Lời ngỏ
Ba vòng con giáp đã
xoay qua giữa hai lần tôi tra tay vào bài viết này: lần thứ nhất gõ máy chữ lóc
cóc ở Phú Nhuận, trong nỗi thúc bách của Hội Thánh tại Việt Nam bước vào một
hoàn cảnh lịch sử mới mẻ đầy thách đố, theo yêu cầu của Ban Thần Học thuộc Hội
Đồng Giám Mục Miền Nam Việt-Nam. Sau đó cha Chân Tín và ông Nguyễn ngọc Lan đề
nghị tôi soạn lại để có thể đăng trên báo Đứng Dậy. Báo Đứng Dậy đã đăng bài
này trước khi vĩnh viễn “nằm xuống” “vì đã hoàn thành sứ mạng lịch sử”. Đa số
các vị trong Ban Thần Học thời ấy đã về hưởng mặt Chúa, khỏi cần suy tư nữa.
Cũng ít người biết là đã có một ban thần học của Hội Đồng Giám Mục Miền Nam
Việt Nam, lại càng không biết cái ủy ban đó đã làm được gì, vì các tài liệu chỉ
được đánh máy trao tay cho các giám mục. Những người chủ trương báo Đứng Dậy
cũng đã nằm xuống. Thế hệ điện tử không chắc mấy người biết là đã có một tờ báo
tên là Đứng Dậy…
Từ năm năm nay tôi
muốn đưa đề tài này trở lại trên một trang báo điện tử để nhiều người có thể
cùng suy nghĩ, vì mầu nhiệm Nhập Thể không bao giờ là cũ xưa mà luôn mới mẻ,
hiện đại đối với Kitô hữu chúng ta. Có một người chia sẻ với tôi rằng hồi đó
đang là sinh viên y khoa, đã toan vượt biên, nhưng sau khi đọc bài báo này đã
dứt khoát ở lại tiếp tục học y khoa để phục vụ đồng bào. Hiện nay ông là bác sĩ
phục vụ trong một bệnh viện lớn ở
Thế hệ chúng tôi đã
làm nhiệm vụ của mình để giúp Hội Thánh tại Việt
Lần này từ
Giêrusalem, tôi muốn trao cây gậy của cuộc chạy tiếp sức xuyên lịch sử vào tay
thế hệ điện tử. Nhờ một người anh em đã chép lại bài trên máy vi tính, từ những
trang giấy báo đã đổi màu, tôi có thể “phủi bụi”cho nó và đưa cho thế hệ Ipad
đọc, không phải như một công trình hoàn chỉnh để truyền từ đời này qua đời kia,
nhưng như một đề nghị tiếp nối dòng suy tư mà thế hệ “máy đánh chữ” đã khởi
đầu, khi Đất Nước đi vào một giai đoạn lịch sử mới.
Thời đó chúng tôi
được học tập đầy hai lỗ tai về “ba dòng thác cách mạng”. Thế hệ Ipad đang bơi
trong dòng “nước lũ” của cách mạng, một cuộc cách mạng toàn cầu đang làm đảo
lộn mọi giá trị truyền thống, kể cả Xã Hội Chủ Nghĩa.
Chỉ có “Đức Giêsu
Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay và như vậy mãi mãi đến muôn đời”(Hr
13,8).
Mỗi thế hệ phải theo
Đức Kitô trong ngày hôm nay của mình.
Các bạn thế hệ điện
tử hãy can đảm vào cuộc chạy tiếp sức này với tốc độ điện tử để không bị “dòng
lũ cách mạng” cuốn trôi. Các bạn đừng sợ, vì các bạn có Đức KITÔ là mỏ neo (Hr
6,19).
Giêrusalem,
Mùa Vọng 2013
NỘI DUNG
I. NGÀI ĐẾN CỨU CHUỘC LOÀI NGƯỜI
1. Ngài
đến để cứu chuộc con người
a. Kế hoạch
của Thiên Chúa và lời xúi giục của Satan
b. Thiên Chúa
khẳng định bằng mầu nhiệm Nhập thể
2. Ngài
đến cứu chuộc cuộc sống con người
a. Tội làm mất
ý nghĩa cuộc sống
b. Mầu nhiệm
con Thiên Chúa làm người, cuộc sống được lại ý nghĩa tuyệt đối
3. Ngài
đến cứu chuộc loài người
a. Tội lỗi làm
cho loài người tan rã
b. Ngài đến
cứu chuộc loài người
II. NGÀI
ĐẾN CỨU CHUỘC THẾ GIỚI VẬT CHẤT
III. NGÀI
ĐẾN CỨU CHUỘC LỊCH SỬ
Cùng với thánh
Phê-rô và các tông đồ, người Ki-tô giáo tuyên xưng Đức Giê-su Nadaret là Con
Thiên Chúa đã sinh làm người, đã đến trong thế giới loài người. Sự kiện được
tuyên xưng đó có thêm gì cho cuộc sống con người không? Ngài đến đây làm gì?
Phải chăng Ngài đến tham quan thế giới loài người rồi lại ra đi, để lại thế
giới này như cũ, chẳng thêm gì cũng chẳng bớt gì? Phải chăng Ngài chỉ đem lại một
lời hứa hẹn xa vời để làm dịu bớt nỗi đau của cuộc sống con người? Phải chăng
tin là tin rằng Ngài đã đem lại cho loài người, cho vũ trụ này và cho lịch sử
một biến đổi vô cùng sâu sắc, một ý nghĩa tuyệt đối, ngay từ bây giờ?
Trong Phụng vụ trước
Công đồng Vatican II, Giáo hội cho đọc lại đoạn mở đầu Tin Mừng theo Thánh
Gioan sau thánh lễ, trước khi linh mục rời bàn thờ, đọc tới câu “Ngôi Lời đã làm Người và
ở giữa chúng tôi” thì bái gối. Hai sự kiện đều có ý nghĩa. Bái gối
là thờ lạy và cảm tạ vì mầu nhiệm tuyệt vời Thiên Chúa đã thực hiện. Đọc lại
bài Tin Mừng này kết thúc thánh lễ, như để mời gọi người tín hữu tiếp tục sống
thánh lễ, tức là sống mầu nhiệm nhập thể trong cuộc sống của mình. Nhưng người
ta chẳng chú ý bao nhiêu tới ý nghĩa thiết thực đó, mà chỉ nghĩ tới tôn thờ.
Cũng như lễ Giáng sinh thường mang ý nghĩa thờ lạy Chúa Hài Nhi hơn là đưa
người ta cảm nghiệm niềm vui có “Chúa ở giữa chúng ta”, hoặc đưa người
ta suy nghĩ về ý nghĩa của Mầu nhiệm Nhập thể đối với cuộc sống. Ngay cả trong
lãnh vực thần học, nhiều khi người ta cũng dành nhiều thời giờ tìm hiểu và
trình bày khía cạnh “thế nào” hơn là khía cạnh “cho ai” của Mầu Nhiệm Nhập thể.
Trong Kinh Tin Kính, Giáo hội tuyên xưng rõ ràng: “Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng
ta, Người đã từ trời xuống thế.” Nhưng thường người ta chỉ nghĩ đến
Chúa chết vì loài người hơn là nghĩ đến Chúa sinh ra và sống lại vì loài người.
Thực ra không thể hiểu được ý nghĩa của ơn cứu chuộc, nếu chỉ cắt lấy một khúc
nào đó trong Mầu nhiệm của Chúa Giêsu mà kinh Tin Kính phát biểu trong mấy mệnh
đề liên tục; muốn hiểu đúng, phải đi từ đầu đến cuối đoạn tuyên xưng về Chúa
Giêsu như một mầu nhiệm duy nhất, và đọc kỹ yếu tố “vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng
ta”. Thiếu mệnh đề “vì loài người…” thì tất cả những điều
tôi tuyên xưng về Đức Giêsu trở thành một trò chơi của Thiên Chúa, tôi chẳng
cần biết đến, chẳng cần phải tuyên xưng. Còn một yếu tố cuối cùng đáng lưu ý
hơn nữa là trong cách giải thích mệnh đề “vì loài người chúng ta
và để cứu rỗi chúng ta”, người ta hay ngầm biến nó thành “vì linh hồn chúng tôi và
để cứu rỗi linh hồn chúng tôi”; hoặc tiến xa hơn một bước thì người
ta lại phân con người làm hai: Ngài cứu “linh hồn chúng tôi” ngay bây giờ, còn
xác sẽ được sống lại trong ngày sau hết. Xét về một phương diện nào thì nói như
thế cũng đúng thôi, nhưng có hoàn toàn đầy đủ không? Khoảng cách giữa hôm nay
của ơn cứu chuộc và ngày sau hết, phải chăng là một khoảng trống to lớn đối với
thể xác con người, đối với vũ trụ vật chất? Khi thánh Phaolô nói rằng chúng ta
và cả thụ tạo cùng rên rỉ chờ đợi ngày vinh quang con cái Thiên Chúa tỏ hiện,
thì hiện thời cả thụ tạo đã được cứu chuộc hay chưa? Mầu nhiệm phục sinh có ý
nghĩa cho cả vũ trụ hay mới chỉ có ý nghĩa cho con người?
Có thể nêu cả hàng
chục câu hỏi như thế về mầu nhiệm Đức Giêsu đối với thân phận con người, đối
với vũ trụ vất chất và đối với lịch sử. Câu trả lời đòi một suy nghĩ toàn bộ về
Mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người.
Nói rằng Ngôi Lời đã
làm người và ở giữa chúng ta nghĩa là gì? Ở đây chúng tôi không có tham vọng
bàn sâu rộng về chính bản chất của mầu nhiệm ấy, nhưng chỉ xin gợi ý để nhìn
vào ý nghĩa của mầu nhiệm Nhập thể cho chúng ta. Ngôi lời đã làm người, trước
hết có nghĩa là Ngài đã thành một trong chúng ta, chia sẻ trọn vẹn thân phận và
cuộc sống con người, như thánh Phaolô viết trong thư gửi tín hữu Philiphê: “Ngài đã trở nên giống
một kẻ phàm nhân, cuộc đời chẳng khác chi người thế” (2,7). Điều ấy
có đem thêm chút gì cho con người, cho cuộc sống của con người không? Nguyên sự
kiện ấy đã có ý nghĩa cứu chuộc hay chưa?
Ngài đã làm người và
ở giữa chúng ta, nghĩa là Ngài đã từ địa vị siêu vượt của Thiên Chúa mà đi vào
một tương quan với vũ trụ vất chất giống như chúng ta. Ngài cũng đã cần đến vũ
trụ vật chất này để sống, để lớn lên. Nếu vũ trụ này trở thành máu thịt của con
người, thì nó cũng đã trở thành máu thịt của Ngài, Con Thiên Chúa. Điều ấy có
thêm ý nghĩa gì cho vũ trụ vật chất này không, hay Ngài cũng chỉ là một mảnh
vụn nào đó xuất hiện một lần rồi lại tan đi trong cái bao la bát ngát của vũ
trụ không ngừng tiến hóa này?
Ngài đã làm người,
nghĩa là Ngài đã từ vĩnh cửu của Thiên Chúa đi vào lịch sử con người, trong một
khoảng thời gian cố định. Có thể nói được rõ ràng: Ngài đã sinh ra vào thời vua
Hê-rô-đê và hoàng đế Augustô; Ngài đã chịu đóng đinh vào thập giá, đã chết và
được mai táng thời Phong-xi-tô Phi-la-tô làm toàn quyền xứ Giu-đê-a. Sự có mặt
của Ngài trong lịch sử có làm gì cho lịch sử không, hay Ngài cũng chỉ là một
trong muôn ngàn biến cố của dòng lịch sử tưởng chừng như vô tận đối với kiếp
sống của một con người?
Nếu quả thực “vì loài người chúng ta
và để cứu rỗi chúng ta” mà Ngài đã từ trời xuống thế, thì biến cố
ấy phải có giá trị cứu chuộc đối với ba yếu tố: con người, vũ trụ và lịch sử;
vì cả ba yếu tố ấy mới làm thành “loài người chúng ta”: không có vũ trụ
thì làm sao có loài người, mà có loài người thì không thể không có một lịch sử.
Nếu công trình cứu chuộc của Người bỏ sót một trong ba yếu tố này thì kể như
Ngài chưa làm người, chưa xuống thế để “cứu thế”.
I. NGÀI ĐẾN CỨU
CHUỘC LOÀI NGƯỜI
“Ngôi lời đã làm người và
ở giữa chúng ta”. Đó là một tiếng reo hò vui sướng. Sau khi con
người đã nhận ra mình trần truồng, kinh Thánh đặt vào miệng Thiên Chúa câu bí
ẩn này: “Này
con người đã trở thành như một kẻ trong chúng ta, biết điều thiện điều ác. Bây
giờ đừng để nó giơ tay hái cả trái cây trường sinh mà ăn và được sống mãi”(St
3,22). Con người đã muốn đoạt lấy quyền tự mình định đoạt điều thiện điều ác để
rồi chỉ biết được một điều: thấy mình trần truồng và xấu hổ. Bây giờ thì sẽ
phải học cho biết rằng “được sống mãi” là ơn huệ của Thiên Chúa ban chứ không chiếm
đoạt được. Khoảng cách giữa Thiên Chúa và con người là vô cùng, con người không
thể vượt qua để nên bằng Thiên Chúa mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể “tự hạ để xuống ngang
hàng với con người” (x. Pl 2,6-8). Bây giờ con người reo vui và
biết ơn vì gặp được Thiên Chúa đã làm người và đang ở giữa chúng ta.
Nhưng ngày hôm nay
người tín hữu nói lại câu ấy phải chăng là nhắc lại một câu chuyện mà một lần
nào đó có người đã chứng kiến, cũng như một câu quen thuộc nào đó trong cuốn
biên niên sử của một triều đại? Niềm vui ấy chỉ là của một người nào đó đã được
hưởng trong lịch sử hay vẫn còn là niềm vui của tôi hôm nay? Câu trả lời tùy ở
chỗ biến cố ấy có đem một biến đổi nào trong tôi, trong cuộc sống con người của
tôi, và trong loài người chúng ta không?
Nếu như biến cố Ngôi
lời làm người không thay đổi gì trong tôi, trong loài người chúng ta hôm nay
đây, thì nhiều lắm chỉ là một sự vinh dự cho loài người, vì đã có một lần Thiên
Chúa làm người để tham quan thế giới loài người, và là một vinh dự đáng xây đài
kỷ niệm. Nhưng Thánh Gioan đã trả lời cho chúng ta trong lời mở đầu Thư thứ
nhất của ngài: “Ðiều
vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận
mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự
sống…Ðiều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa,
để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông
với Chúa Cha và với Ðức Giêsu Kitô, Con của Người. Những điều này, chúng tôi
viết ra để niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn”(1Ga 1, 1.3-4).
Vậy thì đó là niềm vui cho tôi, và cho cả loài người chúng ta. Nhờ được hiệp
thông với anh em và với Thiên Chúa, tôi được là con người, cuộc sống của tôi
được có ý nghĩa và loài người được là loài người.
1. Ngài đến để cứu
chuộc con người.
Trong bài suy niệm
về mầu nhiệm Nhập thể, nhà thần học Karl Rahner[1] đi từ yếu tính con người là
cởi mở đón vô biên để nhận ra rằng trong Mầu nhiệm Nhập thể, yếu tính của con
người đã được thể hiện một lần, và là lần duy nhất ở cấp độ trọn vẹn nhất. Tính
cởi mở đối với vô biên của con người là một đà vươn lên, chứ không phải là một
đòi hỏi. Thiên Chúa không mắc nợ con người, không ai bắt buộc Thiên Chúa phải
làm người, nhưng do một hành động tuyệt vời, hoàn toàn xuất phát từ lòng yêu
thương của Ngài, Thiên Chúa đã đến và làm tròn đầy khao khát ấy của con người.
Biến cố ấy đã diễn ra một lần và kéo dài trong vĩnh cửu: Đức Giêsu Nadaret.
Chính ở nơi Đức Giêsu, sự gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa, giữa giới hạn và
vô hạn đã thể hiện tuyệt vời, con người đã thả mình trọn vẹn vào lòng Thiên
Chúa để nhận lấy cái vô biên của Ngài. Đức Giêsu là con người, là Ađam mới, vì
Ngài là sự thành tựu tròn đầy nhất của nhân loại. Đức Giêsu đạt tới sự tròn đấy
ấy nhờ đã vâng phục cho đến chết, và dâng hiến chính mình làm của lễ. Và khi đã
tới mức thành toàn, Ngài không giữ lấy cho riêng mình cũng như Ngài đã “chẳng khư khư giữ lấy
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa” (Pl 2,6). Ngài đã đạt tới thành
toàn là để thông cho chúng ta (xem Hr 5, 8-9; 10,14). Ngài đã trở nên kiểu mẫu
của chúng ta đến mức thánh Phaolô mời gọi: “anh em hãy mặc lấy Đức Ki-tô” (Ga
3,37). Và thánh Phaolô dám kêu gọi như thế là vì “ai tin vào danh Ngài thì Ngài ban cho quyền
trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1,12).
a. Kế hoạch của
Thiên Chúa và lời xúi giục của Satan.
Mầu nhiệm Thiên Chúa
làm người cho lại tôi con người, vì Đức Giêsu làm chứng rằng con người là một
thành tựu, kế hoạch của Thiên Chúa về con người không phải là một thất bại.
Ngài đã trả lời cho loài người thấy rằng Satan nói dối khi nó xúi dục loài
người từ chối thân phận của mình. Thiên Chúa muốn con người là hình ảnh của
Ngài (St 1,26-27), giống như Ngài, để con người có đủ
khả năng làm chủ vũ trụ bao la và mặt đất đầy sức sống này. Nhưng chỉ có Ngài
biết Ngài như thế nào và con người có thể là hình ảnh của Ngài như thế nào, nên
những đường nét của con người phải do Thiên Chúa xác định. Như vậy con người là
một hoạch định của Thiên Chúa. Hoạch định này phát xuất từ tình thương vô biên
của Thiên Chúa; Tình Thương muốn cho, muốn trao tặng, muốn chia sẻ. Nhưng trong
câu chuyện của Ađam – Eva bị cám dỗ và sa ngã, Satan đã xúi con người nghi ngờ
chính tình thương ấy. Nó trình bày dự định của Thiên Chúa như một kế hoạch đàn
áp, nhằm nhận chìm con người, không cho con người “nên như Thiên Chúa” (St 3,1-5).
Và con người đã theo lời dụ dỗ của Satan, coi dự định của Thiên Chúa là một
thất bại. Con người không muốn là hình ảnh của Thiên Chúa, giống như Thiên
Chúa, nhưng muốn nên bằng Thiên Chúa, muốn “làm Thiên Chúa” nhờ con đường tắt Satan
bày cho (St 3,6-7). Nghĩa là con người từ chối kế hoạch của Thiên Chúa và muốn
làm một kế hoạch của chính mình. Nhưng thế nào là con người từ chối chính mình,
chính yếu tính của mình, vì yếu tính con người là một kế hoạch của Tình Thương
Tuyệt Đối. Chính vì thế sau khi phạm tội, con người mới “mở mắt ra, thấy mình
trần truồng”: thấy mình không còn là mình.
b. Thiên Chúa khẳng
định bằng mầu nhiệm Nhập thể.
Trong mầu nhiệm con
Thiên Chúa làm người, Thiên Chúa đã khẳng định lại rằng Con Người là một kế
hoạch của Tình Thương Tuyệt Đối muốn thông chia, chứ
không phải là một kế hoạch lừa bịp. Bằng chứng là chính Con Thiên Chúa đã thành
người, đã làm người: “Khi đến thời đến buổi, Thiên Chúa đã sai Con của Ngài sinh làm con một
người đàn bà” (Ga 4,4). Hơn thế nữa, Thiên Chúa đã đặt một căn bản
vững chắc cho sự thành tựu tuyệt vời của con người, vì “Ngài đã gửi Thánh Thần
của Con Ngài vào lòng của chúng ta để Thánh Thần kêu lên: Abba, Cha”
(Gl 4,6). Thiên Chúa đã khẳng định ngược lại với Satan rằng: sự việc con người
là một kế hoạch của Thiên Chúa thì không phải là điều ô nhục cho con người,
nhưng là thành tựu duy nhất của con người. Thiên Chúa cũng dứt khoát làm cho
con người là hình ảnh của Ngài, giống như Ngài và, một cách nào đó, bằng Ngài
nữa, vì được thông dự vào chính cuộc sống của Ngài trong tư thế là con, là kẻ
đồng thừa tự với Con Một Yêu Dấu của Ngài (x. Rm 8,17). Hai tiếng kêu xuất thần
của thánh Gioan giải thích điều ấy: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi ban con
Một của Ngài cho thế gian” (Ga 3,16). “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu thương chúng ta
dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực
sự chúng ta là con Thiên Chúa… Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng
ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô
xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy
Người như vậy.”(1Ga 3,1-2). Nhờ mầu nhiệm Thiên Chúa làm người,
chúng ta có CON NGƯỜI đang ngự bên hữu Thiên Chúa, đang thi hành quyền năng
Thiên Chúa, và tất cả những ai tin vào Ngài, đến với Ngài thì cũng sẽ tới đó
với Ngài, vì Ngài ở đâu thì những kẻ phụng sự Ngài cũng được ở đó (x. Ga
12,26). Thế là con người muốn bằng Thiên Chúa nhưng tự mình không vươn lên
được, thì Thiên Chúa đã “giáng sinh” làm người để nâng con người lên cho bằng Ngài.
Thiên Chúa làm người đã cứu chuộc con người, đã cho lại tôi “địa vị con người”,
vì Ngài cho lại tôi kế hoạch yêu thương của Ngài về tôi, cho tôi lại được là
hình ảnh của Ngài để làm chủ và vươn tới quyền làm chủ tuyệt đối mà Ngài đang
thi hành.
2. Ngài đến cứu chuộc cuộc sống con
người.
Khi tôi tin rằng con
người là một kế hoạch của Thiên Chúa, tức là tôi đã nhận một giá trị tuyệt đối
cho cuộc sống của con người. Kẻ nào không nhìn nhận một giá trị nào ở ngoài thề
giới loài người thì nhận một giá trị nào đó bên trong thế giới loài người làm ý
nghĩa cuối cùng cho cuộc sống của mình. Nhưng ai đã nhìn nhận mình là một kế hoạch
của Thiên Chúa và sự thành tựu cuối cùng của mình là được chung phần cuộc sống
vinh quang của Thiên Chúa, thì không thể nhận một giá trị nào khác làm ý nghĩa
cuối cùng, tuyệt đối cho đời mình. Nói thế không có nghĩa là lòng tin vào Thiên
Chúa phủ nhận những giá trị của thế giới loài người. Người tín hữu vẫn tôn
trọng những giá trị của loài người, nhưng không ngừng lại ở đó mà còn đón nhận
một cái đỉnh cao do ân huệ Thiên Chúa ban cho. Cái đỉnh cao này vượt khỏi con
người, nhưng Thiên Chúa đã đặt nó vào trong kế hoạch của Ngài về con người[2].
Bởi vậy đối với một người tin Thiên Chúa và nhận mình là một kế hoạch của Thiên
Chúa, thì cuộc sống con người trở thành phi lý vô nghĩa nếu con người là một
hoạch phải đi tới thất bại. Nhưng chỉ có tội lỗi mới làm cho kế hoạch ấy phải
đi tới thất bại, còn ơn cứu chuộc thì làm cho kế hoạch ấy thành tựu. Giải thích
Ki-tô giáo về cuộc sống con người dựa trên hai thái cực đó: tội lỗi và ơn cứu
chuộc.
a. Tội làm mất ý
nghĩa cuộc sống.
Để trở lại với câu
chuyện Ađam – Eva, khi họ từ chối một dự định của Thiên Chúa thì họ “thấy mình trần truồng”,
vô nghĩa. Cả cuộc sống trở thành gai góc, và sự kết thúc cuộc sống trở thành
cái chết, thành một tai họa, vì nó thả rơi con người vào trong tăm tối. Cuộc
sống trở thành đường vào bóng tối. Suốt nhiều thế kỷ, các nhà chú giải Thánh
Kinh và các nhà thần học đã từng muốn giải thích lời Thiên Chúa tuyên phạt loài
người (St 3, 16-19) bằng một loạt những ơn vượt tự nhiên, như là trước đó loài
người không phải khổ, không bệnh, không chết… Ngày nay người ta thường giải
thích – đơn giản hơn – bằng sự đánh mất ý nghĩa. Sách Sáng Thế trình bày Thiên
Chúa dựng nên con người giống hình ảnh Ngài và trao cho con người trách nhiệm
làm chủ mặt đất (1,27-28), nghĩa là để con người tiếp tục công trình sáng tạo
của Ngài. Chính Thiên Chúa đã làm việc để dựng nên vũ trụ và con người, thì con
người cũng phải làm chủ vũ trụ bằng cách làm việc, bằng lao động. Ở chương 2,
câu 5, sách này ngầm cho thấy rằng Chúa dựng nên con người là để lao động: “Lúc ấy chưa có con người
để canh tác đất đai…” Vậy thì trước khi phạm tội và sau khi phạm
tội, con người vẫn có sứ mệnh lao động. Tự nó, lao động không thể là “hình phạt”.
Cái gì đã thay đổi? Lời tuyên phạt của Thiên Chúa có nghĩa là gì? Cái đã thay
đổi là chính ý nghĩa của lao động. Nó tùy thuộc vào ý nghĩa cuộc sống con
người. Khi Ađam–Eva nhận mình là một kế hoạch của Thiên Chúa, thì lao động là
cái làm cho họ giống Thiên Chúa, vì nó là cách thể hiện quyền làm chủ mà Thiên
Chúa trao cho họ. Vinh quang của con người là được nên giống Thiên Chúa, được
tham dự vào quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa nhờ lao động. Khi họ từ chối là
kế hoạch của Thiên Chúa, tức là từ chối chính mình, từ chối ý nghĩa cuộc sống,
thì cuộc sống vẫn còn đó, nhưng nó đã mất ý nghĩa nên trở thành một cuộc đầy
ải, cưỡng bức. Thế mà lao động đã được gắn liền vào đó rồi, không tách ra được
nữa, nên nó cũng mất ý nghĩa theo. Từ ý nghĩa sáng tạo và làm chủ, lao động đã
trở thành một cuộc vật lộn với đất để có miếng ăn. Muốn sống phải lao động,
nhưng nếu cuộc sống không còn ý nghĩa thì lao động trở nên khổ sai.
Cuộc sống con người
là một hành trình trong không gian và thời gian. Trong lãnh giới Kinh Thánh,
Ađam-Eva sa ngã cũng là mất hướng cho cuộc hành trình kia. Con người cần một
tương lai để treo hiện tại và đẩy mình đi tới. Khi Ađam–Eva thấy rằng mình đã
chối từ Tình Thương Tuyệt Đối, Tình Thương duy nhất làm cho mình tồn tại, làm
cho cuộc sống của mình có điểm tới, thì họ thấy mọi sự đều vô nghĩa. Yêu nhau
để làm chi? Tình yêu có còn ý nghĩa hay chỉ là nhu cầu không thể kháng cự? Sinh
con để làm chi? Để cho nó có một tương lai hay để truyền cho nó cái vô nghĩa mà
mình đang sống, và chính mình không muốn sống? Tóm lại, tất cả cái chu kỳ sống
– yêu – truyền thông sự sống trở thành vô nghĩa khi tương lai chỉ là một khoảng
tối tăm dày đặc. Vậy thì lời tuyên án trong sách Sáng Thế không phải là một “lời sáng tạo”
của Thiên Chúa làm nên nổi khổ ải cho con người, nhưng là lời mặc khải cho
người biết rằng chính tội lỗi đã làm nên như thế đó. Chính khi Ađam–Eva từ chối
cái giá trị tuyệt đối mà Thiên Chúa ban cho để làm ý nghĩa cuối cùng cho cuộc
sống, là họ đã làm “phá giá” tất cả mọi tương quan kết thành cuộc sống của mình:
lao động là tương quan với vũ trụ vật chất, tình yêu là tương quan với người
khác. Họ bị “đuổi
ra khỏi vườn Địa Đàng” (St 3,23), theo ngôn ngữ thật cụ thể của
Kinh Thánh, thì chủ yếu vẫn không phải là một vấn đề di chuyển chỗ ở: khi đã
không còn ý nghĩa và tình nghĩa thì chỗ ở nào cũng thành chốn xa lạ, thành nơi
lưu đầy.
b. Nhờ mầu nhiệm con
Thiên Chúa làm người, cuộc sống được lại ý nghĩa tuyệt đối.
Là tín hữu Ki-tô
giáo chủ yếu là tin vào Đức Ki-tô, đón nhận “Tin Mừng” là chính Ngài, Con Một Yêu
Dấu của Thiên Chúa đã đến đem con người trở về với Thiên Chúa, cho con người
lại được gọi Thiên Chúa là Cha, được “đồng thừa kế” vinh quang vĩnh cửu với
Ngài. Cuộc hành trình lại có một điểm tới. Ngõ cụt được khai thông. Ánh sáng đã
bừng lên giữa tối tăm. Thế là tất cả lại có ý nghĩa: lao động, tình yêu và cả
cuộc sống. Con Thiên Chúa làm người đã không lấy thế làm đủ. Ngài sống trọn
kiếp người để chứng mình rằng kiếp người thật đáng sống, rằng con đường làm
người quả thật đưa ta đến với Thiên Chúa; đồng thời Ngài sống để vạch cho chúng
ta thấy làm sao đến được với Thiên Chúa. Tóm lại, Ngài vừa cho chúng ta một
đích tới, vừa vạch cho chúng ta thấy làm sao đi tới. Chính vì thế, Ngài gọi môn
đệ: “Hãy đi
theo tôi” và Ngài hứa: “Ta ở đâu thì kẻ phục vụ Ta cũng được ở đó”
(Ga 12, 26).
Ngài đã sống trọn
kiếp người.
Con Thiên Chúa làm
người đã đi hết con đường dài của kiếp người. Ngài từ chối mọi đường ngang nẻo
tắt. Satan cám dỗ Ngài đi đường tắt: Lạm dụng quyền năng Thiên Chúa để (làm cho
đá hóa bánh) phục vụ bản thân mình thay vì thi hành sứ mạng, hoặc dùng quyền
năng ấy làm hoa mắt đồng loại để người ta tin theo Ngài, hoặc đi con người tắt
cuối cùng là đánh đổi: bỏ Thiên Chúa tín thành để theo Satan lừa dối. Ngài đã
từ chối tất cả mọi con đường tắt và dứt khoát đi con đường của Thiên Chúa: “Ta đến không phải để làm
theo ý Ta, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai Ta” (Ga 6,38). Thánh
Mác-cô đã đối chiếu Chúa Giêsu chịu cám dỗ với Ađam trong Vườn Địa Đàng. Ađam
phạm lỗi bị đuổi ra khỏi vườn và thiên thần cầm gươm lửa giữ cửa không cho trở
lại đó. Chúa Giêsu chiến thắng Satan nên thiên thần đến hầu hạ Ngài, mọi thú dữ
tùng phục Ngài, vì Ngài ở giữa các thú dữ như Ađam trước khi phạm tội (Mc
1,12-13). Còn Tin Mừng theo thánh Mát-thêu (4,1-11) và thánh Luca (4,1-13) thì
đối chiếu Chúa Giêsu chịu cám dỗ với
Chúa Giêsu từ chối
không đi con đường tắt nào, và cũng từ chối không tạo cho loài người con đường
tắt nào, nhưng khẳng định bằng tất cả cuộc sống của Ngài rằng kế hoạch của
Thiên Chúa về con người là kế hoạch tốt đẹp nhất, thành công nhất, vì Thiên
Chúa yêu thương loài người. Khi người đàn bà Samari nghe Chúa nói đến một thứ
nước làm cho kẻ uống không còn khát nữa, bà ta liền xin Chúa: “Xin Ngài cho tôi thứ
nước ấy đi, để tôi khỏi phải tới đây kín nước nữa” (Ga 4,15). Khi
người Do Thái nghe Chúa nói đến một thứ bánh từ trời xuống, họ cũng xin Chúa: “Thưa Ngài: Xin cho chúng
tôi thứ bánh ấy luôn mãi” (Ga 6,34), dĩ nhiên là để chúng tôi khỏi
phải đổ mồ hôi mới có miếng ăn. Chúa Giêsu từ chối cung cấp thứ nước, thứ bánh
làm cho con người khỏi phải mang nỗi vất vả của kiếp người. Chính Ngài sống
cuộc đời lao động ở Nadaret, Ngài đã đổ mồ hôi đổi lấy bát cơm. Sứ mệnh của
Ngài không phải là thay thế sức lao động bằng quyền năng Thiên Chúa. Ngài xác
định sứ mệnh của Ngài như thế: “Bánh bởi trời chính là Ta. Ai tin ta sẽ được sống
đời đời” (Ga 6,51). “Và nước ta ban cho sẽ trở thành mạch suối vọt lên
trong kẻ ấy, đưa tới sự sống đời đời” (Ga 4,14); “Ai khát, hãy đến với
tôi, ai tin vào tôi thì hãy uống.”(Ga 7,37-38). Sứ mệnh của Ngài là
đem lại sự sống đời đời. Nhưng sự sống đời đời lại không phải chỉ là sự sống
đời sau. Sự sống đời đời bắt đầu ngay từ bây giờ: “Ai thấy người Con và tin vào Người thì có
sự sống đời đời, và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết”
(Ga 6,40). Thánh Gioan giải thích trong Thư Thứ Nhất: “Ngay từ bây giờ chúng ta
là con Thiên Chúa rồi.” (1 Ga 3,2). Nghĩa là cả kiếp sống làm người
trở thành kiếp sống làm con Thiên Chúa. Cả cuộc hành trình trong thời gian và
trong không gian trở thành cuộc hành trình vào vĩnh cửu. Chúa Giêsu cũng từ
chối dùng quyền năng của Ngài để giải phóng dân tộc Do Thái về phương diện
chính trị. Khi người Do thái thấy Ngài làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi
họ, họ toan bắt cóc Ngài mà tôn vương, tôn làm thủ lãnh chính trị của họ. Chúa
Giêsu trốn tránh toan tính này (Ga 6,35). Sau này Chúa sẽ tuyên bố trước mặt
Philatô: “Nước
tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 19,36).[4] Nghĩa là ngài không
đến vận dụng quyền năng Thiên Chúa để thay thế con người. Ngài đến để tôn trọng
cuộc sống con người và đem cho nó giá trị cuối cùng: sự sống đời đời, sự thành
tựu vĩnh viễn của kiếp người.
Con đường tắt cuối
cùng mà người Do Thái nài nỉ Chúa Giêsu ban cho họ là chịu làm một dấu lạ nào
để thuyết phục họ ngay tức khắc (Ga 6,30). Họ không muốn trải qua nỗi băn khoăn
của con người phải tự quyết định đón nhận tình thương của Thiên Chúa hay không,
nhưng muốn Thiên Chúa ra oai trấn áp sự lựa chọn của mình, “bắt cóc”
mình. Chúa Giêsu từ chối bắt cóc loài người. Thiên Chúa đã dựng nên con người
tự do và Thiên Chúa muốn tôn trọng tự do con người đến cùng, dù con người có từ
chối Ngài đi nữa, Ngài cũng không cưỡng ép. Những người bà con của Chúa Giêsu
cũng đề nghị Ngài lên Giê-ru-sa-lem “biểu diễn” quyền năng Thiên Chúa cho họ
thấy. Nhưng Ngài cũng từ chối (x. Ga 7). Chúa Giêsu dứt khoát không đi đường
tắt, và cũng không chịu tạo nên một con đường tắt nào; dù con đường Ngài đi
phải qua thập giá và đưa Ngài vào tận đáy âm ty, Chúa vẫn đi đến cùng, để làm
chứng rằng mọi kế hoạch của Thiên Chúa là yêu thương và thành tín. Cuối cùng “chính vì thế Thiên Chúa
đã tôn vinh Ngài” (Pl 2,9).
Ngài là Amen.
Chính vì đã chấp
nhận thi hành trọn vẹn kế hoạch của Chúa Cha, nên Chúa Giêsu là Amen (x. 2Cr
1,19-20; Kh 3.14) (nghĩa là: Vâng; đúng như vậy). Ngài là Amen Chúa Cha nói với
chúng ta, vì nơi Ngài Chúa Cha khẳng định với chúng ra rằng Chúa Cha thật yêu
thương chúng ta chứ không lừa dối, áp đặt. Chúa Cha thành tín, giữ đúng mọi lời
hứa chứ không phỉnh gạt loài người. Chúa Giêsu là Amen của chúng ta thưa với
Thiên Chúa, vì Chúa Giêsu đã nhân danh loài người “xin cho ý Cha nên trọn”, xác
nhận rằng mọi dự định của Chúa Cha là yêu thương thành tín, là hạnh phúc cho con
người. “Bởi
vậy nhờ Ngài chúng ta có thể thưa Amen với Thiên Chúa để tôn vinh Thiên Chúa”
(2 Cr 1,20).
Tóm lại, Chúa Giêsu
Con Thiên Chúa làm người đã sống trọn vẹn kiếp người để phục hồi giá trị cuộc
sống con người, bằng cách cho nó một ý nghĩa và vạch ra một thái độ sống để đạt
tới ý nghĩa ấy. Ngài không đem quyền năng Thiên Chúa thay thế một bộ phận nào
trong cuộc sống con người, nhưng Ngài đem toàn bộ cuộc sống con người vào trong
vĩnh cửu của Thiên Chúa. Ngài làm cho kiếp người trở nên đáng sống.
3. Ngài đến cứu chuộc loài người.
Còn một chiều kích
nữa của con người cũng phải được cứu chuộc, đó là chiều kích xã hội. Nó hàm
chứa lời tuyên xưng: “vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi”. Lời tuyên
xưng này không chỉ có nghĩa là Ngài đến để cứu hết mọi người, như một tổng số
những cá nhân riêng rẽ. Nó còn bao hàm chính cái tính xã hội của con người nữa,
vì đó là một chiều kích không thể tách rời khỏi con người và cuộc sống của con
người. Tính xã hội của con người không phải là “tính bầy đàn” của loài vật, vì
con người có ý thức về tương quan này và làm chủ tương quan này. Loài người
không phải là một tập hợp những cá thể có cùng một bản chất, nhưng là một cộng
đồng được kết nối bằng tình huynh đệ. Vậy thì nói rằng Ngài đến cứu rỗi chúng
tôi có nghĩa là Ngài cứu cả chiều kích xã hội này nữa, để làm cho loài người
chúng tôi thật sự là loài người, liên kết trong một tình huynh đệ.
a. Tội lỗi làm cho
loài người tan rã
Trong dự định của
Thiên Chúa, như sách Sáng Thế trình bày, thì cả loài người mới là hình ảnh của
Thiên Chúa, và cả loài người phải liên kết với nhau để chinh phục mặt đất (St
1,26-30). Nhưng tội lỗi làm đứt nát sợi giây liên kết loài người.
Sợi dây liên kết thứ
nhất là tương quan giữa đàn ông và đàn bà, “Ađam và Eva”. Chương thứ hai trong sách
Sáng Thế dùng một hình ảnh rất thơ mộng để diễn tả mối tương quan này: Thiên
Chúa đi tìm cho người đàn ông một người bạn đồng hành trên dương thế, nhưng
điểm mặt hết mọi loài vật, chẳng có loài nào xứng làm bạn với người đàn ông.
Cuối cùng Thiên Chúa đã lấy xương sườn của người đàn ông mà nặn thành người đàn
bà. Khi người đàn ông mở mắt ra sau giấc ngủ cô đơn, ông nhận ra người đàn bà
Chúa đem đến cho mình “là xương là thịt” của mình. Có lẽ khó tìm được một hình ảnh
thơ mộng hơn và sâu sắc hơn để diễn tả mối tương quan tuyệt diệu này. Cả hai là
một xương một thịt, cả hai hợp thành một để đón nhận và làm chủ mặt đất. Nhưng
tội lỗi đã làm biến chất mối tương quan tuyệt vời ấy. Sau khi cả hai đã lỗi
giới răn của Chúa, thì người đàn ông lại mở mắt ra một lần nữa, để nhận ra
người đàn bà Chúa đem đến cho mình là một cạm bẫy, một kẻ cám dỗ, kẻ xúi mình
phản bội Thiên Chúa. Người mà trước đây ông gọi là “xương tôi thịt tôi” – thiết
cốt: chạm sâu đến xương – thì bây giờ đã trở thành “cái người đàn bà mà Chúa đặt bên tôi”,
một món đồ phụ tùng ở bên ngoài. Người bạn duy nhất xứng đáng với ông thì đã
trở thành “mụ
ấy hái trái cây và đưa cho tôi và tôi ăn”. Và mối tình khắng khít
làm cho hai người nên một xương một thịt bây giờ trở thành một tương quan thống
trị: người đàn ông trở thành đối tượng thèm muốn của người đàn bà, và người đàn
bà trở thành đối tượng thống trị của người đàn ông (St 3,16). Thế là mối tương
quan thứ nhất giữa người với người, để loài người được tồn tại và phát triển,
đã bị tội lỗi làm cho biến chất đi rồi. Cả hai đã từ chối một Tình Thương siêu
việt vẫn làm cho mỗi bên nhận ra bên kia là một quà tặng của Tình thương, là
bạn đồng hành để đến với Tình Thương: Đứng trước sự mất mát to lớn ấy, người
bạn đồng hành trở thành kẻ cám dỗ, cái nhìn yêu thương trở thành cái nhìn hằn
học, oán hận. Và đứa con lẽ ra là hoa trái của tình yêu trở thành hoa trái của
nỗi đau của người đàn bà.
Sợi dây thứ hai nối
kết loài người là tình anh em. Sách Sáng Thế trình bày sự xuất hiện và biến
chất của tình huynh đệ ở chương 4 và chương 11. Đứa con đầu lòng xuất hiện làm
cho người mẹ reo vui sung sướng:”Nhờ Đức Chúa, tôi đã được một người” (St 4,1).
Đứa con thứ hai xuất hiện là niềm vui cho đứa con thứ nhất, vì là em nó. Trong
bản văn Hip-ri, đứa con thứ hai được gọi là “em nó” trước khi nhận cái tên là Abel.
Tình huynh đệ không xuất phát từ một quy luật pháp chế nào, nhưng dựa trên
chính sự kiện hai người cùng là người, do người sinh ra. Trách nhiệm đối với
anh em cũng phát sinh từ đó, chứ không chờ đợi một luật lệ nào. Sau này khi
Ca-in đã giết em, Chúa hỏi: em ngươi đâu? Ca-in dùng một từ pháp luật để vặn
lại Chúa: “Tôi
là người canh giữ em tôi sao?”. Diễn ý theo từ pháp luật thì câu ấy
nghĩa là “ai
trao cho tôi trách nhiệm giữ em tôi hồi nào?” Quả thật trong bản văn
thì không hề thấy Chúa tuyên bố cho Ca-in và Abel một luật nào về tình huynh
đệ. Nhưng Chúa vẫn hỏi tội Ca-in và đòi nợ máu cho Abel. Vậy thì câu chuyện
muốn khẳng định rằng tình huynh đệ và trách nhiệm đối với anh em nằm trong bản
chất con người chứ không đợi phải do pháp luật đặt ra. Chính Thiên Chúa đứng ra
bảo đảm cho tình huynh đệ. Ca-in dụ em ra ngoài đồng để không có ai chứng kiến
lúc hắn giết em. Nhưng hắn lầm, còn có Thiên Chúa bênh vực quyền sống của người
em, và chính Thiên Chúa đòi nợ máu cho người em. Đến khi Thiên Chúa tuyên phạt
Ca-in, hắn sợ bị người khác giết thì Chúa lại bảo đảm mạng sống cho hắn: “Kẻ nào giết Ca-in sẽ bị
báo oán bẩy lần” (St 4,15).
Tình anh em đã biến
chất như thế nào?
Chương 4 của sách
Sáng Thế trình bày hai bước của sự biến chất này. Bước thứ nhất là Ca-in coi
Abel là kẻ chia bớt phần của mình. Hình ảnh dùng để diễn tả là hai người cùng
dâng của lễ, Abel được Thiên Chúa nhận, Ca-in không được Thiên Chúa nhận. Câu
chuyện không hề nói đến lý do tại sao người này được nhận, người kia không, và
chỉ khai thác thái độ của Ca-in đối với em mình. Ca-in tức giận: hắn lầm lì mưu
tính một mình. Rồi một ngày kia hắn rủ em ra ngoài đồng. Không ai chứng kiến.
Hắn xông vào giết em. Đến đây chúng ta thấy rõ ý đồ của Ca-in: hắn muốn loại
trừ đứa em để không còn ai chia bớt phần của hắn, hắn sẽ độc chiếm cả Thiên
Chúa và mặt đất. Bước thứ hai: hắn giết tình huynh đệ ngay khi lạm dụng sự tin
tưởng của đứa em để lập mưu giết em, và khi giết em rồi thì hắn đã chôn tình
huynh đệ. Lời Thiên Chúa tuyên phạt Ca-in diễn tả nỗi cô đơn của hắn sau đó: “Ngươi sẽ là kẻ lang
thang trên mặt đất”. Không phải Thiên Chúa làm cho hắn trở thành kẻ
lang thang, nhưng chính hắn đã tự đẩy mình vào thân phận cô độc lang thang khi
hắn giết em. Hắn muốn độc chiếm Thiên Chúa thì Thiên Chúa đuổi hắn đi; hắn nhìn
nhận “từ nay
tôi sẽ phải ẩn xa mặt Chúa” (St 4,14). Hắn muốn độc chiếm mặt đất
thì hắn trở thành kẻ lang thang cô độc, và hắn sợ rằng “người đầu tiên gặp hắn
sẽ giết hắn” và chính mặt đất cũng sẽ không sinh hoa mầu cho hắn
nữa. Ca-in đã không muốn có người em đồng hành để làm chủ mặt đất thì Ca-in cô
độc và không làm chủ được mặt đất. Ca-in đã giết tình huynh đệ và giết em. Bài
ca của Lamek ở cuối chương 4 là một lời tuyên bố rằng tình huynh đệ đã chết: “Ta đã giết một người vì
ta bị một vết thương, ta đã giết một đứa trẻ vì ta bị trầy; vì Ca-in được báo
thù gấp bẩy, còn Lamek được báo thù gấp bẩy mươi bẩy” (St 4,23-24).
Câu chuyện tháp
Tóm lại, những sợi
giây liên kết loài người đã đứt tung vì tội lỗi: từ chối một tương quan chiều
dọc siêu việt làm trục nối kết, coi anh em là kẻ chia bớt phần nên loại bỏ nhau
hay biến nhau thành kẻ đồng lõa. Làm sao nối lại những mối dây ấy?
b. Ngài đến cứu
chuộc loài người.
Con Thiên Chúa làm
người đã đến để làm cho người người lại được là loài người, nối kết với nhau
bằng tình yêu thương bình đẳng và huynh đệ. Ngài đã tái lập loài người bằng
cách Ngài đích thân trở nên anh em của con người để cho họ chia sẻ cùng một sự
sống, được gọi Cha của Người là Cha của họ; Ngài cho họ một gia tài chung và
dạy cho học cách sống tình huynh đệ.
1 – Ngài trở nên anh
em của con người
Ngài vốn là Con
Thiên Chúa, nhưng Ngài đã làm người, đã trở nên cùng huyết nhục với con người.
Ngài nhận họ là anh em của Ngài (x. Hr 2,11); không phải chỉ lúc Ngài sống
trong thân phận con người tại thế, mà chính lúc Ngài lên với Cha, vào trong
vinh quang vĩnh cửu của Ngài, Ngài gọi họ là anh em của Ngài. Ngài nói với
Maria Ma-đa-lê-na: “Hãy đi nói với anh em của Thầy…” (Ga 20,17). Trong câu
chuyện ngày phán xét (Mt 25,31-46), Ngài nhận những người bé nhỏ nhất, cùng
khốn nhất là anh em của Ngài. Trong câu chuyện người Sa-ma-ri nhân hậu, Ngài
diễn tả chính thái độ của Ngài: Ngài tự nhận là anh em của loài người cần được
cứu chuộc. Nếu con người nhận ra Ngài là anh em của tất cả mọi người thì cũng
nhận ra mình là anh em của nhau. Để dễ hiểu điều này, chúng ta có thể đối chiếu
với câu chuyện của ông Giu-se, vẫn trong sách Sáng Thế, các chương 37; 42-45.
Mười người anh của Giu-se đồng lõa với nhau để thủ tiêu Giu-se, cuối cùng họ
bán Giu-se làm nô lệ cho bọn lái buôn, vì còn nghĩ đến chút tình ruột thịt
không nỡ giết. Khi Giu-se đã trở thành người quản lý nước Ai Cập, mười người
anh em này kéo sang mua lúa. Họ không nhận ra Giu-se nhưng Giu-se nhận ra họ.
Ông đã bắt họ trải qua hai cuộc thử thách rất đau đớn để biến đổi tình đồng lõa
của họ trở lại thành tình huynh đệ đích thật, trước khi cho họ biết ông chính
là em của họ. Trong lần gặp lại đầu tiên, ông đã bắt họ chứng thực rằng người
em út còn sống thì mới cho họ về. Họ nhận ra tai họa này là để đền tội đồng lõa
hại Giu-se. Sau đó ông Giu-se bắt mười người đó phải chứng thực họ là anh em
với nhau: ông bắt Si-me-on giữ lại, cho chín người kia về. Nếu họ thật tình làm
anh em của nhau, thì họ phải trở lại, đem cả người em út để cứu Si-me-on về.
Lần gặp gỡ thứ hai, khi chín người anh trở lại, đem theo người em út cùng cha
khác mẹ, nhưng cùng mẹ với Giuse. Ông này lại muốn họ phải chứng thực họ nhìn
nhận người em út này là em, nên ông lập kế giữ người em út lại. Họ đã tỏ ra
liên đới thực sự với người em út và muốn làm mọi cách để tránh cho người cha
nỗi đau đớn phải mất đứa con út. Tình huynh đệ và lòng hiếu thảo của họ được
tôi luyện qua hai cuộc thử thách, giờ đây ngời sáng. Giu-se tái xuất hiện giữa
họ với khuôn mặt người em. Gia đình được đoàn tụ trong tình hiếu thảo và tình
huynh đệ chân thật. Giu-se là nạn nhân của sự ghen tương và đồng lõa của mười
người anh, giờ đây đã thành công trong việc giáo dục, gầy dựng lại tình huynh
đệ cho mười người anh. Ông bắt họ phải thật tình liên đới với nhau, rồi phải
thật tình liên đới với người em út cùng cha khác mẹ nữa. Họ đã đáp ứng đòi hỏi
của ông. Họ đã làm sống lại tình huynh đệ. Tương tự như thế, Đức Giêsu Ki-tô,
Con Thiên Chúa làm người đã tự liên đới với mọi người và với từng người, để làm
cho mọi người lại liên kết với nhau nhờ liên kết với Ngài, lại nhận ra nhau là
anh em khi nhận Ngài là anh em của mình.
2 – Ngài cho lại
chúng tôi một người Cha
Cũng trong câu
chuyện Giu-se trên đây, các anh của ông vẫn tự nhận là con cùng một cha, nhưng
trong thái độ đối với ông thì họ lại chẳng quan tâm đến cha của họ, họ sẵn sàng
nói dối cha. Họ muốn phủ nhận Giu-se là em của họ thì họ cũng làm như không còn
nhận Gia-cop là cha của họ nữa. Bởi thế trong khi giáo dục lại tình huynh đệ
cho họ, Giu-se cũng giáo dục lại lòng hiếu thảo nữa. Miệng họ vẫn bô bô rằng họ
là một nhóm mười hai anh em con cùng cha, nhưng cách cư xử của họ không phải
như vậy. Bây giờ họ phải thành thật nhìn nhận ông Gia-cob là cha của cả mười
hai người, không trừ ai, thì tình anh em mới sáng lên được: Họ sẵn sàng liên
đới với Si-me-on cũng như với Ben-gia-min vì nghĩ đến người cha ở nhà. Họ chứng
tỏ được tình cảm đậm đà đối với cha và đối với em họ đến nỗi “Giuse cầm mình không
được” nữa mà phải chấm dứt cuộc thử thách (St 45,1).
Để tái lập sợi dây
liên đới huynh đệ giữa loài người, Con Thiên Chúa cũng cho loài người một người
Cha: “Cha của
Thầy cũng là Cha của anh em” (Ga 20,17). Con người là anh em với
nhau vì cùng là anh em của Ngài, và cùng một Cha với Ngài. Ngài đến để tỏ cho
họ biết Cha của họ. Ngài nói với họ lời của Cha, Ngài tỏ cho họ những việc của
Cha, Ngài giãi bày cho họ thấy tình thương của Cha trên trời qua những câu
chuyện, những lời chỉ bảo, những lời kinh Ngài dạy (Bài Giảng trên núi, Mt 5-7;
Ga 5). Ngài giải bày cho họ thấy Chúa Cha trọn vẹn đến nỗi Ngài có thể nói
trong bữa Tiệc Ly: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha rồi” (Ga 14,9). Ngài tỏ cho con người thấy
Cha của Ngài để cho họ cũng được gọi Cha của Ngài là Cha của mình. Bài kinh duy
nhất Ngài dạy để thưa với Thiên Chúa mở đầu bằng câu “Lạy Cha chúng con”.
Tất cả thái độ Ngài dạy để sống với Thiên Chúa là thái độ làm con của Cha trên
trời (x. Mt 6).
Không những Ngài cho
được gọi Cha của Ngài là Cha của chúng ta, Ngài còn cho những ai đón nhận Ngài
trở nên “cùng huyết nhục” với Ngài, vì Ngài cho họ chính sự sống của Thiên
Chúa, sự sống Ngài đã lãnh nhận bởi cha Ngài từ đời đời. Ngài tuyên bố: “Ý muốn của Cha Ta là thế
này: ai thấy người Con và tin vào Người thì được sự sống đời đời; và Ta, Ta sẽ
cho người ấy sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6,40). Bởi vậy Thánh
Gioan kêu lên: “Hãy
xem Thiên Chúa yêu thương chúng ta chừng nào, vì chúng ta được gọi là con Thiên
Chúa, và thật sự chúng ta là như vậy”(1 Ga 3,1), vì được sống sự
sống vĩnh cửu của Thiên Chúa ngay từ bây giờ: “Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến
ngự trong lòng anh em mà kêu lên: Abba, Cha!” (Gl 4,6). Thế là cùng
với người Cha, Con Thiên Chúa đã cho chúng ta một gia nghiệp chung, vinh quang
vĩnh cửu của Thiên Chúa: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu thương chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi
cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con Thiên
Chúa… Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều
ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên
giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1 Ga 3,2). Trong bữa Tiệc Ly, Chúa
Giêsu dùng hình ảnh “nhà Cha” và “chỗ ở” để nói với các môn đệ điều ấy: “Trong nhà Cha Thầy có
nhiều chỗ ở … Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về
với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,2-3). Như vậy
chúng ta là anh em với nhau vì chúng ta có cùng một Cha và cùng một gia nghiệp.
Chúa Giêsu sẽ dựa
vào đó để xác định và đòi hỏi sự bình đẳng giữa mọi người. Đứng trước luật ly
dị rất là dễ dãi và đầy tính cách đàn áp phụ nữ, Chúa Giêsu đã đòi lại quyền
bình đẳng cho người phụ nữ. Ngài nhân danh kế hoạch của Thiên Chúa về con người
để đòi người đàn ông và người đàn bà đã thành vợ chồng với nhau phải thật sự
đối xử với nhau như xương thịt của nhau (x. Mt 19, 1-9). Ngài đòi phải tôn
trọng cả những người mà người ta cho là thấp hèn nhất, vì Cha trên trời yêu
thương và bảo vệ những người ấy (x. Mt 18, 10-14). Ngài đòi phải yêu thương mọi
người để xứng đáng là con Cha trên trời, vì Cha trên trời không loại trừ ai (x.
Mt 5, 43-48). Ngài đòi phải cứu giúp, nâng đỡ những người cùng khốn nhất, vì họ
là anh em của Ngài và Ngài sẽ nhân danh Cha Ngài mà xét xử mọi người, chỉ có ai
yêu thương giúp đỡ anh em mới được vào Nước Trời (x. Mt 25, 31-40). Thế là Chúa
Cha và gia nghiệp chung trở thành cái trụ đứng nâng đỡ những tương quan chiều
ngang giữa người với người.
3 – Ngài đến đây dạy
chúng tôi sống tình huynh đệ
Con Thiên Chúa đến
làm anh em của con người, không phải chỉ nối kết họ lại thành anh em với nhau,
Ngài còn cho họ một kiểu mẫu để sống tình huynh đệ nữa. Đối lại với thái độ coi
anh em là kẻ chia bớt phần của mình, Ngài đã tự ý chia cho họ tất cả: Ngài cho
họ được cùng làm con Thiên Chúa với Ngài, được sự sống của Ngài, được biết tất
cả những gì Ngài đã nghe biết nơi Cha Ngài. Tình anh em chân thành bao gồm cả
tình bạn. Trong bữa Tiệc Ly Ngài gọi các môn đệ là bạn hữu (Ga 15,15).
Đối lại với thái độ
và hành động “giết
em”, Ngài đến hiến mạng sống vì anh em: “Không có tình thương nào
cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”
(Ga 15,13). Ngài đã đến để làm tôi tớ mọi người và đem chính mạng sống Ngài để
phục vụ mọi người, làm cho mọi người được sống. Mỗi lần môn đệ của Ngài tranh
giành địa vị với nhau, Ngài đều dạy họ phải phục vụ, Ngài tuyên bố rõ ràng:
Ngài đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ. Trong bữa Tiệc Ly, Ngài đã
làm một cử chỉ của người tôi tớ: Ngài bưng nước rửa chân cho các môn đệ. Qua cử
chỉ ấy, Ngài muốn cho các môn đệ bài học về phục vụ, đồng thời diễn tả tượng
trưng việc Ngài đem mạng sống Ngài mà phục vụ (Ga 13,1-6).
Đối lại với thái độ
đồng lõa, Ngài kêu gọi mọi người đi với Ngài về nhà Cha. Khi gọi môn đệ, Ngài
bảo: “Hãy theo
tôi”. Khi môn đệ hỏi Ngài rằng theo Ngài thì họ được cái gì, Ngài
cho họ biết sẽ được chia phần với Ngài trong cuộc sống vĩnh cửu (x. Mt 19,
27-29). Ngài chỉ xin Cha Ngài một điều là: “Con ở đâu thì những người Cha đã ban cho con cũng ở
đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha ban cho
Con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành” (Ga
17,24). Ngài mời gọi tất cả đồng hành.
4 – Ngài đã cứu
chuộc bằng thập giá và phục sinh
Tất cả công trình
cứu chuộc loài người ấy, Ngài đã thực hiện trên thập giá: “Ngài vâng lời cho đến
nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập giá” (Pl 2,8). Chính trong
giờ phút bi đát nhất của con người, Ngài đã ngước mặt lên đón nhận Chúa Cha cho
nhân loại: “Lạy
Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46), và Ngài
dang tay ra thu họp, giảng hòa nhân loại với nhau và với Thiên Chúa: “Chính Người là bình an của
chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do thái và dân ngoại, thành một; Người
đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét; Người đã hủy
bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập hòa bình,
Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người.
Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hòa giải với Thiên Chúa trong một
thân thể duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. Người đã đến
loan Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho
những kẻ ở gần. Thật vậy, nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong
một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha” (Ep 2, 14-18). Nhờ Ngài
dang tay chết trên thập giá, cả nhân loại được sum họp trong gia đình có Thiên
Chúa là Cha. Ngài đã cứu chuộc loài người, đã ban cho con đường bảo đảm nhất để
thể hiện tình anh em đích thực: “Ngài chết để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác
khắp nơi” (Ga 11,52). Cái chết của Ngài có sức mạnh ấy là vì Ngài
chết và sống lại để trở thành Đấng ban phát Thánh Thần. Chính Thánh Thần là sợi
giây hiệp nhất. Sách Tông Đồ Công Vụ diễn tả biến cố Thánh Thần hiện xuống như
một cuộc tái lập sự hiệp nhất mà tội “Babel” đã phá hủy: Thánh Thần làm cho mọi
người lại hiểu cùng một ngôn ngữ để đón nhận củng một Tin Mừng (x. Cv 2,1-11).
Và cuối cùng, Ngài sẽ hoàn tất công trình cứu chuộc loài người, khi Ngài làm
cho cả loài người được sống lại vinh quang và sống mãi trong ánh sáng hạnh phúc
vô cùng của Thiên Chúa.
II. NGÀI ĐẾN CỨU CHUỘC THẾ GIỚI VẬT CHẤT
Loài người sinh ra
và lớn lên trong vũ trụ vật chất. Vật chất gắn liền với con người, vì nó là
xương thịt của loài người. Nhưng loài người không chỉ là một cái gì nội tại của
vật chất, loài người vươn lên khỏi vật chất để có một tương quan với nó. Chính
vì thế mà vật chất lại được gắn liền với thân phận con người, và tùy thuộc vào
tương lai của con người. Bởi vậy chính mối tương quan của con người với vất
chất và bản thân vật chất cũng được gắn liền với hậu quả của tội lỗi và cứu
chuộc.
Vật chất và con
người trong kế hoạch tạo dựng.
Trong sách Sáng Thế
mối tương quan giữa con người và vật chất được diễn tả là tương quan làm chủ.
Thiên Chúa dựng nên vất chất và muôn vật, rồi Thiên Chúa mới dựng nên con người
theo một kế hoạch: “Ta hãy làm nên loài người giống hình ảnh Ta, để chúng làm chủ cá biển và
chim trời, mọi loài vật, mọi muông thú và mọi loài bò sát”. Và khi
đã làm nên con người, Ngài phán với họ: “Hãy sinh sôi nảy nở cho đầy mặt đất và hãy khắc
phục nó” (St 1, 26.28). Vật chất hoang vu bỗng trở thành quan
trọng, vì nó có một mục đích rất lớn: Nuôi sống con người vốn là hình ảnh của
Thiên Chúa. Con người trở thành đỉnh cao của thế giới vật chất, vừa dính vào nó
vừa vượt trên nó; dính vào nó vì là thành phần của nó và phải nhờ vào nó mà
sống. Vượt trên nó vì là hình ảnh của Thiên Chúa và có sứ mạng tiếp nối công
trình tạo dựng, đưa nó tời thành toàn. Tác giả Thánh vịnh 8 đã ngây ngất khi
nghĩ tới đó:
Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo,
muôn trăng sao
Chúa đã an bài,
thì con người
là chi, mà Chúa cần nhớ đến,
phàm nhân là
gì, mà Chúa phải bận tâm?
Chúa cho con người chẳng thua kém thần
linh là mấy,
ban vinh quang
danh dự làm mũ triều thiên,
cho làm chủ
công trình tay Chúa sáng tạo,
đặt muôn loài
muôn sự dưới chân:
Nào chiên bò
đủ loại, nào thú vật ngoài đồng,
nào chim trời
cá biển, mọi loài ngang dọc khắp trùng dương.
Lạy ÐỨC CHÚA là Chúa chúng con,
lẫy lừng thay
danh Chúa trên khắp cả địa cầu!
Tội lỗi làm đảo lộn
Nhưng cái gì đã xảy
ra cho thế giới vật chất khi con người phạm tội? Ta hãy trở lại với câu chuyện
tượng trưng thật sâu sắc của sách Sáng Thế (chương 3). Satan cám dỗ Ađam-Eva từ
chối cái trật tự rất hòa hợp: vật chất phụng sự con người, con người phụng sự
Thiên Chúa. Lật đổ trật từ ấy bằng cách nào? Ăn trái cấm. Thế nghĩa là thay vì
tiếp nối lời tạo dựng của Thiên Chúa mà làm chủ vật chất, sử dụng nó để làm
người, con người đã nghe lời xúi giục của Satan muốn nhờ vất chất đưa mình lên
ngang hàng với Thiên Chúa. Ađam–Eva đã từ chối thân phận làm người để làm Thiên
Chúa, và trông đợi ở vất chật một sức bùa chú nào để làm cho họ trở thành Thiên
Chúa. Sự đảo lộn đã xảy ra, nhưng vượt mọi dự đoán của họ. Con người bị tha
hóa, vì phủ nhận chính mình. Vật chất đã bị Ađam–Eva làm tha hóa, vì gán cho nó
quyền lực mà nó không có. Và khi gán cho vật chất một quyền năng thần thiêng,
họ lại đã cúi xuống thờ nó để mong nó cho mình bằng Thiên Chúa. Thay vì làm
chủ, con người đã thành nô lệ. Vật chất phải phục vụ con người lại nghiễm nhiên
trờ thành thần thánh cho Ađam–Eva quỵ lụy.
Lời Chúa tuyên phạt
giải thích sâu xa hơn về sự đảo lộn và tha hóa này. Lao động là cách con người
thể hiện tương quan của mình với vật chất đã biến nghĩa: từ lao động sáng tạo
để làm chủ, nó trở thành lao động khổ sai, đổ mồ hôi vật lộn với vất chất để nó
chịu nhả ra cho loài người chút của ăn. Mặt đất trả lời loài người bằng cách
sinh gai góc để phản đối: “Đất sẽ sinh ra gai góc cho ngươi”(câu 18). Thực ra là vì tội
lỗi Ađam–Eva đã làm cho mặt đất bị nguyền rủa khi làm tha hóa vật chất: “Mặt đất bị nguyền rủa vì
người”. Tác giả đã vận dụng những cái tầm thương nhất trong cuộc
sống, sự vất vả trong lao động, gai góc để diễn tả sự nổi loạn của vật chất đối
với loài người, sự tha hóa mà vật chất phải chịu vì loài người từ chối chỗ đứng
của mình.
Mệnh đề cuối cùng
của lời tuyên phạt Ađam–Eva: “Vì ngươi là bụi đất, người sẽ trở về bụi đất” nói lên sự tha
hóa cuối cùng của con người. Là đỉnh cao của vật chất, con người lại trở về
thành một mảnh vụn của nó. Điều ấy không chỉ bi đát cho con người, mà bi đát
ngay cho vật chất. Vật chất nuôi con người cho cao lên, để rồi con người lại
rởi trở vào lòng nó. Vật chất không thoát được khỏi chính nó nữa. Hy vọng độc
nhất của vật chất để thoát ra khỏi nó là con người. Nhưng cái đỉnh cao của vật
chất cứ vươn lên rồi lại rớt xuống. Nỗ lực của vật chất trở thành “công cốc”, “công dã
tràng”,“cơm toi”, như con giun đùn đất lên cho cao để rồi bất cứ
một vật gì nặng đè lên cũng có thể làm cho công trình của nó bị san bằng. Con
người đã kéo vật chất liên đới với mình trong thân phận tuyệt vọng. Bởi vậy khi
con người được niềm hy vọng thì cả thụ tạo cũng được hy vọng: “Muôn loài thọ tạo những
ngong ngóng đợi ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người. Quả thế
muôn loài đã lâm vào cảnh hư aỏ, không phải vì chúng muốn, nhưng là vì Thiên
Chúa bắt chịu vậy; tuy nhiên vẫn còn niềm trông cậy là có ngày cũng sẽ được
giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên
Chúa chung hưởng tự do và vinh quang. Thật vậy chúng ta biết rằng: cho đến bây
giờ, muôn loài thọ tạo đang cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở. Không
phải muôn loài mà thôi, cả chúng ta cũng rên siết trong lòng: chúng ta đã lãnh
nhận Thần Khí như ân huệ mở đầu, nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn
quyền làm con, nghĩa là cứu chuộc thân xác chúng ta nữa.” (Rm
8,19-23). Thế là con người và vật chất cùng chung một niềm hy vọng: niềm hy
vọng của con người, hy vọng được thoát khỏi cái bản án “trở về đất”
nhờ sự sống lại.
Đức Kitô đến cứu
chuộc thế giới vật chất
Con Thiên Chúa làm
người đã nhận đi vào tương quan với thế giới vật chất như một người phàm: Ngài
đã nhận lệ thuộc vào vũ trụ này để sống kiếp người giữa anh em và đã nhận góp
phần đấu tranh khắc phục mặt đất, làm cho nó trở thành của loài người.
Ngài khử thiêng vật
chất
Bằng cuộc sống lao
động của Ngài, Ngài đã phủ nhận lời xúi giục của Satan, kẻ muốn làm cho loài
người gán cho vật chất một sức mạnh thần thiêng. Ngài đã khử thiêng vật chất,
khẳng định lại với con người rằng vật chất không có sức thần thiêng nào hết,
chỉ có con người đã nhận được sứ mạng khắc phục nó. Con đường làm con Thiên
Chúa, giống như Thiên Chúa, không phải là con đường tắt do một sức thần thiêng
nào đem lại, nhưng là con đường làm người theo đúng dự định của Thiên Chúa.
Được làm con Thiên Chúa, giống như Thiên Chúa, là một ân huệ của Thiên Chúa chứ
không phải là thành quả của một cuộc mưu đoạt nào. Chính Con Thiên Chúa “vốn dĩ là Thiên Chúa, mà
không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng Thiên Chúa, nhưng đã hoàn
toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như
người trần thế” (Pl 2,6-7). Rồi chính ngài lại nhận lấy vinh quang
như một ân huệ Cha ban: “Lạy Cha, giờ đây xin Cha tôn vinh Con bên Cha, xin ban cho con vinh
quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17,5).
Thế là khi khử thiêng vật chất bằng lao động, Ngài đã đưa vật chất trở về đúng
vị trí của nó, là đối tượng cho quyền làm chủ của con người. Nó sẽ chỉ tự vượt
nhờ con người thi hành quyền làm chủ đối với nó, kéo nó lên.
Ngài công bố chức
năng của vật chất
Khi Chúa Giêsu rao
giảng, Ngài cũng công bố điều ấy nhiều lần. Đứng trước thái độ của loài người
muốn lấy của cải vật chất làm lẽ sống, Ngài đã tuyên bố thẳng thắn: “Các ông không thể vừa
làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6,24). Của cải
vật chất là do con người làm ra chứ không phải là thần thánh. Nó nuôi sống con
người nhưng nó không thể là lẽ sống, là ý nghĩa cuối cùng của con người. Nó
không phải là tất cả của con người. Nếu con người thờ nó như một vị thần, con
người sẽ rơi vào tuyệt vọng, vì nó chỉ là sản phẩm của bàn tay con người thôi.
Một lần có người xin Chúa can thiệp để bắt người anh chia gia tài cho y, Chúa
không chấp nhận can thiệp, lại còn nói với mọi người: “Phải coi chừng, phải giữ
mình khỏi mọi thứ tham lam. Không phải vì dư giả mà mạng sống con người được
bảo đảm nhờ của cải đâu” (Lc 12,13-15). Ngài kể tiếp dụ ngôn anh
trọc phú: Anh ta tính phá kho cũ lập kho mới để tích trữ của cải, rồi ngồi
hưởng suốt đời. Anh ta “ngốc” vì quên một điều: “Nội đêm nay, người ta đòi lại mạng ngươi, thì những
gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc 12,16-24). Chúa Giêsu không
khinh chê của cải vật chất, vì chính Ngài đã lao động để làm ra nó, Ngài biết
giá trị của nó. Nhưng cũng chính vì Ngài biết mà Ngài mới đưa nó về đúng vị trí
của nó.
Ngỏ lời với những ai
muốn theo Ngài, Ngài đòi một điều kiện rất khắt khe: “Ai không từ bỏ hết những
gì mình có thì không thể làm môn đệ của tôi” (Lc 14,33). Theo Ngài
tức là hướng về cùng đích Ngài hướng tới và cùng đi với Ngài. Đích Ngài hướng
tới là sự thành tựu cuối cùng của con người. Mọi sự khác đều phải phục vụ cho
cái cùng đích này. Điều kiện khắt khe Chúa nêu ra đó, chỉ là khẳng định giá trị
thật của mọi của cải vật chất. Chỉ có Thiên Chúa thật mới là cùng đích của con
người, vì chính Ngài dựng nên thế giới vật chất và trao nó cho con người để con
người tiếp nối công trình tạo dựng của Ngài.
Ngài cho vật chất dự
phần vinh quang
Trả vật chất về đúng
vị trí và chức năng của nó, Chúa Giêsu lại cho nó sự bảo đảm được tham dự vào
vinh quang cuối cùng của loài người: chính Ngài đã thoát khỏi số phận “trở về đất bụi”.
Ngài đã sống lại. Ngài đã ra khỏi mồ để đi vào vinh quang. Ngài đã không biến
thành một mảnh vụn trong lòng vật chất, nhưng đã thoát khỏi giới hạn của vật
chất. Ngài đã mang cả cái phần vật chất làm nên thân xác Ngài vào trong vinh
quang của Thiên Chúa. Khi Ngài tỏ mình cho các môn đệ sau biến số phục sinh,
Ngài cho họ thấy dấu đinh và vết đòng trên thân xác Ngài, cho họ sờ được Ngài,
nhưng đồng thời Ngài lại không bị ràng buộc bởi không gian và thời gian nữa.
Ngài vào nhà đứng giữa các môn đệ trong lúc cửa đóng kín, nhưng Ngài vẫn có
xương có thịt chứ không phải là ma (x. Lc 24,39-40). Ngài cho môn đệ cùng ăn
uống với Ngài, nhưng Ngài không lệ thuộc vào của ăn vật chất nữa (Lc 24,41-43)
và (Cv 10,41). Thế là Ngài đã cho vật chất được dự phần vào sự tự do vinh hiển
của Con Thiên Chúa.
Sự phục sinh ấy,
Ngài không giữ cho một mình Ngài. Ngài sống lại cũng là “vì loài người chúng ta”,
để cho kẻ tin được niềm hy vọng cũng sẽ được sống lại như Ngài: “Tôi trông đợi kẻ chết
sống lại và sự sống đời sau”. Lời tuyên xưng cuối cùng trong kinh
Tin Kính nói lên ý nghĩa cứu chuộc đối với vật chất. Ngài không chỉ cứu chuộc
linh hồn mà cứu chuộc cả thể xác nữa. Ngài cho con người cũng sẽ được thoát
khỏi thân phận vĩnh viễn “trở về cát bụi”, để đi vào vinh quang với Ngài. Ngài
đã không hủy bỏ thân xác chúng tôi để chỉ cứu lấy linh hồn, có nghĩa là Ngài
không hủy bỏ tương quan của con người với vật chất. Chính Ngài đã giữ tương
quan với vũ trụ vật chất, nhưng là một tương quan được đổi mới. Ngài đã vượt
khỏi sự lệ thuộc vào vũ trụ vật chất để làm chủ tuyệt đối. Vật chất hoàn toàn
quy phục Ngài. Như vậy là nhờ mầu nhiệm Phục Sinh, Ngài đã đưa quyền làm chủ
đối với vật chất tới đỉnh cao nhất. Ngài sẽ đổi mới thân xác con người (x. 1Cr
15,35-53), nghĩa là Ngài sẽ cho họ được sống một tương quan mới với vũ trụ vật
chất. Bởi vậy, niềm hy vọng sống lại của người tín hữu đi đôi với niềm hy vọng
trời mới đất mới. Cả thế giới vật chất cũng sẽ được biến đổi để trở thành trời
mới đất mới (x.2Pr 3,13) và (Kh 21,1). Khi Ngài bảo đảm sự sống lại của loài
người, Ngài cũng cho vật chất thoát khỏi nỗi “tha hóa” của nó, vì cho nó một
mục tiêu phục vụ chính đáng và chắc chắn thành tựu.
Trong khi chờ đợi
ngày vinh quang phục sinh bừng sáng trong trời mới đất mới, Đức Kitô thi hành
quyền làm chủ tuyệt đối của Ngài đối với vật chất để phục vụ con người. Sau khi
đã khử thiêng vật chất, trả nó về đúng chức năng phục vụ cuộc sống và con
người, Ngài vận dụng nó vào chính sự thăng tiến của con người trên bình diện
làm con cái Thiên Chúa. Trong bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu thi hành quyền làm
chủ tuyệt đối của Ngài, để làm cho vật chất (bánh và rượu) thành Máu Thịt vinh
hiển của Ngài, của ăn “đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,54). Trong các bí tích khác,
Ngài dùng vật chất làm dấu chỉ hữu hiệu cho con người được gặp Ngài và tiếp
nhận sức sống phục sinh của Ngài. Ngài không cho vật chất một sức bùa chú nào,
nhưng Ngài vận dụng quyền năng phục sinh của Ngài làm cho nó trở thành nơi ngài
hiện diện để con người gặp gỡ mật thiết với Ngài.
Trời mới đất mới
Vận dụng vật chất
bằng quyền năng phục sinh của Ngài để thông truyền sự sống mới cho loài người,
là Chúa Giêsu đang cho vật chất được tham dự vào vinh quang cuối cùng. Sự tham
dự này là bảo chứng rằng vũ trụ vật chất sẽ được dự phần vinh quang như thánh
Phaolô nói trong Thư gửi tín hữu Rôma (8,19-23). Trời mới đất mới sẽ xuất hiện
như thế nào chúng ta chưa biết, cũng như chúng ta chưa biết khi chúng ta sống
lại thì thân xác sẽ như thế nào (x. 1Ga 3,29). Chúng ta chỉ dựa vào lời hứa của
Thiên Chúa mà trông đợi trời mới đất mới (x. 2Pr 3,13). Niềm hy vọng ấy làm cho
thân xác của chúng ta đáng trọng và thế giới vật chất của chúng ta đáng quý.
Với Chúa Kitô, vật chất không còn là kẻ thù, không còn là đồng lõa với Satan để
kéo ta vào cõi chết nữa, nhưng nó là bạn đồng hành với ta trên đường vào vinh
quang vĩnh cửu.
Nếu hỏi rằng tại sao
cả vũ trụ vật chất bao la này lại gắn liền với thân phận con người, một sinh
vật li ti trên một mảnh vụn vũ trụ. Tác giả Thánh Vịnh 8 cũng đã ngạc nhiên khi
nhìn trời trăng sao mà nghĩ đến thân phận con người nhỏ bé nhưng lại được Thiên
Chúa đặt làm chủ vạn vật. Thánh Phaolô trả lời cho chúng ta trong Thư gửi tín
hữu Colossê: “Ngài
[Con Thiên Chúa] là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi
loài thọ tạo. vì trong Người muôn vật được tạo thành, trên trời cùng dưới đất,
hữu hình với vô hình… Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại
trong Người. Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh. Người
là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để
trong mọi sự, Người đứng hàng đầu.” (
III. NGÀI ĐẾN CỨU CHUỘC LỊCH SỬ
Công cuộc chinh phục
vật chất diễn ra trong lịch sử: lịch sử của loài người. Loài người lớn lên và
vươn tới thành toàn ngang qua cuộc chinh phục vật chất, làm cho nó trở thành
thế giới của loài người. Trong kế hoạch của Thiên Chúa, con người là hình ảnh
của Thiên Chúa, giống như Thiên Chúa ngay ở điểm con người được thông dự vào
quyền năng tạo dựng của Thiên Chúa. Càng chinh phục được thế giới vật chất, con
người càng là hình ảnh của Thiên Chúa, càng giống Thiên Chúa. Chung cục của
Lịch sử sẽ là lúc con người đã hoàn toàn làm chủ được vật chất, hoàn thành sứ
mạng Thiên Chúa trao. Lúc ấy, con người được thể hiện trọn vẹn, triển khai được
hết mọi tiềm năng Chúa trao cho. Lúc ấy vinh quang của con cái Thiên Chúa sẽ
bừng lên, cả loài người tụ họp trong cuộc liên hoan vĩnh của của Thiên Chúa.
Tội lỗi cắt ngang Lịch sử
Nhưng tội lỗi đã vào
trong thế gian. Nó đã tạo nên một khúc quanh tàn khốc cho Lịch sử, vì nó đảo
lộn hết tương quan và đẩy Ađam-Eva vào số phận “trở về bụi đất”. Tội lỗi là sức
ly tâm đẩy con người xa Thiên Chúa và xa nhau, gây nên một sự tan rã vô phương
cứu chữa. Vật chất phục vụ cuộc tiến hóa của con người cũng bị kéo vào cuộc tan
rã ấy. Cuộc tiến hóa của vạn vật thành một cái nhà không nóc, một lâu đài trên
cát, vươn lên mãi để chẳng tới đâu cả. Tất cả chỉ vì Ađam-Eva từ chối thân phận
làm người, đã đánh mất điểm tới cho lịch sử. Cuộc tan rã ấy vô phương cứu chữa,
vì con người không thể nào kéo Tình Thương Tuyệt Đối trở lại với mình để làm
điểm tới cho Lịch sử. Lịch sử như một bản hòa tấu bị cắt ngang, những cung đàn
cứ vang lên để chẳng đi tới một kết thúc nào cả. Cả lịch sử cũng trở về đất với
con người. Trong nhãn giới đó, nhà thơ Qohelet trong Thánh Kinh đã phải kêu
lên: “Phù vân
rất mực phù vân, mọi sự là phù vân”.
Tội lỗi đi vào Lịch
sử đã trở thành sức mạnh thống trị con người, bắt con người làm nô lệ nó để đưa
con người tới sự chết, tới diệt vong. Thánh Phaolô đã diễn tả cái bi đát ấy của
thân phận con người trong Thư gửi tín hữu Rôma: “Tôi bị bán làm nô lệ cho tội lỗi. Thực vậy,
tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều
tôi ghét thì tôi lại cứ làm… Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng
làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn,
tôi lại cứ làm” (7,14-15.18.19). Sự ác là sự ác không phải vì Chúa
cấm, nhưng vì nó là sự ác mà Chúa cấm, nó tiêu diệt con người, phá hủy kế hoạch
yêu thương của Thiên Chúa về con người. Sách Sáng Thế diễn tả ý nghĩa giới răn
của chúa bằng hình ảnh trái cấm. Chúa bảo rằng “ăn trái ấy thì chết”. Giới răn
vạch cho Ađam-Eva thấy giới hạn của mình, thấy con đường phải đi. Vượt giới hạn
ấy, ra khỏi con đường ấy là tự sát. Ta thường dễ chú ý tới khía cạnh tiêu cực
này mà sao lãng khía cạnh tích cực trên. Nếu chỉ nhìn giới răn theo khía cạnh
cấm đoán thì nhất định con người phải nổi loạn. Và con người đã nổi loạn thật.
Nhưng khi đã nổi loạn, ra khỏi con đường đưa tới sự sống, tới thành tựu, thì
Ađam-Eva đã rước sự ác, sức phá hủy vào trong thế giới của mình và không thể
nào đuổi nó ra được nữa. Sự ác làm chủ trong lòng con người. Nó dứt khoát kéo
con người tới chỗ diệt vong. Sự ác được con người rước vào Lịch sử đã trở thành
lãnh chúa của Lịch sử, và nó biến Lịch sử thành một cuộc chạy đến tan rã với
gia tốc kinh hồn. Muốn cứu được Lịch sử, cần cho nó một điểm tới và giải trừ
được sức thống trị của tội lỗi.
Con Thiên Chúa đã
đến xoay lại dòng Lịch sử
Kết thúc suy niệm về
sức mạnh của tội lỗi, thánh Phaolô kêu lên: “Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát
tôi khỏi thân xác phải chết này?” (Rm 7,24). Và thánh Phaolô đã tìm
ra câu trả lời. Ngài kêu lên trong niềm vui cảm tạ: “Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ
Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”(7,28). Sự giải thoát ấy đã đến nhờ
Đức Giêsu Kitô: “Luật của Thần Khí ban sự sống trong Đức Kitô Giêsu đã giải thoát tôi
khỏi luật của tội lỗi và sự chết”(8,2). (Luật ở đây nghĩa là sức
mạnh, sức tác động, quyền lực). Thiên Chúa đã làm cách nào để giải trừ sức mạnh
của tội lỗi ? Thánh Phaolô giải thích thế này: “Điều mà Lề Luật [Môsê] không thể làm được,
vì bị tính xác thịt làm cho ra suy yếu, thì Thiên Chúa đã làm khi sai chính Con
mình đến mang thân xác giống như thân xác tội lỗi của chúng ta, để đền tội
chúng ta, Thiên Chúa đã lên án tội trong thân xác con mình” (Rm
8,3). Kết quả là chúng ta không còn sống dưới ách thống trị của tội lỗi nữa,
nhưng sống trong quyền năng tác động của Thần Khí, “Thần Khí vươn tới sự sống và bình an”
(8,6). Xác tín của thánh Phaolô đáp lại lời Chúa Giêsu tuyên bố: “Thủ lãnh thế gian đã bị
ném ra ngoài” (Ga 12,31); “Hãy tin tưởng, Thầy đã thắng thế gian”
(Ga 16,33).
Đối với thánh
Phaolô, Đức Giêsu Kitô đã phục hồi hướng đi của lịch sử, chuyển nó từ con đường
đi tới diệt vong trở thành con đường đưa tới sự sống, sự thành tựu tuyệt đối.
Toàn thể Mầu nhiệm Nhập thể thực hiện cuộc giải phóng này. Chúa Giêsu đã nhân
danh cả loài người mà chiến thắng tội lỗi bằng cách sống cuộc đời như chúng ta,
nhưng không phạm tội, không bao giờ để cho tội lỗi, sự ác làm chủ được Ngài (x.
Hr 4,15). Ngài đã hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa, hoàn toàn để cho Thần khí dẫn
đưa, nghĩa là Ngài đã đem trọn thân phận con người đặt dưới sự hướng dẫn của
Thần Khí. Hành động cuối cùng của Ngài là tự nộp mình đón lấy những đòn khốc
liệt nhất của sự ác bằng cái chết trên thập giá, chính là tột đỉnh sự vâng phục
của Ngài: “Vâng
lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự” (Ph
2,8). Sự ác và cái chết đã trút hết nọc độc của nó trên Ngài nên nó đã bị tiêu
diệt: sự chết đã bị nuốt trửng trong chiến thắng của Đức Kitô (x.1Cr 15,55).
Thánh Phaolô đã làm nổi bật sức mạnh cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô bằng cách so
sánh với Ađam (Rm 5,12-21): một người bất tuân làm cho cả nhân loại phải chết,
vì mọi người phạm tội. Một người vâng phục làm cho cả nhân loại được sống. Ađam
phạm tội là nguyên lý sự chết, Đức Giêsu vâng phục là nguyên lý sự sống. Theo
Đức Kitô thì sẽ được sống (1Cr 15,21-22). Đức Kitô trở thành khởi điểm Alpha
của Lịch sử. Mọi sự khởi đi từ Ngài, vì Ngài xoay lại dòng Lịch sử và chuyển
thông vào Lịch sử sức mạnh Thánh Thần để giải trừ sức mạnh của tội lỗi.
Ngài là điểm tới và
là người điều khiển lịch sử
Trong kế hoạch cứu
chuộc của Thiên Chúa thì chính Đức Kitô cũng là điểm tới Omega của Lịch sử, như
thánh Phaolô diễn ta trong Thư Êphêsô: “Kế hoạch yêu thương Thiên Chúa đã tự mình định
trước trong Đức Kitô, đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn, là quy tụ muôn loài
trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô!” (Ep 1,9-10).
Trong sách Khải Huyền, Đức Kitô tự xưng là Alpha và Omega (1,17). Đức Kitô
chính là Con Người mà Thiên Chúa đã đặt làm Chúa mọi loài, và Lịch sử trở thành
con đường đưa muôn loài quy về Chúa Kitô. Khi mọi sự quy phục Ngài, thì Lịch sử
hoàn tất. Bởi vậy Lịch sử là tương lai của Đức Kitô. Chính Ngài đang điều khiển
tương lai của Ngài. Ngài được Thiên Chúa đặt làm Chúa và trao cho quyền cai
quản mọi loài. Thánh Matthêu khẳng định điều ấy bằng một lời của Chúa Giêsu
phục sinh: “Thầy
đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất… Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến
tận thế” (18,18.20). Còn thánh Luca lại diễn tả chân lý ấy bằng
cảnh Chúa Giêsu lên trời, ngự trên đám mây (Lc 24,50-51 và Cv 1,9-11). Cuối
cùng, sách Khải Huyền trình bày sứ mạng hiện tại này của Đức Kitô bằng hình ảnh
Con Chiên tiến lên nhận cuốn sách niêm phong, do Đấng Ngự trên ngai trao cho.
Mỗi lần con Chiên mở một dấu niêm phong thì một loạt biến cố diễn ra (chương
5-8). Ý nghĩa của hình ảnh đầy kịch tính này là Chúa Giêsu nhận quyền điều
khiển dòng lịch sử. Ngài thoát ra khỏi giới hạn của thời gian, nhưng Ngài vẫn
hiện diện trong Lịch sử để dẫn đưa tất cả đến với Ngài, hoàn tất kế hoạch của
Chúa Cha: “Thầy
ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,30). Ngài là Alpha
và Omega của Lịch sử, đồng thời Ngài cũng là Đấng điều khiển Lịch sử.
Nội dung của lịch sử
là giao tranh giữa thiện và ác
Thánh Phaolô và
thánh Gioan đều trình bày cho chúng ta cuộc chiến thắng của Chúa Giêsu và ơn
giải thoát Ngài đem cho chúng ta. Nhưng cả hai vị đều cho thấy rằng câu chuyện
chưa kết thúc. Cuộc giao tranh giữa thiện và ác, giữa Chúa Kitô và Satan còn
đang diễn ra trong cuộc sống mỗi người và trong lịch sự của cả nhân loại. Chúa
Giêsu tác động bằng Thần Khí Ngài gửi đến, Satan tác động bằng sự ác vẫn con
đang có mặt trong con người và trong Lịch sử. Chúa Kitô và Satan vẫn giao chiến
với nhau để giành lấy nhân loại. Chúa Kitô muốn đưa nhân loại tới sự sống,
Satan muốn đưa tới diệt vong. Trong cuộc chiến này, con người vừa là đối tượng
tranh giành, vừa là chủ động chiến đấu: chính con người phải lựa chọn sự thiện
hay sự ác, sự sống hay sự chết và theo con đường dẫn tới mỗi đích điểm. Đó là
nội dung của Lịch sử trong nhãn giới Đức Tin.
Ngay trong chương 8
của Thư gửi tín hữu Rôma, sau khi nói rằng chúng ta đã được nguyên lý của sự
sống thành tựu là Thánh Thần, Thánh Phaolô nêu lên hiện trạng một cuộc giao
tranh: “Nếu
anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí,
anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ, thì anh em sẽ được sống”
(8,13). Tin Mừng theo Thánh Gioan kể lại những lời Chúa Giêsu căn dặn các môn
đệ, loan báo cho họ biết rằng họ sẽ phải đương đầu với sự ác (16,1-24). Chúa
Giêsu đã chiến thắng, đã quật ngã lãnh chúa của sự ác, nhưng không phải Ngài
làm thay cho nhân loại, mà để nhân loại có thể cùng với Ngài quật ngã nó. Ngài
quật ngã nó là để đảm bảo cho nhân loại rằng nếu đi cùng với Ngài, nhân loại sẽ
thắng được sự ác: “Hãy tin tưởng, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33). Trong Thư
thứ nhất của Ngài, thánh Gioan cho thấy cuộc chiến ấy diễn ra ngay trong mỗi
người và trong cộng đoàn môn đệ (2,12-28)
Dù cuộc chiến diễn
ra ở cá nhân hay trong tập thể nhân loại, thì sức mạnh mà Chúa Kitô trương ra
để vật lộn với sự ác vẫn là Thần Khí mà Ngài gửi đến từ trong lòng Cha. Thần
Khí là quyền năng của Đức Kitô hiện diện trong Lịch sử. Cũng như Chúa đã nói về
mình: “Ai thấy
Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,6), thì ai sống theo Thần Khí của Đức
Kitô là đem được Thần Khí vào trong con người, trong Lịch sử để Thần Khí lần
hồi xâm nhập và biến đổi tất cả nên thân thể của Đức Kitô. Vì thế mà trong bữa
Tiệc Ly, Ngài nói với môn đệ: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng
BảoTrợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với
anh em” (Ga 16,7). Thánh Thần sẽ hoàn tất cuộc chiến thắng và sẽ
thông cho môn đệ tất cả những gì thuộc về Đức Kitô, nghĩa là mọi sự thuộc về
Thiên Chúa, vì “mọi
sự của Cha là của Con” (Ga 17,10).
Sách Khải Huyền
trình bày cuộc chiến giữa Chúa Kitô và Satan như một tấn bi hùng kịch, trong đó
cả nhân loại và vũ trụ bị kéo vào cuộc chiến. Mỗi bên đều tung hết lực lượng
của mình ra trong một cuộc giao tranh ngày càng quyết liệt. Có những lúc tưởng
chừng sự ác đã thắng, đã tiêu diệt được cả nhân loại, nhưng quyền năng của Đức
Kitô vẫn luôn luôn đổi mới, và cuối cùng sự ác hoàn toàn bị tiêu diệt, bị loại
trừ khỏi vũ trụ của loài người. Loài người không còn bị một khoảng không nào
ngăn cách với Thiên Chúa nữa. Sự ác không còn đe dọa loài người nữa vì trời mới
đất mới đã xuất hiện, trong đó không còn nơi cho sự ác cư ngụ, “không còn biển”
và cũng không còn nơi cho quyền lực nào ngoài Thiên Chúa tác động nữa “không còn khoảng không
trung”. Chỉ còn Thiên Chúa ở với loài người và loài người ở với
Thiên Chúa trong ánh sáng vô cùng tuyệt diệu. (x. Kh 21)
Thánh Phaolô cũng
diễn tả sự hiện diện hoàn toàn trong suốt của Thiên Chúa giữa loài người và của
loài người trong Thiên Chúa, như là điểm tới của Lịch sử: “Đức Kitô phải nắm vương
quyền cho tới khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối
cùng bị tiêu diệt là sự chết… Lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô, thì chính
Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và
như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài”. (1Cr 15, 25-28).
Như vậy, Chúa Kitô là khởi điểm mới của Lịch sử vì Ngài mở đường và bảo đảm cho
Lịch sử đi tới thành tựu; Ngài đã xoay lại dòng Lịch sử và đích thân đưa Lịch
sử đi tới bằng Thần Khí mà Ngài không ngừng thổi vào nhân loại. Ngài dẫn đưa
dòng Lịch sử không phải bằng cưỡng ép các biến cố, nhưng bằng cách làm cho mọi
biến cố dù có vẻ đen tối, dù như muốn tiêu diệt tất cả thì cũng đều góp phần
đưa Lịch sử tới kết thúc tốt đẹp, vì điểm tới cũng chính là Ngài; Ngài viết
thẳng bằng những nét cong mà Lịch sử loài người cung cấp cho Ngài. Đây là chỗ
chúng ta hiểu được ý nghĩa tước hiệu “Chúa trên các chúa! Vua trên các vua”
mà sách Khải Huyền nói về Đức Giêsu (17,14). Ngài làm Vua[5] không phải để
hưởng thụ, nhưng để dẫn loài người và muôn vật tới sự sống vĩnh cữu của Thiên
Chúa. Những điều thánh Phaolô diễn tả trừu tượng trong chương 15 của Thư gửi
tín hữu Côrintô, tác giả sách Khải Huyền diễn tả bằng những cảnh, những hình
ảnh của một tấn bi hùng kịch. Cả hai đều cho thấy Đức Kitô vừa là Alpha và
Omega, vừa là người điều khiển và sức mạnh đưa Lịch sử vươn tới; và nội dung
của Lịch sử là một cuộc giao tranh giữa Chúa Kitô và sự ác để giải phóng loài
người khỏi tội lỗi và sự chết cuối cùng, ngõ hầu đưa loài người đến cuộc sống
vô cùng của Thiên Chúa và với Thiên Chúa[6].
KẾT LUẬN
Những suy nghĩ trên
đây chẳng có tham vọng gì to lớn mà chỉ là đem lòng tin tìm hiểu lối nhìn của
Kinh Thánh về Con người, Vật Chất và Lịch sử. Nhìn từ quan điểm ơn cứu chuộc,
nhưng cần xác định là
ơn-cứu-chuộc-thực-hiện-bằng-mầu-nhiệm-Con-Thiên-Chúa-làm-người; nghĩa là thực
hiện bằng toàn thể Mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa, từ Mầu nhiệm “Ngôi Lời đã làm người”
cho tới Mầu nhiệm Đức Giêsu được tôn vinh bên hữu Thiên Chúa, cùng với niềm hy
vọng trông đợi ngày Chúa Giêsu Kitô lại đến để cho chúng ta được sống lại vinh
hiển, và trời mới đất mới xuất hiện. Cái nhìn này hướng về Đức Kitô là điểm tới
Omega của Lịch sử. Lối nhìn này có lợi điểm là cho thấy được tính cách duy nhất
trong hữu thể và cuộc sống của người Kitô hữu tại thế. Thiên Chúa, Con người và
Vật chất không còn là ba thực thể xa rời nhau, nhưng làm thành một dòng Lịch sử.
Đức tin và cuộc sống không còn là hai lãnh vực đối chọi nhau, nhưng là cuộc
sống Kitô hữu.
Lối nhìn này làm nổi
bật những gì Đức Tin đòi hỏi ở đời sống Kitô hữu. Người Kitô hữu là người tin
rằng Đức Kitô đã giải thoát mình khỏi quyền lực của tội lỗi, của sự ác, và cho
mình được sự tự do của con cái Thiên Chúa nhờ Thần Khí ban cho. Vậy thì đời
sống của Kitô hữu phải chứng thực rằng điều họ tuyên xưng đó là một thực tại
chứ không phải một chuyện bịa đặt. Họ phải đấu tranh chống lại sự ác ngay trong
bản thân họ và trong xã hội, họ phải làm cho cuộc sống con người ngày càng thêm
trong sáng hơn. Những điều thánh Phaolô khuyên tín hữu trong các thư, nhất là
các thư gửi tín hữu Rôma, Côrintô, Galata; thánh Gioan khuyên trong Thư thứ
nhất của Ngài… tất cả những lời khuyên này đều xoay quanh một trục là người
Kitô hữu phải thể hiện con người đã được tái tạo nhờ quyền năng Thánh Thần mà
Chúa Kitô ban cho.
Đối với người tín
hữu, thế giới vật chất này có một giá trị thật là to lớn, vì nó là bạn đồng
hành đưa con người vào vĩnh cửu, là chất liệu để con người hình thành và lớn
lên, là đối tượng chinh phục để con người phát huy khả năng làm chủ, là chất
liệu để biến thành trời mới đất mới. Mọi giá trị chân thật trong cuộc sống con
người đều là phản ảnh, là yếu tố cấu thành của sự thành tựu cuối cùng. Như vậy
thì công cuộc chinh phục thế giới vật chất, xây dựng cuộc sống tại thế để con
người được sống xứng phẩm giá là một tiếng mời gọi khẩn trương, là một sứ mạng
cao cả của người Kitô-hữu. Mỗi bất công còn tồn tại, mỗi sự ác còn hoành hành,
mỗi sức đàn áp còn tác động để tha hóa con người, là một sự sỉ nhục cho con
người, là một thách thức đối với Chúa Kitô. Người tín hữu phải đấu tranh tiêu
diệt những thứ ấy nhân danh Chúa Kitô và nhân danh con người đã được Chúa Kitô
cứu chuộc.
Cuối cùng, Lịch sử
đối với người tín hữu không còn là một sự may rủi, một chuỗi những biến cố vô
nghĩa, vượt ngoài vòng kiểm soát của mọi người và là một hành trình vô định
nữa. Với Chúa Kitô hiện hiện và tác động nhờ Thánh Thần của Ngài, Lịch sử trở thành
một cuộc vật lộn giữa Chúa Kitô và sự ác để giải phóng con người, đưa con người
tới thành tựu cuối cùng. Điểm tới ấy đã được thiết lập rồi: Đức Kitô đã được
tôn vinh, đã nắm chắc vinh quang ấy cho nhân loại. Lịch sử dứt khoát đi tới, vì
Chúa Kitô đã lãnh nhận mọi quyền trên trời dưới đất để điều khiển Lịch sử. Tình
thương tạo dựng của Thiên Chúa đã diễn tả thành tình thương cứu chuộc nơi Đức
Kitô, và “không
có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô
Giêsu Chuá chúng ta” (x. Rm 8,31-39), đó là cái lạc quan tuyệt đối
của người tín hữu sống trong Lịch sử.
Sau hết, lối nhìn
này cho thấy nền tảng thần học của thái độ nhập thế của Giáo Hội. Từ thông điệp
Rerum Novarum tới thư gởi hồng y Maurice Roy (Octogesimo adveniens), lập
trường bênh vực những người bị áp bức bóc lột, thái độ tích cực góp phần cải
tạo cơ cấu xã hội để kiến tạo một xã hội công bình hơn, ngày càng quyết liệt và
đưa tới những chọn lựa rất cụ thể. Công đồng Vatican II đã dứt khoát công nhận
lập trường và thái độ dấn thân của các thông điệp trước, và trình bày rõ ràng
hơn trong Hiến chế mục vụ về Giáo hội (Gaudium et Spes)
Riêng đối với người
Công Giáo Việt Nam, lối nhìn này cho thấy rằng sự lựa chọn của các giám mục
giáo phận phía nam trong Thư chung 1976[7], mà Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn
Bình đã trân trọng nhắc lại trong bài tham luận đọc trước Đại hội Giám Mục Thế
giới 1977[8], không phải là chuyện xu thời, nhưng là cố gắng trung thành với
Mầu nhiệm Nhập Thể, với sứ mệnh của Chúa Kitô mà Giáo Hội có trách nhiệm tiếp
nối và rao giảng trong Lịch sử[9].
Linh mục NGUYỄN CÔNG ĐOAN, Dòng Tên
——————————
[1] Ecrits théologiques 3, tt. 81-101.
[2] Tin hay không
tin là một sự lựa chọn tự do và sống, không có lập luận nào bắt buộc được con
người phải tin hay không tin vào Thiên Chúa như kiểu một mệnh đề toán học. Mọi
lập luận chỉ có thể đưa tới đầu cầu nhảy trên hồ bơi. Ở đó mỗi người phải chọn
nhảy vào “khoảng không”. Người không tin thì nhận rằng khoảng không ấy là hư
vô, là trở về trong lòng vất chật. Người tin thì nhận rằng khoảng không ấy là
tình thương của Thiên Chúa hắng sống, tình thương làm cho tôi tồn tại mãi. Chọn
bên nào cũng bao hàm một cái liều, vì cái mình chọn vượt ngoài kinh nghiệm giác
quan và không thể đo lường. Thiên Chúa chỉ mời gọi chứ không cưỡng ép.
[3] Xem thêm về ý
nghĩa những cám dỗ này trên dd 97, tt. 52-59, bài của Nguyễn Ngọc Lan. Ctcts.
[4] Xem số đã dẫn
98, tt. 49-53, bài của NNL. Ctcts.
[5] Quan niệm về “Vua”
trong Cựu Ước luôn đối kháng mọi tâm thức hưởng thụ. Đọc lại những Thánh Vịnh
phong vương (như 71 và 100), đọc lại Giêrêmia 22,13-19, ta thấy Cựu Ước quan
niệm “vua” là người được trao quyền để bảo vệ quyền sống của mọi người, chống
lại mọi bất công đàn áp bóc lột, chống lại mọi kẻ gian ác. Khi nói Chúa Giêsu
là Vua, khi Chúa Giêsu tự nhận là Vua nhưng Nước Ngài không thuộc về thế gian
này (x. Ga 18,36) thì phải hiểu trong chiều hướng tích cực tuyệt đối trên đây.
[6] Lm. Pierre
Teilhard de Chardin, nhà cổ sinh vật học đã đóng góp nhiều cho tiến hóa luận,
đã dùng ngôn ngữ khoa học để diễn dịch cái nhìn của thánh Phaolô và sách Khải
Huyền về Lịch sử. Theo lối trình bày này thì sự tiến hóa của vật chất phải vươn
lên mãi. Điểm tới của cuộc tiến hóa này là khi tất cả được quy tụ về một đầu là
Đức Kitô: cả vũ trụ sẽ trở thành “thân thể” của Đức Kitô. Ngài là Omega của
Lịch sử. Chính sự Phục sinh của Ngài đã khai thông Lịch sử, vì đã đem vào vũ
trụ một sức sống mới không thể bị luật giảm năng lượng chi phối. Chính sức sống
mới này là sức chống lại luật giảm năng lượng của vũ trụ vì sự sống sẽ thành
tựu hoàn toàn trong Đức Kitô. Lịch sử trở thành một lò luyện kim, trong đó sự
ác dần dần bị đào thải như gỉ sét, còn tất cả những gì chân thiện mỹ sẽ được
quy tụ dần trong Đức Kitô để làm bừng tỏa vinh quang vĩnh cửu của Ngài và toàn
thể những gì đã được cứu chuộc.
[7] Xem toàn văn “Thư chung Hội Nghị Giám
mục hai giáo tỉnh Huế và Sài Gòn gửi toàn thể giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân”
trên đd 85, 8.1976, tt. 113 – 120. Năm 1980 HĐGM Việt
[8] Xem toàn văn bài
tham luận này trên đd 102, 12.1977, tt. 105 –108.
[9] Năm 1980 HĐGM
Việt