Những Khuôn Mặt
Phụ Nữ Trong Gia Phả Đức Giêsu Kitô (Mt 1,1-16)
(dongten.net) 27/12/2013
Trong bài trước,
“Ông phải đặt tên…”, về chương I của sách Tin Mừng Matthêu,
tôi chưa nói đến những khuôn mặt phụ nữ trong gia phả của Đức Giêsu Kitô. Trong
bản văn, mỗi khuôn mặt phụ nữ đều xuất hiện với một “dấu láy” trong giọng văn
(dịch sát):
3. Giuđa sinh
Pe-ret và De-rac do bà Ta-ma
5. San-môn
sinh Bô-át do bà Ra-kháp
5. Bô-át sinh
Ô-vết do bà Rút
6. Vua Đa-vit
sinh Sa-lô-môn do vợ của U-ri-gia
16. Gia-cop
sinh Giu-se chồng của bà Maria, do bà này mà Đức Giêsu được sinh ra, Đấng
được gọi là Kitô.
I. Những
người phụ nữ này là ai?
1/ Ta-ma
Người phụ nữ
thứ nhất là Ta-ma, người phụ nữ công chính. Sách Sáng
Thế kể về Bà trong chương 38, như một khoảng nghỉ khi đang kể chuyện
dài về ông Giuse. Câu chuyện của bà này thật éo le. Ông Giu-đa lấy vợ người Ca-na-an,
sinh được ba đứa con trai. Ông cưới cho con trai đầu lòng một nguời vợ tên là
Ta-ma (dĩ nhiên cũng là người Ca-na-an như vợ ông). Con cả chết mà không có
con, theo luật thừa kế, người con trai thứ hai phải “chu
toàn nhiệm vụ của một người em chồng và làm cho anh có người nối dõi”. Cậu
này nhận nhiệm vụ một nửa thôi, ăn ở với chị dâu nhưng cố tình không cho chị cơ
may sinh con. Cậu bị Chúa phạt chết. Ông Giu-đa bảo con dâu tạm về nhà cha mẹ,
đợi thằng em út lớn lên sẽ tính tiếp. Đến lượt ông Giu-đa tìm cách “đánh bài lờ”,
vì thấy Ta-ma có “số sát chồng”, ông sợ cho tính mạng con trai út.
Nhưng Ta-ma
không phải là người phụ nữ chịu để người ta cho “ăn thịt lừa”. Bà quyết dành kỳ
được quyền lợi cho chồng: có con nối dõi từ dòng giống nhà chồng. Thừa lúc ông
Giu-đa mới mãn tang vợ (mẹ chồng của bà), bà đón đường và che mặt giả làm gái
điềm. Bà dụ dược ông Giu-đa. Ông mặc cả, nàng chịu cho “trả tiền sau” bằng “một
con dê con”. Ta-ma đòi “có chút gì giữ làm tin”. Giu-đa chịu đưa “chiếc ấn,
sợi dây đeo ấn và cây gậy ông cầm ở tay”. Nên nhớ chiếc ấn liên quan tới
quyền thừa kế, [người cha cho lại đứa con hoang đàng chiếc nhẫn, tức là cho lại
quyền thừa kế (x. Lc 15,22)]. Khi Giu-đa cho người dẫn con dê con tới chuộc tín
vật thì người đẹp đã biến mất cùng với tín vật. Ông Giu-đa tự trấn an: “Miễn
sao đừng bị chê cười vì không giữ lời hứa…”
Nhưng
ba tháng sau, người ta báo tin cho ông : “Ta-ma, con dâu ông đã đi làm điếm,
nó còn mang bầu vì đi làm điếm nữa”. Ông Giu-đa phán quyết ngay: “Lôi nó
ra mà thiêu sống!”
Người ta làm
thiệt! nhưng khi bị lôi ra thì bà ôm theo các tín vật và yêu cầu bố chồng nhận
lại. Bà tự lột khăn che mặt và phơi mặt luôn ông bố chồng. Ông đành phải thú nhận:
“Nó công chính hơn tôi; quả thật tôi đã không cho nó làm vợ Sê-la con trai
tôi”. Bà đã thành công trong việc bảo vệ quyền lợi cho chồng, Bà đã bảo đảm
được cho chồng có con nối dòng chính hiệu, lại còn sinh đôi nữa!
Câu chuyện quả
là éo le đối với người đọc hôm nay. Nhưng Sách Thánh kết thúc với phán quyết của
ông Giu-đa: “nó công chính hơn tôi”. Ông sòng phẳng với cô gái điếm
để khỏi bị chê cười, nhưng lại không giữ lời hứa với con dâu và con trai mình.
Cô là người công chính và làm cho ông bố chồng trở thành công chính.
2/ Người
phụ nữ thứ hai: Ra-kháp (Gs 2; 6,22-23).
Nếu Ta-ma giả
làm gái điếm, thì Ra-kháp là gái điếm thứ thiệt, “quốc tế” như trong những phim
gián điệp hiện đại! Bà đã đón hai “điệp viên” do ông Gio-su-ê phái “đi xem vùng
đất và thành Giê-ri-khô”. Nhờ mưu trí, bà đã cứu mạng và giúp cho hai gián điệp
này thoát đi. Bà nhận được lời hứa “đền ơn cứu mạng” và một tín hiệu để bảo đảm
cho bà và mọi người trong gia đình được an toàn khi Giêri-khô thất thủ. Ra-kháp
cứu mạng hai gián điệp của Giosuê, nhờ đó bà cứu mạng cả gia đình dòng họ nhà
bà: hai gián điệp được sai vào “đem cô ra khỏi đó cùng với cha mẹ, anh em cô
và mọi người thân thuộc của cô: họ đem tất cả thị tộc của cô ra khòỉ đó, và cho
họ ở bên ngoài trại It-ra-en”.
3/ Người
phụ nữ thứ ba: Rút (sách Rút).
Rút là một
khuôn mặt khác hẳn: người con dâu trẻ gốc Mô-áp, đơn sơ chất phác. Góa chồng sớm,
nhưng quyết theo mẹ chồng, cũng là góa phụ, về quê chồng, dù không còn hy vọng
có con nối dõi cho chồng: “Mẹ đi đâu, con đi đó, mẹ ở đâu, con ở đó,
dân của mẹ là dân của con, Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con. Mẹ chết ở
đâu con chết ở đó, và nơi đó con sẽ được chôn cất” (Rút 1,16).
Với lòng hiếu
thảo đó nàng đã đi mót lúa để nuôi mẹ chồng. Lòng hiếu thảo và sự cần cù của
nàng đã làm rung động tâm hồn môt người họ hàng bên chồng là ông Bô-át. Ông đã
đứng ra thi hành bổn phận môt người trong họ hàng, chuộc gia sản và gầy
dựng người nối dõi cho người trong dòng họ. Ông đã chuộc lại ruộng đất của
chồng con bà Nô-ê-mi và cưới Rút làm vợ. Rút sinh con trai. Mọi người chúc mừng
bà Nô-ê-mi và hết lời ca tụng nàng dâu: “Nó [đứa trẻ] sẽ
giúp bà lấy lại sức sống, và sẽ là người nâng đỡ bà trong tuổi già, vì người
con dâu yêu quý bà đã sinh ra nó, nàng quý giá hơn bảy đứa con trai”. Con
dâu hiếu thảo như thế quả là hiếm có!
4/ Người
phụ nữ thứ tư: Bát Sê-va, vợ ông U-ri-gia người Khết (2 Sm 11-12; 1 Vua 1)
Nếu ba người
phụ nữ trước làm cho dòng sông được chảy tiếp mỗi khi bế tắc, thì bà Bat Sê-va
là người khai sông: Đa-vit có gần chục bà vợ, hàng tá con trai, ví như nước nguồn
chảy vào biển hồ Galilê, nước có nguy cơ ngừng chảy và thành nước ao tù. Từ bồn
tắm trên sân thượng nhà bà, bà nhảy vô biển hồ của vua Đa-vit và làm sạp lở một
mảng bờ hồ, thành cửa cho nước biển hồ lại chảy thành sông. Bản văn láy vô chỗ
“vợ U-ri-gia người Khết” (không phải người It-ra-en!).
Đọc
sách 2 Sa-mu-en chương 11-12 chúng ta có cảm tưởng như tất cả
tội lỗi đổ lên đầu vua Đavit, bà chỉ là nạn nhân. Nhưng đọc kỹ một chút thì sẽ
thấy “coi vậy mà không phải vậy”. Trước hết không nên tách câu chuyện này ra khỏi
toàn bộ chuyện “nhà Đavit” với những mưu mô chốn cung đình, cá tính của
cha con nhà Đavit, nhất là Đavit và người kế vị. Cả một bộ “chuyện dài nhiều tập”
liên quan tới việc kế vị Đavit.
Trước hết cần
nhìn “toàn cảnh” cá tính tài tử đa tình, anh hùng đẹp trai mà Sách Thánh mô tả
Đavit từ khi xuất hiện lần đầu trên “sân khấu”:
- đẹp
trai : “cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn” (1
Sm 16,12);
- một nghệ
sĩ với tiếng đàn có sức như liều thuốc an thần cho vua Sa-un (1Sm
16,14-23);
- một cậu
bé anh hùng, tuổi trẻ tài cao, hạ được tên khổng lồ Goliat để cất nỗi
nhục cho It-ra-en (1 Sm 17), khiến vua Sa-un phải ghen tị,
- và sớm trở
thành một danh tướng (1 Sm 18, 6-16);
- sẵn
sàng liều mạng vì người đẹp Mi-khan công chúa, lấy mạng hai trăm người đàn ông
Phi-li-tinh để làm đồ thách cưới theo yêu cầu của nhà vua (1 Sm 18,17-27).
- Đavit đa
tình đa cảm, đa thê, đa tử: thời gian lưu lạc như một tên thảo khấu trong
hoang địa, cảm kích vì sự đảm đang của bà góa A-vi-ga-gin, ông đã cưới
bà làm vợ, rồi lại cưới thêm bà A-khi-nô-am. Bản tổng kết thứ nhất về gia đình
vua Đavit khi ở Khép-rôn đã cho tên sáu người con trai do sáu bà vợ, không kể
công chúa Mi-khan vô sinh (2 Sm 3,2-5). Bản tổng kết thứ hai tại
Giêrusalem cho tên mười một người con trai nữa (2 Sm 5,13-14).
Đến khi
Ap-sa-lon làm phản, chúng ta lại thấy nói đến mười tỳ thiếp mà khi Đavit chạy
trốn đã để lại giữ nhà, bị Ap-sa-lon bắt tất cả làm vợ của mình để chứng tỏ
mình đã làm vua (x. 2 Sm 16,20-22 và 20,3), đúng như lời ngôn
sứ Na-than (2 Sm 12,11-12). Có vẻ như đó là phong tục, vì lời ngôn sứ
Na-than cho thấy Đavit cũng đã làm như thế với những người vợ của Sa-un khi chiếm
được ngôi vua (2 Sm 12,8).
Trở lại chuyện
“mùa xuân” trong hai chương 11-12. Nghệ thuật kể chuyện tuyệt vời, ngọt
xớt đến nỗi người nghe bị cuốn theo mà không ngờ là người kể đã khéo dùng ngón
tay ảo thuật che đi một góc bức tranh. Chúng ta chỉ đọc ra hết khi đọc cho hết
câu chuyện Bat Sê-va. Câu chuyện được lồng trong hai chuyện khác: cuộc
chiến ở ngoài biên giới và cuộc chiến trong cung điện nhà vua về việc kế vị
Đavit. Câu chuyện kế vị chỉ kết thúc với việc bà Bat Sê-va dành được ngai vua
cho con là Sa-lô-môn, qua đó định hướng cho dòng chảy của dòng dõi Đavit. Cuộc
chiến ngoài biên thùy là bối cảnh và cơ hội cho việc Bat Sê-va thành vợ của
Đavit và sinh ra người thừa kế, với cái chết của chồng bà là tướng U-ri-gia, dưới
chân thành Rabba.
Ba câu chuyện
thật lồng vào nhau, lại còn một dụ ngôn ở giữa để giải nghĩa. Dụ ngôn của
Na-than để mở mắt cho Đa-vit nhận ra tội giết người cướp vợ, mang ý nghĩa sâu
và dài hơn ta tưởng lúc đầu. Khi theo dõi số phận“con chiên cái” Bat
Sê-va cho tới lần xuất hiện cuối cùng để đưa Sa-lô-môn lên ngai của Đavit (1
Vua 1), ta thấy nạn nhân đích thật là U-ri-gia bị mất mạng, Đavit thế chỗ của
U-ri-gia, “con chiên cái” từ nay thành “duy nhất” trong lòng Đavit. Kể từ
lúc này các bà vợ khác của Đavit không còn được nhắc đến nữa. Nàng A-vi-sac sẽ
hầu hạ Đavit khi những cái mền len không còn đủ sức giữ ấm cho Đavit, nhưng
không phải là vợ của Đavit. Bat Sê-va là người vợ cuối cùng trong cuộc đời đa
tình đa thê của Đavit. Các đứa con khác của Đavit giết lẫn nhau và đe dọa cả
tính mạng của Đavit. Sau khi hoàng tử A-đô-ni-gia đã tự lên ngôi, Na-than bảo
bà Bat Sê-va: “Tôi xin góp ý với bà để bà tự cứu lấy mạng mình và mạng
Sa-lô-môn…” Bà vào nhắc vua Đavit nhớ lại lời hứa cho Sa-lô-môn kế vị (1
Vua 1,17-21), rồi Na-than vào bồi thêm. Kết quả Đavit ra lệnh cấp tốc đặt
Sa-lô-môn lên ngai, cũng như ngày trước vua đã cấp tốc cho đi mời bà vào cung,
rồi cấp tốc cưới bà làm vợ.
Câu chuyện mở
đầu thế này: “Lúc xuân về, thời mà các vua ra quân, vua Đavit sai ông Gio-áp
đi… giết hại con cái Am-môn và vây hãm Rap-ba… Còn vua Đa-vit thì ở lại
Giêrusalem.” Nghe cứ như là mùa săn bắn vậy! Trong khi cuộc chiến do
tướng Giô-áp chỉ huy ở bên kia sông Gio-đan được tóm trong hai chữ “giết hại”
và “vây hãm”, thì chuyện xảy ra với vua Đavit ở nhà cũng sẽ được ngôn sứ
Na-than ví như một cuộc cướp bóc và giết hại. Hai cuộc săn bắn mùa xuân! Cuộc
săn bắn trực tiếp của Đavit diễn ra giữa hai sân thượng, cuộc săn bắn do Giô-ap
chỉ huy diễn ra ở thành Rabba (Am-man ngày nay), nhưng kẻ bị giết hại chung cho
cả hai cuộc săn bắn là U-ri-gia, chồng của Bat Sê-va: Giô-ap sẽ mời Đavit kéo
quân còn ở nhà qua mà kết thúc con mồi Rabba, sau khi cuộc săn bắn trên sân thượng
đã kết thúc với việc Đavit “đưa nàng về dinh” và nàng cho ông có đứa con nối
ngôi.
Ôi mùa xuân của
Đavit tuyệt vời: một lần ra quân mà bắt được “vợ của U-ri-gia” và bắt được cả
thành Rabba nữa.
Khi nhận báo
cáo quân sự thứ nhất của tướng Giô-áp về tổn thất nhân mạng, Đavit giả bộ coi
cái chết của U-ri-gia, chồng bà Bát Sê-va như một hậu quả may rủi đương nhiên
phải xảy ra: “việc binh đao là thế, khi thì người này khi thì người kia”,
nhưng sự thật là chính vua đã trao cái thư phong tặng “anh dũng bội tinh và bảo
quốc huân chương” cho ông U-ri-gia cầm theo mà lãnh từ tay tướng Giô-áp, sau
khi ông không chịu làm theo ý Đavit là về nhà “đánh véc-ni” giùm cho tác phẩm
mùa xuân của Đavit. “Rượu mời không uống thì uống rượu phạt”!
Đavit nóng
lòng chờ bản báo cáo này để “đưa nàng về dinh”.
Báo cáo quân
sự thứ hai của Giô-áp để xin Đavit dẫn quân tới kết thúc cuộc săn bắn ở ngoại
biên nói: “Tôi đã tấn công Rabba, tôi còn hạ được cả thành dưới, chỗ có nhiều
nước”.
Nếu vẽ thành
hai bức tranh: “cuộc vây hãm thành Rabba” và “bồn tắm mùa xuân”
của Bat Sê-va, đặt song song với nhau như nghệ thuật kể chuyện của tác giả gợi
ý, rồi nhìn cả hai củng một lúc, ta sẽ thấy “bồn tắm của Bat Sê-va” ở cái sân
thượng (dĩ nhiên) thấp hơn, có vẻ là nơi nàng thành nạn nhân của Đavit, nhưng
thực ra đó là lúc nàng “hạ” thành của Đavit, sau khi đã vây hãm bằng những màn
tấn công khác từ sân thượng nhà nàng, vốn chẳng xa dinh của Đavit, và cũng đã
chiếm được ưu thế đến nổi dám đặt bồn tắm trên sân thượng mà tắm trước mặt
Đavit đang ở sân thượng cao hơn. Ông không cần ống nhòm mà ngắm nhìn được tất cả
vẻ đẹp của nàng phơi ra trước mắt ông. Bà quả là đẹp “nghiêng thành nghiêng nước”
[nhất cố khuynh nhơn thành, tái cố khuynh nhơn quốc: nhìn một cái làm nghiêng
thành, nhìn cái nữa làm nghiêng nước]. Người đẹp trong sách Diễm Ca chắc cũng đến
thế là cùng! Từ trên sân thượng nhìn ngắm người đẹp “oai hùng như đạo binh
chỉnh tề hàng ngũ”(Dc 6,4), Đavit đã choáng váng: “Thôi đi, nàng đừng
đưa mắt nhìn anh nữa, đôi mắt làm anh choáng váng rồi” (Dc 6,5)… và
đầu hàng vô điều kiện, mở toang cổng rước nàng vào. Bat Sê-va hạ được thành và
dành được cả nước của Đavit cho con bà.
II. Ý
nghĩa sự hiện diện của bốn người phụ nữ này trong gia phả Đức Giêsu Kitô.
Điều hiện ra
ngay truớc mắt khi đọc bản văn là mỗi lần nêu tên một người phụ nữ là có cái gì
trục trặc trong dòng “sinh”, và mỗi người phụ nữ xuất hiện đều là người giúp
cho sự sống được tiếp tục.
Yếu tố thứ
hai cũng dễ nhận ra là: Tama, Ra-khap, Rút đều là người ngoài dân It-ra-en, người
thứ tư mang tên là “vợ của U-ri-gia, một người Khết” (Mt không nêu tên
thời con gái của bà!). Vậy thì các bà đã chuyền cho Đức Giêsu dòng máu ‘dân ngọai”.
Mang hai dòng máu, Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ của muôn dân: “Hãy đi và àm
cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19).
Sự hiện diện
của các bà cũng tô đậm sự quan phòng của Thiên Chúa mà bản tổng kết gia phả diễn
tả qua ba chuỗi 14.
Thiên Chúa điều
khiển lịch sử để thực hiện kế hoạch cứu độ theo đúng lời hứa, trong đó người phụ
nữ là người đem lại sự sống và bảo vệ sự sống, làm cho sự sống được tiếp tục, đảm
nhận sứ mạng “mẹ của chúng sinh”.
III. Người
phụ nữ thứ năm: hài nhi và mẹ.
Cái gãy khúc
trong lời văn ở câu 16 dài hơn, lại phải chờ “ông thu thuế” tổng kết xong rồi mới
kể tiếp để giải thích. Hình như ông thu thuế đếm lộn, từ thời lưu đầy đến Đức
Giêsu chỉ có 13 đời, kể cả Chúa Giêsu. Cái khoảng cách giữa ông Giuse và Chúa
Giêsu xa hơn ngay trong câu văn:
Gia-cop sinh
Giuse, chồng của bà Maria –
do bà này mà
Đức Giêsu được sinh ra gọi là KITÔ.
So sánh với
chuyện Đavit Bat Sê-va:
Đavit sinh
Sa-lô-môn do vợ của U-ri-gia:
vợ của
U-ri-gia, nhưng con lại là của Đavit!
Giuse là chồng
của bà Maria
Đức Giêsu được
sinh ra từ người mẹ là Maria,
nhưng lại
không thể nói Giuse sinh Đức Giêsu do bà Maria. Tại sao?
Mt giải
thích khúc mắc này:
Bà Maria và
ông Giuse là vợ chồng nhưng chưa rước dâu nên chưa về sống chung. Bà đã có
thai do quyền năng Thánh Thần.
Nếu vậy làm
sao Đức Giêsu là “con của Đavit” được?
Trong bản văn
thì đây là điểm thắc mắc chứ không phải việc bà có thai do quyền năng Thánh Thần.
Sau này Đức Giêsu sẽ ra câu đố ngược lại: “Nếu Vua Đavit gọi Đấng Kitô là
Chúa Thượng, thì làm sao Đấng Kitô lại là con vua ấy được?” và “Không ai
đáp lại Người được một tiếng” (Mt 22,45-46).
Bản văn còn kể
về phản ứng dứt khoát của Giuse để cho thấy bào thai bà đang mang đó không phải
là con của ông.
Sứ thần của
Chúa cũng khẳng định cái bào thai trong lòng bà Maria là do quyền năng Thánh Thần.
Chỉ cần ông Giuse rước vợ về nhà để bà sinh con trong nhà ông, và ông, với tư
cách “con của Đavit” phải đặt tên cho đứa con, để đứa con cũng thành “con của
Đavit”. Mt còn bồi thêm một câu: ông làm theo lời sứ thần: cấp
tốc rước vợ về nhà, “nhưng ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một
con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu”. Ông Giuse không tham dự vào
việc “do bà mà Đức Giêsu được sinh ra”. Cách nói thụ động “được sinh ra”
mà không phải do ông Giuse hay một người đàn ông thì chỉ có “do Thiên Chúa”. Mt
giải thích “do quyền năng Thánh Thần”.
Kể từ lúc này
thì cụm từ “hài nhi và mẹ” sẽ được lặp đi lặp lại. “Hài nhi và mẹ”
như gắn chặt với nhau. Ông Giuse thành người bảo vệ mạng sống cho “hài nhi
và mẹ”, nhưng Thiên Chúa sai sứ thần trực tiếp truyền lệnh cho ông. Ông là
người tôi tớ trung thành, luôn mau mắn thi hành lệnh của Thiên Chúa để bảo vệ “hài
nhi và mẹ”.
Khỏang cách
giữa ông Giuse và Đức Giêsu được diễn tả rõ ràng, vì bản văn kể Đức Giêsu là đời
thứ 14, nhưng đếm kỹ thì ông Giuse là đời thứ mười hai. Bỏ trống một đời giữa
ông Giuse với Chúa Giêsu, không phải Mt đếm lộn hay bỏ sót!
Cái khoảng trống ấy khiến chúng ta thắc mắc và chú ý tới lời giải thích theo
sau để biết sự thật về Đức Giêsu. Khoảng trống một đời cũng là để cho thấy có một
sự sống mới đột nhập vào lịch sử sự sống của loài người. Chúa Giêsu sẽ mời gọi
đánh đổi tất cả để giữ được sự sống mới này (Mt 18,5-9).
Bà Maria Mẹ của
hài nhi Giêsu chính là người phụ nữ đem lại cho chúng ta sự sống mới này, sự sống
đến thẳng từ Thiên Chúa, do quyền năng Thánh Thần.
Bà quả là Evà
mới, Mẹ của chúng sinh:
Mẹ nhân lành,
làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy…
Giêrusalem, lễ
Giáng Sinh 2013.
L.M. Giuse
Nguyễn Công Đoan, S.J