Trình Thuật
Thương Khó Theo Thánh Mác-cô
(dongten.net)
VÀI NHẬN XÉT MỞ ĐẦU
Tác giả sách Tin Mừng thứ hai dùng nghệ thuật kể chuyện để đưa người nghe/ đọc vào mầu nhiệmĐức
Giê-su Ki-tô Con Thiên Chúa. Do
đó Mc lặp đi lặp lại nhiều lần lệnh
“cấm nói”: Chúa cấm quỉ nói ra Chúa là ai và cấm cả những người đã được chữa
lành, cứu sống không được nói ra, thậm chí cấm cả nhóm Mười Hai không được nói
ra rằng Ngài là Đấng Ki-tô sau khi ông Phê-rô tuyên xưng điều đó. Đơn giản là
phải để cho người nghe tự mình hiểu ra và đi tới chỗ tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng
Ki-tô và là Con Thiên Chúa. Đang kể chuyện mà có kẻ “mách lẻo” tiết lộ đoạn kết
thì người kể và người nghe đều mất hứng, người nghe cũng không cảm nghiệm được
cái sâu sắc, thâm thúy của câu chuyện, và không xác tín về cái kết luận do người
khác nói giùm. Những người được chữa lành, được cứu mà nói ra thì người ta sẽ
chỉ có cái nhìn phiến diện, tức là chỉ thấy một khía cạnh của Đức Ki-tô. Khi
ông Phê-rô tuyên xưng “Thầy là Đấng Ki-tô” thì cũng mới chỉ thấy một nửa sự thật,
nên Chúa cấm nói ra. Rồi lập tức Chúa bắt đầu tiết lộ cho Nhóm Mười Hai biết “Hồi
thứ hai” của câu chuyện: cuộc đời Chúa trên trần gian sẽ kết thúc như thế
nào… Vừa nghe thế ông Phê-rô đã kéo Chúa ra một bên mà cằn nhằn! Nhưng đó cũng
là lúc Chúa bắt đầu nói về điều kiện làm môn đệ: “phải từ bỏ chính mình, vác
thập giá của mình mà đi đàng sau Chúa”. Chúa còn phải lặp lại
hai lần (9,30-31 vả 10,33-34) lời loan báo về “Hồi thứ hai”, mỗi lần lại “bắt
quả tang” các môn đệ đang đi ngược chiều với Chúa: trong khi Chúa đi tới thập
giá thì họ chỉ lo cãi cọ, tranh giành ngôi thứ, địa vị, và Chúa thẳng thắn sửa
dạy. Dù các ông chưa hiểu, nhưng cũng bắt đầu run: “Đức Giê-su và các môn đệ
đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Người dẫn đầu các ông. Các ông sững sờ, còn
những kẻ theo sau cũng sợ hãi” (10,32).
Cách kể chuyện của Mc giống cách vẽ tranh ảnh (icon)
của phương Đông. Các yếu tố diễn tả chủ đề được trải lên mặt phẳng với những đường
nét, màu sắc và cách phối trí giúp người xem có thể tự mình nối kết mà tìm ra ý
nghĩa. Không chỉ những yếu tố hiển lộ trên mặt phẳng gợi lên ý nghĩa, mà còn có
những yếu tố tiềm ẩn trong văn hóa, tâm thức người xem, được gợi lên từ những yếu
tố hiển lộ này. Với người Ki-tô hữu đã thấm nhuần Cựu Ước những nét hiển lộ
trên mặt tranh của Mc,
gợi lên những cảnh tương ứng trong Cựu Ước. Sự đối chiếu này mới giúp người nghe
đi sâu vào ý nghĩa của “câu chuyện” đang nghe. Ta có thể tạm ví như người đọc
chuyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm… mà không biết điển tích trong văn học Trung Hoa
thì cũng chẳng hiểu được bao nhiêu. Nói “tạm ví”, bởi lẽ tương quan giữa Tân và
Cựu Ước sâu xa hơn nhiều, theo cách nói của các Giáo phụ: “Tân Ước ẩn tàng
trong Cựu Ước, Cựu Ước sáng tỏ trong Tân Ước” (Novum in Vetere latet, Vetus
in Novo patet). Tác giả sách Phúc Âm thứ nhất thì hay nói rõ: “chuyện ấy
xảy ra để ứng nghiệm lời này…” Còn Mc thì
vạch vài nét làm cho người nghe/ đọc phải liên tưởng tới chuyện, hay lời nào đó
trong Cựu ước, chứ không cắt ngang câu chuyện để giải thích.
Theo cách kể chuyện này thì ta có thể nhận
ra ngay trong chương đầu, với cách thức Chúa chữa người phong cùi và hậu quả, Mc đã
gợi cho ta nghĩ tới người Tôi Tớ Đau Khổ trong sách Isaia 52,13-53,12.
Chúa Giê-su giơ tay ra chạm vào người cùi và cho ông ta được lành sạch. Ông ta
đi rao việc này khắp nơi khiến “Chúa Giê-su không thể công khai vào thành nào được,
mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi kéo đến
với Người” (1,40-45). Vậy là Chúa đã thế chỗ cho người cùi. Nhưng
ngược lại, người ta lại kéo ra với Chúa ở nơi hoang vắng. Người Tôi tớ mang lấy
tội lỗi của dân, trở nên như người phong cùi, nhưng lại “được đám
đông làm phần gia nghiệp” (theo bản Hy Lạp). Việc đám đông kéo ra với
Chúa ở nơi hoang vắng còn gợi lên chuyện trong sách Xuất Hành, Thiên Chúa đưa
dân ra khỏi Ai-Cập vào nơi hoang địa, tại đó Thiên Chúa lập Giao Ước, ban Lề Luật
để họ sống làm dân của Chúa.
Ngay sau chuyện người phong cùi, Mc kể chuyện người bại liệt, trong đó
Chúa Giê-su tuyên bố Ngài có quyền tha tội. Sau đó Ngài đi ra bờ hồ, gọi một
người thu thuế tên là Lê-vi làm môn đệ, rồi vào nhà ông này ngồi ăn uống với những
người bị nhóm Pha-ri-sêu coi là “phường tội lỗi”. Câu chuyện này gợi cho thấy
Chúa Giê-su là Đấng thực hiện lời Thiên Chúa hứa tha tội khi thiết lập Giao Ước
Mới (x. Gr 31,31-324 và Ed 36,18-26).
Tiếp theo là hai cuộc tranh luận về ăn chay và ngày Sa-bát, đụng tới
những điều căn bản trong Luật Giao Ước. Chúa Giê-su không bãi bỏ việc ăn chay,
nhưng cho nó một ý nghĩa mới trong tương quan với Cuộc Thương Khó. Chúa Giê-su
cũng không bãi bỏ ngày Sa-bát. Ngày Sa-bát trong Cựu Ước là để tưởng nhờ việc
Thiên Chúa tạo dựng và việc Thiên Chúa giải thoát dân khỏi ách nô lệ Ai-Cập.
Nay Chúa Giê-su khẳng định Ngài là chủ ngày Sa-bat và cho nó một ý nghĩa mới :
để cứu sống con người. Ngày Sa-bát từ nay ghi nhớ cuộc tạo dựng mới và Xuất
Hành mới do Chúa Giê-su thực hiện để cứu sống con người.
Ngay sau đó thì hai phe vốn đối địch nhau là Pha-ri-sêu và Hê-rô-đê
phối hợp với nhau để giết Chúa Giê-su. Nhưng đám đông đến với Chúa lại nhiều
hơn trước và Chúa Giê-su thiết lập nhóm Mười Hai để tiếp tục công trình của
Chúa: rao giảng và trừ quỷ. Các dụ ngôn mở ra viễn tượng về tương lai của Nước
Trời: chính Chúa Giê-su là hạt giống; vì thế mà Chúa nói với các môn đệ: “Anh em
không hiểu dụ ngôn này thì làm sao hiểu được tất cả các dụ ngôn”
(4,13). Ý nghĩa cái chết và sự phục sinh của Chúa cũng như viễn tượng phát triển
của Nước Thiên Chúa đã được gói trong các dụ ngôn rồi vậy.
TRÌNH THUẬT CUỘC THƯƠNG KHÓ
Dẫn vào Cuộc Thương Khó
Mc bắt đầu trình thuật cuộc Thương Khó từ “Hai ngày
trước lễ Vượt Qua và lễ Bánh không men”. Hai lễ này kết nối với
nhau: Ngày 14 tháng Ni-xan, dọn men ra khỏi nhà và trưa thì đưa con chiên Vượt
Qua để được sát tế do tay các tư tế, đến tối (tức là sang ngày 15) thì ăn thịt
chiên với rau đắng và bánh không men theo từng nhà, hoặc chung nhau. Tám ngày
liên tiếp phải ăn bánh không men. [Tôi sử dụng bản dịch của Nhóm Các Giờ Kinh
Phụng Vụ, bản in năm 2008, nhưng đôi chỗ tôi xin mạn phép thay đổi, theo sát bản
Hy Lạp hơn]
Hai ngày trước tức là ngày 13: các thượng tế và kinh sư bàn
mưu tính kế bắt Đức Giê-su mà giết. Trong âm mưu có tính toán cả thời gian: “đừng làm
vào dịp lễ, kẻo dân náo động”.
Chuyện xảy ra trong bữa ăn tại
Bê-ta-ni-a
Đang khi ấy thì Chúa Giê-su ở làng Bê-ta-ni-a, tại nhà ông Si-mon
cùi… dĩ nhiên phải hiểu là ông đã được khỏi. Mc không trực tiếp liên kết ông Si-mon
cùi này với người cùi đã được Chúa chữa ở chương thứ nhất, nhưng để cho người
nghe / đọc tự liên kết. Chuyện chữa người cùi dẫn tới liên kết với người Tôi Tớ
Đau Khổ, còn hôm nay khi Chúa đang ở nhà ông Si-mon cùi thì cái chết của Chúa
đã được quyết định do chính những người có nhiệm vụ giết chiên Vượt Qua. Họ
cũng tính toán làm sao cho dân chúng khỏi náo động.
Câu chuyện xảy ra đang bữa ăn:
“Có một người phụ nữ đến, mang theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm cam
tùng nguyên chất, thứ đắt tiền, Cô đập vỡ bình bạch ngọc, đổ dầu thơm trên đầu
Người”.
Mc không cho ta biết tên tuổi, chân dung người phụ nữ này.
Xin đừng ai “xào chung” các sách Tin Mừng để thỏa sự tò mò về những điều
tác giả không nói; làm như thế là vẽ rắn thêm chân, làm hỏng bức tranh. Tốt hơn
là hãy chú ý tới chính lời người kể, sự tương phản giữa lời mô tả chai dầu: bình bạch ngọc, dầu thơm, cam tùng,nguyên
chất, thứ đắt tiền – và hành động: cô đập vỡ bình bạch ngọc, đổ dầu thơm lên đầu Chúa.
Lời mô tả chai dầu kết bằng một chuỗi từ liên hoàn cho thấy
chai dầu quý giá chừng nào; còn hành động thì nhanh gọn, như cho thấy con tim nổ
tung vì yêu mến quyết liệt, trọn vẹn.
Phản ứng của người chung quanh: vài người thấy thế thì lấy làm bực
tức, lên mặt làm thầy khôn và nhân nghĩa: “Phí dầu thơm như thế để làm gì? Dầu thơm đó có thể
bán được trên ba trăm quan tiền mà cho người nghèo”. Thật là giọng
điệu của kẻ không bao giờ biết hát như chàng trai, cô gái Việt Nam: “Anh còn
có mỗi cây đàn, anh đem bán nốt anh theo cô nàng”; hay: “Yêu nhau
cởi áo cho nhau, về nhà mẹ hỏi?… – rằng qua cầu gió bay”.
Chúa Giê-su thì trân trọng đón nhận cử chỉ quảng đại này như là
nghĩa cử cuối cùng người ta có thể làm cho Chúa và chỉ có thể làm một lần thôi,
bởi lẽ Chúa chỉ chết có một lần. Và Chúa tuyên bố từ nay chuyện “người phụ nữ với
bình bạch ngọc “ này sẽ gắn liền với Tin Mừng: “Tin Mừng được loan báo ở đâu
trong khắp thiên hạ, thì người ta cũng sẽ kể lại việc này mà nhớ tới cô”.
Người phụ nữ không tên lại trở thành có tên, cả câu chuyện này là tên của cô.
Cô trở thành hình tượng của người môn đệ biết đáp lại tình yêu của Chúa. Mc đặt
câu chuyện này ở đầu trình thuật Cuộc Thương Khó như một lời dẫn nhập, chỉ cho
chúng ta biết phải nghe, đọc trình thuật này với tâm tình nào: Chúa hiến mạng
vì tôi, tôi đập vỡ con tim trút hết tình yêu cho Chúa.
Câu chuyện « người phụ nữ với bình bạch ngọc » xen kẽ giữa
sát kế của các thượng tế và mưu phản của Giu-đa cho thấy hai bên đều sẵn sàng:
những kẻ muốn giết Chúa đã sẵn sàng ra tay, Chúa Giê-su đã để cho mình được tẩm
liệm trước bằng dầu thơm; sự phản kháng của ông Phê-rô (8,32) đã được thay bằng
một trái tim môn đệ sẵn sàng đón nhận Chúa chết cho mình.
Chuyện xảy ra trong bữa Tiệc Vượt Qua tại
Giê-ru-sa-lem.
Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men,
là ngày sát tế Chiên Vượt Qua, Chúa sai hai môn đệ vào thành
chuẩn bị lễ Vượt Qua. Lời căn dặn cho thấy Chúa đã đích thân chuẩn bị nơi ăn tiệc
Vượt Qua: “sẽ có một người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó. Người
đó vào nhà nào, các anh hãy thưa với chủ nhà: Thầy nhắn: Thầy sẽ ăn lễ Vượt Qua
với các môn đệ ở phòng nào?” Như vậy là Chúa đã thu xếp với
chủ nhà trước rồi, thậm chí còn có cả ám hiệu để các môn đệ nhận ra nhà nào: một người đàn ông mang vò nước, [đàn bà
đi lấy nước thì mang vò, đàn ông mang bầu da đựng được nhiều hơn]. Cứ đi theo người ấy! như vậy là cứ thinh lặng đi
theo, không nói gì cả, vào nhà rồi mới hỏi chủ nhà – cứ như phim trinh
thám vậy! Chúa còn cho biết phòng ấy ở đâu và bày biện như thế nào nữa. Chúa chủ
động chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua, cũng như Chúa chủ động lên Giê-ru-sa-lem để đón
cái chết trên thập giá.
Chiều xuống, Chúa đến cùng với nhóm Mười
Hai: chiều xuống tức
là tới giờ ăn lễ Vượt Qua,Mc cho
thấy hình ảnh Chúa đến
cùng với nhóm Mười Hai, rồi sẽ cho thấy sự tan rã từ từ xảy ra. Giữa
cảnh sum họp của bữa ăn Chúa bắt đầu tiết lộ sự mưu phản của một ngừơi trong
Nhóm khiến các ông hoang mang, nhưng Chúa không cho cho các ông biết kẻ đó là
ai. Rồi Chúa đi trước kẻ phản nộp một bước, khi Chúa tự tay trao ban Mình và
Máu Chúa trong bí tích Thánh Thể và nêu rõ ý nghĩa cái chết của Chúa: Máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. Giao
Ước Sinai được lập bằng máu các con vật đã sát tế, nay Máu Chúa Giê-su đổ ra là
Máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. Vậy thì Chúa Giê-su lấy Máu mình mà lập Giao
ước, nên là Giao Ước Mới, mở ra cho muôn dân chứ không dành riêng cho dân đã
qui tụ ở núi Sinai. “Máu đổ ra vì muôn người” gợi lên cái chết
của người Tôi Tớ trong sách Isaia 53,1-12.
Trên đường ra núi Ô-liu
Hát Thánh vịnh là phần kết thúc tiệc Vượt Qua. Các Ngài đi ra núi Cây Dầu : Chúa Giê-su và Nhóm Mười Hai, nhưng
bản hy Lạp dùng đại từ ngôi thứ ba số nhiều : “họ” [Các Ngài], không
phân biệt. Điều này không phải không quan trọng, chúng ta không biết ộng Giu-đa
có còn đó để cùng đi hay không, lát nữa chúng ta sẽ bất ngờ thấy ông cầm đầu bọn
người đến bắt Chúa. Trên đường, Chúa Giê-su báo trước sự ứng nghiệm lời sách
Thánh: đàn chiên
tan tác (Da-ca-ri-a
13,7) đồng thời với việc bắt đầu lại ở Ga-li-lê sau khi Chúa trỗi dậy. Ông
Phê-rô, người đã phản kháng khi nghe Chúa báo trước cuộc Thương Khó, bây giờ
lên tiếng cam đoan không bỏ Thầy. Chúa nói rõ hơn ông sẽ chối Chúa nhanh hơn gà
gáy. Ông cam đoan thà chết không bỏ Thầy. Tất cả
các ông đều nói như vậy.
Núi Ô-liu đã được nhắc đến trong chuyện vua Đavit: khi hoàng tử
Ap-sa-lom làm phản, vua Đavit ra lệnh cho triều đình và quân đội rút khỏi
Giê-ru-sa-lem, “Vua Đa-vit lên dốc núi Ô-liu, vừa đi vừa khóc” (2S 15, 30). Hôm trước khi Chúa vào
Giê-ru-sa-lem, tới triền núi Ô-liu thì Chúa cỡi lừa con, dân chúng cầm ngành lá
ra đón, tung hô Chúa:”Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đavit,
tổ phụ chúng ta” (Mc 11,10). Sau đó, một hôm từ Đền Thờ đi ra, Chúa
Giê-su loan báo Đền Thờ sẽ bị phá hủy, rồi “lúc Chúa Giê-su ngồi trên Núi Ô-liu, đối diện với Đền
Thờ, các ông Phê-rô, Gia-cô-bê, Gioan và An-rê hỏi riêng Người: Xin Thầy
nói cho chúng con biết: bao giờ các sự việc đó xảy ra…” (Mc 13,1-4).
Chúa bắt đầu nói với các ông về số phận của Giê-ru-sa-lem và cả về ngày
Chúa đến phán xét. Cảnh này lại gợi tới sách E-de-kiên, chương 11 kể thị kiến
Vinh Quang Thiên Chúa cất lên khỏi thềm Đền Thờ, phán xét Giê-ru-sa-lem rồi “lên khỏi
thành và dừng lại trên núi ở phía Đông của thành” (tức là núi
Ô-Liu). Như vậy ở chương 11 dân chúng đón rước ở núi Ô-liu và tung hô Chúa
Giê-su là triều đại vua Đavit, ở chương 13 thì Chúa Giê-su ngồi trên núi Ô-Liu
phán xét Giê-ru-sa-lem, còn ở chương 14 thì Chúa Giê-su lại như vua Đavit bị
mưu phản đi lên núi Ô-liu. Nhưng Đavit băng qua núi Ô-liu để trốn đi, còn Chúa
Giê-su dừng lại trong thửa vườn có tên là Ghết-se-ma-ni.
Chuyện trong vườn Ghết-se-ma-ni
Tới vườn, Chúa nói với các môn đệ : « Anh em ngồi
lại đây trong khi Thầy cầu nguyện ». Chúa đưa các ông Phê-rô,
Gia-cô-bê và Gio-an đi theo. Ba ông này đã được theo và chứng kiến khi Chúa cho
con gái ông Gia-ia đã chết được trỗi dậy (Mc 5,37-43), khi Chúa tỏ vinh quang
trên núi (9,2-8). Hôm ngồi trên Núi Ô-liu thì ba ông này, thêm ông An-rê,
hỏi riêng Chúa về thời điểm Giê-ru-sa-lem bị tàn phá. Hôm nay Chúa cũng dẫn ba
ông đi theo và thố lộ cho các ông : « Tâm hồn
Thầy buồn đến chết được » và xin : « Anh em ở lại đây mà canh thức ». Ở chương 1, Mc kể
Chúa đi ra nơi thanh vắng cầu nguyện. Hôm nay Chúa dẫn ba ông theo, xin các ông
canh thức, nhưng Chúa đi xa hơn một chút và cầu nguyện một mình. Chúng ta được
biết tư thế và lời cầu nguyện của Chúa : « Người sấp
mình xuống đất mà cầu xin cho mình khỏi phải qua giờ ấy, nếu có thể được. Người
nói : « Ap-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con.
Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn ». Chúa Giê-su thưa với Thiên
Chúa bằng cách xưng hô của con với cha trong gia đình : Ap-ba, nại đến quyền
phép vô cùng của Cha, bày tỏ với Cha ước muốn của mình, nhưng lại xin Cha làm
điều Cha muốn.
Ta không biết Chúa cầu nguyện bao lâu, nhưng khi Chúa trở lại chỗ
ba ông đã được Chúa xin canh thức, thì thấy các ông đang ngủ. Chúa gọi đích
danh ông Phê-rô: « Si-mon, anh ngủ à ? Anh không canh thức nổi một
giờ sao ? » Bấy nhiêu đủ cho chúng ta suy nghĩ. Người
đã cam đoan thà chết không bỏ Thầy đấy ! Canh thức một giờ không nổi
thì làm sao chết vì Thầy được ! Bây giờ thì Chúa nói rõ tại sao phải
canh thức và cầu nguyện : « Kẻo sa chước cám dỗ ». Lý do là
« vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu hèn ».
« Chúa lại đi cầu nguyện, kêu xin như lần trước. Rồi Người trở lại, thấy các môn đệ vẫn còn ngủ, vì
mắt các ông nặng trĩu. Các ông chẳng biết trả lời làm sao với Người ».
« Lần thứ ba, Người trở lại và nói
với các ông : « Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao ? Thôi, đủ rồi.
Giờ đã điểm. Này Con Người bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi. Đứng dậy, Ta đi
nào ! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới ».
Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Chúa đã nói với các ông :
« Này chúng ta đi lên Giê-ru-sa-lem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng
tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại »
(Mc 10, 33). Nay thì « giờ đã đến ».
Chúa đã xin Cha cho khỏi phải qua giờ này, nhưng ý của Cha đã rõ : « Giờ đã đến ! »
Chúa như ra lệnh xông vào cuộc chiến : « Đứng dậy, chúng ta đi
nào ! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới ! »
« Ngay lúc đó, khi Người còn đang
nói, thì Giu-đa, một người trong nhóm Mười Hai xuất hiện. Cùng đi với hắn, có một
đám đông mang gươm giáo gậy gộc …». Từ lúc Chúa loan
báo : « Một người trong anh em sẽ nộp Thầy » Các môn đệ
không hề có một dấu hiệu nào để suy đoán. Thật là một bất ngờ làm các ông
phải choáng váng. Mc cho chúng ta biết « Họ đã được
các thượng tế, kinh sư và kỳ mục sai đến ». Thượng tế, kinh sư
và kỳ mục là Thượng Hội Đồng có quyền tối cao trong dân Do Thái, nhưng ở dưới
quyền Tổng Trấn Rôma. Ta còn được biết cả ám hiệu của Giu-đa : « Tôi hôn
ai thì chính là người đó. Các anh hãy bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận ».
Tại sao Giu-đa còn dùng ám hiệu mà không tới chỉ thẳng vào mặt Chúa cho bọn kia
bắt ? Có phải vì sợ Chúa kịp bỏ chạy ? Sợ các môn đệ kịp thời phản ứng
để giải thoát Chúa Giê-su ? « Vừa tới, Giu-đa tiến lại gần Người và nói :
« Thưa Thầy ! » rồi hôn Người. Họ liền tra tay bắt người. »
Coi như Giu-đa ôm lấy Chúa mà trao vào tay bọn kia ! Nụ hôn phản bội. Mc vẽ
nên sự tương phản quyết liệt giữa « người phụ nữ với bình bạch ngọc »
và Giu-đa !
« Một trong những kẻ có mặt tại đó tuốt gươm ra chém… » Mc không
cho biết kẻ đó là ai, có phải là một môn đệ hay không. Dù sao hành động đó
không xứng với môn đệ. Mc cũng không cho biết phản ứng của Chúa
Giê-su về chuyện này nhưng kể ngay phản ứng của Chúa với những kẻ đến bắt Chúa.
Chúa không chống cự, nhưng vạch cho thấy ý nghĩa thật của việc này :
« Đức Giê-su lên tiếng nói với họ : Tôi là một tên cướp sao mà các
ông đem gươm giáo gậy gộc đến bắt ? Ngày ngày tôi vẫn ở giữa các ông, vẫn
giảng dạy trong Đền Thờ, mà các ông không bắt. Nhưng thế này là dể ứng nghiệm lời
Sách Thánh ». Mc không trưng lời Sách Thánh, nhưng chúng ta nhận
ra qua câu hỏi của Chúa : « Người đã bị liệt vào hàng phạm pháp »
(Is 53,12). Chỉ khi bắt quả tang kẻ phạm
pháp người ta mới bắt ban đêm.
« Bấy giờ họ bỏ người mà chạy trốn hết ».
Lúc Giu-đa « một người trong Nhóm Mười Hai » xuất
hiện dẫn đầu bọn người cầm gươm giáo thì Mc nói đến « một những
kẻ đứng gần đó» hay « một trong những kẻ có mặt đó tuốt gươm chém »,
không nói « môn đệ » hay « nhóm Mười Hai ». Lần cuối ta thấy Mc kể
rõ « nhóm Mười Hai » cùng đi với Chúa Giê-su là khi đến ăn tiệc Vượt
Qua. Sau đó chỉ dùng đại từ « họ », bao gồm cả Chúa Giê-su khi đi ra
núi Ô-liu. Khi Chúa đối diện với kẻ phản nộp là « một người
trong Nhóm Mười Hai » thì những người khác trong nhóm Mười Hai
chỉ còn là « những kẻ có mặt đó » và một người
tuốt gươm chém. Khi người ta tra tay bắt Chúa thì « Họ bỏ Người
mà chạy trốn hết », đúng như lời Chúa đã báo trước và đúng như
lời trong sách Is 53,6 : «Tất cả
chúng ta lạc lõng như chiên cừu, mỗi người mỗi ngả ».
Có một chi tiết riêng của Mc : « Trong khi
đó có một người thanh niên đi theo Người, mình khoác vỏn vẹn một tấm vải gai. Họ
túm lấy anh. Anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng ».
Nhiều tranh luận về chi tiết này. Chúng ta sẽ trở lại chuyện này sau. Xin chú ý
tới hai yếu tố : người thanh niên và tấm vải gai. Người thanh niên ở đây
không có tên, khoác tấm vải gai rồi trút tấm vải gai lại mà chạy trốn trần truồng.
Chúng ta hãy thử nhìn bức tranh khi Chúa bị bắt và dẫn ra khỏi vườn : Người
ta tra tay bắt và dẫn Chúa đi ra, tất nhiên là theo lối chính đi vào vườn. Các
người khác « có mặt đó » bỏ Người mà chạy thoát thân. Trong số ấy
không chỉ có nhóm Mười Hai, mà có cả một người thanh niên. Anh này chậm chân
nên bị người ta túm… liền trút tấm vải gai mà chạy đi trần truồng, tất nhiên chạy
về một phía khác. Hình ảnh Chúa bị bắt ở giữa và hình ảnh người thanh niên trần
truồng chạy trốn ở một góc bức tranh gợi hình ảnh con người đầu tiên bị đuổi ra
khỏi vườn sau khi đã nhận ra mình trần truồng. Mc gợi
cho chúng ta liên tưởng tới A-đam… như đã gợi lên ở phần mở đầu (1,12-13) :
« Thần khí liền đẩy Người vào
hoang địa. Người ở trong hoang địa suốt bốn mươi ngày, chịu Xa-tan cám dỗ, sống
giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người » (Mc dùng
cùng một từ hy-lạp « đuổi » như St 3,24). Mc vẽ bốn bức tranh mà
ta có thể đối chiếu với Sáng Thế
2-3 :
A/ Thần Khí đuổi Chúa Giê-su vào hoang địa – Thiên Chúa
đuổi A-đam ra khỏi vườn
B/ Chúa Giê-su chịu Xa-tan cám dỗ – A-đam chịu Xa-tan
cám dỗ
C/Chúa Giê-su sống giữa loài dã thú – A-đam sống trong vườn giữa
loài dã thú
D/ các thiên thần hầu hạ Người – thiên thần giữ cửa
vườn không cho vào.
Thần Khí đuổi Chúa Giê-su vào hoang địa, nơi A-đam đang ở và cũng
là nơi Xa-tan đang ở. Chúa cũng chịu Xa-tan cám dỗ, nhưng sau đó Chúa ở giữa
các loài dã thú như A-đam trước khi bị cám dỗ và Thiên thần đã giữ cửa vườn
không cho A-đam vào hái trái cây Sự Sống thì nay hầu hạ Chúa Giê-su. Như vậy
Chúa Giê-su bị Thần Khí đuổi vào sa-mạc là để chiến thắng Xa-tan, phục hồi thân
phận A-đam, biến sa-mạc thành vườn Địa Đàng. Nhưng để làm được cuộc biến đổi ấy
thì Chúa Giê-su phải chịu điều đã xảy ra trong vườn : Chúa là Con Thiên
Chúa, có các thiên thần hầu hạ, vô tội, hoàn toàn vâng phục Cha, nhưng phải bị
đối xử như kẻ phạm pháp : « Đức Chúa đã đổ trên đầu Người tộ lỗi của tất cả
chúng ta » (Is. 53,6).
Chuyện tại nhà vị thượng tế
« Họ điệu Chúa đến vị Thương Tế ». Mc sẽ
lần lượt kể chuyện xảy ra trong nhà, rồi chuyện xảy ra ngòai sân
Trong nhà, « các thượng tế, kỳ mục và kinh sư đã tề tựu đông đủ ».
Hôm trước « họ bàn mưu tính kế bắt Đức Giê-su để giết ».
Họ có tính đến thời gian : « đừng làm trong ngày lễ ». Bây giờ
đã ăn lễ Vượt Qua xong rồi. Họ tề tựu chờ thuộc hạ điệu Chúa Giê-su tới. Bắt được
rồi đây, nhưng làm sao để giết cho « danh chánh ngôn thuận ». « Họ tìm lời
chứng buộc tội Đức Giê-su để lên án tử hình nhưng họ tìm không ra ». Thế ra các cụ trong thượng hội
đồng này cũng không thông minh lắm, tính kế bắt
để giết mà mới chỉ
tính được kế để bắt. Bắt được rồi thì lúng túng tìm cớ để giết mà tìm không ra.
Còn Chúa Giê-su thì trong sáng đến nỗi các cụ tìm chứng gian để buộc tội mà
cũng không tìm được. Trong khi các cụ tranh nhau hiến kế thì Chúa Giê-su im lặng,
đúng như Người Tôi Tớ : «Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng
kêu ca, như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng
hề mở miệng » (Is 53,7).
Cuối cùng vị thượng tế cũng chứng tỏ mình thông minh hơn cả. Ông đặt
câu hỏi quyết liệt : « Ông có phải là Đấng Ki-tô, Con của Đấng đáng chúc tụng
không ? » Thế ra ông lại xác minh giùm chúng ta xem Chúa
Giê-su có đồng ý với cái tựa sách của Mac-cô hay không ! Chúa Giê-su mở miệng
nhận ngay : « Chính tôi đây ! » Chẳng những
vậy, Chúa còn trưng lời sách Đa-ni-ên để giải nghĩa thêm : « Rồi các
ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và đến cùng với mây trời »
(Đn 7,14). Ông thượng tế đắc thắng chộp
ngay cơ hội : « Vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói :
« Chúng ta cần gì nhân chứng nữa ? Quý vị vừa nghe hắn nói phạm thượng,
quý vị thấy thế nào ? » Tất cả đều
kết án Người đáng chết ». Các cụ háo thắng quá nên quên một điều
cơ bản : xác minh xem lời đương sự nói có đúng không ? Đầu óc đương sự
có bình thường không ? Hành xử hấp tấp như thế các cụ lại làm cho ứng nghiệm
lời sách Is 53,8 : « Người đã
bị ức hiếp, buộc tội rồi bị thủ tiêu ». Họ giết Chúa Giê-su chỉ
vì Người nhận mình là Con Thiên Chúa và sẽ ngự đến trong vinh quang.
Ngay sau đó thì Mc cho thấy cảnh bát nháo, thượng tế, kinh sư, kỳ mục
và đám thuộc hạ cùng một giuộc: « Thế là một số bắt đầu khạc nhổ vào người, bịt mặt
Người lại, vừa đánh đấm Người vừa nói : « Hãy tuyên sấm
đi ! » Và đám thuộc hạ tát người túi bụi ».
Chuyện ngoài sân
«Ông Phê-rô theo Người xa xa, vào tận bên trong sân dinh thượng tế, và ngồi
sưởi bên đống lửa với đám thuộc hạ ». Những ông khác bỏ chạy
thoát thân, ông Phê-rô tỏ ra « lì » hơn ai hết, theo xa xa rồi vào tận
trong sân, ngồi lẫn với đám thuộc hạ bên đống lửa cho ấm. Thật tương phản với cảnh
Chúa Giê-su phải chịu ở bên trong. Mc để
tới lúc Chúa đã bị kết án tử hìn h rồi mới kể tiếp « chuyện phải đến đã đến » như
thế nào: « Một người tớ gái của thượng tế đi tới, thấy ông ngồi sưởi, cô nhìn chằm
chằm vào ông và nói : Cả bác nữa, bác cũng đã ở với ông người Na-da-ret,
ông Giê-su đó ! » Ông liền chối rằng : « Tôi chẳng biết, chẳng
hiểu cô nói gì ! » Rồi ông bỏ đi ra phía tiền sảnh. »
Thế là ông bắt đầu rút lui bằng cách đổi chỗ. Và có con gà lên tiếng đếm.
Người tớ gái lăng xăng lại thấy mặt ông, cô « giới thiệu »
ông với mọi người đứng đó : « Bác này cũng thuộc nhóm họ đấy ! »
Ông lại chối. Nhưng vẫn đứng yên. Những người đứng đó xem ra phản ứng chậm, lát
sau họ mới chợt nhận ra và chỉ vào mặt ông : « Đúng rồi,
bác cũng là người Ga-li-lê mà ! » Lần này bị bắt chẹt về
cái giọng Ga-li-lê, ông Phê-rô thề độc mà chối : « Tôi không
biết người các ông nói đó ! » Lại có con gà hắng giọng nhắc
cho ông rằng ông nhanh hơn nó rồi đấy. Ông sực
nhớ lời Chúa đã nói : « Gà chưa gáy hai lần thì anh
đã chối Thầy đến ba lần !» Bây giờ thì trái tim ông cũng nổ
tung như chai dầu thơm của « người phụ nữ với bình bạch ngọc » : « Ông òa lên khóc. »
Tất cả đã lặng yên trong bóng đêm, để cho tiếng khóc của ông vang lên thay tiếng
gà gọi sáng.
Chuyện trong dinh Phi-la-tô
« Vừa tảng sáng, các thượng tế lại họp bàn với các kỳ
mục và kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Đồng ». Họ còn phải
vượt một hàng rào nữa mới giết được Chúa Giê-su, vì đế quốc Rô-ma đã giành quyền
kết án tử hình cho tổng trấn. « Toàn thể Thượng Hội Đồng trói Đức Giê-su lại và giải
đi nộp cho ông Phi-la-tô ». Đúng như lời Chúa Giê-su đã báo
trước : « Con người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh
sư. Họ sẽ kết án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người,
khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người » (Mc 10,33-34).
« Ông Phi-la-tô hỏi Người : « Ông có phải
là vua dân Do Thái không ? » Mc không
cho chúng ta biết tại sao Phi-la-tô lại hỏi như thế. Câu trả lời của Chúa cũng
bí ẩn « Chính Ngài nói
đó ! » Phi-la-tô và Thượng Hội Đồng có những quan tâm
khác nhau. « Đồng sàng dị mộng ». Và mỗi bên sẽ giữ « mộng »
của mình. Chúa Giê-su trả lời thẳng cho thượng tế vì ông nói một điều quá rõ ràng.
Còn câu hỏi của Phi-la-tô thì hàm hồ dị nghĩa, nên Chúa cũng trả lời cách bí ẩn. Mc cho
biết « Các thượng tế tố cáo Người nhiều tội », nhưng chẳng có
gì rõ ràng, nghĩa là cũng ấp úng như khi « họ tìm lời chứng để buộc tội
Người mà tìm không ra ». Họ ngồi với nhau mà không tìm ra thì
lấy gì mà tố cáo với nhà cầm quyền Rô-ma ! Chúa Giê-su yên lặng cho
Phi-la-tô nghe các lời tố cáo. Phi-la-tô phải kinh ngạc vì sự im lặng của Chúa.
Khi âm mưu bắt giết Chúa, các thương tế muốn tránh đám đông, bây giờ
đám đông lại kéo đến xin Phi-la-tô thi hành việc ân xá trong dịp lễ. Mc giải
thích phong tục này và cho biết có một người tên là Ba-ra-ba đang bị giam với
những những tên phiến loạn đã giết người trong một vụ nổi loạn. Phi-la-tô muốn
thóat khỏi chuyện rắc rối, đề nghị tha « Vua dân Do Thái ».Mc cho chúng ta biết tại sao :
« Ông thừa biết vì ganh tị mà các thượng tế nộp Người ».
Chúng ta tự hỏi : họ « ganh tị vì cái gì ? » Họ nộp Người
vì Người nhận mình là Con Thiên Chúa và sẽ đến trong vinh quang. Vậy thì họ
ganh tị vì lý do đó. Thế thì Mc đang gợi cho chúng ta cái tội của
A-đam : muốn nên bằng Thiên Chúa.
Các thượng tế đang lúng túng liền kéo đám đông vào phe mình : « Các thượng tế sách động đám đông đòi thả
Ba-ra-ba cho họ thì hơn ». Thế là nồi nào vung nấy ! Họ
chọn kẻ sát nhân làm vua của họ. Còn số phận Chúa Giê-su thì Phi-la-tô lại
« bán cái » bằng cuộc trưng cầu dân ý tức thời ! « Vậy ta phải
xử thế nào với người mà các ngươi gọi là vua dân Do Thái ». Đến
đây ta mới biết tại sao Phi-la-tô hỏi Chúa Giê-su câu đầu tiên. « Họ la
lên : « Đóng đinh nó vào thập giá ! » Phi-la-tô
giật mình hỏi lại : « Thế ông ấy đã làm điều gì gian ác ? » Nhưng họ càng la to : «Đóng đinh
nó vào thập giá». Đến đây thì chúng ta biết rõ tâm địa của
Phi-la-tô, kẻ mị dân : « Vì muốn chiều lòng đám đông, ông Phi-la-tô tha
Ba-ra-ba cho họ, truyền đánh đòn Đức Giê-su rồi trao nộp Người để người chịu
đóng đinh vào thập giá. » Tuy nhiên câu hỏi của Phi-la-tô và
kiểu trả lời bằng cách « to mồm » của các thượng tế và đám đông lại
cho thấy rõ hơn : « Người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn
người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ » (Is 53,12).
Chúa Giê-su và bọn lính
Phi-la-tô ra lệnh đánh đòn Chúa Giê-su rồi đóng đinh, đó là cách thức
hành quyết người Rô-ma áp dụng cho nô lệ và dân bị trị. Mc không
kể chuyện đánh đòn mà kể chuyện lính đội mão gai và mặc áo đỏ cho Chúa rồi chế
giễu « vua dân Do Thái !» Hôm Chúa vào Giê-ru-sa-lem dân chúng đã
tung hô Chúa là « triều đại Đavit ». Hôm nay thì Phi-la-tô giới thiệu
Chúa Giê-su là vua dân Do Thái, các thượng tế sách động đám đông xin tha
Ba-ra-ba và cho đóng đinh « vua dân Do Thái ». Bọn lính chế giễu
« vua dân Do Thái ».
« Chế giễu chán, chúng lột áo đỏ tía ra, và cho Người
mặc áo lại như trước ». Mặc áo lại như trước thì Người là Đấng
Ki-tô Con Thiên Chúa như Người đã khẳng định trước mặt thượng tế và toàn thể
thượng hội đồng.
Chuyện trên đường vác thánh giá
« Chúng dẫn Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc ấy
có một người ở ngoài đồng về, đi ngang qua đó, tên là Si-mon, người Ky-rê-nê.
Ông là cha của ông A-lê-xan-đê và ông Ru-phô. Chúng bắt ông thập giá của Đức
Giê-su ». Mc cho thấy ông Si-mon và cả gia đình là
những người quen thuộc trong cộng đoàn tín hữu. Các môn đệ bỏ trốn hết. Một người
qua đường bỗng trở thành môn đệ theo nghĩa đen của điều kiện làm môn đệ :
vác thập giá. Mc làm chúng ta lúng túng khi nói « thập giá
của Người [Đức
Giê-su] ». Điều kiện làm môn đệ Chúa đưa ra là « vác thập
giá của mình ». Chúa mang lấy tội lỗi của tôi và chết cho tôi,
nên thập giá trên đó Chúa chịu đóng đinh là thập gía của tôi. Ông Si-mon trở
thành hình tượng [icon] đích thật của người môn đệ rồi.
Chuyện trên đồi Gôn-gô-ta
« Chúng đưa Người lên một nơi gọi là Gôn-gô-ta, có
nghĩa là Cái Sọ. Chúng trao rượu pha mộc dược cho Người, nhưng Người
không uống. » Từ lúc này chúng ta nghe vọng các thánh vịnh
22 ; 38 và 69 là những thánh vịnh diễn tả nỗi đau đớn khắc khoải của người
công chính bị bách hại. Rượu pha mộc dược là thứ để giảm đau, nhưng gợi lên Tv
69,22 : « Thay vì đồ ăn chúng trao mật đắng, con khát nước lại cho uống giấm chua ».
« Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi đem áo người
ra bắt thăm mà chia nhau xem ai được cái gì ». Chúng thực
hiện lời thánh vịnh 22,19) : « Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng
bắt thăm luôn ».
« Lúc chúng đóng đinh Người là giờ thứ ba (tức
9 giờ sáng). Bản án xử tội Người viết rằng : « Vua dân
Do Thái». Thế là Phi-la-tô biến câu chuyện « xử tử bât đắc
dĩ » này thành công trạng của ông ta trước mặt thiên hạ : ông đóng
đinh được vua dân do Thái ! Để cho trọn lời sách Is 53,12,
họ đóng đinh hai tên cướp hai bên Chúa Giê-su. Nhưng trong cái tính toán chính
trị, Phi-la-tô lại vô tình xác nhận lời tung hô của dân chúng và lời loan báo Đấng
Mê-si-a là người kế vị vua Đavit.
Chúa bị đóng đinh trên thập giá, thì kẻ qua người lại tự do phỉ
báng. Họ đem lời Chúa dùng hình ảnh Đền thờ để nói về cuộc thương khó và
phục sinh mà chế giễu. Các thượng tế và kinh sư đắc thằng đem danh hiệu « Ki-tô,
Vua It-ra-en » ra mà chế giễu, thách Chúa xuống khỏi thập giá.
Thậm chí hai kẻ gian phi cùng chịu đóng đinh ở hai bên cũng sỉ vả Chúa. Quả là
: « Thấy con ai cũng chê cười – lắc đầu, bỉu mỏ buông lời mỉa mai »
(Tv 22,8).
Giữa những tiếng nhạo cười, chế giễu Chúa Giê-su vẫn im lặng. Nhưng vào giờ thứ sáubóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ thứ chín. Nghỉa là từ giữa trưa tới 3 giờ chiều,
lúc Chúa Giê-su tắt thở. Trong bóng tối ấy Chúa Giê-su lớn tiếng cầu nguyện bằng
câu mở đầu thánh vịnh 22. Những kẻ đứng đó nghe láng máng như Chúa gọi ông
Ê-li-a và chế giễu. Có kẻ dùng miếng bọt biển đưa giấm
lên cho Chúa uống, nhưng Chúa kêu
một tiếng lớn rồi tắt thở. Trước
khi đóng đinh họ cho uống rượu pha mộc dược, Chúa không uống. Bây giờ họ đưa giấm
lên, vô tình làm trọn câu Tv 69,22 : « Thay vì đồ
ăn chúng trao mật đắng, con khát
nước lại cho uống giấm chua ». Ba yếu tố quan trọng ở đây là
bóng tối, Chúa cầu nguyện bằng lời thánh vịnh 22 và tiếng kêu lớn. Liên kết ba
yếu tố này với nhau trước khi Chúa tắt thở rồi sau đó là lời tuyên xưng của
viên sĩ quan chỉ huy hành quyết, chúng ta nhận ra sự hiển linh của Thiên Chúa
khi Chúa Giê-su ở trên thập giá.
Tiếng kêu lớn trong bối cảnh Chúa chịu đóng đinh thập giá có thể gợi
lại Tv 38,9 : « Bị suy
nhược, nát tan, kiệt sức, tim thét gào thì miệng phải rống lên ».
Thánh vịnh 18 diễn tả cảnh người lâm cơn ngặt nghèo cầu cứu và
Thiên Chúa hiển linh cứu độ : « Lúc
ngặt nghèo tôi kêu cầu Chúa, kêu lên Người là Thiên Chúa của tôi ; từ
thánh điện, Người đã nghe tiếng tôi cầu cứu, lời tôi khấn nguyện vọng đến tai
Người… Chúa nghiêng trời ngự xuống, chân đạp lớp mây mù… Chúa dùng bóng tối làm
màn bao phủ, lấy mây đen nghịt làm trướng che Người… Chúa nổi sấm vang trời, Đấng
tối cao lớn tiếng » (Tv 18,7.12).
Mc cho chúng ta thấy thập giá là nơi vinh
quang Thiên Chúa tỏ hiện và nối với Đền Thờ : Thiên Chúa đến
ôm lấy Con của mình trên thập giá nên bóng tối bao trùm mặt đất. Trong vòng tay
của Cha, Con đang đau khổ tột cùng kêu lên : « Sao Chúa
bỏ con ! », và chính lúc ấy Con được tôn vinh. Tiếng kêu
lớn không nội dung, là tiếng của Thiên Chúa vang lên từ miệng
Con : « Tiếng Chúa thật hùng mạnh ! Tiếng Chúa thật uy
nghiêm !… » Đáp lại tiếng oai hùng của Chúa :
« Còn trong thánh diện Người, tất cả cùng hô : Vinh Danh Chúa ! »
(Tv 29,4.9) Kết quả : « bức màn trướng trong Đền thờ liền xé ra làm hai, từ
trên xuống dưới ». Bức màn trướng xé ra vì từ nay con người và
Thiên Chúa đã gặp nhau trong Chúa Giê-su Ki-tô Con Thiên Chúa, không còn ngăn
cách nữa.
Trong bối cảnh hiển linh của Thiên Chúa thì tiếng kêu lớn còn là tiếng
Thiên Chúa rống lên như sư tử để qui tụ con cái bốn phương trong Giao ước Mới,
theo lời hức trong sách Hô-sê-a : « Người sẽ rống lên như sư tử.
Quả thật Người sẽ rống lên, và từ phía tây, con cái sẽ vui mừng chạy tới. Chúng
sẽ chạy tới lẹ như chim từ Ai-Cập, như bồ câu từ Át-sua, và Ta sẽ cho chúng cư
ngụ trong nhà của chúng » (Hs 11,10-11).
Viên sĩ quan chỉ huy cuộc hành quyết là người phải chứng thực tử tù
bị hành quyết đã chết (ngày nay người chỉ huy bắn phát súng ân huệ là để bảo đảm
chết thật rồi), nên ông phải đứng đối diện Chúa Giê-su : « Thấy Người
tắt thở như vậy liền nói : « Quả thật người này là Con Thiên
Chúa ». Thốt ra lời ấy, ông hiểu như thế nào thì chúng ta
không biết, nhưng với người tín hữu nghe hay đọc chuyện thì Mc đã
trình bày xong « Khởi đầu Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô Con Thiên
Chúa », với hai lời tuyên xưng của thánh phê-rô và của viên sĩ
quan.
« Cũng có mấy phụ nữ đứng nhìn từ đàng xa… Các
bà này đã đi theo và phục vũ Đức Giê-su khi Người còn ở Ga-li-lê. Lại có
nhiều bà khác đã cùng với Người lên Giê-ru-sa-lem, cũng có mặt tại đó ».
Vị trí của các bà cũng cho thấy lời thánh vịnh ứng nghiệm : « Con bị
tai ương, người thân kẻ nghĩa chẳng tới gần, bà con ruột thịt cũng đứng xa »
(Tv
38,12). Tuy vậy Mc còn tiếp tục cho thấy nhóm phụ nữ như là cái gạc nối từ
Ga-li-lê tới Gôn-gô-ta và ngôi mộ.
Chuyện ở ngôi mộ
Mc phải kể tiếp
chuyện ngôi mộ, vì theo lệ thời đó, người bị đóng đinh chết rồi người ta để đó
cho chim và dã thú tới ăn, hoặc quăng cả xác lẫn thập giá xuống một cái hố nào
gần đó. Một nhân vật mới xuất hiện như một sự tình cờ, ông Giô-xép :
« vì hôm ấy là ngày áp lễ, tức là hôm trước Sa-bát nên ông Giô-xép tới. Ông là thành viên có thế giá của Hội Đồng, và
cũng là người vẫn mong chờ Nước Thiên Chúa ». Trong cách kể của Mc thì
xem ra tuy là thành viên có thế giá, nhưng ông Giô-xép không biết gì về chuyện
hội đồng mưu giết Chúa, họ không mời ông vì ông không đồng quan điểm với họ. Mc cũng
không cho chúng ta biết trước đây ông quan hệ với Chúa Giê-su như thế
nào. Tình cờ ông từ A-ri-ma-thê tới thì mới hay Chúa Giê-su đã bị đóng
đinh và đã chết. Ông có thế giá tới mức dám « đi ngược chiều », một
mình đến gặp Phi-la-tô xin xác Chúa Giê-su.
« Ông Phi-la-tô kinh ngạc vì Người
đã chết rồi. Ông cho đòi viên đại đội trưởng đến, hỏi xem Người chết đã lâu
chưa ». Mc không kể cảnh đánh đòn, nhưng kể việc
Chúa chết nhanh tới độ Phi-la-tô phải kinh ngạc, thì gián tiếp cho thấy đó là hậu
quả của việc bọn lính của Phi-la-tô tụ họp cả cơ đội lại để đánh đòn, khiến
Chúa Giê-su đã kiệt sức nên chết mau như thế.
« Sau khi nghe viên đại đội trưởng, ông đã cho ông
Giô-xép lãnh lấy tử thi. Ông này mua một tấm vải gai, hạ xác Chúa Giê-su xuống,
lấy tấm vải gai ấy bọc Người lại, đem đặt vào ngôi mộ đã đục sẵn trong núi đá,
rồi lăn tảng đá lấp cửa mộ. Còn bà Ma-ri-a Mac-đa-la với bà Ma-ri-a mẹ ông
Giô-xét thì để ý nhìn xem chỗ họ mai táng Người». Chú ý tới « tấm vải
gai » được nhắc hai lần, so với khi Chúa bị bắt : « có một
người thanh niên đi theo, trên mình khoác vỏn vẹn một tám vải gai, người ta túm
lấy cậu, cậu trút tấm vải gai lại bỏ chạy trần truồng ».
«Hết ngày Sa-bát, bà Maria Mac-đa-la với
bà Maria mẹ ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê mua hương liệu để đi ướp xác Đức
Giê-su ». Sau khi mặt trời lặn là hết ngày Sa-bát, có thể đi mua
bán.
« Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc
mặt trời vừa mọc, các bà đi ra mộ ». Mc đặt bối cảnh « mặt trời vừa
mọc », chuẩn bị cho điều các bà sắp chứng kiến. « Các bà nói với nhau : « Ai sẽ lăn
tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây ? » Các bà cũng vụng
tính như các cụ trong thượng hội đồng ! Đã có mặt lúc ông Giô-sép lăn tảng
đá lấp cửa mộ, đã mua hương liệu mà đi tới mộ mới sực nhớ là sức các bà làm sao
lăn nổi tảng đá lấp cửa mộ ra để vào ướp xác ! Bất ngờ : « Ngước mắt
lên, các bà thấy tảng đá đã lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm ! »
Thấy thế các bà cũng chẳng thắc mắc, cứ đi thẳng vào trong mộ. Bất ngờ nữa :
« Các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng ;
các bà hoảng sợ. Nhưng người
thanh niên nói : « Đừng hoảng sợ, các bà tìm Đức Giê-su
Na-da-ret, Đấng chịu đóng đinh chứ gì ! Người đã trỗi dậy rồi, Người không
có ở đây. Chỗ đã đặt xác Người đây này ! » Người thanh
niên áo trắng ngồi bên phải, tức là ngồi trên chỗ đặt xác Chúa và chỉ cho các
bà thấy « Người không có ở đây ! ». Cũng người thanh niên áo
trắng chuyển cho các bà một nhiệm vụ : « Xin các bà về nói với các
môn đệ Người và ông Phê-rô rằng : Người đi đến Ga-li-lê trước các
ông. Ở đó các ông sẽ được thấy Người, như Người đã nói với các ông. »
Sao lại nói các môn đệ Người và ông Phê-rô ? Trong những gì liên
quan tới cuộc Thương Khó, ông Phê-rô luôn có một vai trò đặc biệt :
ông phản đối khi Chúa loan báo ; ông thề chết không chối Thầy ; khi
các ông ngủ trong vườn Ghết-se-ma-ni Chúa cũng gọi đích danh ông Phê-rô mà
trách và nhắc phải cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ ; ông Phê-rô chối Chúa
ba lần rồi òa lên khóc. Bây giờ thì các bà nhận nhiệm vụ đi báo tin cho các môn
đệ và cho ông Phê-rô. Vậy thì ông Phê-rô có một vai trò đặc biệt trong hàng môn
đệ mà người đọc, người nghe thời Mc được viết ra thì ai cũng biết rồi.
Nhưng « vừa ra khỏi mồ thì các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết
vía, chẳng nói gì với ai ». Dùng một chuỗi từ để tả cảnh
các bà ra khỏi mồ chạy mất chẳng nói gì với ai, hẳn là người kể muốn gây cười,
một tiếng cười sảng khoái hân hoan vì Chúa đã phục sinh, và chẳng cần các bà phải
nói họ cũng đã được biết Chúa đã sống lại rồi. Dầu thơm các bà đã mua cũng chẳng
dùng, được sai đi báo tin cũng chẳng đi.
Người thanh niên áo trắng là ai ? Mc không
trực tiếp nói ra cho chúng ta. Nhưng hãy gom những chi tiết liên quan tới người
thanh niên, tấm vải gai và chiếc áo trắng lại thì sẽ tìm ra. Ở chương 5, chuyện
người bị đạo binh quỷ ám : sau khi Chúa đuổi quỷ ra, mấy người chăn heo chạy
về kêu dân làng, họ ra xem thì thấy anh mặc đàng hoàng ngồi đó. Rồi anh được
Chúa sai đi loan báo những gì Chúa làm cho anh. Ở chương 10, anh mù
bên đường, vất áo choàng lại, rồi được Chúa cho nhìn thấy và anh đi theo Chúa
trên con đường Chúa đi, không quay lại lấy áo choàng. Khi Chúa bị bắt thì người
thanh niên trút tấm vải gai lại mà chạy trốn trần truồng. Khi xin được xác Chúa
thì ông Giô-xép đi mua tấm vải gai bọc xác Chúa. Bây giờ người thanh niên ngồi
trên nơi đã đặt xác Chúa mặc áo trắng và báo cho các bà biết tại sao Chúa không
còn ở đây. Người được Chúa giải thoát khỏi đạo binh quỷ ăn mặc đàng hoàng, anh
xin đi theo Chúa nhưng Chúa sai anh đi tức khắc để loan báo những gì « Thiên
Chúa đã làm cho anh và Người đã thương xót anh như thế nào ».
Ta chẳng biết ai đã đem quần áo cho anh mặc ! Người mù được sáng vất áo
choàng lại mà đi theo Chúa. Anh thanh niên bị người ta túm bắt đã trút tấm vải
gai mà chạy trần truồng. Ông Giô-xép xin được phép lấy xác rồi mới đi mua
tấm vải gai bọc xác Chúa. Các bà đã chứng kiến khi ông Giô-xép đặt xác Chúa vào
mộ và lăn tảng đá lấp cửa mộ. Mới 36 tiếng đồng hồ, các bà trở lại thì thấy tảng
đá lấp đã lăn ra khỏi mộ. Trên nơi đặt xác Chúa là người thanh niên mặc áo trắng
ngồi để chứng thực Chúa không còn đó và giải nghĩa cho các bà tại sao. Các bà
hoảng sợ chạy mất chẳng nói gì với ai. Nối các yếu tố lại thì tấm vải gai đã biến
thành chiếc áo trắng ; người thanh niên trần truồng gợi lại hình ảnh A-đam
bị đuổi ra khỏi vườn, bây giờ trở thành hình ảnh con người đã được cứu chuộc,
con người mới, mặc áo trắng và làm chứng Chúa đã sống lại. Nhờ Chúa chết mới có
tấm áo trắng. Từ nay mỗi người môn đệ đã được chịu phép rửa đều đã được sống lại
với Chúa để đi loan Tin Mừng : Chúa đã chết và đã sống lại vì tôi.
Hậu bàn
Chuyện đến đây coi như đã kết. Có lẽ lần xuất bản thứ nhất thì cuốn
sách kết thúc với tiếng cười sảng khoái của cả người kể lẫn người nghe như thế,
nhưng sau đó thì một đoạn kết dài hơn được thêm vào, có vẻ tóm tắt một số câu
chuyện trong các sách Tin Mừng khác. Các nhân vật vẫn giữ phong cách như đã gặp.
Chuyện Chúa hiện ra với bà Maria Mac-da-la và bà đi báo tin cho các
môn đệ (x.Ga 20,1-2.11-18),
« các môn đệ buồn bã khóc lóc… các ông vẫn không tin ».Hai
người trên đường về quê được gặp Chúa. Họ trở về
báo tin cho các ông khác, nhưng các ông ấy cũng không tin (x. Lc 24,
13-33).« Sau cùng, Người tỏ mình ra cho chính nhóm Mười Một đang khi các ông dùng
bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu
tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy. » Nhóm
Mười Hai nay còn Mười Một, Mc không cho chúng ta biết gì thêm về ông Giu-đa.
Nhóm Mười Một vẫn cứng lòng như Chúa đã quở trách ở chương 8,14-21. Nay
các ông bị quở trách vì không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người
trỗi dậy. Thế là Chúa cũng mắng xéo chúng ta nếu chúng ta không chịu tin Nhóm
Mười Một, vì họ đã được thấy Chúa sau khi Chúa trỗi dậy và chính thức sai họ đi
loan tin cho chúng ta.
Mc không kể Chúa làm gì để chữa bệnh cứng
lòng cho các ông, nhưng lập tức Chúa sai các ông đi : « Anh em hãy
đi khắp tứ phương thiên hạ, rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và
chịu phép rửa, sẽ được cứu độ, ai không tin, thì sẽ bị kết án ».
Điều đáng chú ý ở đây là loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Khi con người phạm tội thì đất sinh
gai góc (St 3,18) ;
« Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút máu em
ngươi, do tay ngươi đổ ra » (St 4,11). Ơn cứu độ do máu Chúa đổ ra cững
cứu cả mọi loài thụ tạo : « Muôn loài đã phải phục tùng sự hư ảo, không phải vì
chúng muốn, nhưng là vì Đấng đã bắt chúng phải phục tùng ; tuy nhiên chúng
hy vọng cũng sẽ được tự do, thoát khỏi vòng nộ lệ cảnh hư nát, để được hưởng tự
do vinh quang của con cái Thiên Chúa… » (Rm 8,15-23).
« Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ, ai không
tin sẽ bị kết án ». Tại sao không tin lại bị kết
án ? Ai kết án ? Ai cũng cần đến ơn cứ độ. Thiên Chúa ban, nhận thì
được, từ chối là tự kết án mình, như người bị rắn cắn mà không chịu chữa thì phải
chết thôi.
« Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin… »
« Nói xong, Chúa Giê-su được rước
lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa », đúng như Chúa đã tuyên bố
trước mặt thượng tế và thượng hội đồng.
« Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có
Chúa cùng hoạt động với các ông và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời
các ông rao giảng ». Mc phân
biệt những dấu lạ đi theo những người tin và những dấu lạ kèm theo để xác nhận
lời rao giảng. Chúa sai các tông đồ đi rao giảng, có Chúa cùng hoạt động. Các
ông rao giảng, Chúa làm các dấu lạ để chứng thực. Mc không
kể việc Chúa chữa lành sự cứng lòng của các ông. Chúa quở trách rồi Chúa sai
đi, vì từ nay « Chúa cùng hoạt động với các ông ». Mc cho
chúng ta một cái nhìn đặc biệt về sứ mạng loan báo Tin Mừng : Chúa cùng hoạt
động với chúng ta. Đó là bảo đảm lớn nhất và duy nhất cho sứ mạng.
Giê-ru-sa-lem, Chúa nhật đầu Mùa Chay
2015
LM Giuse Nguyễn Công Đoan, S.J