“Ông Phải Đặt
Tên Con Trẻ Là GIÊSU” (Mt 1, 21)
(dongten.net) 21/12/2013
1/ Sách Tin Mừng
Matthêu (Mt) mở đầu bằng “sách ghi gốc tích” (gia phả) Đức Giêsu Kitô.
Cụm từ tiếng
Hy lạp dịch sát là “sách ghi gốc tích” xuất hiện trong sách Sáng
Thế (St) 2,4: “sách ghi gốc tích trời đất khi được sáng tạo”.
Sau khi kể về nạn hồng thủy, St 9 dùng từ “gốc tích “để nói về
các dân tộc xuất phát từ ông Noê.
“Sách ghi
gốc tích Đức Giêsu Kitô” nêu danh hai ông tổ Đa-vit và Ap-ra-ham như hai cột
mốc, lấy biến cố lưu đày Ba-by-lon làm cột mốc thứ ba, Chúa Giêsu là điểm tới;
sau đó kể từ ông tổ Ap-ra-ham xuống cho tới Chúa Giêsu với một động từ “sinh”
được lặp đi lặp lại và một khoảng cách đều đặn:
“Đây là
gia phả Đức Giêsu Kitô, con cháu vua Đa-vit, con cháu tổ phụ Ap-ra-ham.
Ap-ra-ham sinh I-xa-ac, I-xa-ac sinh Gia-cóp…
“Như thế tính
chung lại thì: từ tổ phụ Ap-ra-ham đến vua Đa-vit là 14 đời, từ vua Đa-vit tới
biến cố lưu đày ở Ba-by-lon là 14 đời: và từ thời lưu đày ở Ba-by-lon đến
Đức Kitô cũng là 14 đời.”
Bản văn này
nghe có vẻ nhàm chán vì tính cách đơn điệu và những cái tên lạ hoắc mà nội đọc
lên đã khó, và mỗi cái tên cũng chẳng nói lên điều gì. Thế mà Phụng Vụ Mùa Vọng
lại “bắt” chúng ta nghe tới hai lần: ngày 17 tháng 12 và lễ vọng Giáng Sinh.
Trong thánh lễ ngày 17 tháng 12 thì không né được vì chỉ đọc phần “gia phả”
(Mt 1,1-17) nhưng thánh lễ vọng Giáng Sinh thì có bài đọc ngắn, chỉ đọc
từ “Sau đây là gốc tích Đức Giêsu” (Mt 1,18-25), nên nhiều linh mục
chọn bài đọc ngắn cho gọn lẹ!
2/ Chẳng lẽ
tác giả lại mở đầu sách Tin Mừng một cách nhàm chán vô vị đến thế sao?
Đối với người
Việt Nam chúng ta, phong tục đưa con dâu mới đi nhận họ dịp Tết đầu tiên là rất
quan trọng, tuy cũng có phiền toái, vì đi Tết nhận họ thì cũng phải có “lỡi”,
nhưng cũng có “lời”, vì bên chú, bác, cô, dì… cũng phải có “bao lì xì” xứng vai
vế của mình để nhận cháu mới chứ. Thế là “nhận họ thì có nhận hàng”.
Nhưng bên trên cái phiền toái là việc xác nhận sợi dây huyết nhục vốn là thiết
yếu trong đời sống xã hội, như ông bà ta nói: “họ chín đời còn hơn người
dưng”; “một giọt máu đào, hơn ao nước lã”.
Trong truyền
thống của Dân trong Sách Thánh, nhất là từ sau thời lưu đày Ba-by-lon, gia phả
là một yếu tố cực kỳ quan trọng. Hiện nay, Nhà nước Israel đã nhìn nhận và đón
về đất Israel những người gốc Hip-ri lưu lạc bên xứ Ê-ti-o-pi-a từ không biết
bao nhiêu đời, đến nỗi da đã đen và tóc đã xoăn như lò xo, cũng như những người
lưu lạc bên Đông Âu đã thành da trắng mắt xanh, tóc đỏ… vì họ cho rằng những ai
có nguồn gốc Israel đều có quyền về sống ở Đất Hứa. Thực chất đó là một lối đọc
chính trị, biến Sách Thánh thành công cụ xâm lược phức tạp và cực kỳ nguy hiểm,
để biện minh cho sự phân biệt chủng tộc và chối bỏ quyền sống của bao nhiêu triệu
người đã sống ở đây từ mấy ngàn năm, chúng ta không nên để mình dễ dàng bị lung
lạc để ủng hộ luận cứ này, vì nó dẫn tới sự chối bỏ ơn cứu độ phổ quát bằng
cách giảm thiểu vào chuyện đất đai. Chấp nhận nó là chúng ta “tự sát”, tự loại
mình ra khỏi ơn cứu độ vì chúng ta da vàng mũi tẹt, hoàn toàn không dính líu tới
chủng tộc Do Thái.
Mt và toàn thể
các sách Tân Ước cho chúng ta thấy đâu là dòng dõi đích thật của Ap-ra-ham và
gia tài đích thật mà mọi người tín hữu của Chúa Giêsu Kitô được hưởng. Chúng ta
hãy tiếp tục để cho sách Tin Mừng dẫn đi nhận họ và nhận hàng… với tư
cách là “đồng thừa kế với Đức Kitô” (Rm 8,17).
Trước hết thử
hỏi tại sao lại đặt hai cụ tổ Ap-ra-ham và Đa-vit làm hai cột mốc? Đức Giêsu
Kitô là “con của Đa-vit, con của Ap-ra-ham” (dịch sát). “Là con thì
cũng là người thừa kế” (Rm 8,17). Hai cụ này có cái gì đặc biệt liên can tới
Đức Giêsu Kitô hơn các cụ khác? Thưa là hai cụ này nhận được những lời hứa đặc
biệt quan trọng và thiết yếu. Đức Giêsu không chỉ thừa kế mà là sự thực hiện của
các lời hứa ấy, vì thế “sách ghi gốc tích” vạch cho thấy Đức Giêsu Kitô
là điểm tới, là sự mãn nguyện của các cụ tổ. Trong Tin Mừng Gioan (Ga)
8,56 Chúa Giêsu quả quyết: “Ông Ap-ra-ham là cha các ông đã hớn hở
vui mừng, vì hy vọng được thấy ngày của tôi. Ông đã thấy và đã mừng rỡ”.
Chuyện như thế này:
Khi Thiên
Chúa gọi Cụ tổ Ap-ra-ham thì Thiên Chúa lập giao ước, thề hứa cho Cụ ba điều: một
dòng dõi, một miền đất và trở thành phúc lành cho muôn dân (St 12,1-3 và
15,1-19).
Điều tiên quyết
là có con nối dòng! Hai ông bà đã gần trăm tuổi mà chưa có mống con nào, cụ ông
bị khủng hoảng, cằn nhằn với Thiên Chúa, Thiên Chúa trấn an Cụ bằng giao ước với
lời thề (St 15). Sau đó Cụ vẫn còn lo âu vì chờ mãi chưa thấy gì, Thiên
Chúa lại hiện ra và nói với Cụ: năm tới sẽ có con. Cụ phục xuống đất giấu mặt
mà cười (St 17). Thiên Chúa lại đến dưới dạng ba người khách, được hai Cụ
đãi một bữa thịnh soạn. Sau đó Thiên Chúa nhắc lại lời hứa: năm tới Cụ bà sẽ
sinh con. Lần này thì Cụ bà nghe lóm được, phá lên cười. Thiên Chúa hỏi : “Sao
Xa-ra lại cười?” Cụ bà chối: “Con đâu có cười”. Thiên Chúa bảo “Có,
bà có cười” (St 18, 1-15). Đến khi sinh con rồi, Cụ bà nói : “Thiên
Chúa đã làm cho tôi cười và ai nghe biết cũng sẽ mỉm cười với tôi”. Ta đếm
được bảy lần cười! Cụ Ap-ra-ham đặt tên cho con là I-xa-ac (nghĩa là Ông
Cuời) (St 21,1-7).
Trong “Ông Cười”
đã có bóng dáng Đức Giêsu Kitô. Ngày Thiên Chúa thử lòng Cụ Ap-ra-ham, bảo Cụ
đem “Ông Cười” lên núi mà giết để tế lễ cho Thiên Chúa hẳn đã làm Cụ Ap-ra-ham
phải khóc. Nhưng Thiên Chúa đâu có tàn ác như thế. Thiên Chúa làm cho tiếng cười
vang to hơn và dài mãi tới Chúa Giêsu là “Tin rất vui mừng” (Lc 2,10)
vang lên suốt lịch sử loài người (x.Tông Huấn mới nhất: Niếm Vui của
Tin Mừng) và dẫn tới niềm vui vĩnh cửu trong Thiên Chúa. Thế nhưng khi đến
phiênThiên Chúa bày tỏ lòng yêu thương và thành tín thì “Thiên Chúa đã yêu
thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” (Ga 3,16), và Thiên Chúa
không rút tay lại: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng
đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8,32). Hàn Mặc Tử mời ngắm trăng
để xem trời “giải nghĩa yêu”. Thánh Gioan bảo chúng ta chiêm ngắm chính
Thiên Chúa đã “giải nghĩa yêu” như thế nào: “Tình yêu của Thiên Chúa
đối vơi chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế
gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này,
không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương
chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (I
Ga 4,1-10).
3/ Còn Cụ Tổ
Đa-vit thì sao?
Cụ nhận được
một lời hứa: “Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi…và Ta sẽ làm cho
vương quyền của nó được vững bền mãi mãi… Nhà của ngươi và vương quyền của
ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta: ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi”
(2 Sm 12-16). Nhưng trong thực tế thì biến cố lưu đày Ba-by-lon đã chấm
dứt vương quyền nhà Đa-vit. Chẳng có cái gì “muôn năm” trên trần gian
này, bởi vì chính trời đất cũng có ngày tan rã. Vậy phải chăng lời hứa của
Thiên Chúa cho Đa-vit cũng chỉ là hô khẩu hiệu, như người ta thích hô và bắt
người khác hô “muôn năm, muôn năm”? Thiên Chúa trả lời: “ Với
Thiên Chúa không có gì là không thể được” (Mc 120,27: Lc 1,37); “chính
Ta, Đức Chúa, Ta đã phán là Ta làm” (Ed 36,36).
Tin Mừng Luca
sẽ cho thấy lời hứa này được thực hiện nơi Chúa Giêsu bằng cách dùng chính lời
hứa này và lời hứa trong Is 7,14 để đan kết bản văn sứ thần
truyền tin cho Đức Trinh Nữ Maria (Lc 1,28-37). Còn Tin Mừng Mt dùng
một bút pháp khác để vừa cho thấy Đức Giêsu Kitô là sự thực hiện lời hứa, vừa
cho thấy ý nghĩa thật của lời hứa.
Trước hết sự
phân chia đều đặn làm ba giai đoạn từ Cụ Tổ Ap-ra-ham tới Chúa Giêsu cho thấy
bàn tay của Thiên Chúa điều khiển lịch sừ để thực hiện các lời hứa. Mt dùng
thủ thuật quen thuộc trong văn chương Sách Thánh là ý nghĩa các con số: ba lần
14 tức là sáu lần bảy. Con số 7 chỉ sự hoàn chỉnh, tròn đầy. Sáu lần bảy dẫn tới
Chúa Giêsu, thì Chúa Giêsu là tột đỉnh làm cho chuỗi số hoàn chỉnh. Thế hệ
“Digital” có lẽ khó chấp nhận lối dùng số của Sách Thánh, nhưng “kỹ thuật số”
ngày nay cũng là một hình thức dùng số vậy!
II. BÀ SẼ
SINH CON TRAI, ÔNG PHẢI ĐẶT TÊN.
Đọc
“gia phả” đang ngon trớn “ông A sinh ông B…”, tới ông Giuse thì vấp: “Giacop
sinh Giuse, chồng của bà Maria, do bà mà Đức Giêsu được sinh ra, đấng được gọi
là Kitô” (dịch sát). Cái gãy khúc này sẽ được giải thích sau câu “kết
toán” gia phả. [Đúng với tính cách ông Matthêu, người thu thuế năm xưa ở bờ biển
hồ Galilê!]
“Gốc tích
Đức Giêsu Kitô là thế này…” Theo phong tục trong Sách Thánh thì đính hôn đã
là thành vợ chồng, nhưng ai vẫn ở nhà nấy, khi rước dâu rồi mới chung sống. Thế
mà đây chưa rước dâu đã thấy có bầu. Dĩ nhiên trường hợp có thể xảy ra là chàng
và nàng “ăn cơm trước kẻng, ăn cỗ trước các cụ”, và theo luật thì trong trường
hợp đó, đứa con vẫn là con hợp pháp, trong giá thú. Để chúng ta khỏi nghĩ
bậy bạ, Mt cho ngay câu trả lời: “Bà đã có
thai do quyền năng Chúa Thánh Thần”, và giải thích cho chúng ta ngay, qua
phản ứng của ông Giuse và lời sứ thần.
Phản ứng của
ông Giuse “người công chính” là toan âm thầm rút lui, xách bộ đồ nghề thợ
mộc biến đi chứ không làm to chuyện. Đính hôn đã là vợ chồng, muốn bỏ nhau cũng
phải làm thủ tục ly dị. Ông Giuse là người
công chính, nghĩa là người tôn trọng quyền lợi của Thiên Chúa và của người
khác, biết là đứa con không phải của mình thì thôi. Câu hỏi là liệu ông đã được
“bật mí” cho biết nguồn gốc cái bầu này, hay phải chờ đến khi sứ thần nói ông mới
biết? Nếu đã biết rồi thì ông tôn trọng Thiên Chúa mà âm thầm biến đi. Nếu chưa
biết thì ông tôn trọng tự do của Maria và âm thầm “trả tự do” cho nàng. Đây là
chuyện của Thiên Chúa, nên sứ thần của Thiên Chúa hiện đến báo mộng cho ông biết:
ông được mời gọi tham dự vào việc thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa. Chú ý tới
hai chi tiết: ông Giuse này cũng là con ông Giacop và lần nào cũng được sứ
thần báo tin trong giấc mộng, như ông Giuse con ông Giacop trong sách Sáng Thế
(St 37 và 39-47). Sứ thần ngỏ lời với ông như là người thừa kế của
Đavit: “Này ông Giuse, con của Đa-vit, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì
người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.” Lời Sứ thần có thể
cho ta hiểu rằng ông Giuse đã biết nguồn gốc của cái bầu nên sợ, và nghĩ là
mình không còn gì để làm nên âm thầm rút lui để Thiên Chúa… tự lo. Nếu ông chưa
biết thì bây giờ ông biết, và ông cũng được biết là ông còn có việc để làm: đi
“đưa nàng về dinh” và đặt tên cho đứa con!
Sứ thần phân
công rõ ràng: “Bà sẽ sinh con trai, và ông phải đặt tên cho con trẻ là
Giêsu, vì chính người sẽ cứu dân mình khỏi tội”. Bà sinh con trai bởi quyền
năng Chúa Thánh Thàn, còn ông, với tư cách “con của Đavit” phải đặt tên
cho đứa trẻ, để đứa trẻ cũng là “con của Đavit”. Tên con trẻ là Giêsu, nghĩa là
“Thiên Chúa cứu”. Ngày xưa Giuse con Giacop bị anh em bán làm nô lệ bên Ai Cập,
rút cục đã cứu sự sống cho gia đình. Đa-vit đã cứu dân khỏi
làm nô lệ người Philitinh nhờ chiến thắng Goliat, nhưng dân không phải là dân của
Đa-vit mà là của Thiên Chúa: vì thế khi Đa-vit kiểm tra dân số, làm như thể đó
là dân của mình thì Thiên Chúa đã trừng phạt (x. 2 Sm, 24). Nay người con của
Đa-vit mang tên Giêsu, nghĩa là “Chúa cứu”, “sẽ cứu dân mình khỏi tội”.
Ý nghĩa cuối
cùng của những gì liên quan tới “gốc tích” Đức Giêsu Kitô được giải thích bằng
lời hứa cho nhà Đa-vit qua lời ngôn sứ I-sa-i-a nói với vua A-khat: “Này
đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là
Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Chẳng có người con nào của
Akhat mang tên là Em-ma-nu-en, vậy thì ngay từ đầu cái tên này mang nghĩa tượng
trưng. Trong sách Thủ Lãnh (6,12-13), “Thần sứ của Đức Chúa hiện ra với
Ông Ghit-ôn
và nói: chào chiến sĩ can trường, Đức Chúa ở với ông. Ông đáp: Ôi, thưa ngài, nếu
Đức Chúa ở với chúng tôi, thì sao chúng tôi đến nông nỗi này…Đức Chúa đã bỏ rơi
chúng tôi, trao chúng tôi vào tay người Ma-đi-an”. Vậy thì Đức
Chúa ở với chúng ta có nghĩa là Đức Chúa cứu chúng ta.
Đức Giêsu
Kitô là Thiên Chúa đến cứu dân mình khỏi tội. Tội mới là kẻ thù chính phải tiêu
diệt, nó phá vỡ giao ước với Thiên Chúa là nguồn mọi phúc lành. Đức Giêsu
Kitô cứu dân mình khỏi tội thì cũng sẽ lập Giao ước Mới. Ngài là con của Đa-vit
và là Em-ma-nu-en theo ý nghĩa đầy đủ nhất.
Đây chính là
chìa khóa để đọc sách Tin Mừng Matthêu.
Đức Giêsu Kitô là Em-ma-nu-en, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Lời cuối cùng của
Chúa Giêsu phục sinh nói với các môn đệ trên núi sẽ là lời giải thích rõ
ràng của danh hiệu Em-ma-nu-en.
“Khi
tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần dạy và đón vợ về nhà”.
Ông không ăn ở
với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu”.
Thế là
kế hoạch của Thiên Chúa được thực hiện nhờ sự hợp tác của Đức Trinh Nữ Maria và
thánh Giuse: Đức Trinh Nữ Maria chấp nhận để Thiên Chúa chiếm ngự trọn vẹn con
người và cuộc sống của mình mà không thắc mắc lo âu, thánh Giuse “người công
chính” cũng nộp mình cho Thiên Chúa mà không tính toán so đo.
III. ĐỨC MẸ
MARIA TRỌN ĐỜI ĐỒNG TRINH VÀ THÁNH GIUSE BẠN THANH SẠCH ĐỨC MẸ.
Thế là nơi
Thánh Gia thất này Thiên Chúa vừa thánh hoá gia đình vừa thiết lập đời sống
trinh khiết vì Nước Trời. Gia đình là nơi sự sống tuôn chảy trong thời gian, đời
sống trinh khiết vì Nước Trời phục vụ cho sự sống hiện tại và vĩnh cửu. Thánh
Phaolô nói rõ: “Về vấn đề độc thân, tôi không có chỉ thị nào của Chúa, nhưng
tôi chỉ khuyên nhủ anh em với tư cách là người – nhờ Chúa thương – đáng
được anh em tín nhiệm… Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa: họ tìm cách
làm đẹp lòng Chúa…Đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc
Chúa, để thuộc trọn về Chúa cả hồn lẫn xác.” (I Cr 7, 25-34).
Đó là ý nghĩa
đích thật của đời sống độc thân vì Nước Trời.
Cũng nên nói
ngay, có kẻ đọc câu cuối cùng trong đoạn Tin Mừng “ông không ăn ở với bà cho
đến khi bà sinh một con trai” bèn rút kết luận: vậy thì sau đó hai ông bà
ăn ở với nhau bình thường như các cặp vợ chồng khác, và có nhiều đứa con khác,
nên các sách Tin Mừng đều nói đến “anh em của Đức Giêsu”. Nghe có vẻ hợp
lý! Nhất là với những người sống trong các nền văn hoá mà chữ “anh em”
chỉ có một nghĩa là anh em ruột! Về phương diện hành văn, rút kết luận như thế
là thêm vào câu văn đấy. Xin mời đọc câu này: “Bà Mi-khan, con gái vua
Sa-un, không có con cho đến ngày chết” (2 Sm 6,23). Nếu đọc theo kiểu mấy người kia
thì cũng phải rút kết luận là sau khi chết bà ấy sẽ sinh con!!!
Còn nói về “anh
em của Chúa Giêsu”, thì ngôn ngữ và phong tục của người Sê-mit (Hipri, Arập)
giống Việt
Còn tín điều Đức Mẹ Trọn Đời Đồng Trinh thì không chỉ dựa vào bản văn Sách
Thánh mà cũng nhờ truyền thống trong Hội Thánh từ ban đầu. Ngay việc chúng ta
biết được sách nào là Sách Thánh thì cũng là nhờ Truyền Thống của Hội Thánh vậy.
Đức Mẹ
MariaTrọn Đời Đồng Trinh và thánh Giuse Bạn Thanh Sạch Đức Mẹ Đồng Trinh Maria,
là kết quả của sự hiện diện tròn đầy của Thiên Chúa, khi Con Thiên Chúa làm người
trong lòng Đức Trinh Nữ Maria bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, và sinh vào dòng
dõi Đavit nhờ thánh Giuse “rước vợ về nhà và đặt tên cho người con”. Đó
cũng là lúc Thiên Chúa thiết lập nếp sống độc thân vì Nước Trời mà “chỉ người
nào đưọc Thiên Chúa ban cho mới hiểu được” (Mt 19,11). Trong ngôn ngữ
của sách Tin Mừng Mt “hiểu” có nghĩa là đón nhận và thi hành: “Kẻ được
gieo trên đất tốt, đó là kẻ nghe Lời và hiểu, thì tất nhiên sinh hoa kết quả”
(Mt 13,23).
Xin minh họa
bằng câu chuyện sau đây. Thời Công An đem tôi về nuôi trong Sở (năm 1981), có lần
viên sĩ quan hỏi cung và tôi đối thoại thế này.
Sĩ quan :
- Anh
có biết ông linh mục X không?
+ Tôi biết.
- Tôi
nói cho anh biết là ông ấy có một đứa con đấy nhé!
+ Thế hả? Anh
chuyển lời chúc mừng giùm tôi nhé!
Bị tước bài bản,
ông sĩ quan chưa nghĩ ra câu tiếp theo, tôi nói giùm:
+ Điều đó chứng
minh là ông linh mục X là người đàn ông bình thường như anh, không bị thiến,
nên mới có con được, đúng không? Còn nếu anh muốn nói đến đời sống độc thân của
linh mục, thì chuyện đó chứng tỏ rằng không phải chúng tôi gồng mình mà sống độc
thân được đâu. Đó là ơn của Chúa đấy. Đã là ơn nhận được thì tụi tôi có thể làm
rớt… nên mới có đứa con rơi cho anh mừng đấy!
Im lặng. Đổi
đề tài!
IV. ĐẶT
TÊN
Về việc đặt
tên thì phong tục và quan niệm của người Sê-mit (Hipri, A-rập) càng giống với
Việt
Đặt tên là
quyền của người cha. Đặt tên cho một đứa trẻ là nhận nó là con và là người thừa
kế của mình. Giuse, con Đa-vit, đặt tên cho đứa con do vợ mình sinh ra bởi quyền
năng Thánh thần, thì đứa con đó trở thành con và người thừa kế của Giuse, của
Đa-vit. Vương quyền nhà Đa-vit sẽ được thể hiện thế nào nơi Chúa Giêsu và danh
hiệu Em-ma-nu-en sẽ thành sự thật như thế nào, đó là nội dung sách Tin Mừng
Matthêu.
V. KẾT
LUẬN: NHẬN HỌ NHẬN HÀNG
Trở lại
chuyện chúng ta đi nhận họ nhận hàng với các bậc tổ phụ của Chúa Giêsu.
Gia tài quý
nhất các tổ phụ đã cho chúng ta là chính Chúa Giêsu. Được Chúa Giêsu thì chúng
ta cũng được các tổ phụ. Các tổ phụ đã đón nhận Đức Kitô cho chúng ta nhờ đã
tin vào Thiên Chúa. Chúng ta đón nhận được Chúa Giêsu cũng nhờ đức tin. “Nhờ
đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô… tất cả
anh em chỉ là một trong Đức Kitô. Mà nếu anh em thuộc về Đức Kitô, thì anh em
là dòng dõi ông Ap-ra-ham, những người thừa kế theo lời hứa” (Gl
3,26-29). Các ngài là tổ phụ
của chúng tra trong đức tin. Các ngài đã nhận được lời hứa, còn chúng ta nhận
được thực tại: chúng ta may mắn hơn các ngài: “Phúc thay mắt nào được thấy đều
anh em thấy! Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa
đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em
đang nghe mà không được nghe” (Lc 10,23-24; x.Mt 13,16-17; 1 Pr 1,10-12)).
Quả thật “con hơn cha là nhà có phúc”.
Chúng ta đã
nhận được gia tài quý nhất là Chúa Giêsu, nhờ Chúa Giêsu chúng ta vừa được làm
con Thiên Chúa vừa được là dòng dõi của các ngài trong đức tin. Các ngài còn có
quà để cho chúng ta khi đến nhận họ: chính gương đức tin của các ngài mà thư gởi
tín hữu Hip-ri đã quảng diễn cho chúng ta (Hr 11). Vào mùa Giáng Sinh,
chúng ta hãy nhờ thánh Giuse và Đức Mẹ dẫn đi nhận họ nhé!
Giêrusalem, lễ
Giáng Sinh 2013.
L.M. Giuse
Nguyễn Công Đoan, S.J