Đức Giêsu trong Tân Ước
Tân Ước bao gồm những
cuốn sách được Thánh Thần linh hứng và được các thánh ký ghi lại để trình bày
Giao Ước mới mà Thiên Chúa đã thiết lập với con người nhờ Đức Giêsu Kitô: “...
Này là Máu Ta, Máu Giao Ước đổ ra vì nhiều người để nên ơn tha tội” (Mt 26,28);
“... Thiên Chúa, Đấng đã ban cho chúng tôi sức cáng đáng làm kẻ phục vụ Giao
Ước mới...” (2 Cr 3,6; x. 2 Cr 3,14). Vì thế, tất cả các sách mà Hội Thánh Công
giáo ấn định trong thư quy Tân Ước đều nói về Chúa Giêsu Kitô: Người là Con
Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế mà Thiên Chúa đã ban cho con người hầu thực hiện
điều Thiên Chúa đã hứa từ ngàn xưa với Tổ phụ Abraham; Người đã sinh ra, đã
sống, đã chết, đã sống lại; Người đã thiết lập Hội Thánh để làm chứng về mầu
nhiệm của Người và Người sẽ trở lại trong vinh quang của ngày quang lâm. Đó là
chủ đề căn bản của Tân Ước. Bởi thế, nếu chúng ta muốn biết Đức Giêsu Kitô là
ai, đã nói gì, đã làm gì và tại sao đã nói, đã làm, đã sống như vậy, thì chúng
ta hãy cầm lấy cuốn Tân Ước và đọc. Chính nhờ cuốn Tân Ước đó mà chúng ta sẽ
nhận ra một cách chân thực khuôn mặt của Đức Giêsu Nazareth mà Hội Thánh trong
suốt hơn 2.000 năm nay không ngớt tuyên xưng là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên
Chúa. Và không phải chỉ tuyên xưng mà thôi, Hội Thánh còn dùng chính sự sống
của mình để làm chứng về chân lý đó.
Sự kiện Đức Giêsu Kitô đã
xảy ra cách xa chúng ta 20 thế kỷ! Các sách Tân Ước cũng đã được viết ra cách
xa chúng ta gần 2.000 năm! Thoạt nghe qua hay đọc một cách vội vàng Tân Ước,
chúng ta dễ đồng hóa Tân Ước như cuốn sách lịch sử ghi lại cuộc đời Đức Giêsu
cũng như nếp sống của những người tin theo Đức Giêsu. Chúng ta đang có trước
mắt là các bản văn Kinh thánh Tân Ước, gồm: 4 sách Tin Mừng, Công vụ các Tông
đồ, các thư thánh Phaolô, Thư của các thánh Giacôbê, Phêrô, Gioan, Giuđa và
sách Khải huyền. Tất cả đều nói về Đức Giêsu Kitô. Nhưng giữa sự kiện lịch sử
Đức Giêsu chết và sống lại với các bản văn Tân Ước, có một chặng đường dài,
cách nhau trong khoảng thời gian từ 35 cho đến 70 năm. Trong khoảng thời gian
đó, đã xảy ra biết bao biến cố và dữ kiện. Dữ kiện quan trọng nhất nối liền các
bản văn Tân Ước với Đức Giêsu Nazareth chính là Lời Rao giảng tiên khởi của các
Tông đồ mà nội dung của sứ điệp rao giảng là: “Chúa đã sống lại” (x. Cv
2,14-39; 3,12-26; 4,8-12; 5,29-32; 10,34-43; 13,16-41). Đó là sứ điệp Phục
Sinh. Sứ điệp căn bản của mọi lời giảng thuyết. Sứ điệp nền tảng của giáo lý
Kitô giáo. Sứ điệp ấy được công bố lần đầu tiên tại Giêrusalem trong dịp lễ Ngũ
Tuần, sau khi các Tông đồ được tràn đầy sức mạnh của Chúa Thánh Thần (x. Cv
2,1-11). Sứ điệp ấy phản ánh niềm tin của các Tông đồ vào biến cố Phục Sinh của
Đức Giêsu; vì thế, qua sứ điệp Phục Sinh, chúng ta có thể ghi nhận hai yếu tố:
Niềm tin của con người vào biến cố Phục Sinh của Đức Giêsu; Niềm tin của toàn
thể các Tông đồ, của Hội Thánh kitô hữu tiên khởi.
Một khi sứ điệp Phục
Sinh được công bố, thính giả chia làm hai khối: 1/ khối những người không tin,
coi đó là điều nhảm nhí, không thể chấp nhận được, tìm cách ngăn ngừa (Cv
4,1-3); 2/ khối những người tin, xem đó là lẽ sống của đời mình (Cv 2,37-41).
Đối với những người
tin, các Tông đồ tiếp tục bồi dưỡng lòng tin của họ bằng các sinh hoạt tôn
giáo, chủ yếu trong phụng vụ và huấn giáo (Cv 2,42-47).
Đối với những người
không tin, thì xảy ra những cuộc tranh luận và biện giáo (Cv 4,1-22; 5,17-42;
7,1-53; 15,5-35; 17,16-34...).
Phụng vụ, Huấn giáo,
Biện giáo và Tranh luận là những sinh hoạt tiêu biểu nhất của Cộng đoàn kitô
hữu tiên khởi sau khi sứ điệp Phục Sinh được công bố. Sau đó, để phục vụ cho
các sinh hoạt trên, các Tông đồ đã nhớ lại đời sống cũng như những lời giảng
huấn, nhớ lại những biến cố chung quanh cái chết và sự sống lại của Thầy mình.
Nói đúng hơn, các Tông đồ căn cứ trên ánh sáng của biến cố Phục Sinh, để nhớ
lại, nhìn lại, hiểu lại đời sống, các giáo huấn và các hoạt động của Đức Giêsu.
Dần dần, các ngài ghi chép lại hoặc nhờ người ghi chép lại thành những mẩu
chuyện, những diễn từ, những thánh thi... để sử dụng trong việc giáo huấn, cho
các nghi lễ phụng vụ cũng như cho việc tranh luận và biện giáo. Sau cùng, vì
nhu cầu cụ thể của Hội Thánh, có những người đã thu lượm các mẩu chuyện, diễn
từ, thánh thi... để soạn thành những tác phẩm mà chúng ta gọi là 4 Tin Mừng
ngày nay: Tin Mừng theo thánh Marcô được viết tại Rôma vào khoảng năm 65 đến
70; Tin Mừng theo thánh Luca được viết tại Antiôkia vào khoảng năm 75-80; Tin
Mừng theo thánh Matthêu được viết tại Palestina vào khoảng năm 80; Tin Mừng
theo thánh Gioan được viết tại Êphêsô vào khoảng năm 95-100.
Còn các bản văn khác
của Tân Ước thành hình như thế nào?
Sách Công vụ các Tông
đồ ghi lại các sinh hoạt của Hội Thánh từ ngày được chính thức thức thành lập
cho đến khi Tin Mừng được công bố tại Rôma, “trung tâm của thế giới thời bấy
giờ”; các thư của thánh Phaolô cũng như của các Tông đồ khác có thể được xem
như những “luân thư” của các vị chủ chăn gửi đến cho các giáo đoàn vào những
dịp cụ thể, giải thích, trình bày những vấn đề cụ thể, cốt giúp người tín hữu
sống trọn vẹn ơn gọi Kitô hữu của mình trong xã hội trần gian. Và sau cùng là
sách Khải huyền, cuốn sách tương đối khó hiểu vì mang nhiều màu sắc thần bí, bí
ẩn, trình bày một cách mầu nhiệm sự hiện diện, sự sống cũng như ơn gọi của Hội
Thánh Chúa Giêsu Kitô trong dòng lịch sử của con người.
Như vậy, từ bản văn Tân
Ước đến Chúa Giêsu ta thấy rõ có một con đường dài. Con đường đó là sinh hoạt
của toàn thể Hội Thánh sau Lời Rao giảng tiên khởi về sứ điệp Phục Sinh. Con
đường đó chính là con đường những kitô hữu tiên khởi đã đi qua, đã đấu tranh,
đã dùng chính sự sống của mình để làm chứng niềm tin vào Đức Giêsu Kitô Phục
Sinh. Bởi thế, chúng ta không thể đọc sách Tin Mừng hoặc những sách khác của
Tân Ước với hy vọng có thể hiểu ngay, bắt gặp thật sự khuôn mặt Đức Giêsu Kitô,
nếu chúng ta không lưu ý đến quá trình hình thành Tân Ước.
Một điều quan trọng cần
lưu ý, đó là các sách Tin Mừng được soạn thảo trong một quá trình lâu dài,
trong bối cảnh sinh hoạt của Hội Thánh. Như vậy, các sách đó được soạn ra trong
đức tin và vì đức tin của Hội Thánh. Hai nguồn sau đây là sách Công vụ các Tông
đồ và các thư của thánh Phaolô cho phép chúng ta bắt gặp lại sự sống của Hội
Thánh cách chung và của từng giáo đoàn cách riêng trong giai đoạn đánh dấu
những bước thành hình của các sách Tin Mừng.
– Sách Công vụ các Tông
đồ: Sách này ghi lại việc khai sinh của Hội Thánh Chúa Kitô, các giai đoạn phát
triển, những thử thách đau khổ, những xung đột với xã hội. Trong suốt 28
chương, sách Công vụ nói lên niềm tin của toàn thể Hội Thánh vào mầu nhiệm Chúa
Giêsu Kitô chết và sống lại. Niềm tin này được biểu lộ qua các sinh hoạt phụng
vụ, huấn giáo, tranh luận cũng như biện giáo. Nét độc sáng của sách Công vụ là
cho ta thấy sự hiện diện và hoạt động không ngừng của Chúa Thánh Thần trong mọi
sinh hoạt của đời sống Hội Thánh. Chính Đức Kitô Phục Sinh là tâm điểm của đời
sống Hội Thánh và Chúa Thánh Thần có thể ví như sợi chỉ nối kết các hoạt động
của Hội Thánh, đồng thời vạch hướng đi cho Hội Thánh.
– Các thư của Thánh
Phaolô: Trong khi sách Công vụ phản ánh lại đời sống của Hội Thánh tổng quát,
thì các thư của thánh Phaolô cho chúng ta thấy được những sinh hoạt của các giáo
đoàn địa phương. Mỗi giáo đoàn đón nhận sứ điệp Phục Sinh và sống sứ điệp đó
với những nét đặc biệt của mình. Mỗi giáo đoàn có sắc thái riêng, có những vấn
đề riêng. Nhưng chung quy tất cả đều biểu lộ một cách trung thực sự sống của
những con người tin vào Chúa Giêsu Kitô. Những nét phong phú và đa diện của các
giáo đoàn địa phương được phơi bày qua các thư của thánh Phaolô. Đàng khác thư
của Phaolô cũng chính là con người của Phaolô; vì thế, nếu chúng ta hiểu được
con người của ngài thì cũng hiểu được tính chất phong phú và đa diện của các
giáo đoàn. Thánh Phaolô gọi các giáo đoàn là “bức thư của mình”: “Thư của chúng
tôi, chính là anh em viết nơi lòng chúng tôi” (1 Cr 3,2). Thật vậy, trên bước
đường truyền giáo, thánh Phaolô đã trở nên mọi sự cho mọi người: “Với những
người yếu, tôi đã trở nên người yếu, để lợi được những người yếu. Với mọi
người, tôi đã nên mọi sự, để dù sao cũng cứu được ít người” (1 Cr 9,22). Có thể
nói thánh Phaolô là tấm kính phản chiếu lại các giáo đoàn, là tấm phim chụp lại
một cách đầy đủ tính chất phong phú, đa diện của từng giáo đoàn địa phương. Con
người của Phaolô, một khi được Chúa Kitô bắt lấy, thì đã trở nên hoàn toàn
thuộc về Chúa Kitô, vì bởi Thiên Chúa “đã có nhã ý mạc khải Con của Người trong
tôi” (Gl 1,16), nên: “Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là chính Đức Kitô sống
trong tôi” (Gl 2,20). Niềm tin ấy và nếp sống ấy đã được triển nở thật phong
phú và kỳ diệu nơi con người của Phaolô, một con người cực kỳ phong phú, vì hội
tụ được nhiều khả năng, đặc tính khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau: Phaolô vừa
là một nhà thần bí, vừa là người hoạt động không mệt mỏi; một nhà suy tư thần
học sâu sắc, đồng thời là con người truyền giáo luôn biết thích nghi với mọi
hạng người; một người thẳng thắn cương nghị, đồng thời là một mục tử giàu lòng
xót thương; một người sáng lập khai sáng, đồng thời là người tổ chức điều hành;
một người giáo điều, nhưng lại nhiều tư cách của một nhà linh hướng. Các khả
năng tương phản ấy lại hiện rõ trong tính tình của Phaolô: rất tự tin, mà lại
khiêm tốn; thông minh nhưng nhạy cảm; biết thích nghi, táo bạo nhưng lại rụt rè
nhút nhát; thích tự lập nhưng lại sợ phải sống cô đơn; tha thiết nhưng lại châm
biếm; dễ nổi giận, đồng thời có tâm hồn bao la quảng đại; khôn ngoan, nhưng có
lúc cư xử vụng về... Phaolô quả là “một cây đàn có thể rung lên mọi âm điệu” (
Một khi đã hiểu được sự
sống, sinh hoạt, đức tin của Hội Thánh tổng quát cũng như của các giáo đoàn
Kitô hữu cá biệt rồi, chúng ta hãy mặc lấy đức tin của toàn thể Dân Chúa để đọc
các bản văn Tin Mừng; nhờ đó, khám phá ra các bản văn Tin Mừng đích thực là cao
điểm đức tin của cộng đoàn Dân Chúa, vì chính trong đức tin và vì đức tin của
Hội Thánh mà các sách Tin Mừng được hình thành:
Tin Mừng theo Thánh
Marcô sẽ cho chúng ta bắt gặp “Đức Giêsu, con người lữ hành”.
Tin Mừng theo Thánh
Luca: “Đức Giêsu, con người dịu hiền”.
Tin Mừng theo Thánh
Matthêu: “Đức Giêsu, con người của lời hứa”.
Tin Mừng theo Thánh
Gioan: “Đức Giêsu, con người của niềm tin”.
Một khi đã thấy được
khuôn mặt Chúa Giêsu Kitô nhờ các sách Tin Mừng, chúng ta sẽ đọc các giáo huấn
của các Tông đồ Giacôbê, Phêrô, Gioan, Giuđa để xác tín hơn về ơn gọi của người
kitô hữu trong xã hội trần gian. Sau cùng, khi đã cắm rễ sâu trong niềm tin vào
Đức Giêsu Kitô và chan hòa trong sự sống của Hội Thánh, chúng ta sẽ thấy rõ
khuôn mặt của Chúa chúng ta trong sách Khải huyền. Người được trình bày như
“người yêu” của Hội Thánh, như “sự sống” và là “lẽ sống” của Hội Thánh. Bao lâu
chưa được diện kiến và kết hợp với Người, Hội Thánh vẫn khắc khoải kêu lên:
“Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến”, vì “Đức Giêsu, con người của hy vọng”.
Gm. Giuse Võ Đức Minh
Nguồn: WHĐ