibid.
(121) x. Bản đề nghị 25.
(122) x. Công Đồng Vatican II, Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh Sacrosanctum Concilium,
112-130.
(123) x. Bản đề nghị 27.
(124) x. ibid.
(125) Những chỉ dẫn trong Huấn Thị Tổng Quát về Sách Lễ Rôma, 319-351, phải
được trung thành tuân giữ.
(126) x. Huấn Thị Tổng Quát về Sách Lễ Rôma, 39-41; x. Công Đồng Vatican II,
Hiến Chế về Phụng vụ Thánh Sacrosanctum Concilium, 112-118.
(127) Sermo 34, 1: PL 38, 210.
(128) x. Bản đề nghị 25: "Like every artistic expression, singing must be
closely adapted to the liturgy and contribute effectively to its aim; in other
words, it must express faith, prayer, wonder and love of Jesus present in the
Eucharist."
(129) x. Bản đề nghị 29.
(130) x. Bản đề nghị 36.
(131) x. Công Đồng Vatican II, Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh Sacrosanctum
Concilium, 116; Huấn Thị Tổng Quát về Sách Lễ Rôma, 41.
(132) Huấn Thị Tổng Quát về Sách Lễ Rôma, 28; x. Công Đồng Vatican II, Hiến Chế
về Phụng Vụ Thánh Sacrosanctum Concilium, 56; Thánh Bộ Nghi Lễ, Huấn Thị
Eucharisticum Mysterium (25 May 1967), 3: AAS 57 (1967), 540-543.
(133) x. Bản đề nghị 18.
(134) Ibid.
(135) Huấn Thị Tổng Quát về Sách Lễ Rôma, 29.
(136) x. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông Điệp Fides et Ratio (14 September 1998),
13: AAS 91 (1999), 15-16.
(137) Thánh Hieronimo, Comm. in Is., Prol.: PL 24, 17; x. Công Đồng Vatican II,
Hiến Chế Tín Lí về Mặc Khải của Thiên Chúa Dei Verbum, 25.
(138) x. Bản đề nghị 31.
(139) Huấn Thị Tổng Quát về Sách Lễ Rôma, 29; x. Công Đồng Vatican II, Hiến Chế
về Phụng Vụ Thánh Sacrosanctum Concilium, 7, 33, 52.
(140) x. Bản đề nghị 19.
(141) Công Đồng Vatican II, Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh Sacrosanctum Concilium,
52.
(142) Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lí về Mặc Khải của Thiên Chúa Dei
Verbum, 21.
(143) To this end the Synod has called for the preparation of pastoral aids
based on the three-year lectionary, to help connect the proclamation of the
readings with the doctrine of the faith; cf. Propositio 19.
(144) x. Bản đề nghị 20.
(145) Huấn Thị Tổng Quát về Sách Lễ Rôma, 78.
(146) x. ibid., 78-79.
(147) x. Bản đề nghị 22.
(148) Huấn Thị Tổng Quát về Sách Lễ Rôma, 79d.
(149) Ibid., 79c.
(150) Taking into account ancient and venerable customs and the wishes
expressed by the Synod Fathers, I have asked the competent curial offices to
study the possibility of moving the sign of peace to another place, such as
before the presentation of the gifts at the altar. To do so would also serve as
a significant reminder of the Lord's insistence that we be reconciled with
others before offering our gifts to God (cf. Mt 5:23 ff.); x. Bản đề nghị 23.
(151) x. Bộ Phụng Tự và Kỉ Luật Bí Tích, Huấn Thị Redemptionis Sacramentum (25
March 2004), 80-96: AAS 96 (2004), 574-577.
(152) x. Bản đề nghị 34.
(153) x. Bản đề nghị 35.
(154) x. Bản đề nghị 24.
(155) x. Công Đồng Vatican II, Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh Sacrosanctum
Concilium, 14-20; 30ff.; 48ff; Bộ Phụng Tự và Kỉ Luật Bí Tích, Huấn Thị
Redemptionis Sacramentum (25 March 2004), 36-42: AAS 96 (2004), 561-564.
(156) No. 48.
(157) Ibid.
(158) x. Bộ Giáo Sĩ, Instruction on Certain Questions Regarding the
Collaboration of the Non- Ordained Faithful in the Ministry of Priests
Ecclesiae de Mysterio (15 August 1997): AAS 89 (1997), 852-877.
(159) x. Bản đề nghị 33.
(160) Huấn Thị Tổng Quát về Sách Lễ Rôma, 92.
(161) x ibid., 94.
(162) x. Công Đồng Vatican II, Decree on the Apostolate of the Laity
Apostolicam Actuositatem, 24; General Instruction of the Roman Missal, 95-111;
Bộ Phụng Tự và Kỉ Luật Bí Tích, Huấn Thị Redemptionis Sacramentum (25 March
2004), 43-47: AAS 96 (2004), 564-566; Bản đề nghị 33: "These ministries
must be introduced in accordance with a specific mandate and in accordance with
the real needs of the celebrating community. Those entrusted with these
liturgical services must be chosen with care, well prepared, and provided with
ongoing formation. Their appointment must be for a limited term. They must be
known to the community and be gratefully acknowledged by the community."
(163) x. Công Đồng Vatican II, Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh Sacrosanctum
Concilium, 37-42.
(164) Cf. General Instruction of the Roman Missal, 386-399.
(165) x. Bộ Phụng Tự và Kỉ Luật Bí Tích, Huấn Thị về Phụng vụ Rôma và Hội Nhập
văn Hoá Varietates Legitimae (25 January 1994): AAS 87 (1995), 288-314.
(166) Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Ecclesia in Africa (14 September
1995), 55-71: AAS 88 (1996), 34-47; Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục
Ecclesia in America (22 January 1999), 16, 40, 64, 70-72: AAS 91 (1999),
752-753, 775-776, 799, 805-809; Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Ecclesia
in Asia (6 November 1999), 21ff.: AAS 92 (2000), 482-487; Tông Huấn Hậu Thượng
Hội Đồng Giám Mục Ecclesia in Oceania (22 November 2001), 16: AAS 94 (2002),
382-384; Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Ecclesia in Europa (28 June
2003), 58-60: AAS 95 (2003), 685-686.
(167) x. Bản đề nghị 26.
(168) x. Bản đề nghị 35; Công Đồng Vatican II, Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh
Sacrosanctum Concilium, 11.
(169) x. Sách Giáo Lí Giáo Hội Công Giáo, 1388; Công Đồng Vatican II, Hiến Chế
về Phụng Vụ Thánh Sacrosanctum Concilium, 55.
(170) x. Thông Điệp Ecclesia de Eucharistia (17 April 2003), 34: AAS 95 (2003),
456.
(171) x, Thí dụ, Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae, III, q. LXXX, a. 1, 2;
Thánh Têrêxa Giêsu, The Way of Perfection, Chapter 35. The doctrine was
authoritatively confirmed by the Council of Trent, Session XIII, c. VIII.
(172) x. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông Điệp Ut Unum Sint (25 May 1995), 8: AAS 87
(1995), 925-926.
(173) x. Bản đề nghị 41; Công Đồng Vatican II, Decree on Ecumenism Unitatis
Redintegratio, 8, 15; ĐGH Gioan Phaolô II, Thông Điệp Ut Unum Sint (25 May
1995), 46: AAS 87 (1995), 948; Thông Điệp Ecclesia de Eucharistia (17 April
2003), 45-46: AAS 95 (2003), 463-464; Code of Canon Law, can. 844 §§ 3-4; Code
of Canons of the Eastern Churches, can. 671 §§ 3-4; Hội Đồng Toà Thánh về Hiệp
Nhất Kitô Giáo, Directoire pour l'application des principes et des normes sur
l'œcumnisme (25 March 1993), 125, 129-131: AAS 85 (1993), 1087, 1088-1089.
(174) x. Nos. 1398-1401.
(175) x. No. 293.
(176) x. Pontifical Council for Social Communications, Pastoral Instruction on
Social Communications on the Twentieth Anniversary of "Communio et
Progressio" Aetatis Novae (22 February 1992): AAS 84 (1992), 447-468.
(177) x. Bản đề nghị 29.
(178) x. Bản đề nghị 44.
(179) x. Bản đề nghị 48.
(180) Candidates for the priesthood can be introduced to these traditions as
part of their seminary training: x. Bản đề nghị 45.
(181) x. Bản đề nghị 37.
(182) x. Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh Sacrosanctum Concilium, 36, 54.
(183) x. Bản đề nghị 36.
(184) x. ibid.
(185) x. Bản đề nghị 32.
(186) x. Bản đề nghị 14.
(187) x. Bản đề nghị 19.
(188) x. Bản đề nghị 14.
(189) x. ĐGH Bênêđictô XVI, Bài giảng vào Giờ Kinh Chiều Lễ Hiện Xuống (3 June
2006): AAS 98 (2006), 509.
(190) x. Bản đề nghị 34.
(191) Enarrationes in Psalmos 98:9, CCL XXXIX, 1385; x. ĐGH Bênêđictô XVI, Diễn
văn cho Giáo Triều Rôma(22 December 2005): AAS 98 (2006), 44-45.
(192) x. Bản đề nghị 6.
(193) ĐGH Bênêđictô XVI, Diễn văn cho Giáo triều Rôma (22 December 2005): AAS
98 (2006), 45.
(194) x. Bản đề nghị 6; Bộ Phụng Tự và Kỉ Luật Bí Tích, Directory on Popular
Piety and the Liturgy (17 December 2001), Nos. 164-165, Vatican City, 2002;
Thánh Bộ Nghi Lễ, Huấn thị Eucharisticum Mysterium (25 May 1967): AAS 57
(1967), 539-573.
(195) x. Relatio post disceptationem, 11: L'Osservatore Romano, 14 October
2005, p. 5.
(196) x. Bản đề nghị 28.
(197) x. No. 314.
(198) VII, 10, 16: PL 32, 742.
(199) ĐGH Bênêđictô XVI, Bài giảng tại Marienfeld Esplanade (21 August 2005):
AAS 97 (2005), 892; x. Bài giảng Lễ Vọng Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, (3 June
2006): AAS 98 (2006), 505.
(200) x. Relatio post disceptationem, 6, 47: L'Osservatore Romano, 14 October
2005, pp. 5-6; x. Bản đề nghị 43.
(201) De Civitate Dei, X, 6: PL 41, 284.
(202) x. Sách Giáo Lí Giáo Hội Công Giáo, 1368.
(203) x. Thánh Irenaeus, Adv. Haer., IV, 20, 7: PG 7, 1037.
(204) Ad Magnes., 9, 1: PG 5, 670.
(205) x. I Apologia, 67, 1-6; 66: PG 6, 430ff., 427, 430.
(206) x. Bản đề nghị 30.
(207) x. AAS 90 (1998), 713-766.
(208) x. Bản đề nghị 30.
(209) Bài giảng (19 March 2006): AAS 98 (2006), 324.
(210) The Compendium of the Social Doctrine of the Church, 258, rightly notes
in this regard: "For man, bound as he is to the necessity of work, this
rest opens to the prospect of a fuller freedom, that of the eternal Sabbath
(cf. Heb 4:9-10). Rest gives men and women the possibility to remember and
experience anew God's work, from Creation to Redemption, to recognize
themselves as his work (cf. Eph 2:10), and to give thanks for their lives and
for their subsistence to him who is their author."
(211) x. Bản đề nghị 10.
(212) Cf. ibid.
(213) x. ĐGH Bênêđictô XVI, Diễn văn cho các Giám mục Canada – Quebec trong
chuyên thăm ad Limina (11 May 2006): cf. L'Osservatore Romano, 12 May 2006, p.
5.
(214) No. 10: AAS 71 (1979), 414-415.
(215) ĐGH Bênêđictô XVI, Gặp gỡ chung hằng tuần, 29 March 2006: L'Osservatore
Romano, 30 March 2006, p. 4.
(216) x. Bản đề nghị 39.
(217) Cf. Relatio post disceptationem, 30: L'Osservatore Romano, 14 October
2005, p. 6.
(218) x. Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lí về Giáo Hội Lumen Gentium,
39-42.
(219) x. ĐGH Gioan Phaolô II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục
Christifideles Laici (30 December 1988), 14, 16: AAS 81 (1989), 409-413;
416-418.
(220) x. Bản đề nghị 39.
(221) Cf. ibid.
(222) Nghi thức phong chức Giám Mục, Linh mục và Phó tế, Phong chức Linh mục,
No. 163.
(223) x. ĐGH Gioan Phaolô II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Pastores
Dabo Vobis (25 March 1992), 19-33; 70-81: AAS 84 (1992), 686-712; 778-800.
(224) x. Bản đề nghị 38.
(225) x. Bản đề nghị 39. x. ĐGH Gioan Phaolô II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng
Giám Mục Vita Consecrata (25 March 1996), 95: AAS 88 (1996), 470-471.
(226) Giáo Luật, can. 663 § 1.
(227) x. ĐGH Gioan Phaolô II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Vita
Consecrata (25 March 1996), 34: AAS 88 (1996), 407-408.
(228) Thông Điệp Veritatis Splendor (6 August 1993), 107: AAS 85 (1993),
1216-1217.
(229) ĐGH Bênêđictô XVI, Thông Điệp Deus Caritas Est (25 December 2005), 14:
AAS 98 (2006), 229.
(230) x. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông Điệp Evangelium Vitae (25 March 1995): AAS
87 (1995), 401-522; ĐGH Bênêđictô XVI, Diễn Văn cho Hàn Lâm Viện Giáo Hoàng về
Sự Sống (27 February 2006): AAS 98 (2006), 264-265.
(231) x. Bộ Giáo Lí Đức Tin, Doctrinal Note on Some Questions Regarding the
Participation of Catholics in Political Life (24 November 2002): AAS 96 (2004),
359-370.
(232) x. Bản đề nghị 46.
(233) AAS 97 (2005), 711.
(234) x. Bản đề nghị 42.
(235) x. Mart. Polycarp., XV, 1: PG 5, 1039, 1042.
(236) Thánh Ignatiô thành Antiokia, Ad. Rom., IV, 1: PG 5, 690.
(237) x. Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lí về Giáo Hội Lumen Gentium, 42.
(238) x. Bản đề nghị 42; Bộ Giáo Lí Đức Tin, Declaration on the Unicity and
Salvific Universality of Jesus Christ and the Church Dominus Iesus (6 August
2000), 13- 15: AAS 92 (2000), 754-755.
(239) x. Bản đề nghị 42.
(240) ĐGH Bênêđictô XVI, Thông Điệp Deus Caritas Est (25 December 2005), 18:
AAS 98 (2006), 232.
(241) Ibid., 14.
(242) During the Synod sessions we heard very moving and significant
testimonies about the effectiveness of the Eucharist in peacemaking. In this
regard, Propositio 49 states that: "Thanks to eucharistic celebrations,
peoples engaged in conflict have been able to gather around the word of God,
hear his prophetic message of reconciliation through gratuitous forgiveness,
and receive the grace of conversion which allows them to share in the same
bread and cup."
(243) x. Bản đề nghị 48.
(244) ĐGH Bênêđictô XVI, Thông Điệp Deus Caritas Est (25 December 2005), 28:
AAS 98 (2006), 239.
(245) x. Bản đề nghị 48.
(246) ĐGH Bênêđictô XVI, Diễn văn đọc trước Ngoại Giao Đoàn cạnh Toà Thánh (9
January 2006): AAS 98 (2006), 127.
(247) Ibid.
(248) x. Bản đề nghị 48. Trong vấn đề này, x. Sách Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội
của Giáo Hội.
(249) x. Bản đề nghị 43.
(250) x. Bản đề nghị 47.
(251) x. Bản đề nghị 17.
(252) Martyrium Saturnini, Dativi et aliorum plurimorum, 7, 9, 10: PL 8, 707,
709-710.
(253) x. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông Điệp Ecclesia de Eucharistia (17 April
2003), 53: AAS 95 (2003), 469.
(254) Kinh Nguyện Thánh Thể I (Roman Canon).
(255) x. Bản đề nghị 50.
(256) x. ĐGH Bênêđictô XVI, Bài giảng (8 December 2005): AAS 98 (2006), 15.